Tải bản đầy đủ (.doc) (71 trang)

Khóa luận tốt nghiệp: Vai trò khoa học công nghệ với tăng trưởng và phát triển kinh tế ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (642.63 KB, 71 trang )

MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU....................................................................................................1
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ KHOA HỌC VÀ CÔNG
NGHỆ VỚI TĂNG TRƯỞNG,PHÁT TRIỂN KINH TẾ.....................4

1.1.Khoa học công nghệ trong tăng trưởng và phát triển kinh tế...................4
1.1.1.Khoa học.............................................................................................4
1.1.2. Công nghệ..........................................................................................5
1.1.3. Mối quan hệ giữa khoa học và công nghệ.........................................5
1.2.Những vấn đề chung về tăng trưởng,phát triển kinh tế............................6
1.2.1.Tăng trưởng kinh tế............................................................................6
1.2.2. Phát triển kinh tế................................................................................9
1.2.3.Mối quan hệ giữa tăng trưởng và phát triển kinh tế.........................10
1.2.4.Nhân tố quyết định sự tăng trưởng và phát triển kinh tế..................15
CHƯƠNG 2: ẢNH HƯỞNG CỦA KHOA HỌC CÔNG NGHỆ VỚI TĂNG
TRƯỞNG VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ VIỆT NAM TRONG
NHỮNG NĂM GẦN ĐÂY..............................................................17

2.1. KH - CN trong việc phát triển kinh tế ở Việt Nam hiện nay.................17
2.2.Khoa học công nghệ làm chuyển biến kinh tế quốc gia.........................31
2.2.1.Khoa học công nghệ làm nâng cao năng lực sản xuất trong các
doanh nghiệp..............................................................................................32
2.2.2.KHCN làm cho nền công nghiệp của nước ta ngày càng phát
triển bền vững............................................................................................38
2.2.2.1.Khoa học công nghệ thúc đẩy quá trình hình thành và chuyển
dịch cơ cấu công nghiệp.........................................................................38
2.2.2.2 Khoa học công nghệ thúc đẩy quá trình phân công lao
động,làm thay đổi sâu sắc phương thức lao động của con người...........39


2.2.2.3.Khoa học công nghệ góp phần tăng giá trị sản xuất của ngành


công nghiệp.............................................................................................40
2.2.3.Khoa học công nghệ tác động mạnh mẽ đến quá trình công
nghiệp hóa hiên đại hóa đất nước..............................................................41
2.2.3.1.Ảnh hưởng của công nghiệp hóa- hiện đại hóa tới sự phát
triển của đất nước ta...............................................................................41
2.2.3.2.Khoa học và công nghệ là nền tảng và động lực của sự nghiệp
công nghiệp hoá - hiện đại hoá...............................................................47
2.4.Những thuận lợi và những mặt còn hạn chế trong việc nâng cao vai
trò của KHCN trong tăng trưởng và phát triển kinh tế.................................50
2.4.1.Những thuận lợi................................................................................50
2.4.2.Những hạn chế..................................................................................51
CHƯƠNG 3: PHƯƠNG HƯỚNG,GIẢI PHÁP NÂNG CAO VAI TRÒ CỦA
KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ TRONG TĂNG TRƯỞNG VÀ
PHÁT TRIỂN KINH TẾ................................................................59

3.1. Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội Việt Nam......................................59
3.1.1.Mục tiêu phát triển kinh tế xã hội việt nam......................................59
3.1.2.Quan điểm phát triển khoa học công nghệ.......................................59
3.2. Các giải pháp nhằm nâng cao vai trò của khoa học và công nghệ đến
tăng trưởng và phát triển kinh tế...................................................................62
3.2.1.Xây dựng và phát triển thị trường khoa học công nghệ...................62
3.2.2. Doanh nghiệp phải chủ động trong hoạt động đổi mới công nghệ.........63
3.2.3. Phát triển nguồn nhân lực cho khoa học và công nghệ...................63
3.2.4. Tăng cường quản lý nhà nước về công nghệ...................................64
3.2.5. Tuyên truyền, khuyến khích các hoạt động chuyển giao công
nghệ trong nước và thu hút công nghệ từ nước ngoài...............................64
3.3.Những chính sách thúc đẩy tăng trưởng kinh tế..................................64
3.3.1.Chính sách khuyến khích tiết kiệm và đầu tư trong nước................64



3.3.2.Chính sách thu hút đầu tư nước ngoài..............................................65
3.3.3.Chính sách về vốn nhân lực..............................................................65
3.3.4.Xác định quyền sở hữu tài sản và sự ổn định chính trị.....................66
3.3.5.Chính sách mở cửa kinh tế...............................................................66
3.4.Nghiên cứu và triển khai công nghệ mới.............................................66
KẾT LUẬN........................................................................................................68


DANH MỤC SƠ ĐỒ, BẢNG BIỂU
Biểu đồ 1.1 :Tỷ lệ vốn đầu tư so với GDP (%)........................................13
Biểu đồ 1.2: Hệ số ICOR qua các thời kỳ (lần).......................................14
Biểu đồ 2.2. kim ngạch xuất khẩu qua các giai đoạn 1991-2004.............30
Bảng 2.3: Đóng góp của các yếu tố đến tăng trưởng kinh tế...................31
Bảng 2.4 : cơ cấu ngành...........................................................................31


LỜI MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài:
Bước vào thiên niên kỷ thứ ba, khoa học và công nghệ đã trở thành kinh
tế toàn cầu. Điều này được phản ánh rõ trong việc hoạch định các chính sách
và chiến lược phát triển khoa học,công nghệ và kinh tế của nhiều nước trên
thế giới.Tuy nhiên tuỳ thuộc vào trình độ sự phát triển cụ thể của từng nước
mà xây dựng chiến lược, chính sách phát triển khoa học công nghệ mang tính
đa dạng và đặc thù đối với từng giai đoạn phát triển cụ thể phù hợp với hoàn
cảnh, điều kiện cơ sở vật chất của mỗi quốc gia. Bởi vậy việc nghiên cứu kinh
nghiệm xây dựng các chính sách và chiến lược phát triển khoa học và công
nghệ của các nước trên thế giới và trong khu vực để áp dụng và phát huy một
cách sáng tạo vào hoàn cảnh của đất nước mình có ý nghĩa đặc biệt quan
trọng đối với việc phát triển kinh tế đất nước. Lịch sử phát triển của nhân loại
trong vài trăm năm trước đó đã cho thấy con đường mà các nước chậm tiến

cần phải đi theo,không thể là cái gì khác ngoài việc biến đổi nền kinh tế theo
cơ cấu hợp lý ,phát triển năng động dựa trên cơ sở khoa học công nghệ hiện
đại .Bất kì một quốc gia nào bỏ qua quá trình này đều sẽ trở nên quá
chậm,quá lạc hậu so với bước đi của thế giới.Có thể coi đó là quy luật mà Việt
Nam không thể đứng ngoài.
Ngày nay, trong bối cảnh của cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện
đại, công nghiệp hoá gắn liền với hiện đại hoá được xem là nấc thang đánh
dấu trình độ phát triển mới của nền văn minh nhân loại. Chúng ta không thể
phủ nhận những thành tựu về khoa học cũng như nhiều lĩnh vực khác trong
đời sống kinh tế xã hội.Do đó vấn đề đặt ra cho mỗi quốc gia trên con đường
thực hiện tăng trưởng và phát triển kinh tế ở chỗ cần nắm bắt xu thế phát triển
tất yếu, khách quan của thời đại, khai thác tối đa những thời cơ, thuận lợi và
hạn chế đến mức thấp nhất mọi nguy cơ,bất lợi để thực hiện thành công sự
nghiệp đó. Đối với Việt Nam hiện nay, khoa học công nghệ đóng một vai trò
1


hết sức to lớn trong việc phát triển kinh tế đất nước. Đứng trước thực trạng
đất nước từ một nền kinh tế tiểu nông đang phấn đấu vươn lên đạt đến mục
tiêu:" Dân giàu ,nước mạnh,xã hội công bằng dân chủ văn minh" vốn là một
nước nghèo bị chiến tranh tàn phá nhiều năm, tình trạnh khủng khoảng kinh tế
xã hội vẫn chưa chấm dứt, lạm phát còn ở mức cao, sản xuất chưa ổn định,bội
chi ngân sách lớn, lao động thất nghiệp hoặc không đủ việc làm ngày càng
tăng.Gắn liền với nền kinh tế đó lại là lối làm ăn tản mạn, tuỳ tiện của sản
xuất nhỏ; những thói quen cũ của thời kì bao cấp trong sản xuất, kinh doanh
vẫn còn tồn tại cho tới ngày nay, ảnh hưởng không nhỏ tới sự tăng trưởng của
nền kinh tế đất nước trong quá trình toàn cầu hoá. Vì vậy khoa học -công
nghệ làm phát triển kinh tế-xã hội nhằm đáp ứng nhu cầu, lợi ích của các tầng
lớp nhân dân và cả dân tộc.Nhận thức rõ vai trò đó, Đảng và Nhà Nước ta đã
có nhiều nghị quyết quan trọng về khoa học - công nghệ và khẳng định:

"Cùng với giáo dục, đào tạo,khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu, là
động lực phát triển kinh tế -xã hội, là điều kiện cần thiết để giữ vững độc lập
dân tộc và xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Song vấn đề đặt ra là làm
sao để khoa học và công nghệ đảm nhận được vai trò đó?Hay nói cách khác,
trong điều kiện đất nước ta hiện nay để phát triển khoa học và công nghệ phù
hợp với vài trò là làm tăng trưởng và phát triển kinh tế thì chúng ta phải làm
gì? Đó là một vấn đề rất bức bách hiện nay .Vì vậy em đã chọn đề tài"Vai trò
khoa học công nghệ với tăng trưởng và phát triển kinh tế ở Việt Nam” làm
khóa luận tốt nghiệp.
2. Mục đích nghiên cứu đề tài
Phân tích vai trò khoa học công nghệ với tăng trưởng và phát triển kinh
tế ở Việt Nam

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài.
- Đối tượng nghiên cứu của đề tài: Khóa luận nghiên cứu những vấn đề
2


khoa học, công nghệ,phát triển, tăng trưởng của nền kinh tế.
- Phạm vi nghiên cứu của đề tài : Đề tài nghiên cứu “vai trò khoa học
công nghệ với tăng trưởng và phát triển kinh tế ở Việt Nam”.
4. Phương pháp nghiên cứu.
Phương pháp phân tích kinh tế, thống kê, điều tra ,tổng hợp ,phương pháp
chuyên gia, phương pháp đối chứng, so sánh để nghiên cứu làm rõ vai trò
khoa học công nghệ với tăng trưởng và phát triển kinh tế ở Việt Nam.
5. Kết cấu luận văn.
Luận văn gồm 3 chương chính :
Chương 1:Những vấn đề lý luận chung về khoa học và công nghệ với tăng
trưởng, phát triển kinh tế.
Chương 2: Ảnh hưởng của khoa học công nghệ với tăng trưởng và phát

triển kinh tế Việt Nam trong những năm gần đây
Chương 3: Phương hướng nâng cao vai trò của khoa học và công nghệ
trong tăng trưởng và phát triển kinh tế.

CHƯƠNG 1
3


NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ KHOA HỌC VÀ
CÔNG NGHỆ VỚI TĂNG TRƯỞNG,PHÁT TRIỂN KINH TẾ
1.1.Khoa học công nghệ trong tăng trưởng và phát triển kinh tế
1.1.1.Khoa học
Khái niệm khoa học
Khoa học được hiểu là tập hợp những hiểu biết về tự nhiên,xã hội và tư
duy được thể hiện bằng những phát minh dưới dạng các lý thuyết,định lý,định
luật, và nguyên tắc.
Như vậy thực chất của khoa học là sự khám phá các hiện tượng các
thuộc tính vốn tồn tại một cách khách quan.Sự khám phá này đã làm thay đổi
nhận thức của con người tạo điều kiện nghiên cứu, ứng dụng hiểu biết này
vào thực tế.
Đặc điểm khoa học
Như ta đã nói khoa học là những phát minh của con người vì những phát
minh này không thể trực tiếp áp dụng vào sản xuất nên không có đảm bảo
độc quyền không phải là đối tượng để mua và bán .Các tri thức khoa học có
thể được phổ biến rộng rãi. Khoa học thường được phân loại theo khoa học tự
nhiên và khoa học xã hội .Khoa học tự nhiên khám phá những quy luật của tự
nhiên xung quanh chúng ta. Khoa học xã hội nghiên cứu cách sống cách hành
động và ứng xử của con người.Vậy khoa học là kết quả nghiên cứu của quá
trình hoạt động thực tiễn,nhưng đến lượt mình nó lại có vai trò to lớn tác động
mạnh mẽ trở lại hoạt động sản xuất. Do đó con người hoàn toàn có khả năng

đưa khoa học thành lực lượng sản xuất trực tiếp.

4


1.1.2. Công nghệ
Khái niệm công nghệ
Có nhiều cách hiểu khác nhau về công nghệ tuỳ theo góc độ và mục đích
nghiên cứu. Nhưng một cách chung nhất công nghệ được hiểu như sau: Công
nghệ là tập hợp những hiểu biết để tạo ra các giải pháp kỹ thuật được áp dụng
vào sản xuất và đời sống.
Ngày nay công nghệ thường được coi là sự kết hợp giữa phần cứng và
phần mềm.Phần cứng đó là trang thiết bị. Phần mềm bao gồm (thành phần con
người thành phần thông tin, thành phần tổ chức) bất kỳ quá trình sản xuất nào
đều phải đảm bảo bốn thành phần trên mỗi thành phần đảm nhiệm những chức
năng nhất định.
Đặc điểm công nghệ
Qua khái niệm về công nghệ ở trên ta thấy,trước đây cách hiểu truyền
thống về công nghệ đồng nhất kỹ thuật với thiết bị không lưu ý với thực tế
vận hành, tay nghề của công nhân, năng lực tổ chức quản lý hoạt động sản
xuất,do vậy hiện nay thuật ngữ (công nghệ) thường được dùng thay cho thuật
ngữ (kỹ thuật) việc hiểu nội dung công nghệ như vậy đặc biệt có ý nghĩa quan
trọng trong giai đoạn hiện nay khi công nghệ thực sự trở thành nhân tố quyết
định khả năng cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường trong nước cũng như
quốc tế.
Khác với khoa học các giải pháp kỹ thuật của công nghệ đóng góp trực
tiếp vào sản xuất và đời sống nên nó được sự bảo hộ của nhà nước dưới hình
thức sở hữu công nghiệp và do đó nó là thứ hàng để mua bán.
Nghị định số63/CP của Thủ Tướng Chính phủ quy định 5đối tượng được
bảo hộ ở Việt Nam đó là :Sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghệ,

nhãn hiệu hàng hoá và tên gọi, xuất xứ hàng hoá
1.1.3. Mối quan hệ giữa khoa học và công nghệ
5


Khoa học và công nghệ có nội dung khác nhau nhưng chúng lại có mối
quan hệ chặt chẽ với nhau. Mối liên hệ chặt chẽ này thể hiện ở chỗ khi còn ở
trình độ thấp phát triển đến trình độ cao như ngày nay thì nó tác động mạnh
mẽ và trực tiếp tới sản xuất.Khoa học và công nghệ là kết quả sự vận dụng
những hiểu biết,tri thức khoa học của con người để sáng tạo cải tiến các công
cụ, phương tiện phục vụ cho sản xuất và các hoạt động khác.
Mối quan hệ giữa khoa học và công nghệ được phát triển qua các giai
đoạn khác nhau của lịch sử: Vào thế kỉ 17-18 khoa học công nghệ tiến hoá
theo những con đường riêng có những mặt công nghệ đi trước khoa học.
Vào thế kỷ 19 khoa học công nghệ bắt đầu có sự tiếp cận, mỗi khó khăn
của công nghệ gợi ý cho sự nghiên cứu của khoa học và ngược lại những phát
minh khoa học tạo điều kiện cho các nghiên cứu,ứng dụng.Sang thế kỉ 20 khoa
học chuyển sang vị trí chủ đạo dẫn dắt sự nhảy vọt về công nghệ.Ngược lại sự
đổi mới công nghệ tạo điều kiện cho nghiên cứu khoa học tiếp tục phát triển.
1.2.Những vấn đề chung về tăng trưởng,phát triển kinh tế
1.2.1.Tăng trưởng kinh tế
Đối với hầu hết các quốc gia trên thế giới, tăng trưởng kinh tế luôn là
mục tiêu hàng đầu của đường lối chiến lược phát triển kinh tế.Vì vậy,nghiên
cứu những vấn đề như triển vọng,phương hướng,đường lối chiến lược tăng
trưởng kinh tế và những công cụ có thể vận dụng để đạt tốc độ tăng trưởng
cao,vững chắc có ý nghĩa vô cùng quan trọng cả trên bình diện lý thuyết và
thực tiễn.
Khái niệm về tăng trưởng kinh tế:
Khái niệm tăng trưởng kinh tế hiểu theo nghĩa rộng:là sự tăng về quy mô
sản lượng hay thu nhập bình quân đầu người của một nền kinh tế trong một

thời kỳ nhất định (thường là một năm).Đó là kết quả được tạo ra bởi tất cả các
hoạt động sản xuất và dịch vụ trong nền kinh tế.
Tuy nhiên,tăng trưởng kinh tế là vấn đề được xét trong dài hạn.Do đó
các nhà kinh tế thường cho rằng tăng trưởng kinh tế chính là sự ra tăng của
6


sản lượng tiềm năng,mức sản lượng tạo ra khi các nguồn lực được sử dụng
đầy đủ.Theo quan điểm này chỉ trên cơ sở tăng thêm được năng lực sản
xuất,thì nền kinh tế mới có thể sản xuất ra một mức sản lượng cao hơn so với
trước.Quan điểm này đúng khi nó thỏa mãn một trong ba điều kiện sau:
 Bỏ qua những dao động ngắn hạn của sản lượng thực tế.
 Các chính sách kinh tế có khả năng kiểm soát và duy trì sản lượng ở
mức tiềm năng.
 Xét trong thời gian đủ dài để nền kinh tế có thể tự điều chỉnh trở về
trạng thái cân bằng dài hạn ứng với mức sản lượng tiềm năng.
Ưu điểm của quan điểm này là ở chỗ,nó khẳng định nguồn ngốc của tăng
trưởng là do việc tạo ra các nguồn lực mới.
Để đo sự tăng trưởng kinh tế người ta thường dùng các thước đo sau đây:
Tổng sản phẩm quốc dân(GNP):tổng sản phẩm quốc dân đó là tổng giá
trị các hàng hóa và dịch vụ do công dân của một nước (kể cả công dân làm
việc ở nước ngoài ) tạo ra trong một thời kỳ nhất định (thường là một năm)
bằng các nguồn lực chính của mình.
Sử dụng thước đo hay chỉ tiêu GNP mới chỉ phản ánh được giá trị những
sản phẩm mà nền kinh tế tạo ra nhờ nguồn lực của đất nước mình.Trong điều
kiện nền kinh tế có quan hệ mở cửa với bên ngoài thì thước đo mang tính chất
phổ biến lại là tổng sản phẩm trong nước.
Tổng sản phẩm trong nước hay quốc nội (GDP) : đó là tổng giá trị hàng
hóa và dịch vụ được tạo ra bằng các yếu tố sản xuất trong phạm vi quốc gia
(không phân biệt sở hữu của người nước ngoài hay người trong nước) trong

thời gian nhất định(thường là một năm) trên lãnh thổ quốc gia đó.
GDP&GNP là những thước đo cơ bản đánh giá hoạt động của nền kinh
tế. Tổng sản phẩm quốc dân tính theo giá hiện hành gọi là tổng sản phẩm
quốc dân danh nghĩa.Tổng sản phẩm quốc dân tính theo giá cố định(giá năm

7


gốc )gọi là tổng sản phẩm quốc dân thực tế.
Tổng sản phẩm quốc dân danh nghĩa thường tăng nhanh hơn tổng sản
phẩm quốc dân thực tế.Sự khác nhau đó là do giá cả của hàng hóa và dịch vụ
tăng do nền kinh tế lạm phát .Còn tổng sản phẩm quốc dân thực tế tăng lên là do
số lượng nguồn lực(tư bản,lao động,tài nguyên)trong nền kinh tế đã tăng lên.
Mức tăng trưởng kinh tế:
Mức tăng trưởng của một nước có thể được tính bằng cả số tuyệt đối và
cả bằng số tương đối (%) của giá trị thời kỳ sau so với thời kỳ trước
Mức tăng trưởng tuyệt đối =GNP1 – GNP0
Trong đó GNP0 : là tổng sản phẩm quốc dân năm trước hay còn gọi là năm
gốc.GNP1:tổng sản phẩm quốc dân năm sau(hay năm xét tốc độ tăng trưởng)
Mức tăng trưởng tương đối =GNP1(%) - GNP0(%)
Mức tăng trưởng kinh tế có thể tính theo chỉ tiêu GDP hay mức sản
lượng bình quân tính theo đầu người của một quốc gia,hay từng ngành,từng
vùng,từng địa phương.
Tốc độ tăng trưởng kinh tế:
Tốc độ tăng trưởng kinh tế là sự tăng trưởng nhanh hay chậm,được phản
ánh ở mức (%) tăng thêm sản lượng hàng năm hay so với năm gốc.
Có thể tính theo công thức:
GNPr1 – GNPr0
g=


. 100%
r

GNP 0
hoặc
g=

GDPr1 - GDPr0

. 100%

GDPr0
trong đó :
g : Tốc độ tăng trưởng kinh tế
8


GNPr0: Tổng sản phẩm quốc dân thực tế năm trước(năm gốc)
GNPr1: Tổng sản phẩm quốc dân thực tế năm sau(năm tính tốc độ tăng
trưởng)
GDPr0: Tổng sản phẩm quốc nội thực tế năm trước(năm gốc)
GDPr1 : Tổng sản phẩm quốc nội thực tế năm sau(năm tính tốc độ tăng
trưởng)
Khi tính tăng trưởng kinh tế phải theo GDP thực tế hoặc GNP thực tế(sản
lượng thực tế trên mỗi đầu người ) qua một thời kỳ dài để có thế xác định
được các yếu tố làm tăng trưởng thực tế tại mức tự nhiên trong dài hạn,chứ
không được tính theo chỉ số danh nghĩa.
1.2.2. Phát triển kinh tế
Khái niệm phát triển kinh tế
Phát triển kinh tế là sự lớn lên (hay sự tăng tiến ) về mọi mặt của nền kinh

tế trong thời kỳ nhất định(thường là một năm),bao gồm sự tăng thêm quy mô giá
trị sản lượng (sự tăng trưởng ) và sự tiến bộ trong cơ cấu kinh tế - xã hội.
Từ khái niệm trên có thể thấy phát triển kinh kế có các đặc trưng:
Sự gia tăng giá trị sản lượng và biến đổi cơ cấu kinh tế xã hội là 2 mặt có
mối quan hệ vừa độc lập,vừa phụ thuộc lẫn nhau giữa lượng và chất của sự
phát triển.
Phát triển là một quá trình biến đổi theo thời gian và do các nhân tố nội
tại của nền kinh tế xã hội quyết định.
Phát triển kinh tế được thể hiện thông qua 3 nhóm chỉ số sau đây:
Nhóm các chỉ số phản ánh sự tăng trưởng kinh tế như:
 Mức (%) tăng lên hàng năm của GNP hoặc GDP
 Mức (%) tăng lên hàng năm bình quân theo đầu người của GNP hoặc
GDP.
Nhóm các chỉ số về sự biến đổi cơ cấu kinh tế - tiến bộ kinh tế

9


 Cơ cấu ngành kinh tế:tỷ trọng (%) của các ngành công nghiệp,nông
nghiệp và dịch vụ chiếm trong GNP được phát triển theo hướng nông nghiệp
giảm dần (%) ,công nghiệp và các dịch vụ tăng lên trong đó ngành dịch vụ
tăng với tốc độ nhanh hơn so với ngành công nghiệp.
 Tỷ trọng(%) xuất nhập khẩu trong GDP, được phát triển theo hướng
từ nhập siêu trong thời kỳ đầu chuyển dần sang cân bằng xuất nhập khẩu và
tiến đến thực hiện xuất siêu.
 Tỷ trọng(%) tích lũy đầu tư trong GDP trong từng thời kỳ,nhất là thời
kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa,hiện đại hóa đất nước,tỷ trọng đó cần có tỷ lệ
thỏa đáng.
 Mối liên kết kinh tế trong trao đổi mua bán hàng hóa,dịch vụ giữa các
ngành ,các vùng,các thành phần kinh tế ở trình độ ngày càng cao.

Nhóm chỉ số biến đổi trong phát triển-tiến bộ xã hội
 Tuổi thọ bình quân trong dân cư
 Tỷ lệ (%) gia tăng dân số hàng năm
 Chỉ số calo tiêu thụ bình quân theo đầu người một ngày
 Tỷ lệ (%) người biết chữ hoặc mù chữ trong dân số
 Tỷ lệ (%) trẻ em đi học trong lứa tuổi đi học(tính từ 5-16 tuổi)
 Chỉ số về sự công bằng xã hội trong phân phối sản phẩm
 Các chỉ số khác về phát triển văn hóa,giáo dục,y tế,và bảo hiểm xã hội
1.2.3.Mối quan hệ giữa tăng trưởng và phát triển kinh tế
Phát triển kinh tế có thể hiểu là một quá trình lớn lên (hay tăng thêm) về
mọi mặt của nền kinh tế trong một thời kỳ nhất định.Trong đó bao gồm cả sự
tăng thêm về quy mô sản lượng (tăng trưởng) và sự tiến bộ về cơ cấu kinh tếxã hội.Báo cáo về phát triển thế giới khẳng định:
Phát triển là nâng cao phúc lợi của nhân dân,nâng cao tiêu chuẩn sống và

10


cải tiến giáo dục,sức khỏe và bình đẳng về cơ hội,bảo đảm các quyền chính trị
của công dân.Tăng trưởng kinh tế là cách cơ bản để có thể có được phát
triển,nhưng bản thân nó chưa hoàn toàn phản ánh cho sự tiến bộ.
Như vậy,cách hiểu trên đã cho thấy sự khác nhau giữa phát triển và tăng
trưởng.Tăng trưởng chưa phải là phát triển,song tăng trưởng lại là một cách
cơ bản để có được phát triển.
Đi sâu hơn vào mối quan hệ giữa tăng trưởng và phát triển,nhà kinh tế
học nổi tiếng người Pháp Franscois Peruux(1903-1987) trong một tác phẩm
biên soạn theo yêu cầu của UNESSCO đã viết:
Cần chú ý đến sự nguy hiểm của tăng trưởng mà không phát triển.Sự
nguy hiểm này tồn tại một cách rõ rệt ở các nước đang phát triển khi hoạt
động kinh tế được tập trung xung quoanh những ngành của các hãng nước
ngoài hoặc các công trình công cộng lớn và không có các tác dụng toàn

quốc .Ngay ở các nước phát triển ,chúng ta thấy rằng ,khi nền kinh tế có tăng
trưởng các lợi ích của phát triển được phân bố không đều về địa lý.Vì vẫn còn
tồn tại những vùng tương đối “trống rỗng” và về các phương diện xã hội,
“những cái túi nghèo nàn” vẫn chưa biến mất.
Gần đây những nghiên cứu mới nhất đã đưa ra khái niệm “phát triển bền
vững”được xem như đỉnh cao của tư tưởng phát triển hiện nay.
Phát triển bền vững là phát triển đáp ứng các nhu cầu của hiện tại mà
không làm thương tổn đến khả năng đáp ứng các nhu cầu của thế hệ tương lai.
Điểm nổi bật trong định nghĩa trên là sự quan tâm đến các thế hệ tương
lai trong khi tìm cách đáp ứng nhu cầu hiện tại.Từ những điều trình bày trên
có thể nêu lên một số nhận xét sau:
Cần phân biệt sự khác nhau giữa tăng trưởng và phát triển,sự phân biệt
này không phải là vấn đề thuật ngữ mà chính là vấn đề nhận thức về sự tiến
bộ của mỗi quốc gia và rộng hơn là sự tiến bộ của nền văn minh thế giới.
Điều rất quan trọng là thấy rõ quan hệ giữa tăng trưởng và phát triển:
11


tăng trưởng chưa phải là phát triển nhưng không thể nói phát triển mà không
có tăng trưởng.
Phát triển một cách đúng đắn nhất cần phải là phát triển bền vững.Các
nước chậm tiến,các nước đang phát triển muốn đi nhanh trên con đường phát
triển song cần phải đặt trong khuôn khổ phát triển bền vững thì mới không
dẫn đến những hậu quả tiêu cực về xã hội và môi trường.
Các nhân tố quyết định sự tăng trưởng và phát triển kinh tế
Tăng trưởng kinh tế và phát triển kinh tế có mối quan hệ hữu cơ với
nhau.Hơn nữa tăng trưởng kinh tế bền vững lại chính là phát triển kinh tế.Các
nhân tố có liên quan đến phát triển kinh tế cũng hàm chứa trong đó các nhân
tố liên quan đến tăng trưởng kinh tế .
Thông thường,khi nói tới các yếu tố ảnh hưởng tới tăng trưởng,phát triển kinh

tế người ta thường nói đến bốn yếu tố là:vốn (K) , lao động(L), tài nguyên,đất
đai(R) và khoa học công nghệ (T).Mối quan hệ giữa sản lượng của nền kinh tế (Y)
và các yếu tố nguồn lực này thường được mô tả qua mô hình sau:
Y=F ( K,R,L,T)
Vốn là một yếu tố đầu vào quan trọng tác động trực tiếp tới tăng
trưởng kinh tế.Vốn sản xuất ở góc độ vĩ mô được biểu hiện dưới dạng hiện
vật là một phần của tài sản quốc gia được sử dụng trực tiếp vào quá trình sản
xuất để tạo ra sản phẩm hàng hóa và dịch vụ bao gồm : nhà xưởng , máy móc
thiết bị ,phương tiện vận tải,kho hàng bến bãi,hệ thống giao thông vận tải…nó
phản ánh năng lực sản xuất của nền kinh tế.Trong những điều kiện nhất định
vốn sản xuất sẽ làm tăng khả năng sản xuất và cho phép tạo nhiều sản lượng
hơn.Tại các nước đang phát triển vốn có vai trò rất quan trọng trong việc làm
tăng khả năng sản xuất và cho phép tạo nhiều sản lượng cao hơn.Tuy
nhiên,cùng với sự phát triển kinh tế tác động của vốn có xu hướng giảm và
dần được thay thế bằng các yếu tố khác.

12


Vốn đầu tư là yếu tố vật chất trực tiếp đối với tăng trưởng.Để tăng
trưởng kinh tế tăng phải tăng số lượng vốn đầu tư.Việt Nam hiện có tỷ lệ vốn
đầu tư so với GDP đạt khá cao và tăng nhanh .Bình quân thời kỳ 1991-1995
nếu đạt 28,2 % ,thời kỳ 1996-2000 đạt 33,3% ,thì thời kỳ 2001-2005 đã đạt
39,1% và thời kỳ 2006-2008 đã đạt 43,5% trong đó năm 2007 là 45,6%,năm
2008 là 43,1%, vượt cả Trung Quốc –nước giữ kỷ lục trong nhiều năm về tỷ
lệ vốn đầu tư so với GDP.
Tuy nhiên hiệu quả đầu tư còn có ý nghĩa hơn nhiều so với quy mô vốn.
Hiệu quả đầu tư được biểu hiện bằng nhiều chỉ tiêu,với cách tính khác nhau.
Biểu đồ 1.1 :Tỷ lệ vốn đầu tư so với GDP (%)


Nguồn: thời báo kinh tếViệt Nam
Có một cách tính quen dùng và được gọi là hệ số ICOR ( được tính bằng
cách chia tỷ lệ vốn đầu tư so với GDP cho tốc độ tăng GDP).cách tính này có
nghĩa là: để GDP tăng 1% thì tỷ lệ vốn đầu tư so với GDP phải cần bao nhiêu
%? Theo đó hệ số ICOR qua các thời kỳ như sau: tính chung từ 1991 đến
2008 ,ICOR là 5 lần.riêng 2007 là 5,4 lần ,năm 2008 ước là 6,9 lần .Từ các
con số trên có thể rút ra 2nhận xét đáng chú ý.Một , để tăng 1% GPD đã đòi
hỏi phải có tỷ lệ vốn đầu tư so với GDP ngày một nhiều hơn,chứng tỏ hiệu
13


quả đầu tư đã bị sút giảm qua các thời kỳ tức là tăng trưởng kinh tế ngày một
tốn nhiều vốn đầu tư hơn.Hai, hệ số ICOR của việt Nam đã cao hơn của các
nước :trong khi ICOR của Việt Nam tính chung thời kỳ 1991-2008 là 5lần thì
của Đài Loan là 2,7 lần, Trung Quốc thời kỳ 2001-2006 là 4 lần…
Biểu đồ 1.2: Hệ số ICOR qua các thời kỳ (lần)

Nguồn: thời báo kinh tế Việt Nam
Các kết quả trên cho thấy hiệu quả đầu tư của nước ta đã giảm qua các
thời kỳ và thấp hơn các nước.
Lao động là một yếu tố đầu vào của sản xuất .Trước hết lao động là tiềm
lực phát triển sản xuất,nhưng lao động là điều kiện mở rộng cầu của nền kinh
tế thông qua tiêu dùng từ chính thu nhập từ lao động của mình.
Trước đây,lao động thường được xác định thông qua số lượng nguồn lao
động của mỗi quốc gia.Tuy nhiên,những mô hình tăng trưởng kinh tế hiện đại
ngày nay còn nhấn mạnh thêm yếu tố phi vật chất của lao động đó là: vốn
nhân lực.Đây là yếu tố rất quan trọng vì nó là những kĩ năng,trình độ tay nghề
những ý tưởng… của người lao động.Việc đánh giá lao động theo hai yếu tố
này có vai trò quan trọng trong việc phân tích các lợi thế về lao động của một
nước đối với quá trình phát triển kinh tế.


14


Tài nguyên ,đất đai (R) được coi là yếu tố đầu vào của sản xuất .Đất đai
là yếu tố rất quan trọng vì nó là tư liệu sản xuất chính trong sản xuất nông
nghiệp.Đất đai là nơi bố trí các cơ sở kinh tế - không thể thiếu – trong các
ngành sản xuất và dịch vụ.Tài nguyên là đầu vào không thể thiếu được của
quá trình sản xuất .Tài nguyên không chỉ tác động đến tăng trưởng kinh tế
theo chiều rộng mà theo cả chiều sâu.Tài nguyên được chia làm hai loại là tài
nguyên tái tạo và tài nguyên không tái tạo mà thông thường những nguồn tài
nguyên cần thiết cho quá trình sản xuất và có số lượng hạn chế nên việc sử
dụng như thế nào là rất quan trọng để có thể giải quyết mối quan hệ giữa tăng
trưởng kinh tế với vấn đề khai thác tài nguyên và bảo vệ môi trường sinh thái.
Khoa học công nghệ (T): trong điều kiện phát triển ngày nay khoa học và
công nghệ ngày càng tác động mạnh mẽ đối với quá trình phát triển kinh
tế.Yếu tố công nghệ được hiểu dưới hai dạng: thứ nhất,đó là những thành tựu
kiến thức,nghiên cứu đưa ra những nguyên lý…thứ hai,là sự áp dụng vào thực
tế sản xuất.Bởi vậy khoa học công nghệ tác động tới quá trình sản xuất trên
cả ba phương diện : hiện đại hóa công cụ và công nghệ sản xuất ,nâng cao
trình độ chuyên môn,quản lý của người lao động và thay đổi đối tượng lao
động.Với vai trò như vậy nên khoa học và công nghệ luôn luôn được đánh giá
là yếu tố đầu vào quan trọng.
Trong quá trình phát triển của kinh tế tùy theo từng trình độ phát triển mà
vai trò của các yếu tố là khác nhau.
1.2.4.Nhân tố quyết định sự tăng trưởng và phát triển kinh tế
Xét các nguyên nhân quyết định tăng trưởng,phát triển kinh tế ta thấy
rằng công nghệ là một yếu tố hết sức quan trọng để thúc đẩy sự phát triển của
nền kinh tế.
Yếu tố này bao gồm những tiến bộ về khoa học kỹ thuật cũng như về

quản lý.Mấy thập niên qua,loài người đã chứng kiến những tiến bộ to lớn và
nhanh chóng trên nhiều lĩnh vực khoa học kỹ thuật như tin học,sinh học,vật
liệu mới ...Công nghệ mới đã giúp nhiều quốc gia nhanh chóng mở rộng quy
15


mô sản xuất,hạ thấp chi phí ,nâng cao chất lượng sản phẩm,tăng sức cạnh
tranh của hàng hóa,giúp con người khai thác có hiệu quả nguồn tài nguyên
thiên nhiên vốn là khan hiếm.Trong thế kỷ XXI,đối với các nước phát
triển,yếu tố có ý nghĩa quyết định sự thành công về phát triển kinh tế là công
nghệ mới,còn đối với các nước đang phát triển lại đòi hỏi phải nhanh chóng
đổi mới công nghệ,công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước.Vấn đề học
hỏi,nghiên cứu và lựa chọn công nghệ thích hợp có ý nghĩa quyết định tốc độ
tăng trưởng
Tri thức công nghệ
Tăng tưởng kinh tế còn phụ thuộc vào nhân tố hết sức quan trọng là tri
thức công nghệ.Trong lịch sử,tăng trưởng của các nước trên thế giới có hình
mẫu khác nhau,không phải là quá trình sao chép đơn giản,tăng thêm nhà máy
hoặc công nhân.Trái lại là một quá trình sáng chế và thay đổi công nghệ
không ngừng đã đem lại một bước tiến xa về khả năng sản xuất của các nước
Châu Âu,Mỹ,Nhật và các nước công nghiệp mới như Hàn Quốc,Singapo…
Nhân tố tiếp theo quyết định năng suất là tiến bộ công nghệ.
Thay đổi công nghệ là những thay đổi trong quá trình sản xuất hoặc đưa
ra những sản phẩm mới sao cho có thể tạo ra được sản lượng nhiều hơn và cải
tiến hơn với cùng một lượng đầu vào.Những phát minh đã làm năng suất tăng
mạnh là động cơ hơi nước,máy phát điện,bóng đèn,động cơ đốt
trong….Những thay đổi công nghệ cơ bản là những phát minh ra sản phẩm
mới như điện thoại,máy thu thanh,máy ảnh,máy bay,vô tuyến,máy tính.Những
phát minh này là những phát minh nổi bật nhất trong kỷ nguyên hiện đại đang
diễn ra trong nghành điện tử và tin học.Tuy nhiên thay đổi công nghệ trên

thực tế là một quá trình liên tục bao gồm những cải tiến lớn,nhỏ.Những cải
tiến nhỏ là bộ phận của sự tiến bộ đều đặn của nền kinh tế.
Do tầm quan trọng của nó trong việc nâng cao mức sống,các nhà kinh tế
từ lâu đã suy nghĩ làm thế nào để khuyến khích tiến bộ công nghệ.Rõ ràng
rằng thay đổi công nghệ không phải là quá trình cơ học đơn giản của việc đi
16


tìm những sản phẩm và quá trình sản xuất tốt hơn.Thay vì thế,sáng kiến
nhanh đòi hỏi phải nuôi dưỡng một tinh thần kinh doanh.

CHƯƠNG 2
ẢNH HƯỞNG CỦA KHOA HỌC CÔNG NGHỆ VỚI
TĂNG TRƯỞNG VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ VIỆT NAM
TRONG NHỮNG NĂM GẦN ĐÂY
2.1. KH - CN trong việc phát triển kinh tế ở Việt Nam hiện nay
Trong những giai đoạn phát triển trước đây của xã hội loài người, sản
xuất còn tách rời khoa học và công nghệ và thường là vượt trước sự phát triển
của khoa học và công nghệ. Mối quan hệ giữa khoa học và công nghệ với sản
xuất lúc ấy tuân theo quy luật: sản xuất đi trước công nghệ và công nghệ lại đi
trước khoa học.Nói cách khác, sản xuất chưa thật sự gắn kết với khoa học và
công nghệ, chưa được hiện đại hóa. Ngày nay trong điều kiện của cuộc cách
mạng khoa học và công nghệ hiện đại, trong lĩnh vực này đang hình thành
một quy luật mới: Những phát minh khoa học trở thành nền tảng cho những
sáng chế công nghệ và đến lượt mình, công nghệ này được trực tiếp đưa vào
sản xuất.Điều đó chỉ có thể có được khi khoa học trở thành lực lượng sản xuất
trực tiếp, nghĩa là những tri thức khoa học nhanh chóng được vật thể hóa thành
công cụ, phương tiện sản xuất, thành hệ thống công nghệ trực tiếp tham gia vào
quá trình sản xuất xã hội. Nhờ đó, ngày nay, sản xuất xã hội đã gắn liền với
những phát minh, sáng chế trong khoa học và công nghệ; nó luôn được đổi mới

và hiện đại hóa cùng với sự phát triển của khoa học và công nghệ.
Khoa học công nghệ đã làm hiện đại hóa đất nước,hiện đại hóa nền sản
xuất.Hiện đại hóa nền sản xuất trước hết là hiện đại hóa trong lực lượng sản
17


xuất để đẩy nhanh sự phát triển của lực lượng sản xuất nhằm nâng cao năng
suất lao động, từ đó làm chuyển biến mạnh mẽ cơ cấu của nền kinh tế, tạo
điều kiện thuận lợi cho sự phát triển kinh tế - xã hội của một đất nước.Khoa
học và công nghệ là yếu tố cấu thành của lực lượng sản xuất. Tuy nhiên, nếu
như trong những giai đoạn phát triển trước đây, khoa học và công nghệ là
những yếu tố gián tiếp của lực lượng sản xuất, đứng ngoài quá trình sản xuất
trực tiếp theo nghĩa là từ khoa học, công nghệ đến sản xuất phải trải qua một
thời gian biến đổi lâu dài, tới hàng chục năm, thậm chí hàng trăm năm thì
ngày nay, nhìn chung, khoa học và công nghệ đã và đang trở thành lực lượng
sản xuất trực tiếp.Trong một số nước công nghiệp phát triển, tri thức của
những phát minh mới nhất ở một số lĩnh vực khoa học như tin học, điều khiển
học, sinh vật học v.v... đã nhanh chóng được đưa vào công nghệ thông tin,
công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới... và từ đó, trực tiếp đi vào sản
xuất và dịch vụ của xã hội. Bằng cách này, lực lượng sản xuất xã hội không
ngừng được bổ sung và đổi mới theo hướng gia tăng tính hiện đại, tiên tiến.
Ngày nay xu hướng vận động chung của lực lượng sản xuất hiện đại là không
ngừng thay thế dần các trang thiết bị kỹ thuật, các quy trình, hệ thống công
nghệ chưa hoàn thiện (cho năng suất thấp, tiêu hao nhiều nguyên, nhiên vật
liệu, thải bỏ nhiều các chất gây ô nhiễm môi trường v.v...) bằng những thiết
bị, những hệ thống công nghệ cao, công nghệ làm sạch, mang nhiều hàm
lượng tri thức. Điều này chỉ có thể thực hiện được bằng con đường phát triển
khoa học và công nghệ. Như vậy, khoa học và công nghệ đã thúc đẩy sự phát
triển của lực lượng sản xuất theo hướng hiện đại, và đó là tiền đề, là cơ sở của
hiện đại hóa nền sản xuất xã hội, vì lực lượng sản xuất là yếu tố quyết định

trong một phương thức sản xuất.Con người với tri thức nghề nghiệp,kỹ năng,
kỹ xảo và kinh nghiệm sản xuất là một yếu tố cực kỳ quan trọng của lực
lượng sản xuất. Khoa học và công nghệ cũng có vai trò to lớn, quyết định
trong việc biến đổi yếu tố con người trong lực lượng sản xuất theo chiều
18


hướng hiện đại. Khoa học và công nghệ đã đến với con người thông qua quá
trình giáo dục, đào tạo và hoạt động thực tiễn, đã trang bị cho con người
những tri thức lý luận và kinh nghiệm cần thiết để họ có thể nhanh chóng vận
hành tốt và thích nghi với các trang thiết bị kỹ thuật hiện đại, tiên tiến trong
sản xuất, cũng như có đủ năng lực giải quyết những tình huống phức tạp, có
vấn đề trong sản xuất và đời sống. Mặt khác,sự thường xuyên đổi mới theo
hướng hiện đại dần của các trang thiết bị kỹ thuật,công nghệ trong sản xuất và
đời sống đã buộc con người - với tư cách là yếu tố của lực lượng sản xuất phải luôn nỗ lực học tập, thường xuyên trau dồi kiến thức, nghiệp vụ, chuyên
môn để khỏi bị đào thải ra khỏi quá trình sản xuất xã hội, để có thể nhanh
chóng thích ứng với cuộc sống hiện đại. Chính nhờ vậy mà trình độ và chất
lượng của đội ngũ những người lao động không ngừng được nâng cao và
được hiện đại hóa theo đà phát triển của khoa học và công nghệ. Ngoài ra, nếu
theo cách hiểu mới về công nghệ thì sự phát triển của khoa học và công nghệ
ngày nay còn liên quan rất chặt chẽ. Công nghệ, theo cách hiểu mới, bao gồm
4 yếu tố: trang thiết bị, máy móc kỹ thuật... (là phần cứng của công nghệ); con
người; thông tin; tổ chức và quản lý (ba yếu tố này là phần mềm của công
nghệ). Như đã biết, trang thiết bị, máy móc kỹ thuật... và con người là thuộc
về lực lượng sản xuất. Hai yếu tố thông tin, tổ chức quản lý, theo nghĩa
chung, vừa là những yếu tố của lực lượng sản xuất, vừa là những yếu tố của
quan hệ sản xuất. Thậm chí, bản thân con người, xét theo các mối quan hệ của
nó trong quá trình sản xuất và tiêu dùng, là yếu tố chủ thể của quan hệ sản
xuất. Do vậy, sự phát triển của khoa học và công nghệ không chỉ có tác động
mạnh mẽ đến sự phát triển của lực lượng sản xuất, mà còn có ảnh hưởng sâu

sắc đến quan hệ sản xuất theo chiều hướng hiện đại. Tương tự như nhiều
nước khác, quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nước ta cũng có mục đích
và nhiệm vụ trước tiên là phải phát triển sản xuất. Tuy nhiên, từ một nước
nông nghiệp còn nghèo nàn, lạc hậu, để có thể đi vào nền sản xuất hiện đại,
19


chúng ta cần phải tiến hành một quá trình chuyển đổi căn bản và toàn diện tất
cả các hoạt động xã hội, trước tiên là hoạt động sản xuất - từ chủ yếu là lao
động thủ công, sang chủ yếu là lao động có kỹ thuật - nhằm nâng cao năng
suất lao động xã hội.Điều này đã được khẳng định tại Hội nghị lần thứ bảy
Ban chấp hành Trung ương khóa VII, khi Đảng ta chủ trương gắn quá trình
công nghiệp hóa với hiện đại hóa “Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là quá trình
chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và
quản lý kinh tế - xã hội từ sử dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng
một cách phổ biến sức lao động cùng với công nghệ, phương tiện và phương
pháp tiên tiến, hiện đại, dựa trên sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ khoa
học công nghệ, tạo ra năng suất lao động xã hội cao” (Đảng cộng sản Việt
Nam, Văn kiện hội nghị lần thứ bảy,ban chấp hành TW khóa VII.Nxb Chính
trị Quốc Gia,Hà Nôi,1994,tr 42) Vai trò nền tảng, động lực và then chốt của
khoa học và công nghệ đối với quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nói
riêng, đối với sự phát triển xã hội Việt Nam nói chung, được biểu hiện trên
những mặt cụ thể sau đây:
Một là, khoa học và công nghệ có vai trò quyết định trong việc trang bị
và trang bị lại các máy móc, trang thiết bị kỹ thuật, công nghệ hiện đại, tiên
tiến cho nền sản xuất xã hội nói riêng,cho tất cả các ngành kinh tế quốc dân
nói chung, nhằm nâng cao năng suất lao động, chất lượng sản phẩm, tăng
cường sức cạnh tranh của các sản phẩm hàng hóa Việt Nam trên thị trường thế
giới, v.v... với mục tiêu không ngừng cải thiện và nâng cao mức sống của
người dân, sự phồn vinh và sức mạnh của xã hội Việt Nam. Đó là nhiệm vụ

đầu tiên, quan trọng nhất của sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa ở nước ta hiện nay. Trên thực tế, nước ta đã tiến hành công nghiệp hóa từ
đầu những năm 60 của thế kỷ XX. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân chủ quan
và khách quan, đặc biệt là chưa gắn kết được công nghiệp hóa với hiện đại
hóa, mà cho đến nay, lực lượng sản xuất của nước ta chủ yếu vẫn ở trong tình
20


trạng lạc hậu, các trang thiết bị, máy móc phần lớn là thủ công, thủ công bán
cơ giới. Nhìn chung, trình độ phát triển công nghệ nước ta,về cơ bản, chỉ mới
đạt ở giai đoạn 1 và 2 trong 7 giai đoạn phát triển công nghệ mà các nước
công nghiệp phát triển đã trải qua- đó là nhập công nghệ để thỏa mãn nhu cầu
tối thiểu (nhập toàn bộ hoặc nhập phụ tùng các trang thiết bị và cả dây chuyền
lắp ráp), và mới chỉ có tổ chức hạ tầng kinh tế ở mức tối thiểu để tiếp thu
công nghệ nhập.Do vậy, cả năng suất lao động và chất lượng các sản phẩm do
nền sản xuất xã hội tạo ra vẫn còn rất thấp so với mặt bằng chung của thế
giới, không đủ sức cạnh tranh trên thị trường khu vực và toàn cầu.Việc trang
bị và trang bị lại công nghệ từ lạc hậu sang hiện đại, tiên tiến, còn nhằm một
mục đích và nhiệm vụ quan trọng nữa là làm thay đổi cơ cấu chung của toàn
bộ nền kinh tế quốc dân từ nông nghiệp - công nghiệp -dịch vụ sang công
nghiệp - nông nghiệp - dịch vụ. Bước chuyển dịch cơ cấu này sẽ tạo tiền đề và
nền tảng thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, để đến năm 2020,
đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Để
đạt được mục tiêu chiến lược này, nhất thiết chúng ta phải tiếp cận được nền
khoa học và công nghệ hiện đại, tiên tiến của thế giới, đặc biệt là các ngành
công nghệ mũi nhọn: công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ vật
liệu mới và công nghệ năng lượng mới... Văn kiện Đại hội IX của Đảng đã
chỉ rõ: “Phát huy những lợi thế của đất nước, tận dụng mọi khả năng để đạt
trình độ công nghệ tiên tiến, đặc biệt là công nghệ thông tin và công nghệ sinh
học, tranh thủ ứng dụng ngày càng nhiều hơn, ở mức cao hơn và phổ biến hơn

những thành tựu mới về khoa học và công nghệ, từng bước phát triển kinh tế
tri thức”
Hai là, khoa học và công nghệ đóng vai trò vô cùng quan trọng trong
việc giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng, khai thác và phát huy nguồn lực con
người, đặc biệt là nguồn lực trí tuệ - một nguồn lực to lớn, có tính chất quyết
định đối với sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta. Có nhiều
21


×