VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC TRONG LỊCH SỬ CÁC HỌC THUYẾT
KINH TẾ VÀ SỰ VẬN DỤNG VÀO PHÁT TRIỂN KINH TẾ THỊ
TRƯỜNG Ở VIỆT NAM
MỞ ĐẦU
Lịch sử xã hội loài người đã và đang trải qua năm hình thái kinh tế xã hội,
tương ứng với mỗi hình thái kinh tế xã hội là một phương thức sản xuất nhất
định gắn với điều kiện lịch sử cụ thể, cho nên trong quá trình phát triển kinh tế
xã hội cũng đã xuất hiện những tư tưởng kinh tế, học thuyết kinh tế khác nhau.
Với mỗi trường phái kinh tế đều có những đặc điểm lý luận riêng, được quy
định bởi phương pháp luận và bị chi phối bởi hoàn cảnh lịch sử kinh tế từng giai
đoạn. Khi phương thức sản xuất TBCN manh nha xuất hiện cùng với nó là sự
phát triển mạnh mẽ của nền sản xuất hàng hóa, các quan niệm về vai trò của nhà
nước trong nền kinh tế thị trường là sự tranh luận gay gắt của nhiều trường phái
kinh tế, nhưng tựu trung lại có hai quan điểm cơ bản đó là; Nhà nước có can
thiệp hay không can thiệp vào sự vận động và phát triển của nền kinh tế và nếu
có can thiệp thì can thiệp mức độ nào. Phân tích, đánh giá các quan điểm kinh tế
về vai trò của nhà nước trong nền kinh tế từ đó rút ra những ưu điểm và hạn chế
để vận dụng vào quá trình phát triển kinh tế ở nước ta hiện nay có ý nghĩa vô
cùng to lớn.
NỘI DUNG
1. Các quan điểm cơ bản về vai trò của nhà nước trong nền kinh tế thị
trường của các học thuyết kinh tế tư sản.
1.1. Quan niệm về vai trò của nhà nước trong lí luận của chủ nghĩa
trọng thương.
Chủ nghĩa trọng thương là tư tưởng kinh tế đầu tiên của giai cấp tư sản
trong giai đoạn phương thức sản xuất tư bản mới ra đời, đang chuyển từ nền
kinh tế sản xuất hàng hóa giản đơn sang nền kinh tế thị trường. Đây cũng chính
là giai đoạn tích lũy nguyên thủy của chủ nghĩa tư bản. Với họ việc tích lũy tiền
tệ có vai trò và ý nghĩa hết sức quan trọng, coi tiền là thước đo của sự giàu có và
để tích lũy tiền phải thông qua thương mại mà trước hết là ngoại thương cho nên
họ rất đề cao vai trò can thiệp của nhà nước vào các hoạt động kinh tế nhằm thúc
đẩy quá trình tích lũy tiền cho quốc gia mà trực tiếp hơn là cho các nhà tư bản
1
thương nghiệp. Theo trường phái trọng thương muốn có nhiều tiền phải dựa vào
ngoại thương và trong ngoại thương phải bảo đảm nguyên tắc xuất siêu, tiền bán
hàng hóa ra nước ngoài phải nhiều hơn tiền mua hàng hóa ở nước ngoài và để có
xuất siêu thì nhà nước phải sử dụng các công cụ can thiệp vào nền kinh tế để
khuyến khích xuất khẩu đồng thời hạn chế và thậm chí cấm nhập khẩu. các biện
pháp can thiệp của Nhà nước như; thực hành chế độ thuế quan bảo hộ nhằm
kiểm soát nhập khẩu, khuyến khích xuất khẩu và bảo vệ hàng hóa sản xuất trong
nước, bảo hộ sự phát triển của các xí nghiệp công trường thủ công; sử dụng
công cụ pháp luật để ngăn cấm dùng tiền vàng chảy ra nước ngoài, quy định khi
tàu buôn khi tàu buôn đi bán hàng ở nước ngoài thì chỉ mang tiền về, không
được mang hành về còn tàu của nước ngoài tới bán hàng thì không được mang
tiền về mà chỉ mang hàng về; đưa ra chính sách hỗ trợ tạo điều kiện thuận lợi
cho tư bản thương nghiệp hoạt động.
Các quan điểm của chủ nghĩa trọng thương đã được các quốc gia phong
kiến Tây Âu vận dụng theo điều kiện lịch sử riêng của các nước. Ví dụ, ở Tây
Ban Nha nhà nước tích trữ nhiều vàng bạc trong kho, cấm xuất khẩu vàng bạc,
cắt xén vàng bạc trong tiền đúc để hạn chế xuất tiền vàng ra nước ngoài, phong
tỏa oàn bộ kim loại quý từ nước ngoài về…tại Pháp nhà nước can thiệp vào nền
kinh tế bằng việc đưa ra hệ thống các chính sách; thuế nhập khẩu cao, cấm xuất
khẩu nguyên liệu..
Tóm lại: Chủ nghĩa trọng thương ra đời trong thời kì tích lũy nguyên thủy,
sản xuất chưa phát triển, chủ nghĩa tư bản cũng đang trong quá trình phôi thai rất
cần tới vai trò bà đỡ của nhà nước phong kiến, chính vì thế các nhà trọng thương
đặc biết đề cao và khuyến khích sự can thiệp vào nền kinh tế của nhà nước phong
kiến. Sự can thiệp của nhà nước trong giai đoạn này đã gíp rút ngắn quá trình tích
lũy nguyên thủy tạo điều kiện cho chủ nghĩa tư bản ra đời và phát triển. Tuy
nhiên, khi lực lượng sản xuất phát triển tới một trình độ cao, những quan điểm
của chủ nghĩa trọng thương và sự can thiệp thô bạo, phi kinh tế của nhà nước
không còn phù hợp
1.2 Quan niệm về vai trò của nhà nước của trường phái Cổ điển
Các đại biểu Cổ điển không phủ nhận sự tồn tại khách quan của nhà nước
trong nền kinh tế thị trường, họ chỉ chống lại sự can thiệp sâu, cứng nhắc, quá
2
mức của nhà nước. Họ đề cao quan điểm về tự do kinh tế, được thể hiện rõ nhất
trong lí thuyết “bàn tay vô hình” của Adam Smith. Theo Adam Smith, xã hội là
liên minh những quan hệ trào đổi, trao đổi là đặc tính vốn có của con người.
Thông qua trao đổi nhu cầu của con người được thoả mãn. Trao đổi là một thiên
hướng phổ biến của mọi xã hội, nó tồn tại vĩnh viễn cùng với sự tồn tại của xã
hội loài người. Khi trao đổi sản phẩm lao động cho nhau người ta bị chi phối bởi
lợi ích cá nhân, mỗi người chỉ biết chạy theo tư lợi, lợi ích cá nhân là động lực
trực tiếp chi phối người ta hoạt động trao đổi (khi bán muốn bán đắt, mua thì
muốn rẻ), nhưng khi chạy theo tư lợi thì con người còn chịu tác động của “bàn
tay vô hình”. Với tác động này, con người kinh tế vừa chạy theo tư lợi, lại vừa
phải đáp ứng lợi ích chung của xã hội. Từ phân tích trên, ông chỉ ra: Bàn tay vô
hình đó là sự hoạt động của các qui luật kinh tế khách quan. Các qui luật kinh tế
khách quan được ông coi là một trật tự tự nhiên.
Theo Smith, để có hoạt động của trật tự tự nhiên (tức là để hoạt động của
các qui luật kinh tế) cần phải có những điều kiện nhất định, đó là: Sự tồn tại và
phát triển của sản xuất và trao đổi hàng hoá; Nền kinh tế phải được phát triển
trên cơ sở tự do kinh tế (tự do sản xuất, liên doanh, liên kết), trên cơ sở đó, hình
thành mối quan hệ giữa người với người. Thực chất là muốn kinh tế hàng hoá
phát triển hàng hoá phải được tự do lưu thông trên thị trường.
Smith cho rằng; cần phải tôn trọng trật tự tự nhiên, sản xuất và lưu thông
hàng hoá phải được phát triển theo sự điều tiết của bàn tay vô hình. Nhà nước
không nên can thiệp vào kinh tế, nhà nước chỉ có chức năng bảo vệ quyền sở
hữu của các nhà tư bản, đấu tranh chống thù trong, giặc ngoài và trừng phạt
những kẻ phạm pháp. Vai trò kinh tế của nhà nước chỉ được thể hiện khi những
nhiệm vụ kinh tế vượt quá sức của các doanh nghiệp như xây dựng đường xá,
đào sông, đắp đê hay những công trình kinh tế lớn. Theo A.Smith, đó chính là 3
chức năng cơ bản của nhà nước: bảo đảm môi trường hoà bình, không để xảy ra
nội chiến, ngoại xâm; tạo ra môi trường thể chế cho phát triển kinh tế thông qua
hệ thống pháp luật; và cung cấp hàng hoá công cộng.
Ngoài ba chức năng cơ bản đó, tất cả các vấn đề còn lại đều có thể được
giải quyết một cách ổn thoả và nhịp nhàng bởi “bàn tay vô hình”. Smith kết
luận: qui luật kinh tế là vô địch, mặc dù chính sách kinh tế của nhà nước có thể
3
kìm hãm hoặc thúc đẩy sự hoạt động của qui luật kinh tế. Tư tưởng về “bàn tay
vô hình” đã thống trị trong các học thuyết kinh tế phương Tây đến đầu thế kỷ
XX trong các trào lưu của học thuyết Tân cổ điển.
1.3. Quan điểm về vai trò nhà nước của trường phái Tân cổ điển
Cách nhìn của trường phái Tân cổ điển cũng giống như các nhà kinh tế Cổ
điển, trường phái Tân cổ điển không xem xét vai trò của nhà nước một cách biệt
lập mà đặt nó trong một hệ thống lý thuyết chung. Họ đưa ra một quan niệm
tổng quát về nền kinh tế thị trường để từ đó đánh giá vai trò của nhà nước, phân
biệt rõ chỗ nào để thị trường hoạt động, chỗ nào cần nhà nước can thiệp.
Theo phái Tân cổ điển, nền kinh tế thị trường là một hệ thống mang tính ổn
định, mà sự ổn định bên trong là thuộc tính vốn có chứ không phải là kết quả sự sắp
đặt của nhà nước. Khả năng đó được quyết định bởi một cơ chế đặc biệt - “cơ chế
cạnh tranh tự do.” Cạnh tranh tự do thường xuyên bảo đảm sự cân bằng chung của
nền kinh tế. Chính cơ chế này cho phép phân bổ các nguồn lực một cách hợp lý, tận
dụng triệt để mọi nguồn lực và dẫn đến quan hệ phân phối mang tính công bằng
giữa các bộ phận xã hội. Công bằng ở đây theo nghĩa, những bộ phận nào có khả
năng thích ứng tốt nhất với những diễn biến và những nhu cầu thị trường thì sẽ có
thu nhập và thu nhập chính đáng. Nếu như trên thực tế xảy ra những hiện tượng
không bình thường thì phải tìm nguyên nhân của những hiện tượng đó từ chính
sách can thiệp của nhà nước.
Theo quan niệm phổ biến của phái Tân cổ điển, để lựa chọn được cách can
thiệp hợp lý, nhà nước phải hiểu được cấu trúc của nền kinh tế thị trường, cơ chế
vận hành của nó và tôn trọng những quy luật khách quan liên quan đến cung cầu. Muốn xác định chính xác ngưỡng can thiệp thì phải hiểu những nhân tố ảnh
hưởng tới cung - cầu và những điều kiện cho sự cân bằng cung và cầu. Cũng
theo các nhà kinh tế Tân cổ điển, cạnh tranh tự do không bao giờ nảy sinh một
cách tự nhiên, nó chỉ xuất hiện và phát huy tác dụng khi được đảm bảo bởi
nguyên tắc số một: sở hữu tư nhân. Đây là cơ sở để nền kinh tế thị trường thích
ứng với mọi sự thay đổi của giá cả. Chính chế độ sở hữu tư nhân là nhân tố cơ
bản làm cho nền kinh tế thị trường luôn khôi phục được sự cân bằng chung. Do
vậy, khi nhà nước thu hẹp không gian kinh tế của khu vực tư nhân chắc chắn dẫn
tới sự bất ổn. Trong nền kinh tế thị trường hiện đại, quyền tự do kinh doanh của
4
các nhà sản xuất và quyền tự do lựa chọn của người tiêu dùng là những lực
lượng chế ngự, chi phối; chế độ tư hữu là cơ sở bảo đảm cho sự hòa hợp tự
nhiên, do vậy không cần sự điều chỉnh nào của chính phủ hay các cơ quan điều
tiết khác.Với những quan niệm trên đây, trường phái Tân cổ điển khuyến nghị
nhà nước nên dừng ở những chức năng chính là: Duy trì ổn định chính trị; Tạo
môi trường pháp luật ổn định và chính sách thuế khóa hợp lý, khuyến khích
người tiêu dùng; Sử dụng hợp lý ngân sách quốc gia, hướng chi tiêu ngân sách
cho mục tiêu phát triển kinh tế như đào tạo nhân lực, nghiên cứu cơ bản để đổi
mới công nghệ, hỗ trợ cho những ngành sản xuất có triển vọng cạnh tranh cao
trên thị trường thế giới.
1.4. Quan điểm của J.M.Keynes về vai trò của nhà nước
Keynes cho rằng, cần phải tổ chức lại toàn bộ hệ thống kinh tế TBCN theo
nguyên tắc lý thuyết mới. Chính ông đã làm một cuộc cách mạng về lý thuyết
kinh tế trong đó nhấn mạnh vai trò của “bàn tay hữu hình” điều tiết nền kinh tế.
Theo Keynes cho rằng trong nền kinh tế vấn đề cân bằng kinh tế, khủng hoảng
và thất nghiệp chịu tác động bởi tổng lượng lớn đó là: Đại lượng xuất phát bao
gồm các nguồn vật chất như tư liệu sản xuất, sức lao động, trình độ trang thiết bị
kỹ thuật, trình độ chuyên môn sản xuất… Đây là đại lượng không thay đổi; Đại
lượng khả biến độc lập bao gồm: các khuynh hướng tâm lý tiêu dùng (C), tiết
kiệm (S), đầu tư (I), sở thích chi tiêu... Đây là cơ sở hoạt động của mô hình, đòn
bẩy đảm bảo sự hoạt động của các tổ chức kinh tế tư bản chủ nghĩa; Đại lượng
khả biến phụ thuộc bao gồm sản lượng (Q) và thu nhập (R). Nó thay đổi theo
các tác động của đại lượng khả biến độc lập.
Giữa đại lượng khả biến độc lập và đại lượng khả biến phụ thuộc có quan
hệ với nhau. Trong nền kinh tế Q = C + I. Trong nền kinh tế quốc dân sản lượng
bằng thu nhập (Q = R), mỗi người nhận được thu nhập sẽ dành cho tiêu dùng và
tiết kiệm (R = C + S). Trong đó, khuynh hướng gia tăng tiết kiệm (dS) thường
lớn hơn gia tăng thu nhập (dR), làm cho gia tăng tiêu dùng (dC) chậm hơn gia
tăng thu nhập (dR), làm cho tổng cầu suy giảm, khủng hoảng kinh tế và thất
nghiệp nổ ra.
Từ phân tích trên, Keynes mất lòng tin vào cơ chế thị trường. Ông phê
phán lý luận truyền thống cho rằng chế độ tư bản chủ nghĩa là tốt đẹp, cơ chế thị
5
trường tự do tự nó đi đến cân bằng và đạt được sự phân bổ tối ưu về tài nguyên
và đầy đủ việc làm. Từ đó, ông khẳng định, để có cân bằng nền kinh tế, khắc
phục khủng hoảng và thất nghiệp, thì không thể dựa vào cơ chế thị trường tự
điều tiết, mà phải có sự can thiệp của nhà nước vào kinh tế.
Theo Keynes, muốn có cân bằng kinh tế, nhà nước phải can thiệp vào kinh
tế, qua đó khuyến khích các khuynh hướng tâm lý của con người như khuynh
hướng tiêu dùng, khuynh hướng đầu tư... nhằm bảo đảm kích thích được tổng cầu
(bao gồm cả cầu đầu tư và cầu tiêu dùng), thực hiện toàn dụng nhân công, tạo ra
cân đối kinh tế ổn định và bảo đảm tăng trưởng kinh tế, trên cơ sở đó, sẽ khắc
phục được khủng hoảng, thất nghiệp và tạo nên sự ổn định chính trị - xã hội. Từ
đó, ông đưa ra các kiến nghị, cụ thể là: Nhà nước phải thực hiện các biện pháp
tăng cầu có hiệu quả bằng cách sử dụng ngân sách để kinh thích đầu tư của tư
nhân. Nhà nước phải tăng thêm đơn đặt hàng của mình đối với các sản phẩm và
dịch vụ của các tổ hợp công nghiệp, các hãng lớn về hàng không vũ trụ, xây dựng
kết cấu hạ tầng, sản xuất hàng tiêu dùng... Keynes cho rằng, đây là biện pháp chủ
động tăng cầu về tư liệu sản xuất, tư liệu tiêu dùng và cầu về sức lao động nhằm
tăng khối lượng việc làm.
Nhà nước sử dụng hệ thống tín dụng và tiền tệ để kích thích lòng tin, tính
lạc quan và tích cực của nhà kinh doanh bằng cách: Giảm lãi suất, tăng lợi
nhuận, để làm được việc đó thì nhà nước phải thực hiện trợ cấp về tài chính, tín
dụng thông qua ngân sách nhà nước để bảo đảm sự đầu tư và sự ổn định về lợi
nhuận cho tư bản độc quyền. Thực hiện “lạm phát có kiểm soát” để làm tăng giá
cả hàng hoá một cách vừa phải, từ đó hiệu quả giới hạn của tư bản sẽ tăng lên,
các nhà kinh doanh sẽ thu được lợi nhuận nhiều hơn. Keynes cho rằng, việc thực
hiện “lạm phát có kiểm soát” là biện pháp hữu hiệu để kích thích thị trường mà
không gây ra sự nguy hiểm. Nâng cao tổng cầu và việc làm bằng cách mở rộng
nhiều hình thức đầu tư, kể cả đầu tư vào các hoạt động ăn bám nhằm giải quyết
việc làm, có thêm thu nhập, khắc phục được khủng hoảng và thất nghiệp.
Khuyến khích tiêu dùng của cá nhân của người giàu cũng như người nghèo. Như
vậy, so sánh cách nhìn của Keynes và cách nhìn của Tân cổ điển, có thể thấy sự
khác nhau căn bản trong quan niệm về vai trò của nhà nước. Nếu Tân cổ điển
cho rằng nhà nước không nên điều tiết trực tiếp mà chỉ dừng lại ở chức năng tạo
6
môi trường thì Keynes khẳng định, muốn thoát khỏi khủng hoảng, thất nghiệp
và suy thoái, nhà nước phải trực tiếp điều tiết kinh tế.
Lý thuyết kinh tế của J.M. Keynes đã giữ vị trí thống trị trong hệ thống tư
tưởng kinh tế tư sản những năm cuối của thế kỷ XIX và ba thập kỷ đầu của thế
kỷ XX, nó là cơ sở tiền đề và thể hiện lợi ích của chủ nghĩa tư bản độc quyền
nhà nước. Lý thuyết J.M. Keynes đã được vận dụng vào điều chỉnh nền kinh tế ở
hầu hết các nước tư bản phát triển và đã mang lại hiệu quả không nhỏ. Tuy
nhiên, lý thuyết kinh tế của J.M. Keynes quá đề cao vai trò kinh tế của nhà nước,
xem nhẹ các quy luật kinh tế khách quan; các biện pháp can thiệt của nhà nước,
nhất là chính sách thuế còn bộ lộ nhiều mâu thuẫn, vì khi đã tăng thuế thu nhập
đối với dân cư thì sẽ hạn chế cầu tiêu dùng. Vì vậy, khi nền kinh tế tư bản chủ
nghĩa đã phát triển đến mức độ nhất định, thì các giải pháp dựa trên lý thuyết
J.M. Keynes tỏ ra không còn hiệu quả, không khắc phục được những căn bệnh
mới nảy sinh trong nền kinh tế tư bản chủ nghĩa như trì trệ và lạm phát...
Dựa trên cơ sở lý thuyết của Keynes, các nhà kinh tế học tiếp tục xây dựng
thành trường phái Keynes. Trường phái này phát triển các lý thuyết Keynes
trong điều kiện mới trên cơ sở thừa nhận các nguyên nhân của khủng hoảng, thất
nghiệp, tác động của tiêu dùng, đầu tư tư nhân đến tổng cầu và tiếp tục ủng hộ
sự can thiệp của nhà nước vào kinh tế thông qua các chính sách khuyến khích
đầu tư, tiêu dùng. Trường phái Keynes đã phát triển việc phân tích nền kinh tế từ
trạng thái tĩnh, ngắn hạn sang phân tích động, dài hạn; đưa ra các lý thuyết giao
động kinh tế và tăng trưởng kinh tế, cụ thể hóa các chính sách kinh tế và hoàn
thiện cơ chế điều chỉnh nền kinh tế TBCN.
1.5. Quan điểm của Chủ nghĩa tự do mới
Chủ nghĩa tự do mới là một trong những trào lưu tư tưởng kinh tế lớn xuất
hiện từ những năm 1930 và phát triển cho tới nay. Lý luận kinh tế của chủ nghĩa
tự do mới một mặt kế thừa quan điểm truyền thống của phái Cổ điển, đề cao tư
tưởng tự do kinh tế, nhấn mạnh bản năng tự điều tiết của các quan hệ thị trường
như một thuộc tính tự nhiên. Mặt khác, trường phái này lại muốn xây dựng một
hệ thống lý thuyết mới nhằm điều tiết nền kinh tế thị trường hiện đại một cách
có hiệu quả hơn trên cơ sở khai thác những luận điểm của các phái phi cổ điển.
Theo Chủ nghĩa tự do mới, nền kinh tế thị trường hiện đại có khả năng tự
7
điều tiết cao, do vậy sự can thiệp của chính phủ vào tiến trình hoạt động của thị
trường là cần thiết nhưng cũng chỉ nên giới hạn theo phương châm “thị trường
nhiều hơn, nhà nước can thiệp ít hơn.” Trào lưu Tự do mới xuất hiện ở nhiều
nước tư bản với các tên gọi khác nhau, trong đó điển hình là các khuynh hướng
ở Mỹ và ở Đức.
Lý thuyết tự do kinh tế ở Mỹ biểu hiện thành nhiều trào lưu cụ thể với
những tên gọi khác nhau. Trong đó nổi bật là phái Trọng tiền, phái Trọng cung,
và phái Kinh tế vĩ mô mong đợi hợp lý.
Phái Trọng tiền (còn gọi là phái Chicago) đứng đầu là Milton Friedman đã
cổ vũ nhiệt tình cho một nền kinh tế thị trường tự do không có sự can thiệp của
chính phủ. Theo phái Trọng tiền, sự can thiệp của nhà nước thường phá vỡ
những cân bằng tự nhiên của thị trường - do vậy có hại cho nền kinh tế... Milton
Friedman chủ trương để cho nền kinh tế thị trường tự do điều tiết, nhà nước can
thiệp chỉ làm xấu thêm tình hình của thị trường, vì nếu thị trường có khuyết tật
thì bản thân nhà nước cũng có khuyết tật của nó. Một số đại biểu khác thì khẳng
định trong nền kinh tế thị trường hiện đại, không thể bác bỏ nhà nước, nhưng họ
đòi hỏi nhà nước phải điều tiết, điều chỉnh nền kinh tế theo những qui tắc có tính
chuẩn mực đồng thời kiên quyết phản đối cách điều tiết theo kiểu tuỳ hứng của
các chủ thể quản lý. Họ cho rằng, đó là một khuynh hướng khó tránh khỏi, vì
theo kinh nghiệm, khi ban hành các quyết định quản lý, chính phủ thường thiên
về lợi ích của bản thân mình hơn là lợi ích của dân chúng. Chính vì vậy cần xác
lập một hệ thống nguyên tắc của chính sách và những nguyên tắc này phải mang
tính khách quan, độc lập với ý muốn chủ quan tuỳ tiện của chính phủ. Trong hệ
thống chính sách kinh tế vĩ mô, chính sách cơ bản và quan trọng nhất chính là
chính sách tiền tệ.
Phái Trọng cung thì cho rằng, nguyên nhân làm nền kinh tế Mỹ suy yếu cả
ở trong nước và cả trên thị trường quốc tế những năm 1970 nằm ngay trong
chính sách kinh tế của nhà nước Mỹ. M. Feldstein4 khẳng định “…việc nhà
nước sử dụng sai chính sách tiền tệ - tín dụng đã làm toàn bộ nền sản xuất bất ổn
định và nạn lạm phát phát triển nhanh chóng.” Các nhà Trọng cung phủ nhận
tính hiệu quả của chính sách tài khoá và hiệu lực khuyếch đại vào sản lượng của
“lý thuyết số nhân” của J.M. Keynes. Họ đề cao một chính sách kinh tế giảm bớt
8
sự can thiệp trực tiếp của nhà nước bằng cách kết hợp giữa giảm thuế và bãi bỏ
các qui định hạn chế gây cản trở cho sức cung. Hơn nữa, họ còn cho rằng nhà
nước cần phải từ bỏ chính sách phân phối lại, vì “nhà nước càng ra tay can thiệp
để chữa trị bệnh nghèo túng thì số người nghèo túng càng tăng lên”.
Phái Kinh tế vĩ mô mong đợi hợp lý cũng cho rằng, đa số chính sách của
nhà nước ít có tính hiệu quả, hoặc chỉ đạt hiệu quả ở mức rất thấp. Xuất phát từ
giả định trong nền kinh tế thị trường hiện đại, ứng xử kinh tế của mọi người đều
dựa trên những dự liệu hợp lý, dân chúng có thể hiểu biết về tình trạng của nền
kinh tế không kém gì nhà nước và các nhà kinh tế học chuyên nghiệp. Cùng với
kinh nghiệm của mình, dân chúng có thể dự liệu một cách hợp lý những tình
huống kinh tế có thể xảy ra trong tương lai gần, và từ đó sẽ điều chỉnh hoạt động
kinh tế. Vì vậy, chính sách kinh tế của nhà nước chỉ có hiệu quả nhất định đối
với mức sản lượng và việc làm khi sự điều chỉnh này gây ra sự bất ngờ đối với
dân chúng, khiến cho dân chúng hiểu sai tình hình kinh tế. Tuy nhiên, hiệu quả
của các chính sách điều tiết của chính phủ cũng chỉ là nhất thời vì trong điều
kiện thiết chế tự do dân chủ được xác lập vững chắc, dân chúng hoàn toàn có thể
chủ động trong việc tự điều chỉnh cách ứng xử, và cách gây bất ngờ của chính
phủ ở những lần ra chính sách khác sẽ không có hiệu quả.Tựu chung lại, các
phái của chủ nghĩa tự do mới ở Mỹ về cơ bản đều cho rằng, chính sách can thiệp
kinh tế của nhà nước có hại nhiều hơn có lợi và nên giảm thiểu sự can thiệp của
nhà nước vào kinh tế.
Cũng là một khuynh hướng của chủ nghĩa tự do mới, ở Đức, khuynh hướng
này có tên là Chủ nghĩa thị trường xã hội. Cách nhìn nhận của phái Kinh tế thị
trường xã hội về vai trò của nhà nước trong nền kinh tế có sự khác biệt so với
các phái tự do mới của Mỹ. Trong nền kinh tế thị trường xã hội, các quá trình
kinh tế - xã hội vận hành trên nguyên tắc cạnh tranh có hiệu quả và phát huy cao
độ tính chủ động và sáng kiến của các cá nhân, do đó chính phủ chỉ can thiệp
vào nơi nào cạnh tranh không có hiệu quả, ở nơi cần phải bảo vệ và thúc đẩy
cạnh tranh có hiệu quả. Nền kinh tế thị trường xã hội đòi hỏi nhà nước phải
mạnh. Song chỉ can thiệp với mức độ và tốc độ cần thiết và phải dựa trên hai
nguyên tắc hỗ trợ và tương hợp. Nếu nguyên tắc hỗ trợ liên quan tới câu hỏi liệu
nhà nước có nên can thiệp hay không, thì nguyên tắc tương hợp lại đề cập tới
9
việc sự can thiệp đó nên được thực hiện như thế nào. Nguyên tắc hỗ trợ xác định
chức năng của nhà nước phải khơi dậy và bảo vệ các nhân tố của thị trường, ổn
định hệ thống tài chính - tiền tệ, duy trì chế độ sở hữu tư nhân và giữ gìn trật tự an
ninh và công bằng xã hội. Nguyên tắc tương hợp làm cơ sở để nhà nước hoạch
định các chính sách kinh tế phù hợp với sự vận động của các qui luật trong nền
kinh tế thị trường đồng thời phải đảm bảo được các mục tiêu kinh tế - xã hội của
mình, trong đó bao gồm các chính sách: toàn dụng nhân lực, tăng trưởng, chống
chu kỳ, thương mại và chính sách đối với các ngành và các vùng lãnh thổ.
Như vậy, trong nền kinh tế thị trường xã hội, nhà nước phải đề ra những
chính sách kinh tế tích cực, tức là nhà nước phải là người bảo vệ sở hữu tư nhân,
phải có trách nhiệm không để cho các nguyên tắc cạnh tranh bị phá vỡ, phải đưa
ra những khuôn khổ và qui tắc, “luật chơi” trong cạnh tranh, đồng thời với việc
tạo lập những bộ máy kiểm soát thực hiện các luật chơi đó. Nhà nước có thể can
thiệp tự do - thông qua các chính sách tín dụng, tiền tệ, thuế... nhưng không
được can thiệp vào hoạt động kinh tế của bản thân các xí nghiệp, ngay cả những
xí nghiệp nằm trong các tập đoàn, các tổ chức có tính chất độc quyền.
Mặt khác, nhà nước phải làm cho nền kinh tế thị trường càng ngày càng
mang tính xã hội, làm dịu các mâu thuẫn xã hội thông qua phân phối lại thu
nhập quốc dân. Theo hướng đó, hệ thống thuế của nhà nước là vô cùng quan
trọng. Theo phái này, tiêu chí cơ bản nhất để đánh giá chính sách cũng như vai
trò kinh tế của nhà nước và khu vực tư nhân trước sau vẫn là hiệu quả kinh tế.
Cho nên khả năng giải quyết các vấn đề xã hội của nhà nước về căn bản phụ
thuộc vào tính hiệu quả của nền kinh tế. Khu vực tư nhân là chỗ dựa để nhà
nước có thể thực hiện những chính sách phúc lợi xã hội, đặc biệt là đối với
những lĩnh vực quan trọng có liên quan tới chất lượng của nguồn nhân lực, hay
việc cung ứng những dịch vụ bảo hiểm, kể cả trách nhiệm của nhà nước trong
việc giải quyết những rủi ro kinh tế, rủi ro xã hội, trong đó có cả trợ cấp đối với
người thất nghiệp - theo hướng tăng tính xã hội của nền kinh tế.
Với các quan điểm nêu trên, những đại biểu của học thuyết nền kinh tế thị
trường xã hội ở Đức đã đưa nhà nước lên tầm cao hơn hẳn chủ nghĩa tự do cũ.
Trong mô hình nền kinh tế thị trường xã hội, về nguyên tắc, nguyên lý nhà nước
tối thiểu vẫn có giá trị với việc duy trì hiệu năng và tạo ra những cân bằng xã hội
10
bên ngoài nền kinh tế; trong nền kinh tế đó mọi hoạt động của nhà nước phải
chịu sự kiểm soát của các công cụ pháp lý, đồng thời nhà nước phải đưa ra được
các chính sách thống nhất, không đối đầu, không đi ngược lại thị trường nhưng
có trách nhiệm sửa chữa được các sai lệch thị trường và đảm bảo không thay thế
các sai lệch thị trường bằng các sai lệch của nhà nước.
1.6. Lý thuyết của P.A. Samuelson về vai trò kinh tế của nhà nước
Từ những thành công và hạn chế trong quá trình vận dụng lý thuyết của
trường phái cổ điển và tân cổ điển với việc tuyệt đối hoá vai trò tự điều tiết của
cơ chế thị trường (bàn tay vô hình) và trường phái Keynes đề cao vai trò điều
tiết kinh tế của nhà nước (bàn tay hữu hình), P.A.Samuelson đã đưa ra lý thuyết
kết hợp cả hai bàn tay, tức là sử dụng cả cơ chế thị trường và vai trò điều tiết nhà
nước để phát triển kinh tế. Ông cho rằng “cả thị trường và chính phủ đều cần
thiết cho một nền kinh tế vận hành lành mạnh”.
Khi phân tích cơ chế thị trường, các đại biểu của trường phái chính hiện
đại cho rằng, "bàn tay vô hình" cũng đưa nền kinh tế đến những thất bại. Đó
là những khuyết tật có tính khách quan của hệ thống thị trư ờng và nó gây ra
những tác động bên ngoài như: ô nhiễm nguồn nước, không khí... mà doanh
nghiệp không phải trả giá cho sự ô nhiễm này. Hoặc là các tệ nạn khủng
hoảng, thất nghiệp, sự phân phối thu nhập bất bình đẳng do hệ thống thị
trường sinh ra. Từ đó, P.A.Samuelson cho rằng, không nên quá "say mê vẻ đẹp"
của cơ chế thị trường. Và để khắc phục những khuyết tật của cơ chế thị trường,
theo ông cần có sự can thiệp của “bàn tay hữu hình”, đó chính là vai trò kinh tế
của nhà nước.
Theo P.A.Samuelson, vai trò của chính phủ trong nền kinh tế thị trường
được thể hiện thông qua bốn chức năng chính:
Thứ nhất: Xây dựng khuôn khổ pháp luật
Chức năng này vượt ra khỏi khuôn khổ của kinh tế học. Thực hiện chức
năng này, Chính phủ phải đề ra những thể chế kinh tế mà các doanh nghiệp,
người tiêu dùng và bản thân Chính phủ cũng phải tuân thủ. Thể chế kinh tế
bao gồm: các quy định về tài sản, các quy tắc về hợp đồng và hoạt động kinh
11
doanh, các trách nhiệm tương hỗ của liên đoàn lao động, ban quản lý và nhiều
luật lệ để xác định môi trường kinh tế. Về nhiều mặt, các quyết định của
khuôn khổ pháp luật xuất phát từ mối quan hệ vượt ra ngoài lĩnh vực kinh tế
đơn thuần. Các luật lệ đa ra nhằm đáp ứng những giá trị và quan điểm được
đồng tình rộng rãi về sự công bằng hơn là qua một sự phân tích kinh tế được
mài dũa cẩn thận về chi phí và lợi lộc. Nhưng khuôn khổ pháp luật có thể tác
động sâu sắc tới các ứng sử tinh tế của con người.
Thứ hai: Sửa chữa những thất bại của thị trường để thị trường hoạt
động có hiệu quả.
Trong hệ thống kinh tế cạnh tranh, thị trường hoạt động không có hiệu
quả do tác động của độc quyền cũng như tác động từ bên ngoài.
Một là, trong nền kinh tế, các tổ chức độc quyền lợi dụng ưu thế của
mình chi phối giá cả để thu lợi nhuận cao và vì thế, phá vỡ ưu thế cạnh tranh
hoàn hảo. Do vậy, phải có sự can thiệp của nhà nước để hạn chế độc quyền,
đảm bảo tính hiệu quả của cạnh tranh thị trường. Trong nền kinh tế thị trường
luôn tồn tại cạnh tranh hoàn hảo và cạnh tranh không hoàn hảo. Cạnh tranh
hoàn hảo xảy ra khi trên thị trường có đủ một số lượng doanh nghiệp hoặc
mức độ cạnh tranh đạt tới mức, không có một doanh nghiệp nào có thể ảnh
hưởng đến giá cả hàng hoá nào đó. Như vậy, chỉ có cạnh tranh hoàn hảo mới
đảm bảo thị trường hoạt động có hiệu quả. Cạnh tranh không hoàn hảo hay
độc quyền xảy ra khi trên thị trường người độc quyền và chính là người duy
nhất cung cấp một loại hàng hoá, vì thế, có khả năng tác động đến giá cả hàng
hoá đó trên thị trường, làm cho giá cả cao hơn mức hiệu quả, làm biến dạng
về cầu và sản xuất, xuất hiện siêu lợi nhuận. Lượng lợi nhuận mà người độc
quyền thu được có thể được sử dụng vào những hoạt động vô ích như mua ảnh
hưởng và sự bảo hộ của ngành lập pháp; quảng cáo lừa dối... Do vậy, không thể
coi mọi hoạt động độc quyền là tất yếu. Chính phủ phải xây dựng luật chống độc
quyền và các luật lệ kinh tế để làm tăng hiệu quả của hệ thống thị trường cạnh
tranh không hoàn hảo.
Hai là, nhà nước phải can thiệp để ngăn ngừa và khắc phục những tác
12
động từ bên ngoài ảnh hưởng tới hiệu quả hoạt động của thị trường. Những
tác động bên ngoài xảy ra khi doanh nghiệp hoặc con ng ời tạo ra chi phí lợi
ích cho doanh nghiệp, hoặc con người khác mà doanh nghiệp, hoặc con người
đó không được nhận đúng lợi ích mà họ cần được nhận hoặc không phải trả
đúng số chi phí mà họ phải trả. Chẳng hạn: Doanh nghiệp A sử dụng tài
nguyên như nước và không khí sạch mà không phải trả tiền cho những người
dân sống trong bầu không khí bị ô nhiễm và nguồn nước bị bẩn. Hay, doanh
nghiệp B đóng giữa khu vực sinh sống của dân cư. Doanh nghiệp thuê một
người bảo vệ có hình dáng dữ tợn bảo vệ nhà máy, làm cho bọn l ưu manh vì
sợ mà không dám hành nghề ở các khu cư dân lân cận; những hộ gia đình này
không phải trả tiền cho doanh nghiệp.
Như vậy, tác động bên ngoài làm cho thị trường hoạt động không hiệu quả.
Chính phủ phải xây dựng và sử dụng những luật lệ để điều chỉnh kinh tế, nhằm
ngăn chặn những tác động tiêu cực từ bên ngoài, như: việc khai thác cạn kiệt tài
nguyên khoáng sản; ô nhiễm không khí và nguồn nước sạch; chất thải công
nghiệp... gây nguy hiểm cho thức ăn, nước uống...
Ba là, chính phủ phải đảm nhiệm sản xuất hàng hoá công cộng. Trường
phái chính cho rằng: hàng hoá tư nhân là loại hàng hoá nếu đã sử dụng thì
người khác không sử dụng được nữa. Hàng hoá công cộng là loại hàng hoá
nếu một người đã hoặc đang dùng thì người khác vẫn có thể sử dụng được.
Chẳng hạn, không khí trong sạch và quốc phòng là hàng hoá công cộng. Hàng
hoá này có đặc điểm: Về kỹ thuật, một người tiêu dùng mà không làm giảm
số lượng sẵn có đối với việc khác. Không loại trừ bất cứ ai ra khỏi việc tiêu
dùng này, trừ việc trả giá quá đắt.
Thực tế, để sản xuất hàng hoá công cộng phải đầu tư lớn, thời gian thu
hồi vốn chậm, lợi nhuận thấp và thậm chí không có lợi nhuận. Bởi vậy, tư
nhân không muốn sản xuất hàng hoá công cộng. Mặt khác, những hàng hoá
công cộng có ý nghĩa quan trọng cho quốc gia như quốc phòng, an ninh, luật
pháp, trật tự trong nước... thì chính phủ phải trực tiếp nắm giữ và sản xuất.
Bốn là, thuế: để sản xuất hàng hoá công cộng và duy trì hoạt động của bộ
13
máy, chính phủ phải chi một lượng tiền rất lớn. Toàn bộ khoản chi đó của
chính phủ, phần lớn được trả bằng thuế thu được. Do đó, tất cả mọi người đều
phải chịu luật thuế. Sự thực, toàn bộ công dân tự mình lại đặt gánh nặng thuế
lên vai mình và mỗi người trong số họ đều được hưởng phần hàng hoá công
cộng do chính phủ sản xuất và cung cấp.
Như vậy, sự can thiệp của chính phủ vào thị trường là để nâng cao hiệu
quả hoạt động của thị trường. Chính phủ ban hành luật lệ đi đường và mua
hàng hoá công cộng như đường sá..., do đó tạo điều kiện cho tư doanh hoạt
động thuận lợi, kiềm chế sự lạm dụng của các doanh nghiệp, khi họ có ý đồ
tham lam, muốn độc quyền chiếm đường, đe doạ sinh mạng, tài sản và kiềm
chế hoạt động của các doanh nghiệp và công dân.
Thứ ba: Đảm bảo sự công bằng trong nền kinh tế quốc dân.
Với giả định, cơ chế thị trường hoạt động lý tưởng nhất, vẫn thấy rằng sự
phân hoá, bất bình đẳng sinh ra từ kinh tế thị trường là khách quan. Một hệ thống
thị trường có hiệu quả vẫn có thể gây ra sự bất bình đẳng lớn. P.A.Samuelson cho
rằng, một quốc gia chi phí về thức ăn cho gia súc vật nuôi làm cảnh trong nhà
nhiều hơn chi phí cho giáo dục đại học người nghèo, thì đó là một khuyết điểm
của việc phân phối thu nhập chứ không phải là của thị trường. Một công dân nào
đó được thừa kế 500 dặm mét vuông đất, các công ty dầu lửa đề nghị trả ông ta 50
triệu USD một năm về số đất đó. Ông ta có nhất thiết được hưởng thu nhập lớn
như vậy không? Bởi vậy, phải thông qua những chính sách để phân phối lại thu
nhập. Thông thường, chính phủ sử dụng các công cụ:
- Thuế luỹ tiến: Đây là một công cụ của chính phủ để điều tiết thu nhập trong
xã hội. Thuế luỹ tiến là việc đánh thuế người giàu có tỷ lệ thu nhập lớn hơn người
nghèo. Loại thuế này được áp dụng cho thuế thu nhập và thuế thừa kế.
- Xây dựng hệ thống hỗ trợ thu nhập giúp đỡ người già, người tàn tật,
bảo hiểm thất nghiệp cho những người không có công ăn việc làm.
- Trường hợp đặc biệt, chính phủ phải trợ cấp tiêu dùng cho những nhóm
người có thu nhập thấp bằng cách phát tem phiếu thực phẩm, trợ cấp y tế, cho
14
thuê nhà rẻ...
Thứ tư: Ổn định kinh tế vĩ mô.
Quá trình phát triển của chủ nghĩa tư bản đã gặp phải những thăng trầm
của chu kỳ lạm phát (giá cả cao) và suy thoái (nạn thất nghiệp cao). Có những
thời kỳ hiện tượng này rất dữ dội. Chẳng hạn, thời kỳ siêu lạm phát ở Đức
trong những năm 1920 và thời kỳ đại suy thoái ở Mỹ trong những năm 1930.
Như vậy, đánh giá quan niệm của các trường phái kinh tế trong lịch sử về
vai trò của nhà nước trong nền kinh tế thị trường. Cho đến nay, mặc dù đã tồn tại
nhiều dạng thức kinh tế thị trường khác nhau nhưng trên thực tế chưa bao giờ
tồn tại kiểu kinh tế thị trường hoàn toàn không có nhà nước, thoát ly khỏi nhà
nước như những người theo chủ nghĩa tự do cực đoan vẫn thường cổ vũ. Đánh
giá một cách khách quan, nhà nước luôn là một bộ phận hữu cơ nằm trong cấu
trúc tổng thể của kinh tế thị trường. Sự tồn tại của nhà nước trong cấu trúc đó là
một tất yếu kinh tế, tất yếu lịch sử, ở đó, nhà nước vừa có thể là một chủ thể sở
hữu, bên cạnh những chủ thể sở hữu khác, đồng thời là một chủ thể quản lý. Sự
khác biệt giữa các giai đoạn lịch sử và các quốc gia chỉ ở chỗ tính chất của nhà
nước như thế nào, cách thức can thiệp, quản lý điều tiết và hệ quả của sự can
thiệp này ra sao đối với nền kinh tế. Tất cả các trường phái kinh tế lớn trong lịch
sử học thuyết kinh tế đều đề cập đến vai trò của nhà nước trong nền kinh tế thị
trường. Tuy nhiên, cách tiếp cận và quan điểm lý thuyết cụ thể của mỗi trường
phái là khác nhau, do những nhân tố khác nhau quy định. Những nhân tố này có
thể là đặc điểm của kinh tế thị trường ở từng giai đoạn lịch sử, có thể là những
biến cố kinh tế lớn trong từng giai đoạn, hoặc do sự khác biệt về động cơ lợi ích
giai cấp đứng sau các quan điểm lý thuyết. Từ việc hệ thống hóa quan niệm của
các trường phái về vai trò của nhà nước trong nền kinh tế thị trường có thể thấy,
không một cách
Các lý thuyết kinh tế tiếp cận nào mang tính vạn năng, có thể giải đáp được
tất cả các tình huống khác nhau của nền kinh tế. Do vậy, tác động thúc đẩy hay
kìm hãm sự phát triển kinh tế thị trường của mỗi cách tiếp cận đều có những
giới hạn nhất định.
Nhìn sang mô hình nhà nước trong nền kinh tế thị trường ở một số nước
15
trên thế giới, có thể thấy sau thời kỳ “hoàng kim” của CNTB có điều tiết theo
kiểu Keynes ở Anh, Pháp, Mỹ trong thập kỷ 50-70 của thế kỷ XX là sự “lên
ngôi” của Chủ nghĩa tự do mới với mô hình kinh tế thị trường tự do kiểu Mỹ cho
đến trước khủng hoảng kinh tế toàn cầu khởi phát từ Mỹ năm 2008.
Cuộc khủng hoảng 2008 đến nay đã kiểm nghiệm lại cuộc đấu tranh giữa
hai trường phái lý thuyết chủ yếu - trường phái Keynes đánh giá cao vai trò của
điều tiết nhà nước và trường phái Tân Cổ điển, nhấn mạnh vai trò của cạnh tranh
tự do và đề cao quyền lực của “bàn tay vô hình.” Dường như cuộc khủng hoảng
lần này chứng tỏ tính đúng đắn của lý thuyết Keynes: nền kinh tế Mỹ bị sụp đổ
do thả lỏng quá mức vai trò điều tiết của thị trường tự do, đồng thời việc khắc
phục khủng hoảng bằng các gói kích cầu của nhà nước theo đúng đề xuất của
Keynes thì mới đem lại hiệu quả. Cuộc khủng hoảng này đòi hỏi nhìn nhận lại
nguyên lý cân bằng, hài hoà trong việc giải quyết mối quan hệ giữa thị trường và
nhà nước trong vận hành nền kinh tế thị trường. Rõ ràng là nếu nhà nước bỏ mặc
thị trường, để thị trường tự do chi phối thì nền kinh tế sớm muộn cũng sẽ lâm
vào tình trạng bất ổn và khủng hoảng. Điều đó có tính quy luật và đã được
chứng minh sinh động ở cuộc khủng hoảng vừa qua. Đây là một gợi ý cho việc
hoạch định chiến lược và chính sách phát triển cho Việt Nam: không được
buông lỏng vai trò và chức năng quản lý của nhà nước đối với nền kinh tế thị
trường. Tuy nhiên, nếu nhà nước can thiệp quá mức cũng gây ra những hậu quả
to lớn. Nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung ở các nước XHCN theo mô hình cũ là
một bằng chứng. Nhiều nghiên cứu đã khẳng định rằng sai lầm trong chính sách
và điều hành của chính phủ cũng gây hậu quả cho nền kinh tế to lớn không kém
gì sai lầm do điều tiết thị trường tự phát gây ra. Như vậy vấn đề ở đây là liều
lượng can thiệp nhà nước - thị trường thế nào là hợp lý. Lịch sử phát triển của
kinh tế thị trường minh chứng rõ sự thay đổi của các lý thuyết kinh tế thống trị
gắn với các chu kỳ của nền kinh tế TBCN: khi nền kinh tế bị khủng hoảng do
vai trò điều tiết của nhà nước bị xem nhẹ, còn thị trường được “thả lỏng” thì lý
thuyết Keynes được đề cao. Còn khi nền kinh tế trì trệ kéo dài do nhà nước can
thiệp quá mức kìm hãm tính năng động của các lực lượng thị trường thì lúc đó,
lý thuyết “bàn tay vô hình” và trường phái Tân cổ điển phục hồi trở lại và chiếm
ưu thế. Thực ra, đây là một quá trình điều chỉnh để tái lập sự cân bằng chức
16
năng nhà nước - thị trường trong việc điều hành nền kinh tế.
2. Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về Nhà nước và Nhà nước
trong nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
2.1 Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về Nhà nước
Khi lực lượng sản xuất phát triển đã dẫn đến sự ra đời chế độ tư hữu và từ
đó xã hội phân chia thành các giai cấp đối kháng và cuộc đấu tranh giai cấp
không thể điều hoà được xuất hiện. Điều đó dẫn đến nguy cơ các giai cấp chẳng
những tiêu diệt lẫn nhau mà còn tiêu diệt luôn cả xã hội, tạo ra một tình trạng
loạn lạc hỗn độn. Xã hội lúc này đòi hỏi phải có một tổ chức mới đủ sức dập tắt
cuộc xung đột công khai giữa các giai cấp ấy, hoặc cùng lắm là để làm cho cuộc
đấu tranh giai cấp diễn ra trong lĩnh vực kinh tế, dưới một hình thức gọi là hợp
pháp và để thảm hoạ đó không diễn ra, một cơ quan quyền lực đặc biệt đã ra đời
và đó chính là nhà nước. Theo Ăngghen “Nhà nước chẳng qua chỉ là một bộ
máy trấn áp của một giai cấp này đối với giai cấp khác” 1. Lênin nhận định
“Nhà nước là sản phẩm và biểu hiện của những mâu thuẫn giai cấp không thể
điều hoà được. Bất cứ ở đâu, hễ lúc nào và chừng nào mà, về mặt khách quan,
những mâu thuẫn giai cấp không thể điều hoà được, thì nhà nước xuất hiện” 2.
Như vậy, Nhà nước đã xuất hiện một cách khách quan, nó là sản phẩm của một
xã hội đã phát triển đến một giai đoạn nhất định, nó không phải là một quyền lực
từ bên ngoài áp đặt và xã hội mà là một lực lượng nảy sinh từ xã hội. Sự xuất
hiện Nhà nước xét đến cùng là do mâu thuẫn về lợi ích kinh tế không thể điều
hòa được, Nhà nước giữ vai trò đặc biệt quan trọng, có tác dụng quyết định năng
lực hiện thực hóa của một nền kinh tế vì nó là lực lượng vật chất có sức mạnh
kinh tế. Ăngghen viết “Nhà nước, nói chung chỉ là sự phản ánh dưới hình thức
tập trung những nhu cầu kinh tế của giai cấp thống trị trong sản xuất”3.Trong
nền kinh tế xã hội chủ nghĩa, Lê nin cũng cho rằng nhà nước xã hội chủ nghĩa có
vai trò rất quan trọng " Không có kỹ thuật đại tư bản xây dựng trên những phát
minh mới nhất của khoa học hiện đại. Không có một tổ chức nhà nước có kế
hoạch khiến cho hàng chục triệu người phải tuân theo hết sức nghiêm ngặt một
tiêu chuẩn thống nhất trong công việc sản xuất và phân phối sản phẩm, thì
1 C.Mác và Ăng ghen: Tuyển tập: tập 6, Nhà xuất bản Sự Thật, Hà Nội, năm 1984, trang 413
2 V.I.Lênin: Toàn tập, Nhà xuấ bản. Tiến bộ, Mátxcơva, năm 1976, tập 33, trang 9
3 C.Mác và Ăng ghen: Tuyển tập: tập 6, Nhà xuất bản Sự Thật, Hà Nội, năm 1984, trang 413
17
không thể nói đến chủ nghĩa xã hội được”. Đặc biệt là chính sách kinh tế mới
của Lênin được thể hiện trong chính sách thuế lương thực thay cho chính sách
kinh tế “cộng sản thời chiến”. Những tư tưởng, những quan điểm cơ bản của Lê
nin sau này đã được các Đảng cộng sản và công nhân quốc tế tiếp tục phát triển
trong những điều kiện, ở những thời kỳ khác nhau ở mỗi nước và đem lại những
thành công nhất định.
2.2. Vai trò Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa ở nước ta.
Sau giải phóng Miền Nam năm 1975 cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội,
thực hiện đường lối phát triển kinh tế công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa, xây
dựng chế độ làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa của nhân dân lao động, xây dựng
nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa. Thực hiện Nhà nước lãnh đạo thống nhất nền
kinh tế quốc dân, chính sự can thiệp tuyệt đối của Nhà nước đối với nền kinh tế
quốc dân, đó là sự vận dụng chủ nghĩa Mác –Lênin một cách chủ quan duy ý chí
đã làm cho nền kinh tế phát triển chậm chạp cản trở sự phát triển của lực lượng
sản xuất. Đại hội lần thứ V đánh giá những thành tựu và khó khăn của nền kinh
tế, Đảng ta đã chỉ ra rằng bên cạnh những nguyên nhân khách quan, những khó
khăn của nền kinh tế còn do khuyết điểm sai lầm của các cơ quan Đảng và nhà
nước từ Trung ương đến cơ sở về lãnh đạo và quản lý kinh tế, quản lý xã hội.
Trên cở những sai lầm khuyết điểm và sự nhạy bén trong tư duy phát triển kinh
tế, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (1986) Đảng ta đã chủ trương đổi mới
toàn diện đất nước trong đó lấy đổi mới kinh tế là trọng tâm từng bước đổi mới
về chính trị. Xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng
xã hội chủ nghĩa, điều đó có nghĩa là chúng ta xây dựng một nền kinh tế tuân thủ
các quy luật kinh tế khách quan của cơ chế thị trường đồng thời có sự quản lí
của Nhà nước xã hội chủ nghĩa.
Trải qua gần 30 năm đổi mới, nước ta đã có những thành công bước đầu trong
việc hình thành và hoàn thiện cơ chế thị trường, cũng như điều chỉnh vai trò tương
ứng của nhà nước trong nền kinh tế. Trước hết, đó là sự thay đổi cơ bản quan niệm
về chức năng của nhà nước trong nền kinh tế. Nếu Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ VII chỉ dừng lại ở mức độ xác định nhiệm vụ: “Bộ máy nhà nước từng bước
chuyển sang chức năng quản lý nhà nước, khắc phục dần sự can thiệp vào điều
18
hành kinh doanh...” thì đến Đại hội VIII, quan điểm này được cụ thể hóa hơn: “Nhà
nước định hướng phát triển, trực tiếp đầu tư vào một số lĩnh vực, thiết lập khuôn
khổ pháp luật, xây dựng chính sách nhất quán, phân phối lại thu nhập, hạn chế tiêu
cực của cơ chế thị trường.” Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX đã xác định rõ
định hướng đổi mới chính sách căn bản là: “Tiếp tục đổi mới các công cụ quản lý
vĩ mô của nhà nước đối với nền kinh tế. Đại hội XI khẳng định “Nhà nước quản lý
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa bằng luật pháp, cơ chế, chính
sách, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và các nguồn lực kinh tế, giữ vững ổn định
kinh tế vĩ mô, tạo lập, phát triển đầy đủ, đồng bộ các yếu tố thị trường và các loại
thị trường, cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh
tế, định hướng phát triển, phát huy mặt tích cực, hạn chế, khắc phục mặt trái, tiêu
cực của cơ chế thị trường; phát huy dân chủ, quyền làm chủ của nhân dân trong
lĩnh vực kinh tế”4. Thực hiện đường lối đổi mới, xác định rõ vai trò, chức năng của
Nhà nước trong quản lý nền kinh tế quốc dân.
Nhà nước cũng đã bước đầu phát huy vai trò của mình trong việc sửa chữa
những “khiếm khuyết của thị trường” thông qua các chính sách bảo trợ xã hội,
xóa đói giảm nghèo, bảo vệ tài nguyên và môi trường. Tuy nhiên, những chuyển
biến tích cực trong việc xác định lại vai trò kinh tế của nhà nước thời gian qua vẫn
chưa đáp ứng đầy đủ yêu cầu của thời kỳ phát triển mới. Nhiều thách thức mới
nảy sinh như: chưa có sự phân định rõ vai trò “nhà nước là chủ thể quản lý kinh
tế” và vai trò “nhà nước là một nhà đầu tư phát triển;” phương thức quản lý nhà
nước về kinh tế còn nặng về can thiệp hành chính, còn mang tính ngắn hạn và bị
động; nhà nước còn can thiệp quá sâu vào quá trình vận hành của kinh tế thị
trường; năng lực bộ máy quản lý nhà nước còn hạn chế. Những thách thức trên
cho thấy, việc xác định vai trò kinh tế của nhà nước là một quá trình khó khăn,
phức tạp. Nền kinh tế mới của thế giới đang định hình, đòi hỏi tư duy thích ứng
về bàn tay quản lý của nhà nước trong khi thực hiện các nguyên tắc kinh tế thị
trường, tránh các cực đoan, phiến diện trong nhận thức, tăng cường sự phối hợp
đồng bộ các công cụ và cấp độ quản lý, giám sát chặt chẽ và chủ động xử trí kịp
thời các tác động mặt trái của kinh tế thị trường. Do vậy, sự linh hoạt của nhà
nước trong điều hành kinh tế, việc vận dụng “hai bàn tay” - cả vô hình lẫn hữu
4 Văn kiệnĐại hội Đảng lần thứ XI
19
hình mới là yếu tố quan trọng thúc đẩy nền kinh tế thị trường phát triển.
Việc xác định rõ hơn vai trò của nhà nước trong nền kinh tế thị trường ở
nước ta trong thời gian tới là cần thiết và cần chú ý một số điểm cơ bản sau đây:
Thứ nhất, cần phân định rõ chức năng quản lý nhà nước về kinh tế. Nhà
nước trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam phải thực hiện
vai trò quản lý vĩ mô đối với nền kinh tế, nghĩa là thực hiện tổng thể các tác
động có tổ chức bằng quyền lực của nhà nước đến toàn bộ nền kinh tế quốc dân
và các bộ phận cấu thành của nó, thông qua các công cụ kinh tế, pháp luật, hành
chính. Để thực hiện tốt chức năng này, nhà nước cần tập trung vào ổn định kinh
tế vĩ mô, tạo dựng một khuôn khổ thể chế và pháp lý hữu hiệu, đủ sức hỗ trợ sự
phát triển mọi thành phần kinh tế, đặc biệt là khu vực tư nhân và đẩy mạnh cạnh
tranh. Bên cạnh đó, cần từng bước hoàn thiện bộ máy quản lý nhà nước về kinh
tế. Đây cũng là một hướng quan trọng nhằm tạo dựng kết cấu hạ tầng thể chế
kinh tế toàn diện, bao gồm: cải cách tổ chức bộ máy hành chính, thủ tục hành
chính; nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ công chức quản lý nhà nước. Đồng
thời, phải coi kế hoạch hóa là công cụ quan trọng để nhà nước thực hiện chức
năng quản lý kinh tế. Công tác kế hoạch hóa cần đổi mới theo hướng gắn với thị
trường. Đổi mới tính chất, nội dung, phương pháp lập kế hoạch để các kế hoạch
trở thành công cụ hữu hiệu chống lại sự “mất ổn định” vốn thường xảy ra trong
kinh tế thị trường và trở thành công cụ bảo đảm định hướng phát triển dài hạn
của đất nước. Hoàn thiện, củng cố thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa . Thể chế đó vừa phải đảm bảo phát huy tối đa những ưu thế của cơ chế thị
trường, phát triển toàn diện các nguồn lực của nền kinh tế lại vừa phải đảm bảo
theo đúng định hướng XHCN. Phát triển đồng bộ và quản lý có hiệu quả sự vận
hành các loại thị trường cơ bản theo cơ chế cạnh tranh lành mạnh: phát triển thị
trường hàng hoá và dịch vụ; phát triển vững chắc thị trường tài chính; phát triển
thị trường bất động sản; phát triển thị trường sức lao động trong mọi khu vực
kinh tế; phát triển thị trường khoa học và công nghệ.
Thứ hai, thực hiện có hiệu quả chức năng kinh tế của nhà nước. Mặc dù
trong thời gian gần đây, nhà nước đã giảm mạnh sự can thiệp của mình vào lĩnh
vực sản xuất và phân phối hàng hóa, dịch vụ song trên thực tế, sự tham gia của
nhà nước vào kinh tế vẫn không chỉ dừng ở những lĩnh vực mà thị trường tỏ ra
20
kém hiệu quả. Thực tế phát triển kinh tế của nước ta cho thấy vẫn cần có sự hiện
diện của nhà nước trong nền kinh tế để phát huy mọi nguồn lực cho phát triển.
Để thực hiện có hiệu quả chức năng này, nhà nước cần phải xây dựng thành
phần kinh tế Nhà nước vững mạnh và hoạt động có hiệu quả vì đây là thành
phần kinh tế dựa trên sở hữu Nhà nước về vốn, các nguồn lực tài nguyên thiên
nhiên và về các tư liệu sản xuất chủ yếu. Theo quan điểm của Đảng ta trong Văn
kiện Đại hội X chỉ rõ: trong quá trình phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều
thành phần theo định hướng XHCN thì “Kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo,
là lực lượng vật chất quan trọng để Nhà nước định hướng và điều tiết nền kinh
tế, tạo môi trường và điều kiện thúc đẩy các thành phần kinh tế cùng phát triển”.
“Đẩy mạnh việc sắp xếp, đổi mới và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp Nhà nước,
trọng tâm là cổ phần hoá. Cơ cấu lại doanh nghiệp Nhà nước, tập trung chủ yếu
vào một số lĩnh vực kết cấu hạ tầng, sản xuất tư liệu sản xuất và dịch vụ quan
trọng của nền kinh tế, vào một số lĩnh vực công ích… Thúc đẩy việc hình thành
một số tập đoàn kinh tế mạnh, tầm cỡ khu vực, có sự tham gia cổ phần của Nhà
nước, của tư nhân trong và ngoài nước, các công ty bảo hiểm, các quỹ đầu tư…
trong đó Nhà nước giữ cổ phần chi phối”.Vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước
trong nền kinh tế thị trường phải được thể hiện trên hai mặt chủ yếu sau:
Một là, kinh tế Nhà nước phải nắm giữ và chi phối được các vị trí, các lĩnh
vực then chốt của nền kinh tế quốc dân, đó là hệ thống tài chính, ngân hàng và
bảo hiểm, các cơ sở sản xuất và kinh doanh dịch vụ quan trọng trong các ngành
của nền kinh tế quốc dân, những vị trí và lĩnh vực trọng yếu thuộc về kết cấu hạ
tầng kinh tế - xã hội… Qua đó, để có thể đảm bảo các cân đối lớn của nền kinh
tế, tác động tới tổng cung và tổng cầu, đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô.
Hai là, bộ phận kinh tế Nhà nước phải chuyển mạnh sang cơ chế kinh tế thị
trường, đảm bảo thực hiện kinh doanh với mục tiêu năng suất, chất lượng và
hiệu quả. Có như vậy mới lôi cuốn và chi phối được các thành phần kinh tế
khác, thúc đẩy quá trình tăng trưởng nhanh và bền vững. Để phát huy được vai
trò chủ đạo trên, các doanh nghiệp Nhà nước hiện nay ở nước ta đang trong quá
trình đổi mới và sắp xếp lại, thông qua một loạt các biện pháp như: giải thể, sát
nhập các xí nghiệp làm ăn thua lỗ và kém hiệu quả; tiến hành cổ phần hoá doanh
nghiệp Nhà nước; sắp xếp lại các tổng công ty theo mô hình công ty mẹ - công
21
ty con, tiến tới hình thành các tập đoàn kinh tế mạnh. Xây dựng bộ phận kinh tế
Nhà nước vững mạnh, hoạt động hiệu quả, đó chính là điều kiện vật chất hết sức
quan trọng để Nhà nước thực hiện chức năng điều tiết và quản lý vĩ mô nền kinh
tế theo đúng định hướng XHCN đồng thời phải thực hiện tốt việc hoạch định các
chính sách kinh tế, trong đó cần xác định rõ thứ tự các hướng ưu tiên để tập
trung hỗ trợ có hiệu quả về tài chính và các nguồn lực khan hiếm cho một số
lĩnh vực kinh tế.
Thứ ba, thực hiện tốt chức năng của nhà nước phúc lợi. Với nhiệm vụ xây
dựng kinh tế thị trường định hướng XHCN, bên cạnh việc chuyển đổi nền kinh
tế sang cơ chế thị trường, nước ta còn phải thực hiện mục tiêu định hướng
XHCN và phát triển bền vững. Điều đó có nghĩa là, bên cạnh mục tiêu hiệu quả
kinh tế (tốc độ tăng trưởng, GDP/người), các chỉ tiêu khác về mặt xã hội (phát
triển văn hóa xã hội, giáo dục, y tế, việc làm, xóa đói giảm nghèo, đảm bảo môi
trường, môi sinh...) cũng cần được chú trọng kết hợp. Mục đích của sự kết hợp
này là vừa đảm bảo để các chủ thể thị trường đạt được mục tiêu lợi nhuận cao,
vừa tạo ra môi trường chính trị, xã hội ổn định hài hòa, làm nền tảng cho phát
triển bền vững kinh tế. Cần làm rõ nhận thức rằng thị trường là điều kiện cần
chứ không thể là điều kiện đủ cho một xã hội tự do, thịnh vượng, công bằng và
ổn định. Vì thế, nhà nước không thể chỉ hạn chế phạm vi hoạt động của mình
trong việc tôn trọng các quy luật và nguyên tắc của kinh tế thị trường mà còn
phải có trách nhiệm xây dựng, bảo đảm thực thi có hiệu quả các chính sách cần
thiết cho một xã hội phát triển công bằng, dân chủ, văn minh với một môi
trường sống trong sạch, lành mạnh.
KẾT LUẬN
Trong sự vận động phát triển của kinh tế thế giới việc nhà nước tham gia
quản lí nền kinh tế là tất yấu khách quan, một mặt khắc phục những hạn chế,
khuyết tật của cơ chế thị trường gây ra đồng thời thực hiện vai trò phúc lợi xã hội
nhằm đạt mục tiêu phát triển kinh tế xã hội của từng quốc gia trong từng điều kiện
lịch sử cụ thể. Đối với nước ta vai trò quản lý của nhà nước trong nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN là tất yếu khách quan. Việc quản lí kinh tế của Nhà
nước ở Việt Nam cùng một lúc phải thực hiện nhiều vai trò khác nhau. Bên cạnh
vai trò xây dựng, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường, tạo dựng và cải thiện môi
22
trường kinh tế vĩ mô, môi trường kinh doanh, can thiệp vào nền kinh tế với mục
tiêu sửa chữa những khuyết tật của thị trường, nhà nước còn phải thực hiện cả
chức năng phát triển kinh doanh và bảo đảm xã hội cho người dân. Đây là những
nhiệm vụ không dễ dàng, đòi hỏi nỗ lực cao từ phía nhà nước, người dân và các
tác nhân khác trong nền kinh tế. Trên cơ sở quan niệm lý thuyết về vai trò của nhà
nước đối với kinh tế thị trường trong lịch sử học thuyết kinh tế và những mô hình
thực tiễn về nhà nước trong nền kinh tế ở một số quốc gia, có thể thấy tương quan
chức năng, vai trò của nhà nước và thị trường không phải là phạm trù bất biến mà
luôn biến động. Điều đó đòi hỏi tư duy thích ứng về bàn tay quản lý, điều tiết
của Nhà nước trong khi thực hiện các nguyên tắc kinh tế thị trường, tránh các
cực đoan, phiến diện trong nhận thức và hành động. Sự linh hoạt của Nhà nước
trong điều hành kinh tế tức là việc kết hợp khéo léo cơ chế thị trường và sự điều
tiết của nhà nước mới là yếu tố quan trọng của một nền kinh tế thị trường đúng
nghĩa.
23