Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

TÀI LIỆU THAM KHẢO tư TƯỞNG hồ CHÍ MINH về cơ cấu KINH tế NHIỀU THÀNH PHẦN và sự vận DỤNG của ĐẢNG TA

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (115.6 KB, 21 trang )

Mở đầu
QUAN ĐIỂM HỒ CHÍ MINH VỀ CƠ CẤU KINH TẾ NHIỀU
THÀNH PHẦN VÀ SỰ VẬN DỤNG CỦA ĐẢNG TA
Chủ tịch Hồ Chí Minh là nhà tư tưởng vĩ đại, nhà lý luận thiên tài của
cách mạng Việt Nam. Người đã nêu một tấm gương sáng trong việc tiếp thu
và vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin trên tinh thần độc lập dân tộc, tự chủ và
sáng tạo. Người đã “nắm bắt sâu sắc bản chất cách mạng và khoa học, tinh
thần biện chứng và nhân đạo của học thuyết Mác - Lênin, vận dụng một cách
sáng tạo học thuyết ấy phù hợp với hoàn cảnh thực tế nước ta. Trong cuộc
đời hoạt động cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại di sản tư tưởng
rất quý báu trên nhiều lĩnh vực. Tư tưởng của Người đã soi đường cho
cuộc đấu tranh của Nhân dân ta đi từ hết thắng lợi này đến thắng lợi
khác. Trong hệ thống tư tưởng của Hồ Chí Minh, tư tưởng về kinh tế là di
sản vô giá của Người để lại cho Đảng và nhân dân ta, bao gồm những nội dung
chủ yếu về mục đích kinh tế, về vị trí, vai trò của nông nghiệp, về nền kinh tế
nhiều thành phần... Tư tưởng về cơ cấu kinh tế nhiều thành phần là một bộ phận
tư tưởng của Người về nền kinh tế xã hội chủ nghĩa.
Tư tưởng kinh tế Hồ Chí Minh nói chung và tư tưởng của Người
về cơ cấu kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội nói riêng chủ yếu được thể hiện trong các bài nói, bài viết của Người.
Những tư tưởng đó bao giờ cũng được Người diễn đạt một cách ngắn
gọn, súc tích dễ hiểu và dễ nhớ. Điều đó xuất phát từ mục đích của người
là nhằm tuyên truyền, vận động, giáo dục, thuyết phục quần chúng nhân
dân. Trong các bài viết, bài nói Người đã nhiều lần đề cập về vấn đề cơ
cấu kinh tế nhiều thành phần nói chung và cụ thể về vị trí, vai trò và
cách cải tạo từng thành phần kinh tế


NỘI DUNG
1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về cơ cấu các thành phần kinh tế
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam


Trung thành với CNM-LN, HCM khẳng định việc trải qua TKQĐ là
bước đi tất yếu của con đường tiến lên CNXH. Hồ Chí Minh cho rằng: "Có
nước thì đi lên chủ nghĩa xã hội (cộng sản) như Liên Xô, có nước phải kinh
qua chế độ dân chủ mới rồi tiến lên chủ nghĩa xã hội" như các nước Đông
Âu, Trung Quốc, Việt Nam. "chế độ dân chủ mới" ở đây có thể hiểu theo
Hồ Chí Minh là thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Người chỉ rõ: “Con
đường của chúng ta ngày nay ở miền Bắc là qua TKQĐ tiến lên CNXH chỉ
có đi theo con đường ấy, miền Bắc nước ta mới vĩnh viễn thoát khỏi cảnh
đói nghèo, lạc hậu và xây dựng cơ sở vững chắc cho sự nghiệp thống nhất
Tổ quốc”1. Trên cơ sở phân tích, đánh giá tình hình thực tiễn nước ta.
Người lý giải: nước ta phải trải qua một giai đoạn dân chủ mới vì "đặc
điểm to lớn của thời kỳ quá độ là một nước nông nghiệp lạc hậu tiến
thẳng lên chủ nghĩa xã hội không phải kinh qua giai đoạn phát triển tư
bản chủ nghĩa" 2. Đây là điểm xuất phát của quá trình đi lên chủ nghĩa xã
hội ở nước ta. Chính điểm xuất phát này là cơ sở khách quan quy định
tính chất phức tạp của kết cấu kinh tế - xã hội và sự tồn nhiều hình thức
sở hữu khác nhau tương ứng với nó là sự tại nhiều thành phần kinh tế
khác nhau. (Kinh tế địa chủ phong kiến bóc lột địa tô; Kinh tế quốc doanh
có tính chất chủ nghĩa xã hội; Các HTX tiêu thụ và HTX cung cấp, có tính
chất nửa CNXH; Kinh tế cá nhân của nông dân và của thủ công nghệ; Kinh
tế tư bản tư nhân; Kinh tế tư bản quốc gia3)

1

Hồ Chí Minh, toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, T10, tr79

2

Sđd, tập 10, tr.13


3

Sđd, tập 7, tr 221.

2


Kinh tế địa chủ phong kiến bóc lột địa tô. Đây là thành phần kinh
tế của chế độ xã hội phong kiến. Trong đó, giai cấp địa chủ chiếm ruộng
đất và nông cụ nhưng không cày cấy, "không nhắc chân đụng tay mà lại
cửa cao nhà rộng, phú quý phong lưu" còn nông dân phải mướn ruộng
của địa chủ phải nộp tô, phải hầu hạ "nông dân không khác gì nô lệ" 4.
Trong chế độ mới, thành phần kinh tế đó đã lỗi thời, chỉ còn là tàn dư.
Nhưng để thực hiện chính sách đại đoàn kết dân tộc, phục vụ chiến lược
giải phóng dân tộc, nhằm thu hút số địa chủ vừa và nhỏ theo cách mạng,
ủng hộ kháng chiến, Hồ Chí Minh không chủ trương xóa bỏ thành phần
kinh tế này mà chỉ thực hiện giảm tô, giảm tức, tạo điều kiện cho thành
phần kinh tế này đóng góp cho kháng chiến.
Kinh tế quốc doanh: gồm các cơ sở sản xuất, kinh doanh của nhà
nước, là của chung nhân dân, phục vụ lợi ích của xã hội... Đây là thành
phần kinh tế ra đời trong chế độ dân chủ mới, có vai trò đáp ứng yêu cầu
to lớn và quan trọng của toàn xã hội, của cuộc kháng chiến chống thực
dân Pháp xâm lược. Theo Hồ Chí Minh, kinh tế quốc doanh là "nền tảng
và sức lãnh đạo của kinh tế dân chủ mới. Cho nên chúng ta phải ra sức
phát triển nó và nhân dân ta phải ủng hộ nó" 5.
Kinh tế tư bản tư nhân: là thành phần kinh tế của giai cấp tư sản
dân tộc. Giai cấp tư sản nước ta mới ra đời, còn non yếu do bị tư bản
nước ngoài chèn ép. Tuy nhiên "về mặt sản xuất so với chế độ phong
kiến thì chế độ tư bản là một tiến bộ to" 6. Họ có nhiều kinh nghiệm sản
xuất, sử dụng vốn, khoa học kỹ thuật "cho nên, Chính phủ cần giúp họ

phát triển. Nhưng họ phải phục tùng sự lãnh đạo của kinh tế quốc gia,
phải phù hợp với lợi ích của đại đa số nhân dân" 7.
4

Sđd, tập 7, tr.203

5

Sđd, tập 7, tr 201

6

Sđd, tập 7, tr 201

7

Sđd, tập 7, tr 202

3


Kinh tế tư bản quốc gia: Đây là thành phần kinh tế do Nhà nước và
nhà tư bản cùng góp vốn với nhau để kinh doanh do Nhà nước lãnh đạo.
Tư bản của tư nhân là tư bản chủ nghĩa. Tư bản của Nhà nước là xã hội
chủ nghĩa. Theo Lênin, thành phần kinh tế này là nấc thang, bước trung
gian để một nước kém phát triển đi lên chủ nghĩa xã hội. Và thành phần
kinh tế "nửa chủ nghĩa xã hội" này sẽ tồn tại lâu dài trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội.
Ngoài ra còn có kinh tế hợp tác xã tiêu thụ và hợp tác xã cung cấp
có tính chất nửa xã hội chủ nghĩa; kinh tế cá thể của nông dân và của thủ

công nghệ.
Năm 1954 miền Bắc đi lên chủ nghĩa xã hội, dưới chế độ dân chủ
mới. Người khẳng định, ở miền Bắc khi bước vào thời kỳ quá độ còn tồn
tại 5 thành phần kinh tế. Đó là, kinh tế quốc doanh, kinh tế tập thể, kinh tế
cá thể của người lao động, kinh tế tư bản tư nhân và kinh tế tư bản nhà
nước. Trong các thành phần kinh tế đó, thì thành phần kinh tế xã hội chủ
nghĩa dưới hai hình thức là toàn dân và tập thể giữ vị trí cao nhất và ngày
càng được mở rộng, phát triển trong nền kinh tế quốc dân, có vai trò là định
hướng, dẫn dắt các thành phần kinh tế khác phát triển theo định hướng xã
hội chủ nghĩa. Trên cơ sở sự thừa nhận khách quan các thành phần kinh tế
trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta Người đã đã chỉ ra biện
pháp sử dung và phát triền các thành phần kinh tế nhằm làm cho nền kinh
tế trở nên thuần nhất dựa trên chế độ sở xã hội chủ nghĩa.
* Đối với kinh tế quốc doanh.
Người chỉ rõ, “Kinh tế quốc doanh là hình thức sở hữu toàn dân, nó
lãnh đạo nền kinh tế quốc dân và Nhà nước phải bảo đảm cho nó phát triển
ưu tiên”8. Theo Người kinh tế quốc doanh là thành phần kinh tế xã hội chủ
nghĩa dựa trên hình thức sở hữu toàn dân giữ vai trò chủ đạo các thành
8

Hồ Chí Minh toàn tập, Tập 9, Nxb,CTQG, H, 1996, Tr: 588.

4


phần kinh tế khác. Vì, kinh tế quốc doanh là nền tảng kinh tế của chế độ
mới, là chỗ dựa vững chắc của nhân dân. Kinh tế quốc doanh ra đời trên cơ
sở do quốc hữu hoá xã hội chủ nghĩa, quá trình cải tạo xã hội chủ nghĩa và
xây dựng mới các cơ sở kinh tế của chủ nghĩa xã hội. Do đó, nó quyết định
bản chất của các quan hệ kinh tế – xã hội. Vai trò chủ đạo của kinh tế quốc

doanh thể hiện ở chỗ: Đây là thành phần kinh tế chính tồn tại trong các lĩnh
vực kinh tế then chốt, ảnh hưởng to lớn đến nền kinh tế quốc dân, tác dụng
hướng dẫn các thành phần kinh tế khác và định hướng tất cả các quan hệ và
hoạt động kinh tế. Hồ Chí Minh khẳng định: “Chúng ta phải phát triển
thành phần kinh tế quốc doanh để tạo nền tảng vật chất cho chủ nghĩa xã
hội và thúc đẩy cải tạo xã hội chủ nghĩa” 9. Vì vậy, theo Hồ Chí Minh, Nhà
nước xã hội chủ nghĩa phải bảo vệ, giúp đỡ, ưu tiên mọi mặt cho thành
phần kinh tế này để cho nó ngày càng được mở rộng và tăng cường, thực
sự là nền tảng giữ vai trò chủ đạo của nền kinh tế quốc dân.
* Đối với kinh tế hợp tác xã
Trong tất cả các TPKT tồn tại trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước
ta, HCM quan tâm nhiều nhất đến phát triển của kinh tế HTX. Người đã dành
nhiều thời gian và công sức để nghiên cứu lý luận tuyên truyền, vận động và
chỉ đạo thực hiện phong trào hợp tác hóa nhằm thúc đẩy sự ra đời, phát triển
và củng cố HTX.
Trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945, HCM đã đề cập những vấn
đề lý luận cơ bản về hợp tác xã (thể hiện tập trung trong cuốn sách Đường
Kách mệnh, viết năm 1925). Trong cuốn sách này, Người đã chỉ ra mục
đích của HTX; các hình thức HTX; cách thức tổ chức HTX.
Sau khi hoàn thành công cuộc khôi phục kinh tế (1955 - 1957), miền
Bắc bước vào thời kỳ cải tạo và xây dựng CNXH, mặc dù bận rất nhiều
công việc nhưng HCM luôn quan tâm đến việc xây dựng và củng cố HTX.
9

Sđd, Tập 9, tr: 588.

5


Trên giường bệnh Bác vẫn cố gắng viết lời giới thiệu Điều lệ tóm tắt HTX

sản xuất nông nghiệp. Nội dung cốt lõi cơ bản trong quan điểm HCM về
HTX là: “Đường lối cải tạo XHCN của Đảng đối với nông nghiệp là đưa
nông dân làm ăn riêng lẻ đi dần từ tổ đổi công (có mần mống XHCN), tiến
lên HTX cấp thấp (nửa XHCN), rồi tiến lên HTX cấp cao (XHCN)”10
Theo Hồ Chí Minh: “Kinh tế hợp tác xã là hình thức tập thể của nhân
dân lao động; Nhà nước đặc biệt khuyến khích hướng dẫn và giúp đỡ cho
nó phát triển”11. Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: đây là một thành phần kinh tế cơ
bản dưới chủ nghĩa xã hội dựa trên sở hữu tập thể của người lao động mà
giai cấp nông dân tập thể đại diện cho thành phần kinh tế này. Kinh tế hợp
tác xã nằm trong quá trình vận động theo các nấc từ thấp đến cao, tương
ứng với các trình độ phát triển của lực lượng sản xuất xã hội. Quá trình vận
động này có quy luật đặc thù tất yếu khách quan và không thể bỏ qua một
cách tuỳ tiện. Do vậy, theo Người: phát triển hợp tác xã phải tuân theo
nguyên tắc tự nguyện, cùng có lợi, không gò ép, mệnh lệnh, hình thức và
tiến dần từ thấp đến cao. Phải quản lý hợp tác xã thật tốt, phải làm cho thu
nhập của người xã viên hợp tác xã nhiều hơn thu nhập của người nông dân
làm ăn cá thể. Phải chú trọng phân phối công bằng, cán bộ phải chí công,
vô tư. Phải chú trọng chất lượng, tránh chạy theo số lượng. Kết hợp việc
xây dựng hợp tác xã với việc củng cố những hợp tác xã đã có, đặc biệt phải
ra sức thực hiện cần kiệm xây dựng hợp tác xã. chính vì vậy, đối với kinh tế
hợp tác xã Hồ Chí Minh chỉ rõ: phải tăng cường sự lãnh đạo của Đảng từ
Trung ương đến cơ sở, Người coi chi bộ là “cái gốc” trong việc lãnh đạo
hợp tác xã, Người nói: “Chi bộ tốt thì ban quản trị tốt, ban quản trị tốt thì
xã viên mới đoàn kết và hăng hái sản xuất, hợp tác xã mới được củng cố và

10

Sđd, tập 10, tr 15.

11


Sđd, Tập 9, tr: 588.

6


phát triển tốt”12. Người căn dặn từ cấp uỷ Đảng đến đảng viên phải gương
mẫu thực hiện đường lối, chính sách của Đảng và Chính phủ, tôn trọng và
phát huy quyền làm chủ của xã viên, phải triệt để chống tham ô, lãng phí,
quan liêu, mệnh lệnh, ra sức học tập để nâng cao trình độ văn hoá và kỹ
thuật để làm tròn nhiệm vụ lãnh đạo của mình trong giai đoạn mới. Vì vậy,
kinh tế hợp tác xã phải được nhà nước bảo vệ, khuyến khích và giúp đỡ nó
phát triển để cùng với kinh tế quốc doanh trở thành nền tảng của nền kinh
tế quốc dân.
* Đối với thành phần kinh tế cá thể của những người lao động riêng
lẻ.
Đây là kinh tế cá thể của những nông dân lao động tiểu thủ công,
tiểu thương nghiệp. Do vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Đối với những
người làm nghề thủ công lao động riêng lẻ khác, Nhà nước bảo hộ quyền
sở hữu về tư liệu sản xuất của họ, ra sức hướng dẫn giúp đỡ họ cải tiến
cách làm ăn khuyến khích họ tổ chức hợp tác xã theo nguyên tắc tự
nguyện”13. Bởi vì, theo Hồ Chí Minh thành phần kinh tế này dựa trên chế
độ tư hữu nhỏ về tư liệu sản xuất và lao động cá nhân của bản thân người
sản xuất nhỏ, nên họ có tính hai mặt. Một mặt, nó tồn tại trên chế độ tư
hữu, do vậy nó luôn sinh ra chủ nghĩa tư bản. Mặt khác, nó dựa trên sự lao
động của người sản xuất nhỏ bị kinh tế tư bản chèn ép và bị bóc lột, nên có
khả năng phát triển lên chủ nghĩa xã hội. Do đó, Nhà nước xã hội chủ nghĩa
phải có chính sách đúng đắn, phù hợp để hướng dẫn và giúp đỡ họ làm ăn
theo chủ nghĩa xã hội.
Đối với nông nghiệp nhỏ cá thể. Căn cứ vào tình hình thực tiễn ở

nước ta; Hồ Chí Minh khẳng định phải hợp tác hoá nông nghiệp là con
12

Hồ Chí Minh toàn tập, Tập 9, Nxb,CTQG, H, 1996, Tr: 589.

13

Hồ Chí Minh toàn tập, Tập 9, Nxb,CTQG, H, 1996, Tr: 589.

7


đường duy nhất để cải tạo nông nghiệp nhỏ cá thể ở miền Bắc. Vì, theo Hồ
Chí Minh đây là con đường dễ được nông dân đồng tình, hưởng ứng, nó
phù hợp với khả năng, điều kiện ở Việt Nam để từng bước tiến lên chủ
nghĩa xã hội. Vì vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta chủ trương từng
bước đưa nông dân vào con đường hợp tác hoá nông nghiệp bằng những
bước đi và hình thức thích hợp, phù hợp với trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất, trình độ tổ chức, quản lý của cán bộ cũng như trình độ nhận
thức giác ngộ của nông dân. Người nói: “Không có con đường nào khác,
chỉ có vào tổ đổi công, tiến lên hợp tác xã, nông dân mới có thêm sức cải
tiến kỹ thuật đẩy mạnh sản xuất. Do đó, mà đưa nông thôn miền Bắc nước
ta đến chỗ ấm no, sung sướng và góp phần quan trọng trong xây dựng công
nghiệp nước nhà”14. Hồ Chí Minh còn vạch rõ đường lối cải tạo xã hội chủ
nghĩa ở miền Bắc của Đảng ta đối với nông nghiệp là: “Đưa nông dân làm
ăn riêng lẻ đi dần từ tổ đổi công (có mầm mống xã hội chủ nghĩa) tiến lên
hợp tác xã cấp thấp (nửa xã hội chủ nghĩa) rồi tiến lên hợp tác xã bậc cao
(xã hội chủ nghĩa)”15. Để thực hiện đường lối cải tạo đố, Hồ Chí Minh chỉ
rõ: quá trình hợp tác hoá luôn đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng và có sự giúp
đỡ của Nhà nước xã hội chủ nghĩa. Vì vậy, chúng ta phải phát triển kinh tế

quốc doanh, để tạo nền tảng vật chất cho chủ nghĩa xã hội và thúc đẩy việc
cải tạo xã hội chủ nghĩa.
Đối với thủ công nghiệp, tiểu thương và những người lao động riêng
lẻ khác, bao gồm nhiều ngành nghề với lực lượng đông đảo, sản xuất hàng
vạn mặt hàng tiêu dùng cho xã hội. Họ rất gần gũi với nông dân, song họ
lại là tư hữu nhỏ và tư lợi, sản xuất tự phát, quy mô phân tán, có xu hướng
tự phát phát triển theo hướng tư bản chủ nghĩa. Từ thực tiễn đó Hồ Chí
Minh và Đảng ta chỉ rõ: về phương châm và nguyên tắc cải tạo như những
14

Hồ Chí Minh toàn tập, Tập 9, Nxb,CTQG, H, 1996, Tr: 487.

15

Hồ Chí Minh toàn tập, Tập 10, Nxb,CTQG, H, 1996, Tr: 15.

8


người sản xuất nhỏ trong nông nghiệp; tức là hướng họ vào hợp tác xã, theo
các nguyên tắc của hợp tác xã; mặt khác Nhà nước xã hội chủ nghĩa phải
giúp đỡ, hướng dẫn họ đi vào hợp tác xã theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
* Đối với kinh tế tư bản chủ nghĩa.
Theo Hồ Chí Minh, kinh tế tư bản chủ nghĩa gồm có kinh tế tư bản
tư nhân và kinh tế tư bản quốc gia (kinh tế tư bản nhà nước). Người giải
thích: “Kinh tế tư bản tư nhân. Họ bóc lột công nhân, nhưng đồng thời họ
cũng góp phần vào xây dựng kinh tế” và “kinh tế tư bản quốc gia là Nhà
nước hùn vốn với tư nhân để kinh doanh do Nhà nước lãnh đạo. Trong loại
này, tư bản của tư nhân là chủ nghĩa tư bản – tư bản của Nhà nước là chủ
nghĩa xã hội”16.

Như vậy, thành phần kinh tế tư bản chủ nghĩa dựa trên chế độ chiếm
hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất. Vì vậy, về bản chất, đối
lập với giai cấp công nhân. Song, thành phần kinh tế này, căn cứ vào sự
phân tích khoa học những đặc điểm kinh tế tư bản chủ nghĩa và thái độ
chính trị của giai cấp tư sản dân tộc ở miền Bắc nước ta, trong điều kiện
chính quyền dân chủ nhân dân ngày càng củng cố và không ngừng lớn
mạnh. Vấn đề này, Chủ tịch Hồ Chí Minh dùng phương pháp hoà bình để
cải tạo: “Không xoá bỏ quyền sở hữu về tư liệu sản xuất và của cải khác
của họ mà ra sức hướng dẫn họ cải tạo theo chủ nghĩa xã hội bằng những
hình thức công tư hợp doanh và hình thức cải tạo khác”17.
Như vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xuất phát từ những nguyên lý của
chủ nghĩa Mác – Lênin, vận dụng sáng tạo vào điều kiện, hoàn cảnh cụ thể
của cách mạng Việt Nam, Người đã vượt lên những định kiến giai cấp tầm
thường, đã nhiều lần nhắc nhở cán bộ , đảng viên của Đảng về cải tạo hoà
bình đối với giai cấp tư sản dân tộc: “Về kinh tế, chúng ta không tịch thu tư
16

Sđd, Tập 7, Tr 221.

17

Sđd, Tập 9, Tr 589.

9


liệu sản xuất của họ, mà dùng chính sách chuộc lại; về chính trị, chúng ta
vẫn cho họ có quyền lợi chính đáng, họ vẫn được giữ địa vị một thành viên
trong mặt trận Tổ quốc”18. Hồ Chí Minh đã phân tích thực trạng nước ta đi
lên xây dựng chủ nghĩa xã hội từ một nước thuộc địa nửa phong kiến.

Trong khi đó, giai cấp tư sản dân tộc đã nhỏ bé lại bị đế quốc và phong kiến
chèn ép, nên đã có nhiều người đi theo nhân dân lao động để chống lại sự
chèn ép đó. Hồ Chí Minh cho rằng đây là mặt ưu điểm của họ. Song, do
bản chất của giai cấp tư sản là dựa trên chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản
chủ nghĩa về tư liệu sản xuất, trong điều kiện miền Bắc đi lên chủ nghĩa xã
hội thì không phù hợp với ý nguyện của họ và họ cũng không thể đứng
ngoài dân tộc Việt Nam. Thực tiễn, đã có nhiều nhà tư sản dân tộc tiếp thu,
giác ngộ cách mạng, tự nguyện cải tạo và họ đã hoà mình vào cuộc sống
của nhân dân lao động để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đây là con đường
vẻ vang của họ, Hồ Chí Minh chỉ rõ: chỉ có giai cấp tư sản đi theo con
đường đó thì họ cũng được Đảng, Nhà nước giúp đỡ cải tạo và con em của
họ cũng được đối xử như những thanh niên khác, như vậy địa vị xã hội và
tương lai của giai cấp tư sản được bảo đảm. Những lý giải trên của Người
đầy thuyết phục, Hồ Chí Minh không chỉ đứng trên lập trường của giai cấp
công nhân mà còn xuất phát từ lợi ích sống còn của giai cấp tư sản để xây
dựng đường lối cải tạo, xây dựng chủ nghĩa xã hội, thu hút mọi lực lượng
yêu nước tiến hành xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc trong những
năm đầu của công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa.
Với những chủ trương đúng đắn đó, Hồ Chí Minh và Đảng ta đã tiến
hành cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh bằng nhiều hình thức đa
dạng của chủ nghĩa tư bản nhà nước với những hình thức thấp và vừa như:
gia công, đại lý, đặt hàng… Như vậy, theo Hồ Chí Minh, cải tạo xã hội chủ
nghĩa đối với công thương nghiệp tư bản tư doanh phải trải qua hai giai
18

Sđd, Tập 10, Tr 15.

10



đoạn. Một là, đưa công thương nghiệp tư bản chủ nghĩa vào chủ nghĩa tư
bản nhà nước, vì theo Hồ Chí Minh: “Tư bản của nhà nước là chủ nghĩa xã
hội”, mà Lênin coi đây là hình thức kinh tế đã có đến 2/3 chủ nghĩa xã hội.
Hai là, chuyển từ chủ nghĩa tư bản nhà nước thành kinh tế xã hội chủ nghĩa.
Đến đây, chúng ta thấy rằng, kinh tế tư bản nhà nước trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội chính là nhịp cầu nối liền giữa chủ nghĩa tư bản và chủ
nghĩa xã hội. Đây chính là con đường, biện pháp để từng bước thực hiện
mục tiêu của cách mạng Việt Nam. Hồ Chí Minh khẳng định đối với thành
phần kinh tế tư bản chủ nghĩa trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam vẫn còn có những tác dụng và cần thiết nhất định để phục vụ cho
công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Từ đó, Hồ Chí Minh xác định: “Là
lực lượng cần thiết cho công cuộc xây dựng kinh tế nước nhà. Cho nên
chính phủ cần giúp đỡ họ phát triển, nhưng họ phải phục tùng sự lãnh đạo
của kinh tế quốc gia, phải hợp với lợi ích của đại đa số nhân dân”19.
2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về cải tạo các thành phần kinh tế
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
Sau năm 1954, miền Bắc bước ngay vào công cuộc xây dựng chủ
nghĩa xã hội. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: miền Bắc tiến lên chủ
nghĩa xã hội thì tất yếu phải cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với nền kinh tế.
Theo Hồ Chí Minh, cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với nền kinh tế có nghĩa là:
“Cải tạo xã hội cũ thành xã hội mới, một xã hội không còn chế độ người
bóc lột người, một xã hội bình đẳng, nghĩa là ai cũng phải lao động và có
quyền lao động, ai làm nhiều hưởng nhiều, làm ít hưởng ít, không làm
không hưởng”20. Như vậy, theo Hồ Chí Minh thực chất cải tạo xã hội chủ
nghĩa đối với nền kinh tế chính là việc từng bước xoá bỏ quan hệ sản xuất
cũ, xoá bỏ ách áp bức bóc lột và mọi nguồn gốc sinh ra bóc lột. Quá trình
19

Sđd, Tập 7, Tr 221.


20

Sđd, Tập 9, Tr 23.

11


cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với nền kinh tế phải sử dụng và cải tạo đúng
đắn các thành phần kinh tế. Đặc biệt, Hồ Chí Minh nhấn mạnh phải coi
trọng việc phát triển thành phần kinh tế quốc doanh đảm bảo vai trò chủ
đạo của nó trong nền kinh tế quốc dân.
Trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, chúng ta phải cải tạo xã
hội chủ nghĩa đối với nền kinh tế cũ và xây dựng nền kinh tế mới, trong đó
xây dựng là nhiệm vụ cơ bản và lâu dài. Bởi vì, xuất phát từ đặc điểm của
nền kinh tế nước ta khi bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là từ
một nền kinh tế lạc hậu, kém phát triển, lại phải trải qua chiến tranh tàn phá
nặng nề. Vì vậy, trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam còn
tồn tại các trình độ phát triển khác nhau của lực lượng sản xuất với các hình
thức sở hữu khác nhau và tương ứng là các thành phần kinh tế khác nhau.
Sự tồn tại các thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ là một tất yếu khách
quan. Từ thực tiễn đó, trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội nhất thiết
đặt ra vấn đề là phải cải tạo quan hệ sản xuất cũ, xây dựng quan hệ sản xuất
mới, sử dụng và cải tạo đúng đắn các thành phần kinh tế để thúc đẩy lực
lượng sản xuất phát triển; từng bước hoàn thiện quan hệ sản xuất lớn xã hội
chủ nghĩa. Có như vậy, nền kinh tế mới phát triển và vượt qua những khó
khăn. Mặt khác, cải tạo xã hội chủ nghĩa các thành phần kinh tế còn góp
phần từng bước xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội. Khi
miền Bắc bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội với đặc điểm từ
một nước nông nghiệp lạc hậu, không qua giai đoạn phát triển tư bản chủ
nghĩa nên cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội hầu như chưa đáp

ứng được yêu cầu phát triển của nền kinh tế nước nhà. Vì vậy, yêu cầu
khách quan lúc này là phải có một sức mạnh vật chất và tinh thần để chi
viện cho miền Nam đánh Mỹ và thắng Mỹ. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ:
“Nhiệm vụ quan trọng nhất của chúng ta là phải xây dựng nền tảng vật chất
và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, đưa miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội,

12


có công nghiệp và nông nghiệp hiện đại và khoa học tiên tiến. Trong quá
trình cách mạng xã hội chủ nghĩa chúng ta phải cải tạo nền kinh tế cũ, xây
dựng nền kinh tế mới, mà xây dựng là then chốt lâu dài” 21. Cải tạo xã hội
chủ nghĩa đối với nền kinh tế là một tất yếu nhằm từng bước xây dựng cơ
sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và tạo ra sức mạnh
vật chất và tinh thần để giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Cải tạo
xã hội chủ nghĩa đối với nền kinh tế ở nước ta còn do yêu cầu khách quan
của việc củng cố và xây dựng Nhà nước xã hội chủ nghĩa khi cách mạng
Việt Nam chuyển sang giai đoạn cách mạng mới. Đồng thời còn xuất phát
từ mối quan hệ chặt chẽ giữa các lĩnh vực của nền kinh tế như nông nghiệp,
công nghiệp, thương nghiệp… Nhận thức và đánh giá đúng đặc điểm của
nền kinh tế nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Chủ tịch Hồ
Chí Minh yêu cầu, cần thiết phải cải tạo trên mọi lĩnh vực của nền kinh tế
nhưng lĩnh vực cần tập trung nhất là nông nghiệp. Nền kinh tế nước ta,
nông nghiệp chiếm tỷ trọng lớn của nền kinh tế quốc dân, sản xuất nhỏ
chiếm bộ phận lớn trong nông nghiệp. Mặt khác, nông nghiệp lại là nơi
cung cấp lương thực, thực phẩm và nguyên liệu cho công nghiệp, là nguồn
xuất khẩu hết sức quan trọng, là thị trường tiêu thụ lớn của công nghiệp.
Theo Hồ Chí Minh, phải phát triển cả công nghiệp và nông nghiệp vì
công nghiệp và nông nghiệp như hai chân của nền kinh tế, muốn tiến lên
chủ nghĩa xã hội nhất thiết phải phát triển đồng thời cả hai ngành đó. Trong

khi đó, miền Bắc nước ta kinh tế nông nghiệp nông thôn nhỏ lẻ, manh mún,
chịu ảnh hưởng của tàn dư xã hội cũ để lại và từ hậu quả của chủ nghĩa
thực dân và nhiều yếu tố khác. Mặt khác, cuộc cách mạng ruộng đất mới
chỉ giải phóng cho nông dân thoát khỏi quan hệ phong kiến chứ chưa thoát
khỏi sự nghèo đói một cách triệt để. Chính Ph. Ănghen đã nêu rõ, nếu
không tiếp tục cải tạo nông nghiệp nhỏ cá thể, thì kết quả là chúng ta sẽ
21

Sđd, Tập 10, Tr 13.

13


không giải phóng được nông dân mà chỉ kéo dài thời gian tiêu vong của họ
thêm một chút nữa.
Từ những vấn đề trên, đặt ra yêu cầu phải cải tạo toàn diện nền kinh
tế, đặc biệt là đối với nông nghiệp là cho nền kinh tế phát triển cân đối.
Đến đây, cũng đặt ra vấn đề là phát triển các thành phần kinh tế trong thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là tất yếu khách quan.
Tóm lại, những quan điểm trên thể hiện rất rõ tư tưởng Hồ Chí
Minh về cơ cấu kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội. Quan điểm đó thể hiện sự mẫn cảm trong tư tưởng Hồ Chí
Minh về việc nắm bắt và vận dụng các quan điểm mác xít, khắc phục
trên thực tế xu hướng tả khuynh trong đường lối xây dựng chủ nghĩa ở
nhiều Đảng Cộng sản và công nhân khi hiểu không đúng về luận điểm
của Mác và Ăngghen: "Những người cộng sản có thể tóm tắt lý luận của
mình thành công thức duy nhất là xóa bỏ chế độ tư hữu".
Phải hiểu rằng không phải những người cộng sản thủ tiêu chế độ
tư hữu nói chung mà thủ tiêu chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa. Bởi vì khi
trả lời câu hỏi: "Liệu có thể xóa bỏ chế độ tư hữu ngay lập tức được

không?". Mác, Ăngghen đã khẳng định: "Không, không thể được, cũng y
như không thể làm cho lực lượng sản xuất hiện có tăng lên ngay lập tức
đến mức cần thiết để xây dựng một nền kinh tế công hữu. Cho nên cuộc
cách mạng của giai cấp vô sản đang có tất cả các triệu chứng là sắp nổ ra
sẽ chỉ có thể cải tạo xã hội hiện nay một cách dần dần và chỉ khi nào tạo
nên một khối lượng tư liệu sản xuất cần thiết cho việc cải tạo đó thì mới
thủ tiêu được chế độ tư hữu" 22.
3. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về cơ cấu kinh tế nhiều
thành phần vào phát triển nền kinh tế nhiều thành phần trong thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa ở Việt Nam
22

C.Mác-Ăngghen, toàn tập, Nxb sự thật, Hà Nội, 1980, tập 1, tr455

14


Tư tưởng Hồ Chí Minh về cơ cấu kinh tế nhiều thành phần trong thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam được Đảng ta vận dụng và phát
triển qua các thời kỳ lịch sử khác nhau của đất nước. Đó cũng là sự phát
triển tư duy, nhận thức của Đảng ta về kinh tế nhiều thành phần trong thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Hội nghị Trung ương lần thứ 24 khoá III
năm 1975 của Đảng được tiến hành ngay sau khi cả nước thống nhất và đi
lên chủ nghĩa xã hội. Tại Hội nghị, Đảng ta đã thừa nhận sự tồn tại của năm
thành phần kinh tế ở miền Nam và ba thành phần kinh tế ở miền Bắc. Nghị
quyết Hội nghị đã nêu lên tư tưởng về nền kinh tế nhiều thành phần trong
thời kỳ quá độ ở nước ta. Đại hội Đảng IV và Đại hội Đảng V, Đảng ta đã
xác định đúng vị trí, quy mô, tính chất và mục đích của sự tồn tại các thành
phần kinh tế. Có thể nói từ trước Đại hội VI (1986) mặc dù thừa nhận sự
tồn tại nhiều hình thức sở hữu và tương ứng với nó là sự tồn tại khách

quan nhiều thành phần kinh tế, tuy nhiên, do nhiều yếu tố khách quan và
chủ quan chúng ta đã phạm phải nhữg sai lầm khuyết điểm đó là tuyệt
đối hóa vị trí, vai trò của chế độ công hữu về tư liệu sản xuất dẫn đến
xóa bỏ một cách siêu hình, cực đoan đối với các hình thức sở hữu phi xã
hội chủ nghĩa, không tính đến lợi ích của nó cũng như trình độ phát triển
thực tế của lực lượng sản xuất... Những sai lầm đó đã gây sức cản trở lớn
đối với nền kinh tế, làm cho nền kinh tế nước ta lâm vào khủng hoảng,
trì trệ.
Trước tình hình đó, với tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, Đại hội
VI của Đảng đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện, trong đó có nội dung
cơ bản là: Chuyển nền kinh tế bao cấp và thuần nhất với hai hình thức sở
hữu toàn dân và tập thể về tư liệu sản xuất sang "thực hiện nhất quán
chính sách cơ cấu kinh tế nhiều thành phần, giải phóng mọi năng lực sản
xuất. Coi "đó là vấn đề có ý nghĩa chiến lược lâu dài, có tính quy luật từ
sản xuất nhỏ đi lên chủ nghĩa xã hội". Thắng lợi của công cuộc đổi mới

15


đã chứng minh, sự chuyển hướng điều chỉnh chiến lược trên là hoàn toàn
đúng đắn. Đây chính là sự trở lại với tư tưởng Hồ Chí Minh và sự phát
triển sáng tạo bài học NEP của Lênin về kinh tế nhiều thành phần trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Đại hội VI của Đảng đã nêu ra các thành phần kinh tế chủ yếu sau:
Kinh tế xã hội chủ nghĩa bao gồm khu vực quốc doanh và khu vực tập
thể cùng với bộ phận kinh tế gia đình gắn với các thành phần kinh tế đó.
Các thành phần kinh tế khác, gồm kinh tế tiểu sản xuất hàng hóa
(thợ thủ công, nông dân cá thể, những người buôn bán và kinh doanh
dịch vụ cá thể).
Kinh tế tư bản tư nhân.

Kinh tế tư bản nhà nước.
Kinh tế tự nhiên, tự cấp, tự túc trong một bộ phận đồng bào dân
tộc thiểu số Tây Nguyên và các vùng cao khác.
Trong đó kinh tế quốc doanh đóng vai trò chủ đạo.
Trong những năm đầu của thời kỳ đổi mới, việc thực hiện chính
sách kinh tế nhiều thành phần đã đem lại những chuyển biến tích cực
trong cơ cấu các thành phần kinh tế ở nước ta. Tuy nhiên cũng bộc lộ
nhiều thiếu sót, lúng túng trong quản lý cũng như trong hoạt động của
mỗi thành phần kinh tế. Nhưng cơ bản là chúng ta đã đổi mới đúng
hướng nên Đại hội VII (1991) của Đảng tiếp tục khẳng định: "Chúng ta
chủ trương thực hiện nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành phần theo
định hướng xã hội chủ nghĩa" gồm 5 thành phần kinh tế: Kinh tế quốc
doanh; Kinh tế tập thể; Kinh tế cá thể; Kinh tế tư bản tư nhân; Kinh tế
tư bản nhà nước.
Trong đó kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể ngày càng trở thành
nền tảng của nền kinh tế quốc doanh. Đồng thời kinh tế quốc doanh

16


"thực hiện vai trò chủ đạo và chức năng của một công cụ quản lý vĩ mô
của nhà nước".
Sau 10 năm thực hiện đường lối đổi mới, kinh tế nước ta có bước
phát triển mạnh mẽ. Đất nước đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế xã hội,
nhiệm vụ đề ra cho chặng đường đầu của thời kỳ quá độ là chuẩn bị tiền
đề cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa đã cơ bản hoàn thành, cho phép
chuyển sang thời kỳ mới công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Xét
trên tổng thể việc hoạch định và thực hiện đường lối đổi mới những năm
qua cơ bản là đúng đắn. Đại hội VIII (1996) tiếp tục nhấn mạnh: "thực
hiện nhất quán, lâu dài chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần".

Đại hội khẳng định nền kinh tế quốc dân Việt Nam có 5 thành phần kinh tế,
đó là: Kinh tế nhà nước; Kinh tế hợp tác xã; Kinh tế tư bản nhà nước;
Kinh tế cá thể tiểu chủ; Kinh tế tư bản tư nhân.
Mặc dù có sự thay đổi về cách gọi nhưng bản chất cơ bản không
thay đổi. Đến Đại hội đại biểu lần thứ IX của Đảng phát triển thêm một
bước quan điểm về nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo
cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội
chủ nghĩa là nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa. Đại hội nhấn mạnh:
"Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có nhiều hình thức
sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò
chủ đạo, kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành
nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân". Đại hội IX của Đảng xác
định nền kinh tế chúng ta có những thành phần kinh tế sau: Kinh tế Nhà
nước; Kinh tế tập thể; Kinh tế cá thể tiểu chủ; Kinh tế tư bản tư nhân;
Kinh tế tư bản nhà nước; Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài.
Với thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài do chế độ mới
ngày nay đem lại, ta thấy có sự gặp nhau về sự xác định số lượng, cũng
như vai trò, vị trí của các thành phần kinh tế đối với chế độ xã hội chủ

17


nghĩa của Đại hội IX của Đảng với tư tưởng của Hồ Chí Minh đã nêu từ
1953.
Đại hội X của Đảng tiếp tục xác định sự tồn tại nhiều thành phần
kinh tế trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với 5
thành phần kinh tế: Kinh tế Nhà nước; Kinh tế tập thể; Kinh tế tư nhân;
Kinh tế tư bản nhà nước; Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Đến Đại hội
XI của Đảng mặc dù Đảng ta không xác định cụ thể các thành phần kinh
tế, nhưng vẫn thừa nhận sự tồn tại nhiều thành phần kinh tế và biện pháp

phát triển các thành phần kinh tế. Xác định kinh tế nhà nước giữ vai trò
chủ đạo cùng với kinh tế tập thể trở thành nền tảng của nền kinh tế quốc
dân.
Tóm lại, phát triển nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng
xã hội chủ nghĩa, vì mục tiêu "dân giàu, nước manh, xã hội công bằng
dân chủ văn minh" ở nước ta một mặt chính là sự tiếp tục lôgíc khách
quan của nền kinh tế, mặt khác còn là sự tiếp tục tư tưởng của Lênin và
Hồ Chí Minh về nền kinh tế nhiều thành phần trên một nền tảng và trong
một hoàn cảnh khác và được phát triển lên một trình độ mới và hình thức
mới. Hiện nay, xu thế toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực
vừa tạo ra những thời cơ thuận lợi đồng thời cũng có nhiều thử thách gay
go đặt ra cho các thành phần kinh tế. Chủ trương phát triển kinh tế hàng
hóa nhiều thành phần ở nước ta nhằm giải phóng sức sản xuất, động viên
tối đa các nguồn lực cho phát triển kinh tế, tạo điều kiện cho công bằng
xã hội, dân chủ hóa nền kinh tế, tăng sức mạnh của khối đại đoàn kết dân
tộc theo tinh thần của Hồ Chí Minh: "Công tư đều lợi, chủ thợ đều lợi,
lưu thông trong ngoài".
Sau gần 30 năm thực hiện đường lối đổi mới chúng ta đã giành
được những thành tựu to lớn, toàn diện, có ý nghĩa lịch sử. Đất nước đã
ra khỏi khủng hoảng kinh tế xã hội; kinh tế tăng trưởng khá nhanh, nền

18


kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa bước đầu được xây dựng;
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước được đẩy mạnh. Tuy nhiên bên
cạnh đó chúng ta còn những hạn chế đó là nước ta chưa ra khỏi tình
trạng kém phát triển và vẫn tồn tại nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so
với các nước trong khu vực và trên thế giới. Quá trình hình thành và phát
triển cơ cấu kinh tế nhiều thành phần cũng nảy sinh những hạn chế, mâu

thuẫn cần được khắc phục như: Sự mâu thuẫn giữa việc phân định các
thành phần kinh tế trên đường lối, chủ trương với sự hình thành và tồn
tại của chúng trên thực tế; mâu thuẫn giữa vai trò chủ đạo được trao cho
thành phần kinh tế nhà nước với hiệu quả hoạt động kém của nó; mâu
thuẫn giữa yêu cầu bình đẳng trước pháp luật với chính sách ưu đãi riêng
đối với từng thành phần kinh tế; mâu thuẫn giữa tư bản và lao động...
Từ công cuộc đổi mới, Đảng ta có thể rút ra những bài học quý
báu trong rất nhiều bài học mà Hồ Chí Minh để lại cho chúng ta:
Một là: Kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, coi đó là nguyên tắc là "cái
bất biến" trong sự nghiệp đổi mới, nhưng phải biết vận dụng sáng tạo lý luận
chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta mà Hồ Chí Minh là
tấm gương sáng về sự trung thành đổi mới và sáng tạo. Chính điều đó đã
mang lại những thắng lợi vẻ vang cho cách mạng Việt Nam.
Hai là: Phải luôn gắn lý luận với thực tiễn, mọi tư tưởng và hoạt
động luôn gắn với quy luật phát triển khách quan của lịch sử, phải đáp
ứng yêu cầu do thực tiễn đặt ra như Hồ Chí Minh đã nói: "Lý luận cốt áp
dụng vào công việc thực tế", "lý luận phải đem ra thực hành. Thực hành
phải nhằm theo lý luận".

19


Kết luận
Tư tưởng Hồ Chí Minh về cơ cấu kinh tế nhiều thành phần hiện
nay vẫn có ý nghĩa thời sự và ý nghĩa phương pháp luận cần được quán
triệt và vận dụng sáng tạo để định hướng cho sự nghiệp tiếp tục đổi mới
nền kinh tế đất nước. Dự thảo văn kiện trình Đại hội X đã rút ra một
trong những bài học lớn của quá trình gần 30 năm đổi mới là "Trong quá
trình đổi mới phải kiên trì mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội
trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, đồng thời

luôn nhạy bén với cái mới, với những phát triển mới của thực tiễn". Về
phát triển các thành phần kinh tế, dự thảo nêu rõ: "nước ta có ba chế độ
sở hữu là: sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân; thể hiện dưới
bốn hình thức cơ bản: sở hữu nhà nước, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân,
sở hữu hỗn hợp" và "tương ứng với bốn hình thức sở hữu cơ bản trên,
nền kinh tế nước ta có bốn thành phần kinh tế: kinh tế nhà nước, kinh tế
tập thể và kinh tế hỗn hợp. Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo'.

20


Như vậy, phát triển kinh tế nhiều thành phần vẫn là 'vấn đề có ý
nghĩa chiến lược lâu dài, có tính quy luật từ sản xuất nhỏ đi lên CNXH".
Một lần nữa, chúng ta lại thấy sáng ngời tư duy sáng tạo của Hồ Chí
Minh và của Đảng ta trong tư tưởng về sự phát triển nền kinh tế - xã hội
theo phép biện chứng khách quan của lịch sử trong những hoàn cảnh cụ
thể nhất định. Với đường lối lãnh đạo của Đảng, dưới ánh sáng tư tưởng
của Người, chúng ta có quyền hy vọng trong tương lai không xa, nền
kinh tế Việt Nam sẽ phát triển lên một tầm cao mới, thực hiện thắng lợi
sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

21



×