Tải bản đầy đủ (.doc) (296 trang)

Quản lý hoạt động học tập của học viên ở các trường sĩ quan quân đội theo hướng phát triển năng lực full

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.74 MB, 296 trang )

bộ quốc phòng
Học viện chính trị

NGUYN TH VINH

QUảN Lý HOạT Động học tập
của học viên ở các trờng sĩ quan quân đội
theo hớng phát triển năng lực

LUN N TIN S KHOA HC GIO DC

H NI 2018
bộ quốc phòng


Học viện chính trị

NGUYN TH VINH

QUảN Lý HOạT Động học tập
của học viên ở các trờng sĩ quan quân đội
theo hớng phát triển năng lực

Chuyờn ngnh: Qun lý giỏo dc
Mó s

: 914 01 14

LUN N TIN S KHOA HC GIO DC

NGI HNG DN KHOA HC:


1. PGS, TS ng c Thng
2. PGS, TS Nguyn Vn Chung

H NI - 2018
LI CAM OAN


Tôi cam đoan, đây là công
trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu, kết quả nêu trong luận án là trung
thực và có xuất xứ rõ ràng!
TÁC GIẢ LUẬN ÁN

Nguyễn Thế Vinh


MỤC LỤC
Trang

TRANG PHỤ BÌA
LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC BẢNG, HÌNH VẼ VÀ BIỂU ĐỒ
MỞ ĐẦU
Ch
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CÓ
ương 1
1.1.

LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI


5
1
3

Những công trình nghiên cứu về hoạt động học tập

1
3

1.2.

Những công trình nghiên cứu về quản lý hoạt động
học tập theo quan điểm giáo dục hiện đại
Khái quát kết quả của các công trình đã công bố và

8

1.3.

những vấn đề đặt ra luận án tiếp tục giải quyết

9

Ch
ương 2

1
2


NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ
HOẠT ĐỘNG HỌC TẬP THEO HƯỚNG PHÁT
TRIỂN NĂNG LỰC

2.1.

3
3

Hoạt động học tập theo hướng phát triển năng lực

3
3

2.2.

Quản lý hoạt động học tập theo hướng phát triển năng
lực

2.3.

6
0

Những yếu tố ảnh hưởng đến quản lý hoạt động học
tập của học viên ở các trường sĩ quan quân đội theo hướng
phát triển năng lực

Ch
ương 3


7
8

NHỮNG VẤN ĐỀ THỰC TIỄN QUẢN LÝ
HOẠT ĐỘNG HỌC TẬP CỦA HỌC VIÊN Ở CÁC
TRƯỜNG SĨ QUAN QUÂN ĐỘI THEO HƯỚNG
PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC

8
5

3.1.

Tình hình giáo dục và đào tạo ở các trường sĩ quan
5

3.2.

quân đội
Những vấn đề chung về tổ chức, điều tra khảo sát thực
trạng

1

3.3.

Thực trạng hoạt động học tập của học viên ở các

8

9
9


3.4.

trường sĩ quan quân đội theo hướng phát triển năng lực
Thực trạng quản lý hoạt động học tập của học viên ở

6

các trường sĩ quan quân đội theo hướng phát triển năng lực

03

Ch
ương 4

1

BIỆN PHÁP QUẢN LÝ VÀ KIỂM NGHIỆM
CÁC BIỆN PHÁP QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG HỌC
TẬP CỦA HỌC VIÊN Ở CÁC TRƯỜNG SĨ QUAN
QUÂN ĐỘI THEO HƯỚNG PHÁT TRIỂN NĂNG
LỰC

4.1.

1
27


Hệ thống các biện pháp quản lý hoạt động học tập của
học viên ở các trường sĩ quan quân đội theo hướng phát triển

4.2.

năng lực
Khảo nghiệm và thử nghiệm các biện pháp quản lý

1
27

hoạt động học tập của học viên theo hướng phát triển năng
lực

1
49
1

KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
66

DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ
ĐÃ ĐƯỢC CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1
68
1
69

1

PHỤ LỤC
81

DANH MỤC CÁC BẢNG
TT

Tên bảng

01

3.1

02

3.2

03

3.3

04

3.4

05

3.5


06

3.6

07

3.7

Nội dung

học

Danh sách 12 trường sĩ quan và trường đại

Quan niệm về hoạt động học tập theo hướng
phát triển năng lực người học
Vai trò và tầm quan trọng của hoạt động học
tập theo hướng phát triển năng lực người học
Thực trạng về thực hiện hoạt động học tập theo năng
lực đầu ra của học viên ở các trường sĩ quan quân đội.
Thực trạng xây dựng kế hoạch học tập theo
năng lực đầu ra.
Thực trạng thực hiện kế hoạch học tập theo
năng lực đầu ra
Thực trạng tổ chức bộ máy quản lý hoạt động
học tập.

Trang

86

96
98
100
104
106
108


TT

Tên bảng

08

3.8

09

3.9

10

3.10

11

3.11

12


3.12

13

3.13

14

3.14

15

4.1

16

4.2

17

4.3

18

4.4

19

4.5


20

4.6

21

4.7

22

4.8

23

4.9

Nội dung

Thực trạng tổ chức hoạt động học tập theo năng lực
đầu ra.
Thực trạng bồi dưỡng các chủ thể quản lý hoạt
động học tập.
Thực trạng quản lý ứng dụng công nghệ thông
tin, đảm bảo cơ sở vật chất phục vụ cho hoạt động học
tập.
Thực trạng xây dựng chính sách, tạo động lực
thúc đẩy các chủ thể trong hoạt động học tập theo
năng lực đầu ra.
Thực trạng kiểm tra, đánh giá hoạt động học
tập theo hướng phát triển năng lực.

Thực trạng ảnh hưởng các yếu tố đến quản lý
hoạt động học tập.
Sử dụng phân tích SWOT để mô tả quản lý
hoạt động học tập theo năng lực đầu ra của học
viên ở các trường sĩ quan quân đội
Tiêu chí đánh giá hoạt động học tập theo
năng lực đầu ra của học viên ở các trường sĩ quan
quân đội.
Kết quả khảo nghiệm tính cần thiết và tính
khả thi của các biện pháp quản lý hoạt động học tập
theo năng lực đầu ra.
Kết quả khảo sát trình độ đầu vào về kiến
thức
Bảng phân phối tần số F về số người đạt
điểm Xi (đầu vào)
Khảo sát trình độ đầu vào về kỹ năng của
cán bộ quản lý, giảng viên.
Bảng phân phối tần số F về số cán bộ quản
lý, giảng viên đạt điểm Xi sau thử nghiệm.
Bảng tần suất kết quả kiểm tra đầu vào và sau
thử nghiệm về kiến thức của cán bộ quản lý, giảng
viên.
Phân bố tần suất f i và tần suất tích lũy f i ↑
về kiến thức của cán bộ quản lý, giảng viên trước
và sau thử nghiệm
Kết quả sau thử nghiệm về trình độ kỹ năng.

Trang

110

112
114
116
118
120
122
144
150
157
158
158
160
160
160
162


DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ
TT
01
02

Tên hình
2.1
2.2

Nội dung
Cấu trúc năng lực thực hiện
Các thành phần của năng lực


Trang
42
44

DANH MỤC CÁC SƠ ĐỒ
TT Tên sơ đồ
01
2.1
02

2.2

Nội dung
Trang
Cấu trúc chức năng của hoạt động dạy học
34
Các năng lực chung trong mối tương quan
44
với bốn trụ cột giáo dục.
DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ

TT

Tên biểu

Nội dung

đồ

Trang


Tính cần thiết và tính khả thi của các biện
01

4.1

pháp quản lý hoạt động học tập theo năng lực đầu

150

ra.
02

4.2

03

4.3

04

4.4

Phân bố tần suất f i về kiến thức của cán bộ quản lý,
giảng viên trước thử nghiệm và sau thử nghiệm.
Tần suất tích lũy f i ↑ về kiến thức của cán bộ quản
lý, giảng viên trước thử nghiệm và sau thử nghiệm.
So sánh kết quả về trình độ kỹ năng của cán
bộ quản lý, giảng viên trước thử nghiệm và sau thử
nghiệm.


161
161

162


MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Ngày nay, trước sự phát triển nhanh chóng của khoa học công nghệ và
sự xuất hiện của nền kinh tế tri thức cùng với quá trình toàn cầu hóa, hội nhập
quốc tế đang diễn ra sâu rộng và cạnh tranh quyết liệt giữa các quốc gia trên
nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội. Thực chất, cạnh tranh giữa các quốc gia
hiện nay là cạnh tranh về chất lượng nguồn nhân lực và về khoa học và công
nghệ. Chính vì vậy, đổi mới giáo dục đang là một xu thế tất yếu mang tính
toàn cầu. Nước nào không đổi mới, hoặc cải cách giáo dục không thành công
thì nước đó mất khả năng cạnh tranh trên trường quốc tế và sẽ bị tụt hậu.
Nhiều quốc gia đã và đang tiến hành cải cách để hướng tới một nền giáo dục
hiện đại. Giáo dục Việt Nam cũng cần có sự đổi mới mạnh mẽ để có thể tự tin
hội nhập.
Có thể khái quát đổi mới giáo dục là đổi mới những vấn đề cốt lõi như
đổi mới tư duy giáo dục; đổi mới quản lý giáo dục và phát triển đội ngũ nhà
giáo, cán bộ quản lý giáo dục; làm lành mạnh hóa môi trường giáo dục; đổi
mới nội dung và phương thức, cơ chế phát triển giáo dục và đặc biệt là tổ chức
chỉ đạo thực hiện quá trình đổi mới giáo dục. Trong đó, đổi mới quản lý giáo
dục và đào tạo, kiểm tra, thi và đánh giá kết quả là khâu đột phá.
Để thực hiện đổi mới giáo dục, trước tiên cần thay đổi triết lý giáo
dục, Nghị quyết Hội nghị lần thứ Tám, Ban Chấp hành Trung ương khóa XI
đã xác định mục tiêu đào tạo để chuyển giáo dục từ “chủ yếu trang bị kiến

thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học” [32, tr.6],
đặc biệt là dạy làm “người” để người học có khả năng thích ứng nhanh với
hoàn cảnh, có trách nhiệm cao với gia đình, xã hội và Tổ quốc chính là
chuyển từ giáo dục định hướng nội dung sang giáo dục định hướng năng lực
(tiếp cận năng lực).
Giáo dục được thực hiện bằng nhiều con đường khác nhau, một trong
những con đường hiệu quả nhất là tổ chức hoạt động dạy học. Thông qua dạy
học vừa cung cấp cho người học hệ thống kiến thức khoa học, phát triển tư
duy sáng tạo và bồi dưỡng người học phát triển toàn diện, vừa thu thập
những thông tin phản hồi giúp cho cán bộ quản lý, giảng viên kịp thời điều


chỉnh, hoàn thiện quá trình dạy - học nâng cao chất lượng giáo dục và đào
tạo.
Chất lượng giáo dục và đào tạo phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trước hết
là hoạt động dạy học, trong đó hoạt động học tập của người học đóng vai trò
rất quan trọng, vì chỉ khi người học tích cực chủ động tiến hành các hoạt động
nhận thức dưới sự tổ chức, điều khiển của người dạy thì hoạt động dạy học
mới hoàn thành mục đích nhiệm vụ đề ra. Nếu, quản lý xã hội lấy tiêu điểm là
quản lý giáo dục (giáo dục và đào tạo cùng với khoa học và công nghệ là
quốc sách hàng đầu) thì quản lý giáo dục phải coi con người là nút bấm
(quản lý nhà trường làm nền tảng) và quản lý nhà trường phải lấy quản lý
dạy học là khâu cơ bản, việc dạy học phải xuất phát (từ) và hướng (vào)
người học.
Luật Giáo dục năm 2005 được sửa đổi, bổ sung năm 2009 chỉ rõ:
“Phương pháp giáo dục phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, tư duy
sáng tạo của người học, bồi dưỡng cho người học năng lực tự học, khả năng
thực hành, lòng say mê học tập và ý chí vươn lên” [90, tr.13-14]. Để làm
được điều đó, phải đổi mới chương trình, sách giáo khoa, người thầy và cách
thức giảng dạy; đổi mới đánh giá theo năng lực; đặc biệt phải đổi mới quản

lý dạy học theo tiếp cận năng lực. Song đây là vấn đề khó, vì không chỉ là
vấn đề mới mẻ còn bỏ ngỏ trong nghiên cứu lý luận ở Việt Nam mà còn là
vấn đề hết sức trừu tượng phức tạp, đặc biệt trong lĩnh vực hoạt động quân
sự.
Hệ thống các nhà trường trong Quân đội nhân dân Việt Nam đã và
đang thực hiện Nghị quyết số 86 của Đảng ủy quân sự Trung ương “Về công
tác giáo dục - đào tạo trong tình hình mới” [34], trong bối cảnh khoa học kỹ
thuật quân sự phát triển nhanh chóng, với một khối lượng lớn tri thức rất lớn
cần phải trang bị cho học viên, trong khi thời gian đào tạo không thay đổi,
vấn đề đặt ra là phải làm như thế nào? và bằng cách nào để tối ưu hoá mục
tiêu đào tạo, muốn tối ưu hoá mục tiêu đào tạo, xét đến cùng phải tối ưu hoá
hoạt động dạy học. Muốn tối ưu hoá hoạt động dạy học, phải tối ưu hoá hoạt
động quản lý. Tuy nhiên, xung quanh vấn đề này còn những mâu thuẫn chủ


yếu cần được nghiên cứu làm sáng tỏ cả trên phương diện lý luận và thực
tiễn.
Về lý luận, đã có một số công trình, đề tài nghiên cứu về tự học; về
phương pháp học tập chủ động; về quản lý giáo dục và đào tạo trong các nhà
trường quân đội đáp ứng yêu cầu mới; về dạy học và đổi mới phương pháp
dạy học theo hướng phát triển năng lực cho người học; về đổi mới chương
trình đào tạo ở các học viện, trường sĩ quan quân đội theo hướng phát triển
năng lực của học viên… Có thể nói, những công trình nghiên cứu trên đã đề
cập đến vấn đề quản lý dạy học trong các nhà trường quân đội góp phần chỉ
đạo, định hướng khả thi trong thực tiễn. Song, chưa có những nghiên cứu về
mô hình quản lý dạy học vừa đáp ứng mục tiêu phát triển năng lực người học
vừa đảm bảo kết quả đào tạo theo chuẩn đầu ra… Từ đó, đặt ra yêu cầu
khách quan cho việc nghiên cứu lý luận của đề tài này một cách khoa học,
khả thi.
Về thực tiễn, quản lý dạy học là vấn đề đặc biệt quan trọng trong xu

hướng chuyển sang đào tạo theo tiếp cận năng lực, để hoạt động dạy học trở
thành công cụ thực sự hữu ích thúc đẩy việc hình thành và phát triển năng
lực của học viên hiện nay đã và đang vướng mắc nhiều khó khăn về đội ngũ
cán bộ quản lý, giảng viên; về cơ sở hạ tầng, nguồn học liệu, chương trình
đào tạo; đặc biệt là phương thức quản lý dạy học, chưa được đưa ra trên bình
diện vĩ mô lẫn vi mô; khi triển khai thực hiện còn lúng túng, chưa đảm bảo
tính thống nhất nên chưa thật sự làm thay đổi và thúc đẩy theo chiều hướng
tích cực là đòi hỏi cấp thiết của thực tiễn phải giải quyết một cách thấu đáo
[14].
Nguyên nhân, do nhận thức về dạy học và quản lý dạy học theo năng
lực đầu ra chưa rõ ràng, quá chú trọng tới đào tạo đặc thù quân sự; tư duy về
giáo dục và đào tạo chậm đổi mới để phù hợp với quá trình hội nhập quốc tế,
chưa tạo nên được những thế hệ học viên vững vàng về tri thức, năng động về
tư duy, thích ứng với sự phát triển của quân đội, đất nước và thời đại [14, tr.6].
Vậy, quản lý hoạt động học tập và sự phát triển năng lực có mối quan
hệ với nhau như thế nào? làm thế nào để thực hiện có hiệu quả mục tiêu phát
triển năng lực người học trong quá trình dạy học? Và các chủ thể quản lý


hoạt động học tập cần xem xét quá trình dạy học theo hướng tiếp cận nào
trong mối quan hệ với sự phát triển năng lực của học viên là đòi hỏi cấp thiết
phải có công trình nghiên cứu giải quyết thấu đáo vấn đề này. Vì vậy, “Quản
lý hoạt động học tập của học viên ở các trường sĩ quan quân đội theo hướng
phát triển năng lực” là đề tài có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu những vấn đề lý luận, thực tiễn về quản lý hoạt động học
tập của học viên; đề xuất những biện pháp quản lý hoạt động học tập của học
viên ở các trường sĩ quan quân đội theo hướng phát triển năng lực đáp ứng
yêu cầu đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo để hội nhập quốc tế.

2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Xây dựng khung lý luận về quản lý hoạt động học tập của học viên ở
các trường sĩ quan quân đội theo hướng phát triển năng lực;
Khảo sát, đánh giá thực trạng hoạt động học tập và quản lý hoạt động
học tập ở các trường sĩ quan quân đội theo hướng phát triển năng lực;
Đề xuất những biện pháp cơ bản trong quản lý hoạt động học tập của
học viên ở các trường sĩ quan quân đội theo hướng phát triển năng lực;
Kiểm chứng kết quả nghiên cứu của đề tài luận án thông qua khảo sát
tính cần thiết, tính khả thi của các biện pháp và thử nghiệm một biện pháp.
3. Khách thể, đối tượng, phạm vi nghiên cứu và giả thuyết khoa học
3.1. Khách thể nghiên cứu
Quá trình quản lý hoạt động dạy học ở các trường sĩ quan quân đội
theo hướng phát triển năng lực.
3.2. Đối tượng nghiên cứu
Quá trình quản lý hoạt động học tập của học viên ở các trường sĩ quan
quân đội theo hướng phát triển năng lực.
3.3. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nội dung của đề tài tập trung nghiên cứu những vấn đề lý
luận, thực tiễn về quản lý hoạt động học tập của học viên đào tạo sĩ quan cấp
phân đội trình độ đại học ở các trường sĩ quan quân đội; trên cơ sở đó đề


xuất những biện pháp cho các chủ thể quản lý hoạt động học tập của học
viên theo hướng phát triển năng lực với cách tiếp cận chức năng quản lý.
Phạm vi khảo sát của đề tài là 5 trường sĩ quan quân đội phía Bắc là:
Lục quân I; Chính trị; Pháo binh; Tăng Thiết giáp và Đặc công.
Phạm vi đối tượng nghiên cứu của đề tài là cán bộ quản lý, giảng viên
và học viên đang thực hiện đào tạo ở các trường sĩ quan quân đội nói trên.
Phạm vi thời gian, các số liệu thu thập, xử lý và sử dụng trong đề tài
luận án được khảo sát, điều tra, tổng hợp từ năm 2012 đến nay.

3.4. Giả thuyết khoa học
Quản lý hoạt động học tập đáp ứng yêu cầu phẩm chất, năng lực cần
có của học viên tốt nghiệp ra trường khi được tổ chức quản lý một cách khoa
học. Nếu chủ thể quản lý ở các nhà trường sử dụng tổng hợp các tác động trong
lập kế hoạch, tổ chức, chỉ đạo và kiểm tra, đánh giá hoạt động học tập theo
năng lực đầu ra thì sẽ hình thành, phát triển các năng lực chung và năng lực
chuyên biệt của học viên ở các trường sĩ quan quân đội góp phần nâng cao chất
lượng dạy học đáp ứng yêu cầu đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo.
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Phương pháp luận
Đề tài luận án được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận khoa
học của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử; quán
triệt tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam; Nghị
quyết của Quân ủy Trung ương về giáo dục và đào tạo.
Dựa trên phương pháp luận nghiên cứu khoa học quản lý giáo dục với
các quan điểm lịch sử - logic; hệ thống - cấu trúc; quan điểm thực tiễn và
nguyên tắc tiếp cận chức năng - mục tiêu quản lý giáo dục; tiếp cận phát
triển năng lực; tiếp cận nội dung quản lý và quá trình dạy học làm phong phú
thêm các vấn đề nghiên cứu trong xác định khung lý thuyết và tìm hiểu, đánh
giá thực trạng; trên cơ sở đó đề xuất các biện pháp quản lý hoạt động học tập
theo năng lực đầu ra của học viên ở các trường sĩ quan quân đội để giải
quyết các nhiệm vụ khoa học của đề tài luận án.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
4.2.1. Các phương pháp nghiên cứu lý thuyết


Nghiên cứu các văn kiện, nghị quyết của Đảng Cộng sản Việt Nam,
Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; Quân đội nhân dân Việt
Nam; các công trình nghiên cứu khoa học, báo khoa học có liên quan đến đề
tài được công bố và đăng tải trên các tạp chí, kỷ yếu hội thảo khoa học.

Phân tích, tổng hợp các tài liệu, các công trình nghiên cứu về công tác
quản lý nhà trường, hoạt động dạy và học trong trường đại học…. Từ đó, xây
dựng cơ sở lý luận về quản lý hoạt động học tập của học viên ở trường sĩ
quan quân đội theo hướng phát triển năng lực.
4.2.2. Các phương pháp nghiên cứu thực tiễn
Tổng kết kinh nghiệm quản lý giáo dục thông qua các văn bản pháp lý;
các báo cáo tổng kết giáo dục và đào tạo của các trường sĩ quan quân đội
nhằm rút ra những kinh nghiệm quản lý hoạt động học tập của học viên.
Phương pháp quan sát, hoạt động lãnh đạo, chỉ huy; hoạt động dạy học;
tổ chức, chỉ đạo của cán bộ quản lý, giảng viên và tự quản lý hoạt động học tập
của học viên; quan sát hoạt động dạy học đối với các lớp bồi dưỡng phương
pháp dạy học, các lớp tập huấn để rút ra những kết luận về nội dung nghiên
cứu.
Tiến hành phân tích, đáng giá thực trạng của hệ thống đào tạo ở các
trường sĩ quan quân đội, thực trạng của việc học tập của học viên bao gồm cả
giờ lên lớp và ngoài giờ lên lớp ở các trường sĩ quan quân đội.
Phương pháp điều tra bằng phiếu hỏi với 830 cán bộ quản lý, giảng
viên và học viên ở 5 trường sĩ quan quân đội (Lục quân I; Chính trị; Pháo
binh; Tăng Thiết giáp và Trường Sĩ quan Đặc công) được tiến hành qua 3
bước: Thiết kế bảng hỏi; Điều tra thử; Điều tra, khảo sát tính cần thiết và tính
khả thi của các biện pháp để đề xuất các nội dung quản lý hoạt động học tập
của học viên ở các trường sĩ quan quân đội theo hướng phát triển năng lực.
Phương pháp phỏng vấn cá nhân, trò chuyện cùng một số cán bộ quản
lý, giảng viên ghi chép các nội dung cơ bản có liên quan thực trạng quản lý
hoạt động học nhằm thu thập, bổ sung, kiểm tra và làm rõ hơn những thông
tin đã thu được từ khảo sát thực tiễn.


Phương pháp đàm thoại, tọa đàm, trao đổi với cán bộ quản lý, giảng
viên cấp phòng, khoa, bộ môn, giảng viên và học viên theo chủ đề phỏng vấn

sâu giúp cho các số liệu đã khảo sát mang tính khách quan, trung thực để thu
thập thêm những thông tin cần thiết liên quan đến vấn đề nghiên cứu.
Phương pháp xin ý kiến chuyên gia để tìm hiểu thực trạng và ý kiến về
tính hợp lý và khả thi của các biện pháp mà đề tài đề xuất, những ý kiến
đóng góp quý giá của các nhà khoa học giúp tác giả thực hiện và hoàn thiện
đề tài nghiên cứu với chất lượng tốt nhất.
4.2.3. Phương pháp bổ trợ
Phương pháp thống kê toán học để xử lý các số liệu và kết quả nghiên
cứu, tiến hành đánh giá thử nghiệm một biện pháp quản lý hoạt động học tập
của học viên ở các trường sĩ quan quân đội theo hướng phát triển năng lực.
Phương pháp thử nghiệm, dùng để kiểm chứng tính hiệu quả quản lý
thông qua nội dung giải pháp chỉ đạo bồi dưỡng năng lực cho các chủ thể
quản lý hoạt động học tập của học viên theo hướng phát triển năng lực.
Phương pháp xử lý số liệu, khảo sát thu thập từ phiếu điều tra thực
trạng, từ thử nghiệm được xử lý bằng chương trình phần mềm Microsof
Xcel.
5. Những đóng góp mới của luận án
Quản lý hoạt động học tập của học viên ở các trường sĩ quan quân đội
theo hướng phát triển năng lực là đề tài với nội dung nghiên cứu có tính cấp
thiết trong xu thế đổi mới căn bản giáo dục, đúng mã số chuyên ngành đào
tạo.
Tên luận án và các nội dung nghiên cứu, các số liệu khảo sát, điều tra,
kết luận và năm biện pháp đề xuất không trùng lặp với các công trình, đề tài
khoa học đã nghiên cứu trước đó.
Phân tích làm rõ thực trạng hoạt động học tập và quản lý hoạt động học
tập của học viên ở các trường sĩ quan quân đội theo hướng phát triển năng lực,
chỉ ra những điểm mạnh, điểm yếu và các nguyên nhân của thực trạng.


Đề xuất năm biện pháp quản lý hoạt động học tập theo năng lực đầu ra

của học viên ở các trường sĩ quan quân đội khoa học, khả thi giúp các chủ thể
vận dụng có hiệu quả vào nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo.
6. Ý nghĩa lý luận, thực tiễn của luận án
6.1. Về mặt lý luận
Luận án đã phân tích được sự cần thiết, tính phù hợp của việc áp dụng
quy trình đào tạo mới theo năng lực đầu ra của học viên ở các trường sĩ quan
quân đội trong bối cảnh hiện nay; khẳng định vị trí, vai trò của quản lý hoạt
động học tập theo năng lực đầu ra của học viên ở các trường sĩ quan quân
đội.
Luận án xây dựng bổ sung và làm phong phú cơ sở lý luận về giáo dục
theo hướng hiện đại nói chung và quản lý hoạt động học tập của học viên ở
các trường sĩ quan quân đội theo hướng phát triển năng lực nói riêng, đưa ra
những nội dung lý luận cơ bản, cốt lõi, khẳng định và nhấn mạnh vai trò, ý
nghĩa quan trọng của việc xây dựng và áp dụng mô hình quản lý hoạt động
học tập theo năng lực đầu ra của học viên ở các trường sĩ quan quân đội; đề
ra năm biện pháp quản lý hoạt động học tập của học viên ở các trường sĩ
quan quân đội theo hướng phát triển năng lực.
6.2. Về mặt thực tiễn
Luận án trình bày có hệ thống, khách quan toàn diện về quá trình phát
triển của giáo dục đại học trong quân đội gắn liền với yêu cầu đổi mới quy trình
đào tạo từ niên chế kết hợp với học phần sang đào tạo theo tiếp cận năng lực.
Kết quả nghiên cứu của đề tài luận án có thể được vận dụng trong thực
tiễn đổi mới, hoàn thiện và nâng cao hiệu quả quản lý hoạt động học tập của
học viên ở các trường sĩ quan quân đội theo hướng phát triển năng lực hiện nay.
7. Cấu trúc của luận án
Kết cấu của luận án gồm: Mở đầu, bốn chương (12 tiết) kết luận và
kiến nghị; danh mục các công trình khoa học của tác giả đã được công bố
liên quan đến đề tài luận án, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục.



Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ
TÀI

1.1. Những công trình nghiên cứu về hoạt động học tập
Thời cổ đại ở phương Tây có các đại biểu như: Sôcrát (469 - 399
tr.CN), đề xuất phương pháp “đàm thoại” - “thuật đỡ đẻ” [41], Platon (427 348 tr.CN), sáng tạo ra cách phân chia học tập theo tuổi [98], Arisxtốt (384 322 tr.CN), với luận điểm giáo dục phải xuất phát từ đặc điểm tự nhiên và nhu
cầu của con người [98]. Ở phương Đông có Khổng Tử (551 - 479 tr.CN) người đầu tiên trong lịch sử nêu quan điểm “giáo học tương trưởng”, ông đòi
hỏi người dạy phải có cách dạy cho phù hợp để người học chiếm lĩnh tri thức
và giá trị đạo đức: “Dụ - Đạo - Trợ - Khải - Phát”. Ông nhấn mạnh: “Học mà
chẳng chịu suy nghĩ thì chẳng được thông minh. Suy nghĩ mà chẳng chịu học
thì lòng dạ chẳng yên ổn” đã phản ánh tư tưởng về phương pháp cách thức
học tập cẩn trọng, tích cực, kiên trì và tư duy linh hoạt để đi đến miêu tả chân
lý và đòi hỏi người học phải: “Bác học - Thẩm vấn - Thận tư - Minh biện Đốc hành”, người học phải có suy luận những kiến thức mới từ kiến thức
người dạy đã trang bị: “Vật có bốn góc, bảo cho biết một góc mà không suy ra
ba góc kia thì không dạy nữa” [65]. Ngoài ra, còn có Mặc Tử (475 - 390
tr.CN), với quan niệm học tập phải xuất phát từ thực tiễn, từ đặc điểm người
học, theo sức lực và khả năng của người học [41] và Hàn Phi Tử (280 - 233
TCN), với lý thuyết cai trị phải chú ý tới ba yếu tố “Pháp - Thế - Thuật” [41]
trong quản lý xã hội và tổ chức học tập trong giáo dục tất yếu là hoạt động cần
được quản lý.
Các nghiên cứu trên cách ngày nay gần ba mươi thế kỷ nhưng nhìn
chung vẫn có giá trị lý luận và thực tiễn to lớn, vẫn là những bài học quý giá
cho quản lý hoạt động học tập của người học ở các nhà trường hiện nay.
Thời kỳ chủ nghĩa tư bản hình thành và phát triển, xuất hiện nhiều tư
tưởng giáo dục tiến bộ, được nâng lên tầm cao mới, khái quát thành lý luận


với các đại biểu như: John Locke (1632 - 1704), J.J.Rut-xô (1712 - 1778),
Pét-xta-lô-di (1746 - 1827) [41]. Song, do hạn chế bởi “cảm giác luận” và

triết học duy lý, nên những tư tưởng đó còn phiến diện, giản đơn; còn tuyệt
đối hoá sự phát triển tự nhiên, dẫn tới hạ thấp, coi nhẹ yêu cầu đòi hỏi của xã
hội đối với người học. Tuy nhiên, cuốn “Lý luận dạy học vĩ đại” (1632) của
J.A. Kô-men-xky (1592 - 1670) đã đi vào lịch sử như một cột mốc đánh dấu
sự ra đời của lý luận giáo dục và lý luận dạy học, đây là bước tiến mới trong
việc xây dựng hệ thống lớp – bài quy định chặt chẽ về nội dung và phương
pháp giáo dục đến nay vẫn đang áp dụng trong các nhà trường hiện đại [62].
Cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, với sự xuất hiện của nhiều trào lưu
triết học mang màu sắc duy tâm chủ quan như chủ nghĩa hiện sinh, chủ nghĩa
thực dụng, cùng với sự xuất hiện thuyết hành vi trong tâm lý học dẫn tới sự
xuất hiện đa dạng với nhiều trường phái và tên gọi khác nhau về học tập như:
Rét-di, một bác sĩ người Anh đã đề xướng tư tưởng “Nhà trường mới” [98];
Kéc-Sens-ten-ơ (1854 - 1932), Giáo sư người Đức đề xuất loại hình “Nền giáo
dục công dân” và “Nhà trường lao động” [98]; A.Bi-nê (1857 - 1911), người
Pháp với “Nền giáo dục thực nghiệm” [98]; John Dewey (1859 – 1925), nhà
sư phạm người Mỹ đưa ra phương hướng canh tân giáo dục, yêu cầu bổ sung
vào vốn tri thức của học sinh hoạt động thực tiễn “Học sinh là mặt trời, xung
quanh nó quy tụ mọi phương tiện giáo dục” [98]; Tsunesaburo Makiguchi
(1871 - 1944) người Nhật Bản nhấn mạnh: “Giáo viên không bao giờ học thay
cho học sinh mà học sinh phải tự mình học lấy” [119].
Các nghiên cứu ở thời kỳ này đã đưa ra nhiều quan điểm luận bàn về
hoạt động học tập của học sinh, sinh viên và nhấn mạnh tầm quan trọng của
hoạt động học tập đối với sự phát triển tư duy và hình thành thói quen học
tập cho người học; khẳng định, muốn nâng cao hiệu quả học tập thì người
giáo viên phải biết tổ chức hoạt động nhận thức, hướng dẫn tự học cho học
sinh.
Thực tiễn xây dựng, phát triển nền giáo dục Xô Viết, với những đóng
góp rất to lớn của các nhà sư phạm lỗi lạc N.A.Danilốp; M.N.Xcatkin;
B.P.Êxipốp; N. K.Krúp-xcaia, B-lôn-xki [27]; A.S.Ma-ka-ren-kô, Lu-na-tratxki [76]; Ia.Lecne [67]; đặc biệt N.A.Rubakin (1862 - 1946) nhà bác học, nhà



sư phạm người Nga trong tác phẩm “Tự học như thế nào”, đã chỉ ra phương
pháp tự học để nâng cao kiến thức, mở rộng tầm nhìn đã góp phần phát triển
lý luận học tập để trang bị cho người học kiến thức để họ tham gia vào lĩnh
vực lao động sản xuất và cuộc chiến tranh vệ quốc một cách có hiệu quả [92].
Có thể khẳng định rằng, các nghiên cứu trên của các nhà giáo dục học
Liên Xô (cũ) có đóng góp hết sức quan trọng tới việc tổ chức dạy - học gắn
chặt với những hoạt động khác của mọi lĩnh vực xã hội.
Ngoài ra, hoạt động học tập của học sinh, sinh viên cũng đã được các
nhà tâm lý học trên thế giới như: Pavlov, Watson, Thorndike, Skiner, J.
Piaget, Ghestalt, Benjamin Bloom, X. L. Vưgốtxki, A.N. Léonchiev…
nghiên cứu và đưa ra những khái niệm và cơ chế của hoạt động học tập.
Giáo dục ở thế kỷ XXI đã có những thay đổi lớn nhằm hướng tới mục
tiêu đào tạo những con người có năng lực tự quyết định; trong tương lai gần,
mỗi người học sẽ phải có đủ các phẩm chất: tự học (self learning), tự tổ chức
(self organizing), tự quyết định (self defining) và tự phát triển (self developing);
tiêu biểu như các nghiên cứu của: Alvin Toffer (1992) với “Làn sóng thứ ba”
[105]; Jean – Marc Denommé, Madeleine Roy (2000) với “Tiến tới một
phương pháp sư phạm tương tác” [77]; R.Colin và Malcolm J. Nicholl (2008)
với “Kỹ năng học tập siêu tốc thế kỷ XXI” [26]; đặc biệt Jeannette Vos và
Cordon Dryden (2004) với “Cách mạng học tập những yếu tố và phương pháp
để học tập tốt” đề ra công thức MASTER (M: Mind set for success, A: Acquire
knowledge, S: Search out the meaning, T: Trigger the memory, E: Exhibit, R:
Reflect how to learn) để hướng dẫn người học phát huy năng lực học tập của
bản thân [134].
Nhìn chung, các tác giả trên đã phân tích nhiều vấn đề của giáo dục khi
bước vào thế kỷ XXI; trong đó đặc biệt nhấn mạnh đến vai trò của người học
và hoạt động học tập trước sự phát triển nhanh chóng của cách mạng khoa
học; đồng thời chỉ ra cách học cần phải được dạy cho thế hệ trẻ.
Truyền thống của dân tộc Việt Nam rất coi trọng việc giáo dục, thời

phong kiến với các danh nhân, các nhà sư phạm tiêu biểu như: Chu Văn An
(1292 – 1370), luôn “Nêu gương sáng cho kẻ sĩ học tập” [121, tr.62]; Lê Quý


Đôn (1726 – 1784), với luận điểm “Biết học thì không thể biện lẽ thiếu thì
giờ” [121, tr.70] để hướng dẫn người học tích cực học tập.
Đến đầu thế kỷ XX, phong trào cổ xúy Tân học của Phan Chu Trinh và
Phan Bội Châu nổi lên rầm rộ từ Bắc chí Nam nhằm trực tiếp chống lại thứ
giáo dục lạc hậu của thời phong kiến, chống lại cả giáo dục nô dịch của thực
dân Pháp. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân thời kỳ này giáo dục không có sự
phát triển đáng kể cho đến trước Cách mạng tháng Tám năm 1945 đánh dấu
sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam và sự thành lập nhà nước Việt Nam đã
làm cho khoa học giáo dục có bước phát triển về chất với các tác giả tiêu biểu:
Hồ Chí Minh (1890 – 1969), khi bàn về vấn đề học tập phải xác định
rõ mục đích học tập và xây dựng động cơ học tập đúng đắn; nghĩa là phải
hiểu “Học để làm gì? – Học để sửa chữa tư tưởng – Học để tu dưỡng đạo đức
cách mạng – Học để tin tưởng – Học để hành”, khi đến thăm Trường Nguyễn
Ái Quốc Trung ương tại Việt Bắc, tháng 9 năm 1949 (nay là Học viện Chính
trị - Hành Chính quốc gia Hồ Chí Minh), Người ghi trong trang đầu Quyển
sổ vàng của Nhà trường: “Học để làm việc, làm người, làm cán bộ. Học để
phụng sự đoàn thể, giai cấp và nhân dân, Tổ quốc và nhân loại” [80, tr.684].
Sinh thời, Cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng cho rằng trong nhà trường,
điều chủ yếu không phải là nhồi nhét cho học trò một mớ kiến thức hỗn độn,
mà phải giáo dục cho học trò các rồi đến phương pháp nghiên cứu, phương
pháp học tập, phương pháp giải quyết vấn đề [35, tr.25].
Bước vào thời kỳ đổi mới, các công trình nghiên cứu phát triển giáo
dục và đào tạo theo hướng chuẩn hoá, hiện đại hoá đã được cụ thể thành
phương châm, Chiến lược giáo dục và đào tạo với các tác giả tiêu biểu:
Nguyễn Như An (1996), với “Phương pháp dạy học Giáo dục học” [1]; Phạm
Trung Thanh (1999), với nghiên cứu về “Phương pháp học tập – nghiên cứu

của sinh viên cao đẳng, đại học” [97]; Đặng Thành Hưng (2002), với “Dạy
học hiện đại lý luận – biện pháp – kỹ thuật” [52]; Phạm Minh Hạc (2002) với
công trình nghiên cứu về vấn đề “Giáo dục thế giới đi vào thế kỷ XXI” [38],
đã đề cập khá toàn diện tới vị trí vai trò, của người học; đồng thời chỉ ra


những hạn chế về phương pháp học tập – nghiên cứu của sinh viên cao đẳng,
đại học.
Các tác giả, Nguyễn Kỳ (2005) bàn về “Phương pháp giáo dục tích cực
lấy người học làm trung tâm” [63]; tác giả Phạm Viết Vượng (2007), trong cuốn
sách “Giáo dục học” [136]; Thái Duy Tuyên (2008), với “Phương pháp dạy học
truyền thống và đổi mới” [122]; đặc biệt công trình của các tác giả Nguyễn
Cảnh Toàn, Nguyễn Kỳ, Lê Khánh Bằng, Vũ Văn Tảo (2004) đã bàn về học tập
trong cuốn sách “Học và dạy cách học”, đã bàn về mối quan hệ giữa dạy và
học, cho rằng mục đích của dạy là làm cho người học học đúng cách, làm cho
người học biết cách học và cách đó là khả thi; có nghĩa là “làm cho học sinh,
sinh viên hiểu được các nhà khoa học đó” [105, tr.61], nghiên cứu này đã làm
thay đổi và chỉ ra cách hiểu của người học, sao cho học sinh, sinh viên bắt đầu
quan niệm về hiện tượng và ý tưởng theo cách của các nhà khoa học.
Ngoài ra, các tác giả Hoàng Anh và Đỗ Thị Châu (2010), bàn về hoạt
động học tập – tự học của sinh viên trong cuốn sách “Tự học của sinh viên”
[3], cùng các tác giả Đỗ Linh và Lê Văn với cuốn sách “Phương pháp học tập
hiệu quả” [70]; Joe Landsberger cuốn sách “Học tập cũng cần chiến lược”
[66]; Bobbi Deporter và Mike Hernacki với cuốn sách “Phương pháp học tập
siêu tốc” [10] đã đưa ra bản chất và đặc điểm của hoạt động học tập có mục
đích, cấu trúc của hoạt động học tập, động cơ học tập và các yếu tố tâm lý ảnh
hưởng tới hoạt động học tập – tự học của sinh viên và hướng dẫn phương
pháp học tập hiệu quả… Nhìn chung, các công trình tiếp cận về hoạt động học
tập ở những góc độ, khía cạnh khác nhau. Song, các nhà khoa học đều đi đến
thống nhất nhận thức về vị trí, vai trò của người học; đưa ra những cách thức,

phương pháp giúp người học đạt được hiệu quả cao khi tiến hành hoạt động
học tập.
Trong quân đội, công trình của Cục nhà trường Bộ Tổng Tham mưu
bàn về “Tổ chức và phương pháp huấn luyện” (1999) đã xác định ba quan
điểm; tám nguyên tắc và sáu mối kết hợp trong huấn luyện đã chỉ ra việc sử
dụng tổng hợp các cách thức, biện pháp phối hợp thống nhất giữa người dạy


và người học nhằm tổ chức cho người học học tập trong nhóm, học cùng
nhau trao đổi thảo luận, chia sẻ hiểu biết, kinh nghiệm và động viên khuyến
khích, giúp đỡ nhau cùng đạt mục đích; nghiên cứu này có giá trị lý luận và
thực tiễn chỉ ra quan điểm nguyên tắc và các mối kết hợp trong hoạt động
học tập [16].
Tiếp cận vấn đề ở góc độ học tập khác nhau các tác giả Trịnh Quang
Từ (1996), với nghiên cứu “Những phương hướng tổ chức hoạt động tự học
của sinh viên các trường quân sự” [125]; Nguyễn Chính Trung (1999), bàn
“Về việc xây dựng phương pháp học tập chủ động ở các học viện, nhà
trường quân đội” [112]; Nguyễn Đình Minh (2013), bàn về “Đổi mới căn
bản, toàn diện giáo dục và đào tạo trong nhà trường quân đội hiện nay” [81],
cùng với nghiên cứu của Mai Văn Hoá [46]; Nguyễn Văn Chung [24] đã đề
ra những phương hướng cơ bản của việc tích cực hoá hoạt động học tập của
học viên.
Bàn về vận dụng phương pháp và hình thức trong học tập, các tác giả
Đặng Đức Thắng [99]; Trần Đình Tuấn [120]; Lê Minh Vụ [135]; Nguyễn
Đình Minh, Nguyễn Văn Chung [82] và Bùi Hồng Thái [95]. Khẳng định,
những vấn đề thực tiễn đối với hoạt động học tập và việc vận dụng phương
pháp dạy học trong nhà trường quân sự với tổ chức hoạt động học tập chủ
động được xem như là biện pháp đột phá trong đổi mới phương pháp dạy
học.
Điểm qua các công trình nghiên cứu về hoạt động học tập của sinh

viên, học viên ở các nhà trường trong và ngoài quân đội cho thấy, vấn đề học
tập đã được các tác giả quan tâm nghiên cứu và đưa ra những cơ sở lý luận
vững chắc. Tuy nhiên, những công trình này mới chỉ đi sâu nghiên cứu về
học tập, tự học và đưa ra những cách thức, phương pháp giúp người học đạt
được hiệu quả cao khi tiến hành hoạt động học tập.
1.2. Những công trình nghiên cứu về quản lý hoạt động học tập
theo quan điểm giáo dục hiện đại
1.2.1. Quản lý hoạt động học tập nói chung


Trong lịch sử giáo dục thế giới có rất ít công trình trực tiếp đề cập đến
quản lý hoạt động học tập, nhưng thông qua tác phẩm kinh điển của C.Mác
(1818 - 1883) và Ph.Ăng ghen (1820 - 1894), khi bàn về quản lý và điều khiển
hoạt động học thể chất và quân sự các ông cho rằng phải phù hợp với đặc
điểm, tâm lý, sinh lý, lứa tuổi, tăng cường tổ chức lao động sản xuất hợp lý
[78]. Vì vậy, tổ chức học tập trong giáo dục tất yếu là hoạt động được quản lý
theo quy luật khách quan, khoa học.
Người đầu tiên nghiên cứu về “Thuyết quản lý theo khoa học” là F.W.
Taylor (1856 - 1915) người Mỹ, bên cạnh đó là “Thuyết quản lý hành chính”
của Henry Fayol (1841 - 1925) người Pháp và nhà xã hội học người Đức là
Max Weber (1864 - 1920) với “Thuyết quản lý bàn giấy” [100] là những
nghiên cứu về quản lý một cách khoa học có hệ thống vấn đề hợp lý hóa thao
tác lao động để ứng dụng vào thực tiễn, có thể vận dụng vào quản lý giáo
dục đào tạo và quản lý hoạt động học tập ở các nhà trường mang lại hiệu quả
cao.
Những năm đầu của thế kỷ XX việc dạy nghề cho những người trực
tiếp tham gia vào quá trình lao động sản xuất thuần túy theo cách “mô
phỏng, bắt chước” không còn phù hợp, nên tư tưởng cải cách xuất hiện ở
một số nước công nghiệp phát triển; người ta nhận thấy, quản lý đào tạo theo
hệ thống lớp – bài truyền thống không đáp ứng được những yêu cầu của xã

hội, nhiều nơi, nhiều ngành nghề đã thực hiện nguyên tắc “cần gì học nấy”
và người học có nhu cầu đến đâu, thì học đến đó [41].
Cuối thế kỷ XX và những năm đầu thế kỷ XXI là giai đoạn đánh dấu
sự quan tâm nghiên cứu nhằm phát huy tối đa năng lực của cá nhân tiêu biểu
như: P.V. Zimin (1985) “Những vấn đề quản lý trường học” [130]; Harold
Koontz, Cyril Odonnell và Heinz Weihrich (1994) “Những vấn đề cốt yếu của
quản lý” [61]; Warren Piper.D (1993) “Quản lý chất lượng trong các trường đại
học” bao gồm: Xác lập chuẩn; Xây dựng quy trình; Xác định tiêu chí đánh giá
và vận hành; Đo lường; Đánh giá; Thu thập và xử lý số liệu [dẫn theo 2, tr.41].
Theo tác giả Petros Kefalas (2003) và các cộng sự, một hệ thống đảm
bảo chất lượng (QAS) gồm các tiêu chuẩn chất lượng đó là: Chương trình học


tập hiệu quả; Đội ngũ giáo viên; Khả năng sử dụng cơ sở hạ tầng sẵn có; Phản
hồi tích cực từ học sinh; Sự hỗ trợ từ các bên liên quan và thị trường lao động.
Ngoài ra, các mô hình quản lý chất lượng toàn diện (Total Quality
Management- TQM) phát triển từ các mô hình kiểm soát và đảm bảo chất
lượng; Mô hình quản lý chất lượng tổng thể (TQM), với các tác giả như
W.E.Deming; J.M Juran; K.Ishikawa; A.V Feigenbaum và P.B Crosby. Hiện
nay TQM đã được áp dụng trên nhiều lĩnh vực trong đó có giáo dục.
Nhìn chung, các mô hình đảm bảo chất lượng nêu trên đều “hướng
vào con người”. Trong đó, mô hình các yếu tố tổ chức thì đưa ra 5 yếu tố
quản lý; mô hình ISO coi trọng làm tốt ngay từ đầu và quản lý theo quá trình
nhưng chưa cụ thể với quản lý dạy học; đáng chú ý là mô hình CIPO nói đến
10 yếu tố quản lý và điều kiện tác động đến yếu tố quản lý phù hợp với nhà
trường nhưng chưa tính đến điều kiện bối cảnh trong quản lý giáo dục.
Đề cao vai trò cố vấn của người thầy trong việc giúp học sinh học tập
Raja Roy Singh (1994), với công trình “Nền giáo dục cho thế kỷ XXI, những
triển vọng của châu Á – Thái Bình Dương” [94], đã nhấn mạnh quan điểm
“lấy người học làm trung tâm” và chỉ rõ đặc điểm của một xã hội phát triển

là một xã hội dựa vào “tri thức” vào “kiến thức là sức mạnh”, giáo dục là
trung tâm của xã hội ấy; nghiên cứu này đòi hỏi người thầy phải tổ chức việc
học và tăng cường quản lý quản lý hoạt động học tập của người học.
Vấn đề “Phát huy tính tích cực học tập của học sinh như thế nào” [57]
của I.F Kharlamốp (1998) và Paul Hersey và Ken Blanc Hard (2005) cho
rằng: “Quản lý như một quá trình làm việc cùng nhau và thông qua cá nhân,
các nhóm cũng như các nguồn lực khác để hình thành các mục đích tổ chức”
[40, tr.68] trong đó có quản lý hoạt động học tập của người học.
Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hoá Liên Hợp quốc (UNESCO) trên
cơ sở nghiên cứu của J.Delors (2002), “Học tập – một kho báu tiềm ẩn” đã
đưa ra bốn trụ cột “The Four Pillars of Education” trong giáo dục cho thế kỷ
XXI. Bốn trụ cột đó là: “Học để biết – Learning to Know”, “Học để làm –
Learning to Do”, “Học để tự khẳng định – Learning to Be”, “Học để cùng
chung sống – Learning to Live together” [28], có thể coi đây là mục đích đã xác


lập các quan điểm giáo dục hiện đại làm nền tảng để các nhà trường lựa chọn
cách quản lý giáo dục và đào tạo nói chung, quản lý học tập nói riêng đáp ứng
với thực tiễn của cuộc sống, nghề nghiệp đã và đang đặt ra cho người học.
Ở Việt Nam, sử sách viết về Quốc Tử Giám có nói đến cách học tập
của giám sinh. Theo đó, phương pháp học của giám sinh chủ yếu là tự học,
tự nghiên cứu. Mỗi tháng nghe thầy giảng kinh truyện 2 kỳ, tập làm văn 4
kỳ. Bài tập, có loại làm ngay tại lớp trong ngày phải xong, có loại đem về
nhà làm [103]. Có thể xem đây là một ví dụ về việc quản lý rèn luyện cách
học, cách tự học cho giám sinh đại học thời phong kiến mà đến ngày nay, ít
nhiều vẫn còn những giá trị nhất định trong thực tiễn học tập và quản lý học
tập.
Kế thừa và phát triển quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, Chủ tịch
Hồ Chí Minh cho rằng phải có kế hoạch sắp xếp thời gian học tập, phải bền
bỉ, kiên trì thực hiện kế hoạch đến cùng, không lùi bước trước mọi trở ngại;

phải triệt để tận dụng mọi hoàn cảnh, mọi phương tiện, mọi hình thức để tự
học; học đến đâu, ra sức luyện tập, thực hành đến đó [80]. Đối với quân nhân
Người luôn quan tâm tới việc tổ chức giáo dục quân nhân phát triển “hoàn
toàn”, cả “văn và võ”, võ là như tay phải, văn là như tay trái của quân nhân.
Biết võ, biết văn, mới là quân nhân hoàn toàn. Vì vậy, phải tổ chức các lớp
huấn luyện chu đáo, lấy tự học làm cốt, có thảo luận và chỉ đạo giúp vào
Người nhấn mạnh, tổ chức hoạt động học tập phải gắn liền với thể chế xã
hội, nền nếp dạy học, trình độ người dạy để phát triển năng lực người học
[107].
Bước vào thời kỳ đổi mới đã xuất hiện nhiều công trình nghiên cứu
của tác giả như: Đặng Bá Lãm (2005) “Quản lý Nhà nước về giáo dục, lý
luận và thực tiễn” [64]; Phan Văn Kha (2014) về “Đổi mới quản lý giáo dục
Việt Nam – một số vấn đề lý luận và thực tiễn” [55]; Trần Khánh Đức
(2010), với “Giáo dục và phát triển nguồn nhân lực trong thế kỷ XXI” [36]
và Đặng Quốc Bảo, Vũ Quốc Chung (2013) “Một số vấn đề lý luận và thực
tiễn về lãnh đạo quản lý giáo dục trong thời kỳ đổi mới” [5]; Đặng Quốc Bảo
– Bùi Việt Phú (2013) với “Một số góc nhìn về phát triển và quản lý giáo
dục” [6].


Bàn về quản lý nhà trường các tác giả Nguyễn Hữu Châu [19];
Nguyễn Phúc Châu [20] đã chỉ ra các nội dung quản lý rất cụ thể, nhấn mạnh
và chỉ rõ về hoạt động quản lý, tác giả Nguyễn Thị Mỹ Lộc quan niệm “hoạt
động quản lý là tác động có định hướng, có chủ đích của chủ thể quản lý
(người quản lý) đến khách thể quản lý (người bị quản lý) trong một tổ chức
làm cho tổ chức vận hành và đạt được mục đích của tổ chức” [73, tr.1].
Bàn về “Những vấn đề cơ bản của Khoa học quản lý giáo dục” [58] và
“Quản lý và lãnh đạo nhà trường hiệu quả” [60], tác giả Trần Kiểm (2016)
cho rằng: “Sự thành bại của nhà trường phụ thuộc một phần rất quan trọng
(nếu không nói là quyết định) vào hoạt động quản lý và lãnh đạo của người

Hiệu trưởng” [60, tr.5]. Vì vậy, tác giả đi sâu phân tích về nhà trường hiệu
quả, về quản lý và lãnh đạo nhà trường, về phẩm chất của hiệu trưởng với
cách tiếp cận năng lực được trình bày và phân tích xuyên suốt các nội dung.
Trong Dự án hỗ trợ đổi mới quản lý giáo dục (SREM 2009) đề xuất
việc quản lý dạy và học ở trường phổ thông bao gồm quản lý hoạt động dạy
của giáo viên và hoạt động của học sinh. Quản lý hoạt động của giáo viên
cần đảm bảo thực hiện việc: Xếp và quản lý thời khóa biểu dạy học; Tổ chức
hội giảng và thi giáo viên dạy giỏi; Tổ chức bồi dưỡng chuyên môn; Hội
thảo chuyên đề chuyên môn; Sinh hoạt tổ chuyên môn; Theo dõi thực hiện
quy chế, nhiệm vụ chuyên môn; Theo dõi nghỉ dạy học của toàn trường; Xây
dựng kế hoạch chuyên môn; Dự giờ hoạt động sư phạm giáo viên [11].
Theo tác giả Nguyễn Lộc (2010) trong bài viết “TQM hay là Quản lý
chất lượng toàn thể trong giáo dục”, đề xuất ba giai đoạn phát triển của quản lý
chất lượng đó là: “Kiểm tra chất lượng, đảm bảo chất lượng và cải tiến liên
tục”, tác giả nhận định: “Nếu như giáo dục đã áp dụng thành công các giai đoạn
đầu của quản lý giáo dục là kiểm tra và đảm bảo chất lượng thì trong giai đoạn
sắp tới cần nghiêm túc xem xét việc triển khai TQM nhằm đưa quản lý chất
lượng giáo dục lên tầm cao mới, đáp ứng đòi hỏi mới của thời đại” [74, tr.10].
Từ kết quả của những công trình kể trên, có thể khẳng định rằng khoa
học quản lý giáo dục đã được ứng dụng rộng rãi trong giảng dạy và nghiên


×