Tải bản đầy đủ (.docx) (22 trang)

những đặc trưng trong văn hóa phùng nguyên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (109.89 KB, 22 trang )

MỤC LỤC

Trang
MỞ ĐẦU..................................................................................................................1
1.

Lý do chọn đề tài..........................................................................................1

2.

Lịch sử nghiên cứu vấn đề............................................................................1

3.

Phương pháp nghiên cứu..............................................................................1

4.

Đối tượng và phạm vi nghiên cứu................................................................1

5.

Đóng góp của đề tài......................................................................................2

6.

Bố cục đề tài.................................................................................................2

CHƯƠNG 1..............................................................................................................3
KHÁI QUÁT VỀ VĂN HÓA PHÙNG NGUYÊN................................................3
1.



Đặc điểm phân bố.........................................................................................3

2.

Niên đại và giai đoạn....................................................................................4

CHƯƠNG 2..............................................................................................................6
NHỮNG ĐẶC TRƯNG VỀ VĂN HÓA................................................................6
1. Các loại đặc trưng..............................................................................................6
1.1. Đồ gốm.......................................................................................................6
1.2. Đồ đá..........................................................................................................9
1.3. Đồ đồng....................................................................................................11
1.4. Táng thức..................................................................................................12
CHƯƠNG 3............................................................................................................14
CUỘC SỐNG CỦA NGƯỜI PHÙNG NGUYÊN...............................................14
1.

Nông Nghiệp...............................................................................................14

2.

Chăn nuôi....................................................................................................15

3.

Thủ công nghiệp.........................................................................................15

4.


Đời sống sinh hoạt......................................................................................17

KẾT LUẬN............................................................................................................19
TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................................................20

1


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Phùng Nguyên là một trong những di chỉ khảo cổ được khai quật với quy mô
lớn ở nước ta đã tìm ra rất nhiều hiện vật rất là phong phú.
Đề tài này chưa có ai chọn nên em chọn để nghiên cứu và vì em cũng thích
nền văn hóa phùng nguyên nên em đã tìm hiểu.
Với niềm yêu thích cá nhân cùng với sự giúp đỡ mạnh mẽ từ rất nhiều nguồn
tài liệu phong phú, muốn tìm tòi và nâng cao sự hiểu biết.
Bài tiểu luận này của em tuy chưa thật sự đầy đủ và toàn diện về văn hóa
phùng nguyên, một sự kiện lịch sử văn hóa của lịch sử dân tộc Việt Nam.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Đã có nhiều nhà nghiên cứu khoa học đã nghiên cứu về văn hóa Phùng
Nguyên điển hình như cuốn “ Di chỉ khảo cổ học Phùng Nguyên” của Hoàng Xuân
Chinh – Nguyễn Ngọc Bích, và “ Theo dấu các văn hóa cổ” của Hà Văn Tấn.
Các nhà nghiên cứu đã nghiên cứu sâu rộng trong này và ở mực độ rất lớn.
Nhưng em chỉ nghiên cứu một mảng nhỏ ở trong nền văn hóa Phùng Nguyên
đó là “Đặc trưng văn hóa Phùng Nguyên”
3. Phương pháp nghiên cứu
Em đã dùng phương pháp là nghiên cứu tài liệu để làm bài này, tuy không đầy
đủ và còn thiếu sót nhiều nhưng em đã chắt lọc những nội dung chính và cần thiết
để có thể làm thành một bài hoàn chỉnh.
Em đã tiến hành tổng hợp và phân tích tài liệu, đối chiếu so sánh các nguồn

tài liệu đồng thời đưa ra những quan điểm xác đáng để làm sáng tỏ vấn đề.

1


4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Với tên đề tài “Những đặc trưng trong văn hóa Phùng Nguyên” em đã đi sâu
để nghiên cứu về các đặc trưng trong thời kì này có gì phát triển mạnh mẽ.
Với đề tài này em đã nghiên cứu nền văn hóa Phùng Nguyên ở Phú Thọ.
Phạm vi không gian: Lâm Thao – Phú Thọ.
Phạm vi thời gian: từ năm 1959 cho đến nay.
5. Đóng góp của đề tài
Qua nghiên cứu các di vật như đồ đá, đồ gốm, đồ đồng, táng thức đã cho thấy
được nền văn hóa Phùng Nguyên còn để lại rất nhiều và rất đặc sắc với sựu chế tác
rất tinh xảo của cư dân Phùng Nguyên, cho đến thời kì này thì nhiều người vẫn
đang đi tìm những dấu vết còn lại của di chỉ Phùng Nguyên.
Tiểu luận này sé giúp chúng ta tham khảo thêm về những vấn đề cần quan
tâm.
6. Bố cục đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo thì nội dung bài tiểu luận
được trình bày trong ba chương
Chương 1. Khái quát về văn hóa Phùng Nguyên
Chương 2 Những đặc trưng về văn hóa
Chương 3. Cuộc sống của người Phùng Nguyên

2


CHƯƠNG 1
KHÁI QUÁT VỀ VĂN HÓA PHÙNG NGUYÊN

1.

Đặc điểm phân bố

Di chỉ khảo cổ học Phùng Nguyên (Lâm Thao - Phú Thọ) được phát hiện và
khai quật năm 1959. Trong những năm 1960 nhiều địa điểm tương tự Phùng
Nguyên ở vùng trung du và châu thổ Bắc Bộ được thăm dò và khai quật. Một văn
hoá khảo cổ mới - văn hoá Phùng Nguyên được định danh và xác lập (Hoàng Xuân
Chinh, 1966: 176 – 177). Trên 50 địa điểm thuộc nên văn hóa đã được phát hiện và
nghiên cứu.
Các địa điểm văn hóa Phùng Nguyên được phân bố tập trung ở khu vực hợp
lưu của các con sông lớn: Các địa điểm văn hóa Phùng Nguyên phân bố tập trung ở
khu vực hợp lưu của các con sông lớn như sông Hồng, sông Đà, sông Lô, sông
Thao và sông Đáy tức vùng Nam Phú Thọ, Đông Bắc Hà Tây
Phần lớn di tích nằm ở miền trước núi, dưới chân đồi núi đất, vên sông suối
và vùng trung du. Nhiều địa điểm trên các khu đất cao châu thổ, ven biển.
+ Loại hình : phần lớn là các di chỉ cư trú ngoài trời với diện rộng khoảng
một vạn mét vuông, tầng văn hóa dày trung bình từ 60 đến 70cm, một vài nơi cá
biệt có tầng văn hóa dày trên 1m. Có một số địa điểm với diện tích lớn 2 – 3 vạn
mét vuông như Văn Điển, Phùng Nguyên.
+ Địa tầng : Có 5 loại hình di tích theo diễn biến đại tầng :
 Loại có một tầng thuộc văn hóa Phùng Nguyên.
 Loại có địa tầng phát triển liên tục từ cuối Phùng Nguyên sang ĐỒng
Đậu.
 Loại di chỉ - xưởng phát triển từ cuối Phùng Nguyên sang đầu Đồng
Đậu.
3


 Loại di chỉ xen lẫn mộ táng.

 Loại mộ táng tách riêng khỏi di chỉ cư trú.

4


2.

Niên đại và giai đoạn

Có nhiều ý kiến khác nhau về niên đại mở đầu của văn hóa Phùng Nguyên :
đầu thời đại đông thau ; cuối thừoi đại đá mới ; quá độ từ thời đại đồ đá sang thời
đại đồng thau… Dưới ánh sáng của những tư liệu mới và cách tiếp cận hệ thống,
phần lớn các nhà nghiên cứu Việt Nam cho rằng, văn hóa Phùng Nguyên là văn
hóa khảo cổ của thời đại kim khí.
Dựa trên sự phân tích loại hình hoa văn gốm của các nhóm di tích, cứ liệu địa
tầng… Hà Văn Tấn và Hán Văn Khẩn đã xác lập 3 giai đoạn phát triển của văn hóa
Phùng Nguyên (Hà Văn Tấn, 1997 ; Hán Văn Khẩn, 1976).
-

Giai đoạn sớm, có thể gọi là giai đoạn trước cổ điển, lấy Gò Bông làm

tiêu biểu. Di chỉ Đồng Chỗ ở thời điểm kết thúc giai đoạn này, bắt đầu có yếu tố
của giai đoạn sau.
Giai đoạn giữa, có thể gọi là giai đoạn cổ điển, lấy Phùng Nguyên, An
Đạo, Xóm Rền, Nghĩa Lập… làm tiêu biểu. Di chỉ Đồi Giàm ở thời điểm kết thúc
của giai đoạn này.
Giai đoạn cuối, có thể gọi là giai đoạn sau cổ điển. có thể lấy lớp dưới
Đồng Đậu, các di tích nhóm Tiêu Tương ở Bắc Ninh, Tiên Hội và Xuân Kiều ở Hà
Nội làm tiêu biểu.
Tuy vậy, cũng có ý kiến khác(chủ yếu dựa vào sự xuất hiện của dấu vết loại

đồng), mà chia thành 2 giai đoạn phát triển (Trần Quốc Vượng, Hà Văn Tấn, Diệp
Đình Hoa, 1978 :255) :
+ Giai đoạn Phùng Nguyên sớm, chưa tìm được đồ đồng hay hiện vật kim
khí nào khác, thuộc thời đại đồng thau, vào thiên niên kỷ III trước Công nguyên.
+ Giai đoạn Gò Bông muộn, thuộc sơ kỳ thời đại đồng thau, vào khoảng
cuối thiên niên kỷ III – đầu thiên niên kỷ II trước Công nguyên, đã có hợp kim
đồng – thiếc.
Trong cuốn chuyên khảo về văn hóa Phùng Nguyên, Hoàng Xuân Chinh cũng
thiên về ý kiến Phùng Nguyên sớm hơn Gò Bông.
5


Qua niên đại đại tuyệt đối thì một số địa điểm ở văn hóa Phùng Nguyên có số
niên đại C14 :
-

1 niên đại C14 của di chỉ Đồng Đậu (lớp dưới) ở độ sâu 4m cho tuổi

3328 ± 100 năm cách ngày nay (tính từ 1950). Đây được coi là niên đại giai đoạn
kết thúc của văn hóa Phùng Nguyên, tương đương giai đoạn mở đầu của văn hóa
Đồng Đậu.
1 niên đại C14 ở Đồng Chỗ (Hà Tây), địa điểm thuộc giai đoạn cuối Gò
Bông, đầu Phùng Nguyên, 3800 ± 60 năm cách ngày nay (Bln – 3081) (Hà Văn
Tấn, 1997 :538-541).
Mới đây, đã có một số phát hiện niên đại AMS của hai địa điểm Xóm Rền và
Gò Hội, kết quả như sau :
+ Mẫu Xóm Rền 1 (02XRH2L2A6), than lấy ở đáy lớp 2 cho kết quả 3450
± 60BP.
+ Mẫu Xóm Rền 2 (02XRH2AB1), than lấy ở gần mộ 2 cho kết quả 3770 ±
60BP.

+ Mẫu Xóm Rền 3 (02XRH2B4), than lấy ở đáy lớp 2 cho kết quả 3360 ±
40BP.
Như vậy, dựa vào những niên đại C14 và AMS thì có thể cho rằng văn hóa
Phùng Nguyên có niên đại mở đầu từ cuối thiên niên kỷ III trước Công nguyên –
đầu thiên niên kỷ II trước Công Nguyên và kết thức vào khoảng nửa đầu thiên niên
kỷ II trước Công nguyên.

6


CHƯƠNG 2
NHỮNG ĐẶC TRƯNG VỀ VĂN HÓA
1. Các loại đặc trưng
1.1. Đồ gốm
Khi quan sát tổng thể hiện vật trong các di chỉ, mộ táng văn hóa Phùng
Nguyên chúng ta đã thấy kỹ thuật chế tác gốm ở đây rất là tinh xảo về cả loại hình
chất liệu lẫn hoa văn.
Đồ gốm là tiêu chí quan trọng nhất giúp các nhà nghiên cứu Việt Nam xếp
văn hóa Phùng Nguyên vào phạm trù thời đại đồng thau, dù trong các địa điểm
văn hóa Phùng Nguyên vẫn chưa thấy hiện vật bằng đồng.
Trong các địa điểm Phùng Nguyên, đồ gốm thường được phát hiện với một số
lượng rất lớn nhưng vụn, nát nên khó phục dựng hình dạng. Thông thường trong
các di chỉ, lượng gốm lên tới hàng vạn mảnh như Phùng Nguyên: 112.928 mảnh
gốm và 2.496 cục đất nung; Gò Bông: hơn bốn vản mảnh trên diện tích khai quật
chưa đầy 200m2.
Chất liệu gốm Phùng Nguyên: Ba loại chính: gốm mịn, gốm thô và gốm rất
thô. Trong loại gốm thô còn có thể tách ra loại hình gốm xốp.
Gốm Phùng Nguyên cũng như gốm trong hệ thống gốm Phùng Nguyên Đông Sơn thời đại kim khí Bắc Việt Nam đều được làm bằng đất sét có pha thêm
cát, diệp thạch đá vôi nghiền nhỏ, chất hữu cơ… Việc pha chất phụ gia không dẻo
vào đất sét dẻo để chế luyện thành thứ nguyên liệu đủ độ chuẩn tạo hình. Theo một

số nhà nghiên cứu đã chứng tỏ thợ gốm xưa đã biết rõ những thuộc tính vốn cỏ của
đất sắt: tính dẻo, tính co và tính chịu lửa.
Góm mịn trong hệ thống văn hóa Phùng Nguyên lần đầu tiên được tìm thấy ở
di chỉ Gò Bông – một di chỉ thuộc giai đoạn đầu của văn hóa Phùng Nguyên. Loại
gốm này có màu nâu, nâu hồng, xám hay xám nhạt với những họa tiết khảm bột
7


trắng ở giai đoạn Gò Bông, mất dần ở các giai đoạn sau và không thấy ở các văn
hóa sau Phùng Nguyên. (Hán Văn Khẩn 1994: 43).
Loại gốm thô chiếm số lượng lớn, gồm đủ các loại hình với nhiều kích thước
và màu sắc khác nhau, tồn tại trong quá trình phát triển của văn hóa Phùng
Nguyên.
Loại gốm rất thô có số lượng không đáng kể, thường có màu xám hơi nâu,
xám tro, pha nhiều cát kích thước lớn. Trên bề mặt gốm, ở nhiều mảnh (kể cả loại
mịn và thô) có sự trau chuốt làm cho gốm bóng nhẵn. Vì vậy, có thể nói một số
gốm Phùng Nguyên có lớp áo mỏng mịn, đất làm áo gốm không khác đất làm
xương gốm. Sự khác nhau chỉ ở chỗ: đất làm áo gốm được chọn lọc kỹ nên mịn hạt
hơn (Hán Văn Khẩn 1996: 67).
Ở một số địa điểm còn thấy gốm xốp và được coi là sự chịu ảnh hưởng của
yếu tố văn hóa biển (văn hóa Hạ Long). Một số người khác cho rằng gốm xốp là
chỉ định về niên giai đoạn cuối của văn hóa Phùng Nguyên. Ở địa điểm Xóm Rền
(Phú Thọ) cũng đã tìm thấy gốm xốp.
Màu sắc: Gốm Phùng Nguyên thường bị tạp sắc như màu nâu xám đỏ nhạt,
xám đen.
Độ nung: Độ nung của gốm Phùng Nguyên qua phân tích một số mẫu cho
thấy dao động trong khoảng từ 600 đến 8000C và có thể được nung theo phương
thứcnung trong hố hở ngoài trời (Phạm Lý Hương, 1994: 34).
Kỹ thuật: Gốm được chết tạo bằng phương pháp bàn xoay (ty, chân), bên cạnh
đó còn có nặn tay, chắp gắn, ghép… Bàn xoay kết hợp nặn tay.

Loại hình đa dạng, phong phú gồm hai loại chính: loại đồ đun nấu và loại đồ
đựng. Dồ đun nấu thường có đáy tròn, thân hình cầu, miệng rộng, nhiều dáng kiểu
loe hay hơi khum. Đồ đựng gồm các loại bát, đĩa sâu lòng, bát đồng, bình, thố,
vò… Hầu hết đồ đựng đều được gắn chân đế. Đồ đựng đa dạng về kích thước, loại
nhỏ có đường kính miệng từ 5 đến 10cm, loại lớn và trung bình ở đường kính
8


miệng từ 30 đến 50-60cm. Trong văn hóa Phùng Nguyên còn có đồ gốm có đường
kính miệng lớn, thành mỏng, miệng dày. Loại này không nhiều, song rất đặc trưng,
không gặp ở những trung tâm văn hóa khác.
Trong gốm văn hóa Phùng Nguyên phổ biến các đồ đựng có chân đế. Độ cao
của chân đế phần nhiều từ 3cm trở lên. nhiều chân đế có trang trí hoa văn. Đáng
chú ý là những chân choãi, kiểu mâm bồng hoặc gấp khúc. Theo một số người, đây
là chân đế của loại hình mang tính nghệ thuật nhiều hơn là thực dụng.
Loại hình chạc gốm (chân giò, vật hình cốc): Chưa xác định được chức năng
cụ thể và được gọi bằng nhiều tên khác nhau. Thường được làm bằng gốm thô,
dày, độ nung thấp. Một số có trang trí văn khắc vạch, văn thừng.
Những khai quật gần đây ở Xóm Rền (Phú Thọ), Gò Hội (Vĩnh Phúc) và một
số địa điểm khác…cho thấy loại hình gốm Phùng Nguyên rất đa dạng. Điển hình
của gốm Phùng Nguyên có thể kể đến thố, muôi có cán đầu bẻ gập, bình có quai,
chân giò, bát đồng, bát các loại, tượng, vòng gốm có mặt cắt hình tang trống…
Tượng gà bằng đất nung, tượng rùa hay người ở Xóm Rền, tượng đầu trâu và vật
hình sừng trâu bằng đất nung ở Gò Hội…
Trang trí:
Trong gốm Phùng Nguyên có tỷ lệ lớn mảnh có trang trí hoa văn, văn thừng
văn chải chiếm số lượng cao.
Gốm Phùng Nguyên nổi tiếng về những đồ án hoa văn đẹp, đa dạng, pjhong
phú. Nhiều nhà nghiên cứu đã dựa ào thủ pháp trang trí, hình loại hoa văn, hình
gốm để phân chia giai đoạn trong văn hóa Phùng Nguyên (Hán Văn Khẩn, 1976: 5

– 22). Đã có những nghiên cứu chuyên sâu về hoa văn gốm và từ đó nghiên cứu về
mỹ cảm, nhận thức, tư duy chính xác hình học của người Phùng Nguyên (Hà Văn
Tấn, 1997: 542 -568).

9


Hoa văn đặc trưng cơ bản là khắc vạch kết hợp văn đập, in lăn, chấm dải, in
các loại với các họa tiết phức tạp. Loại này chiếm tỷ lệ không lớn, song rất Phùng
Nguyên và là đỉnh cao của thẩm mỹ.
Đặc trưng đầu tiên của hoa văn khắc vạch Phùng Nguyên là trang trí theo
băng dải, khắc vạch kết hợp in chấm, in lăn bằng cách dùng một que nhiều răng,
hay dùng một con lăn có khắc ô nhỏ nổi. Các băng dải này thường có kết cấu khá
phức tạp, những họa tiết hình chữ S cong đều. Hoa văn chữ S rất phong phú trong
văn hóa Phùng Nguyên với nhiều biến thể (hơn 20 kiểu khác nhau).
Những đồ án hoa văn khắc vạch có hình dáng lạ kết hợp in chấm đã xuất hiện
nhiều trong gốm Phùng Nguyên và cũng chỉ có ở văn hóa Phùng Nguyên. Điển
hình như ở địa điểm xóm rền, An Đạo, Nghĩa Lập… Đó là đồ án phảng phất chữ S
cách điệu khá lạ với các đầu nối giữa các chữ S nằm ngang lõm hẳn lại vòng các
dấu đệm dạng tam giác cách điệu hay dâu ấn tròn phóng khoáng. Phổ biến hơn cả
là kiểu trang trí hình tam giác đối xứng hoặc ngược chiều nhau, rời nhau, góc nhọn
hay tròn với các đường uốn lượn đa dạng bên trong tam giác có in lăn tạo thành
một khối hoa văn khép kín hay hở đã được coi như loại hoa văn tiêu biểu cho văn
hóa Phùng Nguyên (Hà Văn Tấn, 1997: 9-12, 21, 28-29).
1.2. Đồ đá
Công cụ sản xuất của cư dân Phùng Nguyên chủ yếu làm bằng đá. Kỹ thuật
chế tác đá của người Phùng Nguyên đạt tới đỉnh cao. Hầu như toàn bộ công cụ và
đồ trang sức bằng đá đều được mài nhẵn, kích thước nhỏ nhắn, đa dạng và tính tế,
được chế tác từ các loại đá quý hiếm, độ rắn cao, màu sắc đẹp như trắng, nâu, đỏ,
lam, nâu đen, vàng gan gà… Các kỹ thuật chế tác như ghè, đẽo, cưa, khoan, mài,

tiên… là những kỹ thuật có mặt đầy đủ trong quá trình chế tác đồ đá của người
Phùng Nguyên, đồng thời đã đạt tới một trình độ điêu luyện cao.
Loại hình công cụ sản xuất bằng đá:
Bôn đá hình tứ giác (có lưỡi vát lệch một bên) chiếm số lượng nhiều nhất. Rìu
tứ giác có lưỡi cân xứng ít. Bôn tứ giác dài trung bình 6 – 7cm, rộng trung bình 3 –
10


4cm, dày trung bình 1 – 2cm. Cuộc khai quật Phùng Nguyên cả ba đợt có số lượng
bôn là 531 chiếc, rìu tứ giác lưỡi vát đều hai bên là 246 chiếc. (Hoàng Xuân Chinh,
Nguyễn Ngọc Bích, 1978:52).
Ở Gò Bông đa tìm thấy 44 chiếc bôn trên 4 rìu đá…
Trong số bôn đá, có một số lượng không nhỏ bôn có kích thước nhỏ, mỏng
dài trung bình 1,8-2,5cm, rộng 1,5-2cm, dày 0,3-0,5cm, góc lưỡi 30-400, nhiều
chiếc chiều dài bằng chiều rộng,
Rìu đá tứ giác, mặt cắt ngang hình tứ giác, kích thước nhỏ. Loại có kích thước
lớn hơn cũng chỉ dài trung bình 6 - 7cm, rộng 4 – 5cm, dày 1,5 – 2cm. Trên thân có
một số rìu, còn sót lại các dấu vết ghè, đẽo hoặc mẻ sứt trong quá trình chế tác và
sử dụng. Đa số rìu Phùng Nguyên đều có góc lưỡi sắc (40 – 500).
Trong các địa điểm văn hóa Phùng Nguyên còn gặp loại rìu đá được chế tác
bằng Nephrite màu trắng đục, trăng vân hồng, vân xanh. Kích thước nhỏ, dài trung
bình 3cm, rộng gần 2cm, dày 0,5cm. Cá biệt có loại rất bé, giống như đồ trang sức.
Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng, đây là công cụ của nghề thủ công chạm khắc, đan
lát tre gỗ nứa, nhẹ nhàng, tỉ mỉ.
Những loại hình công cụ đá khác trong tổ hợp hiện vật đá văn hóa Phùng
Nguyên hậu kỳ còn tìm thấy nhiều đục nhỏ được làm từ mảnh vòng, mảnh đá có
dấu cưa, các đầu mẩu rìu bị vỡ đá, liềm đá, cưa đá, mũi khoan đá, mũi lao, mũi
giáo, mũi tên ba cạnh, mũi tên hai cạnh…
Hiện vật đá khác có bàn mài, hòn kê, hòn đập, bàn đập, dấu Bắc Sơn…
Đồ trang sức: Đồ trang sức bằng đá được sử dụng rất phổ biến trong đời sống

của cư dân Phùng Nguyên. Ví dụ tại Phùng Nguyên có 600 tiêu bản đồ trang sức
trên 4000 di vật đá. Sự hình thành và phát triển của những công xưởng như Bãi Tự,
Tràng Kênh, Gò Chè chuyên sản xuất, chế tạo đồ trang sức bằng đá cho thấy năng
lực thẩm mỹ và nhu cầu đời sống tinh thần của cư dân Phùng Nguyên đã ở trình độ
cao.
11


Loại hình: Vòng đá với nhiều kiểu mặt cắt: chữ nhật, vuông, tròn bán nguyệt,
thấu kính… đặc biệt là kiểu mặt cắt hình chữ T, xung quanh có những đường gờ
tiện nổi song song.
Khuyên tai, nhẫn có mặt cắt hình vuông, hình tròn, hình bán nguyệt. Nhiều
tiêu bản nhẫn được chế tác từ loại đá đen sẫm, bóng và cứng như sừng. Loại
khuyên tai mỏng, hình vuông có bốn mấu trong văn hóa Phùng Nguyên được coi là
hình thức đầu tiên của các loại khuyên tai có mấu ở Đông Nam Á.
Hạt chuỗi hình ống là một loại đồ trang sức phổ biến trong các địa điểm
Phùng Nguyên. Chính ở loại hình này có thể thấy những kỹ thuật chế tác đá điêu
luyện của người Phùng Nguyên.
Vật đeo hình đầu thú, hình đuôi cá được chế tác tỉ mỉ và cẩn thận từ các loại
đá làm đồ trang sức, được một số nhà nghiên cứu cho rằng có liên quan đến tín
ngưỡng. Những người khác thì lại coi là đồ trang sức đươn thuần.
Tượng: Tại đợt điều tra di chỉ khảo cổ học Văn Điển năm 1966 đã tìm thấy 1
tượng người đàn ông bằng đá, tượng đã bị gãy phần chân, chiều dài còn lại từ đầu
đến gối là 3,6cm. Đầu to, hai mắt là hai lỗ tròn, sống mũi nhô cao. Đỉnh đầu có vết
của một vòng tròn, có lẽ dùng để buộc dây đeo tượng. Tượng làm bằng đá Quắc
dít, hạt mịn được mài nhẵn bóng (Trịnh Cao Tưởng, Trịnh Sinh, 1982: 107)
Tượng gà bằng đất nung, tượng rùa hay người ở Xóm Rền, tượng đầu trâu và
vật hình sừng trâu ở Gò Hội.
1.3. Đồ đồng


Hiện vật đồng thau định hình chưa tìm thấy trong ác địa điểm văn hóa Phùng
Nguyên, song cư dân Phùng Nguyên đã biết đến nghề luyện đồng. Trong một số di
chỉ Phùng Nguyên đã tìm thấy nhưunxg cục đồng nhỏ, gỉ đồng và xỉ đồng. Ví dụ ở
Gò Bông, khai quật năm 1965 và 1967 đã tìm thấy những cục đồng nhỏ, gỉ đồng và
xỉ đồng ở các độ sâu khác nhau. Đến độ sâu 1,3m vẫn tìm thấy gỉ đồng. Kết quả
phân tích quang phổ của một trong số những cụ đồng đã cho thấy đây là một hợp
12


kim gồm đồng, thiếc và một số vết bạc. Đây là đồng thau chứ không còn là đồng
nguyên chất nữa (Hà Văn Tấn, 1997: 455).
Gỉ đồng còn được tìm thấy ở Gò Đồng Xấu, Lũng Hòa, mảnh khuôn đúc đồng
bằng đất nung được tìm thấy ở Chùa Gio.
Như vậy, do nhiều nguyên nhân, giai đoạn đầu của thời đại đồng thau, chưa
tìm thấy công cụ. Đây không phải chỉ là tình hình ở Việt Nam mà còn cả trên thế
giới. Trong văn hóa Phùng Nguyên đã có những chứng cứ gián tiếp về sự tồn tại và
sử dụng công cụ đồng. Như các hiện vật đá – bản sao của những hiện vật đồng
cùng thời (ví dụ: qua bằng đá ở Lũng Hòa). Dấu vết của mũi khoan kim khí trên
những hạt chuỗi ở địa điểm Phùng Nguyên, Gò Bông… Ngoài ra, kỹ thuật chế tác
đá cũng như kỹ thuật chế tác gốm đã rất cao. Đồ gốm làm bằng bàn xoay, trong
hoa văn trang trí đã xuất hiện những yếu tố giống hoa văn thời đại đồng thau, điển
hình là sưu tập gốm Xóm Rền khai quật năm 2002.
Những vết tích kim loại đầu tiên trong các di chỉ Phùng Nguyên đã là sản
phẩm hợp kim cao cấp (đồng – thiếc), chứ không phải là dạng khởi thủy (đồng đỏ).
Về niên đại, người Phùng Nguyên có đồng muọn hơn một số vùng khác trên thế
giới đến vài thiên niên kỷ.
Theo một số nhà nghiên cứu, nguồn gốc kim loại sớm ở Việt Nam có khả
năng là sản phẩm của giao lưu văn hóa. Đúng ra là sự giao lưu kỹ thuật. cách đúc
và có thể ban đầu là cả nguyên liệu nữa có được do ảnh hưởng của trung tâm văn
hóa khác.

1.4. Táng thức
Cho đến nay đã tìm thấy một số mộ táng văn hóa Phùng Nguyên ở Xóm Rền
(Phù Ninh – Phú Thọ), ở Khu Đường (Lâm Thao – Phú Thọ). Người chết được
chôn trong hố nông ở lớp đất cái - đáy của di chỉ. Người chết được đặt nằm ngửa,
chân tay duỗi thẳng. Không tìm thấy đồ gốm tùy táng, chỉ có đồ trang sức. Người
đàn ông ở Xóm Rền đeo một đôi khuyên tai đá. Ở Lũng Hòa (Vĩnh Phúc), người
chết được chôn trong những mộ huyệt đất sâu từ 0,9m đến 5,2m. Có những huyệt
13


có bậc ở thành. Trong mộ. chôn theo nhiều đồ gốm, đồ trang sức và công cụ đá.
Ngoài ra, còn tìm thấy xương hàm lợn trong mộ. Trong mộ xóm Rền khai quật đợt
I có chôn theo rìu đá. Những mộ táng ở Đình Chiền, Gò Hội, Bãi Mèn cho thấy có
thể là chôn nằm co, chôn bó gối. Tuy vậy, vết tích xương rất hiếm gặp ở những địa
điểm nói trên, do vậy chưa rõ táng thức cụ thể nào gắn với lối chôn mộ trê…
Trong một số mộ táng, đã phát hiện một số ít xương cố, song bị vỡ nát và vì
vậy không đủ tư liệu nhân học để nhận thức đầy đủ về thể chất người Phùng
Nguyên. Đây là nguyên nhân của những tranh luận về chủng tộc của người Phùng
Nguyên.
Khi nghiên cứu những xương đùi và xương sên tìm thấy trong mộ táng Lũng
Hòa, Nguyễn Quang Quyền và Nguyên Lân Cường đã đi đến kết luận: Người cổ ở
đây có đặc trưng của đại chủng Ôxtralô – Nêgrôít (Nguyễn Quang Quyền và
Nguyễn Lân Cường, 1968: 154 - 163). Hà Văn Tấn lại cho rằng di cốt chủ nhân
văn hóa Phùng Nguyên ở Xóm Rền có răng cửa hình xẻng rất rõ. Một số đặc điểm
khác của răng người cổ Xóm Rền cũng gần gũi với nhóm Môngôlôit. Như vậy, chủ
nhân văn hóa Phùng Nguyên thuộc loại hình Anhđônêdiêng, một loại hình trong
ngành Môngôlôit phương Nam, vừa có những đặc trưng của đại chủng Môngôlôit,
vừa có những đặc trưng của đại chủng Ôxtralô – Nêgrôit. Người Anhđônêdiêng
Phùng Nguyên có thể mang nhiều đặc điểm Môngôlôit hơn và gần với Nam Á hơn
(Hà Văn Tấn, 1997: 482 – 485)


14


CHƯƠNG 3
CUỘC SỐNG CỦA NGƯỜI PHÙNG NGUYÊN
Môi trường sinh thái của người Phùng Nguyên là vung đồng bằng cao, cận kề
các con sông, suối. Điều kiện tự nhiên đã đem lại nhiều thuận lợi để người Phùng
Nguyên tồn tại và phát triển.
Sự phát triển của kỹ thuật, nhất là kỹ thuật chế tác công cụ đá, và đặc biệt là
luyện kim đồng giúp cho người Phùng Nguyên không ngừng vươn lên, mở rộng
giao lưu văn hóa.
Người Phùng Nguyên thường định cư trên sườn các đồi thấp, các gò đất cao
ven sông, nổi lên giữa cánh đồng… mỗi đơn vị cư trú là một “làng”. Người Phùng
Nguyên từng định cư lâu dài để sản xuất nông nghiệp. Châu thổ sông hồng đang
hình thành, người phùng nguyên đã chiếm lĩnh và khai phá. Điều kiện đất đai phì
nhiêu, màu mỡ của châu thổ sông Hồng tạo điều kiện để cư dân Phùng nguyên
phát triển kinh tế nông nghiệp.
1. Nông Nghiệp
Người Phùng Nguyên là cư dân nông nghiệp. Di chỉ Phùng Nguyên nằm ven
sông Thao, đất đai màu mỡ, hằng năm được phù sa bồi đắp làm cho đất đai phì
nhiêu, thuận lợi cho nền nông nghiệp trồng lúa nước. Di chỉ Phùng Nguyên rộng
hàng vạn mét vuông, tầng văn hóa đầy mảnh gốm, dấu vết của sự định cư lâu dài là
tiền đề quan trọng cho việc phát triển nông nghiệp.
Qua việc phân tích bào tử phấn hoa ở Tràng Kênh thì một địa điểm có trình độ
và hoàn cảnh tương tự Phùng Nguyên đã cho thấy ngoài bầu bí, đã có hạt Ô-ri-da
(Oryza). sự có mặt đấy đã khiến nhiều người cho rằng lúa nước đã được trồng ở
Tràng Kênh.

15



Người Phùng Nguyên còn sống trong giai đoạn nông nghiệp dùng cuốc, dùng
gậy chộc lỗ. Phải chăng người Phùng Nguyên đã dùng những rìu đá loại công cụ
phát hiện được nhiều nhất ở đây, để chặt cây là rừng ?
Tuy công cụ và phương pháp canh tác còn thô sơ, song nhờ đất đai phì nhiêu,
sẵn nước tưới, nên nông nghiệp đã phát triển, trở thành nguồn cung cấp lương thực
chủ yếu cho con người ở di chỉ Phùng Nguyên. Bên cạnh đó còn có công cụ thu
hoạch và các dâu vết hạt gạo đã được tìm thấy ở đây góp chút phần nào vào việc
hoạt động nông nhiệp.
2. Chăn nuôi
Qua việc phát hiện được xương răng động vật nhưng phát hiện được không
nhiều, song quả số lượng xương răng cũng như tượng động vật phát hiện được ở
các địa điểm khác cùng trình độ với Phùng Nguyên, như ở các di chỉ Lũng Hòa,
Đồng Đậu (lớp 4), Xóm Rền … đã chứng tỏ cho ta thấy được một điều rằng cư dân
Phùng Nguyên đã biết chăn nuôi các loại gia súc như gà, chó, lơn,…
Bên cạnh đó thì nghề săn bắt vẫn được tồn tại ở một trình độ nhất định, ở
Phùng Nguyên đã phát hiện ra mũi tên và mũi lao đá. điều đó cho ta thấy thì đó là
vũ khí săn mồi của cư dân Phùng Nguyên lúc bấy giờ ? Những doi đất cao ở trên
đồi đất xung quanh di chỉ Phùng Nguyên ngày nay thì còn có tên là là rừng Sau
Chùa, rừng Giỏ, rừng Ma Sặt… lúc đấy còn là rừng cây rậm rạp, nơi ẩn náu của
các loài thú như Hưu nai, hoãng, nhím, cầy, cáo, lợn rừng… Chúng là đối tượng
săn bắn chủ yếu của người Phùng Nguyên lúc bấy giờ.
Chăn nuôi và săn bắt là nguồn cung cấp thực phẩm chủ yếu cho người Phùng
Nguyên. Chúng là những ngành kinh tế phụ bên cạnh nghề nông.
Ngoài ra thì do điều kiện tự nhiên mà cư dân Phùng Nguyên cư trú tại các
dòng sông và suối nên việc đánh bắt thủy sản đã có lúc bấy giờ qua việc tìm thấy
được các chì lưới bằng đá trong di chỉ Phùng Nguyên đã thấy phần nào là hoạt
động đánh cá bằng lưới. Ngoài ra còn tìm thấy xương cá còn lại ở trong các tầng
văn hóa.

16


3. Thủ công nghiệp
Cùng với sự phát triển của nông nghiệp,, các ngành thủ công nghiệp cũng
được hình thành và không ngừng phát triển.
Sớm hơn cả là nghề làm đồ đá. Người Phùng Nguyên đã đưa kỹ thuật chế tác
đá lên đỉnh cao mà các giai đoạn trước và sau đó đều không thể vượt qua. Đồ đá
lúc bấy giờ không những số lượng nhiều, loại hình phong phú, kiểu dáng đẹp đẽ,
mà có thể nói người Phùng Nguyên đã sử dụng các loại kỹ thuật cưa, khoan, mài
một cách thành thạo. Họ sản xuất thành công những hiện vật đòi hỏi một trình độ
kỹ thuật cao, một tay nghề thành thạo. Cách Phùng Nguyên không xa có công
xưởng Gò Chè (Tam Nông, Vĩnh Phú).
Nghề làm đồ gốm ở Phùng Nguyên rất tiến bộ, bởi vì ở Phùng Nguyên có
những cư dân là những thợ gốm rất giỏi và tài năng. Họ không những nắm được kỹ
thuật pha trộn, nhào nặn đất, kỹ thuật nung gốm, mà thành tựu cao nhất lúc bấy giờ
là đã biết sử dụng bàn xoay để nặn hình và trang trí hoa văn.
Với bàn xoay, người thợ gốm Phùng Nguyên không những nặn được nhiều
loại hình đồ gốm khác nhau, mà còn sản xuất ra hàng loạt đồ gốm, đáp ứng cho
nhu cầu lúc bấy giờ. Tài năng người thợ gốm Phùng Nguyên có thể hiện trong việc
sáng tạo và trang trí hoa văn.
Với sự xuất hiện bàn xoay, nghề làm đồ gốm Phùng Nguyên đã trở thành một
ngành thủ công nghiệp hẳn hoi và đầy đủ ý nghĩa của nó.
Bên cạnh các ngành thủ công quan trọng đó, để thỏa mãn nhu cầu cuộc sống
hằng ngày, người Phùng Nguyên còn biết một số nghề khác như đan lát, xe sợi,
nghề mộc…
Dấu hiệu của việc đan lóng mốt, lóng hai được xác nhận qua các dấu vết trên
đồ gốm. các loại vải không thể còn tồn tại đến ngày nay nhưng các loại dọi se sợi
được tìm thấy nhiều trong các di tích. Không loại trừ khả năng vải sợi được in trên


17


đồ gốm mà dấu vết là các “hoa văn in dấu vải” như một nhận xét về hoa văn đồ
gốm Gò Bông.
4. Đời sống sinh hoạt
Trên cơ sở nền kinh tế nông nghiệp phát triển, đời sống cư dân Phùng Nguyên
được nâng cao dần, cái đẹp trở thành một nhu cầu không thể thiếu được đối với họ.
Người Phùng Nguyên không chỉ lo cái ăn cái mặc, mà còn chú ý làm cho cuộc
sống thêm phong phú, thêm đẹp. Số lượng vòng trang sức phát hiện ở đây cũng
đue nói lên mối quan tâm đến trang điểm cho con người thêm đẹp của họ lúc bấy
giờ. Ở Phùng Nguyên, số vòng trang sức lên đến hàng mấy trăm, và chỉ kém số
lượng rìu mà thôi. Càng có ý nghĩa hơn, khi chúng ta biết rằng đồ trang sức ở đây
gồm đủ loại đủ cỡ, từ vòng tay, hoa tai đến chuỗi, mà kiêu dáng thì muôn hình,
muôn vẻ, và để làm ra những đồ trang sức rất bình thường của họ, họ đã phải bỏ ra
không ít thời gian.
Cư dân Phùng Nguyên là những người có khiếu thẩm mỹ cao. Những cảm
xúc về cái đẹp của họ được thể hiện qua đồ gốm, đồ đá Phùng Nguyên nhỏ nhắn,
cân xứng, xinh xắn. Người Phùng Nguyên rất chú ý đến hình dáng. Riêng vòng
trang sức cũng có tới gần 10 loại khác nhau. Bên cạnh đó thì người Phùng Nguyên
cũng chú trọng đến màu sắc. Vòng trang sức Phùng Nguyên đúng muôn màu muôn
vẻ. Từ những vòng màu trắng ngà, vàng nhạt như ráng chiếu, đến những màu xanh
lơ, màu da trời hoặc xanh thẫm màu nước biển… làm chúng ta có cảm giác giống
vòng ngọc, vòng nhựa ngày nay.
Đồ gốm của người Phùng Nguyên có thể là những dụng cụ đun nấu hoặc là
những đồ đựng hằng ngày của họ
Bên cạnh đó thì ta có thể thấy được cư dân Phùng Nguyên đã biết đến đối
xứng qua việc họ làm đồ gốm một cách rất cân xứng và bền đẹp. Đó cũng là sự
quan sát các hiện tượng sự vật trong thiên nhiên và xung quanh họ trong họ đã dần
dần hình thành lên khái niệm về đối xứng.

18


Với các quy luật trang trí hoa văn theo lối quay tròn, lặp đi lặp lại một họa tiết
quanh thân đã phản ánh cho chúng ta thấy rằng sự tuần hoàn của cuộc sống mà
người Phùng Nguyên thấy được đó là: ngày và đêm, nóng và lạnh, bốn mùa xuân
-hạ - thu - đông, con người sinh ra và chết đi…
Bên cạnh đó thì nhận thức của người Phùng Nguyên về thế giới xung quang
và cuộc sống cũng có tín ngưỡng. Có lẽ rằng là do người Phùng Nguyên là cư dân
nông nghiệp nên đã có sự sùng bái các lực lượng tự nhiên như mặt trời, mặt trăng,
mưa năng, gió, bão, cây cối…
Ngoài ra còn có các ngôi mộ chon theo hiện vật ở Xóm Rền, Khu Đường, và
đặc biệt là khu mộ Lũng Hòa, chúng tỏ người Phùng Nguyên đã có những quan
niệm về sự sống và sự chết.
Ngoài ra còn tìm thấy pho tượng đàn ông đã được tìm thấy ở Văn Điền đã
cũng nói lên địa vị của người đàn ông lúc bây giờ ở trong xã hội.

19


KẾT LUẬN
Cuộc khai quật các di vật ở di chỉ Phùng Nguyên của các nhà nghiên cứu đã
mở ra một giai đoạn tìm kiếm khảo cổ học ở nước ta đặc biệt là ở vùng trung du và
Bắc Bộ nước ta. Đã tạo tiền đề để tìm ra các nền văn hóa sau này đó là di chỉ văn
hóa Đồng Đậu và Gò Mun ở nước ta vì các giai đoạn này đều nằm trong giai đoạn
Đồng Thau của nước ta đó cũng là những giai đoạn tiêu biểu ngoài ra thì cũng có
hàng mấy chục địa đuêmr khảo cổ lần lượt đã được phát hiện, nhiều văn hóa khảo
cổ của nước ta đã đưuọc biết đến.
Qua việc khải quật đó thì đã phát hiện ra rất nhiều di vật rất là phong phú và
độc đáo, hàng ngàn hiện vặt được tìm kiếm bằng đá, bằng gốm, bằng xương và

hàng vạn mảnh gốm đã thu lượm được ở đây là nguồn sử liệu rất là phong phú để
có thể tìm về nguồn cội nước nhà từ mấy ngàn năm trước.
Vết tích cuộc sống của con người Phùng Nguyên đã để lại rất nhiều dấu tích
nhưng mà không có ai biết đến được nhà cửa của họ với lò gốm của người Phùng
Nguyên như thế nào hết, nhưng mà cư dân Phùng Nguyên đã đưa kỹ thuật chế tác
đá lên đỉnh cao, đã chế tạo đồ gốm bằng phương pháp bàn xoay.
Văn hóa Phùng Nguyên nó không những khẳng định được một nền văn hóa
khảo cổ mới mà còn góp phần vào việc chứng minh tính chất bản địa và nguồn gốc
của nền văn hóa Đông Sơn.
Văn hóa Phùng Nguyên không chỉ dừng ở đó mà có thể các nhà nghiên cứu sẽ
tìm hiểu kỹ hơn về di chỉ Phùng Nguyên.

20


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hoàng Xuân Chinh – Nguyễn Ngọc Bích (1978), Di chỉ khảo cổ học
Phùng Nguyên, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
2. Lâm Thị Mỹ Dung (2004), Thời đại đồ đồng, NXB Đại học quốc gia Hà
Nội. Hà Nội.
3. Hà Văn Tấn (1998), Theo dấu các văn hóa cổ, NXB Khoa học xã hội, Hà
Nội.
4. Hán Văn Khẩn (2011), Cơ sở khảo cổ học, NXB Đại học quốc gia Hà Nội,
Hà Nội.
5. Phạm Văn Đấu – Phạm Võ Thanh Hà (2010), Các nên văn hóa tiêu biểu ở
Việt Nam, NXB Văn hóa – Thông tin, Hà Nội.

21




×