Tải bản đầy đủ (.docx) (43 trang)

Câu hỏi và đáp án môn Ngân Hàng Thương Mại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (291.37 KB, 43 trang )

NỘI DUNG CÂU HỎI ÔN TẬP MÔN NHTM
1. Vai trò của vốn trong hoạt động của NHTM
Ngân hàng thương mại là một trong những trung gian tài chính có khối
lượng vốn lớn nhất trong hệ thống tài chính của một quốc gia. Vốn của
NHTM được hình thành từ vốn tự có, vay bằng cách phát hành trái phiếu,
huy động từ thị trường bằng các kênh huy động tiền gửi thanh toán, tiền gửi
tiết kiệm,… và các nguồn vốn khác. Khi huy động được nguồn vốn lớn này
thì dùng để cho vay lại thông qua các TCKT, hộ gia đình, cá nhận để phục
vụ SXKD hay tiêu dùng. Ngoài việc cho vay, các NHTM còn dùng vốn này
để đầu tư vào các lĩnh vực khác như mua chứng khoán, trái phiếu Chính phủ,
trái phiếu Địa phương để tìm kiếm lợi nhuận. Như vậy, vốn của Ngân hàng
thương mại là những giá trị tiền tệ do NHTM tạo lập hay huy động được
dùng để cho vay, đầu tư hoặc thực hiện các dịch vụ kinh doanh khác. Vai trò
của vốn trong NHTM thể hiện trên một số mặt chủ yếu sau đây:
- Vốn NHTM là cơ sở để ngân hàng tổ chức mọi hoạt động kinh doanh:
NHTM là một doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh tiền tệ,
nguồn vốn hình thành nên vốn kinh doanh là từ một phần thu nhập quốc dân
tạm thời nhàn rỗi trong xã hội mà người sở hửu nó gửi vào ngân hàng để
kiếm thêm một phần thu nhập lừ lãi tiền gửi hoặc đáp ứng nhu cầu khác của
bản thân họ. Đối với bất kỳ doanh nghiệp kinh doanh nào, bảo toàn, phát
triển nguồn vốn và việc tìm kiếm lợi nhuận là mục đích cuối cùng và quan
trọng nhất. Để đảm bảo hoạt động kinh doanh của NHTM diễn ra thông
suốt, ngân hàng phải có nguồn vốn đủ lớn để đáp ứng cho tất cả mọi hoạt
động cho vay, đầu tư và khả năng thanh khoản của mình. Nói cách khác,
NHTM mà không có đủ vốn thì không thể kinh doanh được bởi vì các đối
tượng sử dụng sản phẩm của NHTM là tiền tệ. Chính vì thế, ta có thể nói
rằng vốn là điểm khởi đầu, là vấn đề cốt lõi cho chu kỳ kinh doanh của một
NHTM. - Vốn NHTM quyết định qui mô tín dụng và các hoạt động khác
của ngân hàng: NHTM muốn quyết định mở rông cho vay hy thu hẹp qui mô
đều dựa trên nguồn vốn hiện có của mình. Các NHTM lớn thông thường có
nguồn vốn dồi dào nên có rất đa dạng sản phẩm tín dụng hơn những NHTM


nhỏ, trên cơ sở đó mà họ có thể triển khai thêm nhiều tiện ích khác bao trùm
mọi nhu cầu tài chính của xã hội. Ngoài việc phát triển sản phẩm tín dụng
trog nước, các NHTM lớn có thể đầu tư ra nước ngoài để mở rộng thị
trường, tăng nguồn thu nhập cho ngân hàng.
- Vốn NHTM quyết định năng lực thanh toán và đảm bảo uy tín của ngân
hàng trên thị trường: NHTM có qui mô vốn lớn luôn có uy tín trên thị trường
thông qua khả năng thanh khoản. Việc đảm bảo thanh toán cho các nhu cầu
cho vay, thanh toán là khả năng đáp ứng nguồn tiền cung ứng cho các
TCKT, cá nhân khi có nhu cầu. Nếu tiềm năng vốn lơn, Ngân hàng có khả
năng mở rộng các hoạt động dịch vụ thanh toán đối với hầu hết các nhu cầu
cả khách hàng, tạo nên sự cạnh tranh có hiệu quả, nâng cao vị thế trên thị
trường không những trong nước và ngay cả trên thị trường quốc tế.
- Vốn NHTM quyết định năng lực cạnh tranh của ngân hàng: Qui mô
vốn, trình độ nghiệp vụ, phương tiện kỷ thuật hiện đại của một ngân hàng là
tiền đề cho việc thu hút nguồn vốn. Khả năng về vốn của một NHTM có qui
mô lớn tạo điều kiện để mở rộng tín dụng đén tất cả mọi đội tượng trên thi
trường, đặc biệt là các đối tượng khách hàng có qui mô lớn, làm ăn lớn, nhu
cầu vốn cao từ đó mà tạo ra nhiều lợi nhuận cho ngân hàng. Vì có năng lực
vốn tốt, NHTM đã tạo lập được thương hiệu trên thị trường nên đó có thể
đưa ra nhiều chính sách về lãi suất vừa phải, đáp ứng tốt cho mọi khách


hàng hơn đối với các NHTM có qui mô vốn hạn chế. Khi có vốn lớn, NTHM
sẽ mở rộng các các hình thức đầu tư, kinh doanh dịch vụ ngoài các nghiệp
vụ đơn thuần về huy động vốn, thanh toán, tín dụng mà còn mở rông thêm
lĩnh vực khác như bảo lãnh trong và ngoài nước, cho huê tài chính, mư bán
nợ,… Với nhiều hình thức kinh doanh như vây, ngân hàng tạo nên thế cạnh
tranh rất lớn trên thị trường.
• 2. Đặc điểm của các loại vốn của NHTM
Vốn của NHTM được tạo lập nên từ các nguồn đó là vốn tự có, vốn huy

động, vốn đi vay và các nguồn vốn khác. Các nguồn vốn này được hình
thành nên bằng các nguồn gốc khác nhau, đặc điểm các nguồn vốn này cũng
có những sự khác biệt nhau nhưng đều tập trung vào mục đích cuối cùng là
để cho vay, đầu tư và các dịch vụ khác. Đặc điểm của từng loại vốn của
NHTM cụ thể như sau:
- Vốn tự có của NHTM là là giá trị tiền tệ do các cổ đông tạo nên thuộc
sở hửu ngân hàng hinh thành do được cấp hoặc vốn góp. Nguồn vốn này
thường chiếm một tỷ lệ nhỏ thông thường trên dưới 10% trong tổng nguồn
vốn của NHTM, song lại là điều kiện pháp lý bắt buộc khi thành lập ngân
hàng. Nguồn vốn tự có của NHTM bao gồm vốn điều lệ được cấp hoặc đóng
gốp của các cổ đông lúc mới thành lập và vốn tự có bổ sung trong quá tình
hoạt động kinh doanh.
Do nguồn vốn tự có thuộc sở hửu của NHTM nên có tính ổn định lâu dài,
ngân hàng chủ động trong việc sử dụng nguồn vốn này để trang bị cơ sở vật
chất kỷ thuật cho ngân hàng như nhà cửa, vật kiến trúc, máy móc thiết bị kỷ
thuật, phương tiện vận tải,…. Mặt khác, với nguồn vốn có tính ổn định này,
ngân hàng có thể dùng để đầu tư, góp vốn liên doanh liên kết.
- Vốn huy động của NHTM là những giá trị tiền tệ mà ngân hàng huy
động được từ các TCKT và trong mọi tầng lớp dân cư thông qua các nghiệp
vụ của mình dùng để phục vụ hoạt động kinh doanh của mình. Nguồn vốn
này không thuộc sở hửu của mình mà thuộc các chủ sở hửu khác ngoài ngân
hàng nên phải có trách nhiệm hoàn trả lại đầy đủ cả gốc lẫn lãi cho họ khi
đến hạn hay khi có nhu cầu của người gửi tiền. Nguồn vốn huy động luôn có
sự biến động về qui mô cũng như về thời gian luân chuyễn nên ngân hàng
sẽ khó chủ động trong việc sử dụng nguồn vốn này. Tuy nhiên nguồn vốn
này được luân chuyễn qa ngân hàng có tính thường xuyên nên các NHTM có
kế hoạch sử dụng một tỷ lệ nhất định để cho vay đối với các đối tượng có
nhu cầu. Do nguồn vốn huy động khó chủ động trong hoạt động của mình
nên NHTM phân ra các sản phẩm huy động tiền gửi tiết kiệm, tiền gửi có kỳ
hạn và tiền gửi không kỳ hạn để có kế hoạch sử dụng một cách có hiệu quả

và đảm bảo khả năng thanh khoản.
+ Tiền gửi tiết kiệm: Là khoản thu nhập (nhỏ lẽ, thường xuyên) của cá
nhân chưa sử dụng cho tiêu dùng đang nhàn rổi họ gửi vào ngân hàng với
mục đích tích lũy an toàn và có thêm một khoản tiền lãi, loại tiền gửi này
không dùng để thanh toán trực tiếp cho người khác. Trên thực tế, tiền gửi tiết
kiệm có hai loại đó là TGTK không kỳ hạn và TGTK có kỳ hạn. Tiền gửi tiết
kiệm không kỳ hạn là khoản tiền mà người gửi có thể rút ra khỏi ngân hàng
bất cứ lúc nào khi họ cần đến, còn tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn là khoản tiền
gửi có sự thỏa thuận thời hạn gửi và rút tiền cụ thể, khi đén hạn mới rút ra
khỏi ngân hàng. Do vậy, TGTK có kỳ hạn NHTM có thể chủ động hơn trong
việc sử dụng nó để cho vay, đầu tư của ngân hàng.
+ Tiền gửi không kỳ hạn: Là loại tiền gửi của các tổ chức, cá nhân gửi
vào NHTM cho an toàn và chủ động trong việc thanh toán cho người khác
một cách thuận lợi. Thông thường các khoản tiền gửi này, ngân hàng trả lãi


suất thấp hoặc không được trả lãi. Loại tiền gửi không kỳ hạn này thường có
hai loại là tiền gửi thanh toán và tiền gửi không kỳ hạn phi giao dịch. Do các
khoản tiền gửi này khác hàng chủ động rút ra bất cứ lúc nào nên NHTM
thường không chủ động trong việc sử dụng nó để cho vay, đầu tư khác.
+ Tiền gửi có kỳ hạn: Là loại tiền gửi mà bên gửi tiền và NHTM có thỏa
thuận trước về thời hạn rút tiền nhất định (thường là các khoản tiền tích lủy,
khoản tiền chưa cần sử dụng trong một thời gian nhất định của các tổ chức)
họ gửi vảo ngân hàng cho an toàn và có mức lãi cao hơn so tiền gửi không
kỳ hạn. do vậy đây là nguồn vốn tương đối ổn định để NHTM chủ động hơn
trong việc sử dụng cho vay, đầu tư thu lợi nhuận.
- Vốn đi vay: Khi đã sử dụng hết nguồn vốn khả dụng mà không đáp ứng
đủ nhu cầu thanh toán thì NHTM này đi vay NHTM khác hoặc vay ngân
hàng TW để bổ sung nguồn vốn cho hoạt động kinh doanh của mình. Thông
thường các khoản vay này là do tình hình thanh khoản hay nói cách khác là

vay tạm thời. Đối với nguồn vốn này, NHTM không dùng để cho vay hay
đầu tư tăng thu nhập.
- Vốn khác: Đây là một nguồn vốn được tạo ra trong quá trình hoạt động
của mình. Là trung gian thanh toán, NHTM tạo ra được một khoản vốn trên
tài khoản mở thư tín dụng, các tài khoản phong tỏa do ngân hàng chấp nhận
các hối phiếu thương mại, các tài khoản séc bảo chi, séc định mức,… Đây là
khoản tiền ngân hàng có thể huy động được tạm thời trong hoạt đông kinh
doanh của mình nhưng không được ổn định.
• 3. Các nhân tố ảnh hưởng đến nghiệp vụ tạo vốn cúa NHTM:
NHTM là một trung gian tài chính của nền kinh tế, các hoạt động kinh
doanh của ngân hàng là kinh doanh tiền tệ. Để có nguồn vốn kinh doanh,
NHTM cần phải có một ượng vốn đủ lớn để đáp ứng đầy đủ các nhu cầu vốn
cho quá trình SXKD và tiêu dùng của toàn xã hội. Việc tạo vốn là là vấn đề
quyết định sự thành công hay thất bại của một ngân hàng thương mại. Tuy
nhiên việc tạo vốn của NHTM còn phụ thuộc rất nhiều yếu tó thuận lợi cũng
như khó khăn từ môi trường kinh doanh của ngân hàng. Dù các yếu tố tác
động đén việc tạo vốn của NHTM là rất đa dạng, nhưng tựu trung lại chủ
yếu từ hai nhân tố đó là nhân tố khách quan và Nhân tố chủ quan.
- Nhân tố khác quan: Đây là nhân tố từ bên ngoài tác động đến quá trình
tạo vốn của NHTM. Bao gốm:
+ Hành lang pháp lý: Đây là nhân tố có ảnh hưởng lớn đến nghiệp vụ tạo
vốn của NHTM. Các bộ luật tác động trực tiếp đến hoạt động của NHTM đó
là: Luật Các tổ chức tín dụng, Luật NHNN,… Những luật này quy định tỷ lệ
huy động vốn so với vốn tự có, qui định việc phát hành trái phiêu, kỳ phiếu,
cho vay đối với khách hàng,… Ngoài ra cón có các luật DN, luật công ty,
luật dân sự, luật đầu tư nước ngoài,… tác động đén quan hệ giữa ngân hàng
với khách hàng,…
Ngoài các Luật thì hoạt động tạo vốn của NHTM còn bị lệ thuộc vào các
chính sách tài chính tiền tệ của quốc gia trong từng giai đoạn, từng hoàn
cảnh,…. Các chính sách này thể hiện trên nhiều khía cạnh như: Mục tiêu

chính sách tiền tệ, sử dụng các công củ tiền tệ, chính sách đầu tư của nhà
nước. Các chính sách tiền tệ cho phép xây dựng phương pháp và lộ trình để
kiểm soát lạm phát ổn định đồng tiền quốc gia trong từng thời kỳ nhất định.
Bên cạnh đó chính sách công cụ tiền tệ để NHNN đưa ra các lãi suất chiết
khấu, dự trử bắt buộc đối với NHTM…
+ Tình hình kinh tế trong và ngoài nước: Việc tạo vốn của NHTM cũng lệ
thuộc chủ yếu về tình hình kinh tế trong nước cũng như ngoài nước. Khi nên


kinh tế ổn định và SXKD phát triển, tu nhập taonf xã hội tăng cao tạo nên
nguồn tích lũy dồi dào hơn tạo thuận lợi cho việc huy động vốn của NHTM
và ngược lại.
+ Tâm lý, thói quen người gửi tiền: Tập quán tiêu dùng cũng aanhr hưởng
trực tiếp đến nghiệp vụ tạo vốn của NHTM. Nếu thói quen của dân cư tích
trử tiền nhà rổi bằng hiện vật (Vàng, BĐS,..) thì việc huy động nguồn vốn
trong dân cư sẽ gặp nhiều khó khăn vì khi có nguồn thu nhập, người dân họ
chỉ tích trử bằng hiện vật tại nhà mà không đến ngân hàng gửi. Bên cạnh đó
còn một ssos tập tục, quan niệm không muốn tiếp xúc với ngân hàng vì cho
rằng người có nhiều tiền và quan hệ xã hội rộng rãi mới có quan hệ với ngân
hàng.
- Nhân tố chủ quan: Đây là nhân tố từ bên trong tác động đến quá trình
tạo vốn của NHTM. Bao gốm:
+ Hình thức huy động vốn: Để thu hút được nguồn vốn trong dân cư,
NHTM phải tạo ra nhiều hình thức đa dạng hình thức huy động vốn. Nếu
NHTM có nhiều hình thức phong phú trong nghiệp vụ huy động vốn thì
ngân hàng dễ huy đông hơn. Thông thường các NHTM sử dụng nhiều hình
thức như kỳ phiếu, trái phiếu, tiền gửi tiết kiệm có nhiều thời hạn khác nhau
để dân chúng dễ lựa chọn.
+ Hình thức cho vay: Ngân hàng cần mở rông nhiều sản phẩm cho vay
đối với nền kinh tế như cho vay ngắn, trung-dài hạn, cho vay hợp vốn, lien

kết,… để cho khách hàng phát huy tốt hiệu quả kinh doanh tạo được năng
lực tài chính cho hoạt động kinh doanh của người vay và từ đó họ có nguồn
vốn vững chắc để có tích lũy giúp ngân hàng cải thiện khả năng tạo vốn phù
hợp.
+ Công nghê trong thanh toán: Khi NHTM áp dụng thành tựu KH-KT
tiên tiến vào hoạt động sẽ tạo cho tâm lý thanh toán nhanh chóng và thuận
lợi, khách hàng dần bỏ thói quen dùng tiền mặt mà tập trung mọi nguồn tiền
vào ngân hàng thanh toán một cách an toàn thì lúc đó ngân hàng sẽ huy động
được hầu hết các nguồn thu nhập từ SXKD của khách hàng trong xã hội vào
từ đó tạo được nền vốn một cách vững chắc.
+ Năng lực, trình độ của nhân viên ngân hàng: Đây là điều cốt lõi để
NHTM quản lý tốt về nhân sự. Khi cán bộ ngân hàng có trình độ chuyên
môn nghiệp vụ cao sẽ tạo được niềm tin cho khách hàng. Bên cạnh đó, ngân
hàng dễ lường trước được những rủi ro xãy ra, nắm bắt được tình hình để tư
vấn cho khách hàng họ sẽ yên tâm hơn trong việc gửi tiền vào ngan hàng.
Có đội ngủ CBNV có trình độn nghiệp vụ tốt thì sẽ có điều kiện thu hút
khách hàng hơn.
+ Mạng lưới phục vụ: Các NHTM có mạng lưới rộng khắp, bám sát địa
bàn dân cư cũng tạo điều kiện thu hút khách hàng nhiều hơn. Khi dân chúng
có tiền nhàn rỗi họ dễ dàng đến các điểm giao dịch gần họ để gửi. Nếu mạng
lưới không sát dân cư người ta sẽ ngại hơn trong việc đến ngân hàng gửi
tiền, dẫn đến nguồn huy động sẽ bị hạn chế.
+ Thái độ phục vụ: Đây là yếu tố có tính quyết định trong mối quan hệ
giữa ngân hàng và khách hàng ảnh hưởng trực tiếp đến sự hài long của
khách hàng. Nếu thái độ cán bộ ngân hàng tốt, nhiệt tình cởi mở thì khách
hàng họ sẽ đén nhiều và thường xuyên hown từ đó NHTM sẽ huy động
được nhiều vốn hơn.
+ Các dịch vụ do ngân hàng cung ứng: Ngân hàng phải đưa ra nhiều dịch
vụ tốt nhất cho khách hàng từ các sản phẩm dịch vụ cho đến cơ sở vật chất
tốt đề khách hàng an tâm hơn khi đến ngân hàng. Một ngân hàng có nhiều



tiện ích dịch vụ trong thanh toán, chuyển tiền, cho vay,… và kể cả cơ sở vật
chất tốt tiện nghi thì khách hàng sẽ đến nhiều hơn, ngân hàng sẽ thu hút
nhiều nguồn vốn của khách hàng hơn.
+ Bảo hiểm tiền gửi: Trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng cũng
chứa nhiều rủi ro tiềm ẩn, để đảm bảo an toàn choc ho người gửi tiền thì
ngân hàng phải có bảo hiểm tiền gửi của khách hàng tạo niềm tin cho khách
hàng yên tâm hơn khi xãy ra rủi ro thì họ sẽ được bảo hiểm chi trả. Nghiệp
vụ bảo hiểm tiêng gửi là phao cứu cánh cho khách hàng gửi tiền khi ngân
hàng gặp rủi ro.
+ Mức độ thâm niên của NHTM: Ngân hàng là một doanh nghiệp kinh
doanh như mọi doanh nghiệp khác, nếu ngân hàng có bề dày hoạt động lâu
năm thì khách hàng sẽ tin tưởng hơn. Khi giao dịch, khách hàng thường
quan tâm đến mức độ thâm niên của ngân hàng họ đang giao dịch vì họ nghỉ
những ngân hàng đó có kinh nghiệm trong thức hiện nghiệp vụ củng như
khả năng tài chính mạnh.
4. Phân tích các khó khăn của NHTM hiện nay trong hoạt động huy
động vốn:
Để tồn tại và phát triển, NHTM phải có một quá trình hoạt động kinh
doanh có hiệu quả với một khả năng tài chính vững chắc. Muốn có một năng
lực tài chính vững chắc, NHTM phải có nguồn vốn lớn ổn định và sử dụng
vốn có hiệu quả với rủi ro thấp nhất. Một ngân hàng có nền vốn vững chắc
là phải tạo vốn có hiều quả nhất mới đáp ứng nhu cầu thanh khoản và mở
rộng kinh doanh. Theo qui đinh tại thông tư 09/2010/TT-NHNN ngày
26/3/2010 của Ngân hàng nhà nước Việt Nam, để thành lập được một
NHTM phải có tối thiểu vốn điều lệ ban đầu từ 3.000 tỷ đồng trở lên. Tuy
nhiên, với nguồn vốn đó, ngân hàng chỉ mới đủ đầu tư cơ sở vật chất kỷ
thuật, trang thiết bị, nguồn vốn để lại kinh doanh không đáng kể. Muốn mở
rộng hoạt động kinh doanh, NHTM phải có một lượng vốn đủ lớn để thực

hiện cho vây, thanh toán cho nhu cầu của khách hàng trong hoạt động
SXKD. Muốn có nguồn vốn mở rộng kinh doanh, các NHTM phải tạo vốn
thông qua nhiều hình thức như tăng vốn góp của cổ đông, huy động trong và
ngoài nước,… tuy nhiên, để tạo nguồn vốn có qui mô lớn nhất chỉ thông qua
huy động trong nền kinh tế mới đảm bảo hơn cả. NHTM coi việc huy động
vốn là vấn đề cốt lõi và xuyên suốt trong quá trình hoạt động kinh doanh của
mình, tuy nhiên trong giai đoạn này còn chứa nhiều khó khăn nhất định. Cụ
thể trên một số mặt khách quan và chủ quan sau đây:
- Về khách quan:
+ Khó khăn về tình hình kinh tế xã hội còn bất ổn, tăng trưởng kinh tế
thấp: Đây là khó khăn trực tiếp trong quá trình huy động vốn của các NHTM
vì khi kinh tế tăng trưởng thấp, thu nhập của người lao động giảm sút không
có nguồn tích lủy để gửi vào ngân hàng, làm cho qui mô hút vốn của ngân
hàng giảm sút đáng kể .
+ Môi trường pháp lý chưa đồng bộ, kịp thời và các chính sách tiền gửi
chưa đáp ứng mong đợi của người gửi tiền. Luật bảo hiểm số
06/2012/QH13 được Quốc Hội tại kỳ họp thứ 3 khóa XIII thông qua ngày
18/6/2012 và có hiệu lực từ ngày 01/01/2013 và được Chính phủ ban hành
Nghị định số 68/2013/NĐ-CP ngày 28/6/2013 có hiệu lực từ ngày 19/8/2013
nên không kịp thời mà mức bảo hiểm còn thấp (khoảng 200 triệu đồng) so
với các nước trong khu vực cũng như trên thế giới.
+ Thói quen cất trử của người dân còn nặng về hiện vật như vàng, bất
động sản và các tài sản có giá trị khác nên người dân không gửi tiền vào
ngân hàng.


• Về mặt chủ quan:
+ Các chính sách về huy động vốn của các NHTM còn bất cập, lãi suất
không ổn định, đường cong lãi suất chưa được xác lập,… nên người gửi tiền
thông thường hưởng mức lãi suất mang tính cào bằng giữa các kỳ hạn không

có sự phân biệt đáng kể.
+ Chính sách lãi suất dương chưa thực hiện được vì do chỉ số lạm phát
lớn hơn hoặc bằng lãi suất tiền gửi nên người dân không muốn gửi tiền vào
ngân hàng sợ mất giá trị đồng tiền.
+ Môi trường kinh doanh có sự cạnh tranh quyết liệt giữa các NHTM
ngày càng rỏ nét: Đây là yếu tố tác động trong môi trương kinh doanh, các
ngân hàng mới ra đời có tiềm lực vốn khiêm tốn, khả năng thanh khoản thấp
dẫn đến việc lôi kéo khách hàng về mình bằng những động thái cạnh tranh
thiếu lành mạnh làm cho dân chúng thiếu tin tưởng vào ngân hàng.
+ Năng lực, trình độ của nhân viên ngân hàng: Đây là điều cốt lõi để
NHTM quản lý tốt về nhân sự. Khi cán bộ ngân hàng có trình độ chuyên
môn nghiệp vụ, đạo đức nghề nghiệp kém sẽ làm mất niềm tin cho khách
hàng. Trong những năm qua, một số vụ án tham nhũng lớn trong lĩnh vức
ngân hàng đã làm thất thoát hàng trăm tỷ đồng của ngân hàng. Điển hình
như vụ lừa đảo chiếm đọt tài sản gần 4.000 tỷ đồng của Huỳnh Thị Huyền
Như, Công ty cho thuê tài chính 2 thuộc Ngân hàng No&PTNT, các cán bộ
nhân viên ngân hàng đã tham ô từ hàng triệu đến hàng tỷ đồng đã làm mất
niềm tin gửi tiên của khách hàng.
+ Mạng lưới phục vụ: Các NHTM đã triển khai, bám sát địa bàn dân cư
nhưng chưa đồng đều, tập trung chủ yếu những thành phố, nơi tập trung dân
cư,… mà chưa mở rộng đến các vùng sâu vùng xa. không sát dân cư người
dân sẽ ngại hơn trong việc đến ngân hàng gửi tiền, dẫn đến nguồn huy động
sẽ bị hạn chế.
+ Thái độ phục vụ: Đây là yếu tố có tính quyết định trong mối quan hệ
giữa ngân hàng và khách hàng ảnh hưởng trực tiếp đến sự hài lòng của
khách hàng. Nếu thái độ cán bộ ngân hàng hờ hững, thiếu nhiệt tình cởi mở
thì khách hàng họ sẽ quay lưng với ngân hàng.
5. Phân tích những vấn đề cơ bản về hoạt động tín dụng. Ưu nhược
điểm hoặc thực trạng hoạt động tín dụng của hệ thống NHTM VN
Tín dụng ngân hàng là mối quan hệ kinh tế giữa người cho vay (NHTM)

và người đi vay (khách hàng) thông qua sự vận động của giá trị và biểu hiện
dười hình thức tiền tệ hay hàng hóa. Quá trình đó diễn ra từ khi ngân hàng
phát tiền vay ra, đến khi người đi vay sử dụng vào quá trình SXKD, tiêu thụ
thu hồi vốn và hoàn trả lại ngân hàng cả gốc lẫn lãi. Hoạt động tín dụng
ngân hàng là một trong những hoạt động kinh doanh chính và mang lại
nhiều lợi nhuận nhất của NHTM . Hoạt động tín dụng là một hoạt động rất
phức tạp và chứa đụng nhiều rủi ro tiềm ẩn. Vì vậy, để đưa ra một quyết định
cấp tín dụng đúng, đảm bảo an toàn vốn thì đòi hỏi phải có một qui trình
chặt chẽ, tuân thủ qui trình nghiệp vụ nghiêm ngặt từ khi cho vay đến khi tất
toán khoản vay.
Những vấn đề cơ bản vể hoạt động tín dụng đó là quá trình xác lập và
thẩm định hồ sơ vay vốn, phân tích đánh giá điều kiện vay vốn, hiệu quả sử
dụng vốn của khách hàng cho khi khách hàng hoàn trả lại đầy đủ gốc lẫn lãi
vay cho ngân hàng. Những vấn đề đó được thực hiện qua các bước như sau:
- Xác lập và thẩm định hồ sơ vay vốn của khách hàng: Đây là quá trình
tiếp xúc ban đầu giữa ngân hàng với khách hàng xác định rỏ đối tượng, tính
pháp lý, uy tín, năng lực của khách hàng trong việc cấp tín dụng. Nếu việc


xác lập và thẩm định hồ sơ kỷ lưỡng sẽ tạo thuận lợi cho các bước tiếp theo.
- Phân tích đánh giá điều kiện vay vốn và hiệu quả dự án/phương án vay:
Đây là một bước rất quan trọng cho việc quyết định cấp tín dụng hay từ chối
của ngân hàng đối với khách hàng. Khi khách hàng hội tụ đầy đủ các điều
kiện về năng lực pháp lý, năng lực tài chính, tài sản bảo đảm,… thì ngân
hàng tính toán đánh giá hiệu quả khoản vay để quyết định giãi ngân.
- Sau khi đã quyết định cho vay, ngân hàng cùng khách hàng ký hợp đồng
tín dụng, tiến hành thanh toán tiền vật tư hàng hóa theo yêu cầu của khách
hàng và tiến hành giám sát sử dụng khoản vay đến lúc tất toán. Đây là quá
trình kiểm tra việc khách hàng sử dụng vốn vay có đúng mục đích
SXKD/tiêu dùng đúng cam kết trong hợp đồng tín dụng hay không, từ đó mà

ngân hàng thực hiện chức năng giám sát đồng tiền của mình. Việc giám sát
tiền vay của ngân hàng thông qua các hợp đồng, báo giá,… vật tư, hàng hóa
của bên cung ứng đồng thời tiến hành kiểm tra thực tế tại đơn vị.
Với thực trạng hoạt động tín dụng của NHTM tại Việt Nam hiện nay còn
có nhiều bất cập đó là:
+ Thông tin về khách hàng thiếu chính xác và minhh bạch, đặc biệt là về
tình hình tài chính. Các khách hàng vay vốn thường cung cấp cho ngân hàng
những mặt mạnh của mình, những mặt khiếm khuyết đều được giấu giếm
không công khai.
+ Khách hàng sử dụng vốn vay sai mục đích: Khi khách hàng xây dựng
phướng án SXKD gửi ngân hàng thường rất phù hợp và có hiệu quả cao, tuy
nhiên khi được chấp thuận cho vay, khách hàng đã sử dụng vốn không đúng
mục đích ban đầu, làm thất thoát vốn, không phát huy hiệu quả của phương
án dẩn đến mất khả năng thanh toán cho ngân hàng. Bên cạnh đó, những
khoản vay vốn ngắn hạn thì khách hàng sử dụng đầu tư vào các lĩnh vực đầu
tư dài hạn, làm cho mất khả năng thanh toán trong ngắn hạn,…
+ Hầu hết các doanh nghiệp, tổ chức vay vốn NHTM đều có mức vốn tự
có tham gia vào phương án/dự án rất thấp. Quá trình SXKD của các doanh
nghiệp chủ yếu dựa vào nguồn vốn tín dụng ngân hàng nên hiệu quả kinh tế
thấp, kinh doanh không có lãi.
+ Trong giai đoạn khó khăn hiện nay, một số doanh nghiệp không có vốn
tự có đã lợi dụng kẻ hở của pháp luật thành lập mới với mục đích vay vốn
ngân hàng để đầu tư tài sản như máy móc thiết bị, nhà xưỡng, kho bãi,... Khi
nền kinh tế khó khăn, kinh doanh không hiệu quả thì để lại cơ sở sản xuất
cho ngân hàng xử lý,….
Với những thực trạng hoạt động tín dụng của hệ thống NHTM Việt Nam
trong những năm qua như đã nêu trên
6. Nội dung bộ hồ sơ tín dụng
Hồ sơ tín dụng củ một ngân hàng là tài liệu, văn bản biểu hiện mối quan
hệ tổng thể của ngân hàng với khách hàng vay vốn bao gồm hồ sơ khách

hàng cung cấp, hồ sơ do ngân hàng lập và hồ sơ do ngân hàng và khách hàng
cùng lập.
6.1. Hồ sơ khách hàng là doanh nghiệp, TCKT lập và cung cấp cho ngân
hàng bao gồm:
- Hồ sơ pháp lý của doanh nghiệp vay vốn: Là loại hồ sơ chứng minh
năng lực pháp lý, năng lực hành vi dân sự của khách hàng vay vốn bao gồm
các giấy tờ sau:
+ Quyết định thành lập doanh nghiệp hoặc giấy chứng nhận đăng ký kinh
doanh


+ Điều lệ của doanh nghiệp
+ Giấy phép hành nghề (nều lĩnh vực kinh doanh có điều kiện)
+ Giấy phép đầu tư (đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài)
+ Hợp đồng liên doanh (nếu là doanh nghiệp liên doanh)
+ Quyết định giao vốn và các văn bản bàn giao tài sản của cục quản lý
vốn và tài sản Nhà nước tại doanh nghiệp (nếu là DNNN)
+ Biên bản góp vốn, danh sách thành viên sáng lập (nếu là công ty CP,
công ty TNHH)
+ Giấy chứng nhận vốn đầu tư ban đầu ( nếu là DNTN)
- Hồ sơ dự án (đối với cho vay trung dài hạn) bao gồm:
+ Quyết định đầu tư, cho phép đầu tư của cơ quan nhà nước có thẩm
quyền.
+ Dự án đầu tư và phê duyệt dự án đầu tư của cấp có thẩm quyền.
+ Thiết kế kỷ thuật và tổng dự toán được phê duyệt
+ Ý kiến của cơ quan quản lý nghành, cơ quan chuyên môn, chính quyền
sở tại và của Chính phủ phê duyệt.
+ Nghị quyết của HĐQT, sáng lập viên, đại hội xã viên về việc đầu tư dự
án.
+ Các hồ sơ liên quan khác như Quyết định giao, thuê đát, văn bản chấp

thuận của của cơ quan quản lý môi trường chap thuận,…
• Hồ sơ kinh tế bao gồm:
+ Kế hoạch SXKD
+ Bảng cân đối kế toán, kết quả hoạt động kinh doanh các kỳ trước liền
kề với kỳ vay vốn.
• Hồ sơ ch mổi lần vay vốn bao gồm:
+ Giấy đề nghị vay vốn.
+ Dự án, phương án kinh doanh dịch vụ, đời sống.
+ Bản sao hợp đồng mua bán, báo giá hàng hóa, hóa đơn, PNK, các
chứng từ thanh toán (nếu có)
+ Hồ sơ bảo đảm tiền vay.
6.2. Hồ sơ đối với hộ gia đình, cá nhân, tổ hợp tác gửi ngân hàng bao
gồm:
- Hồ sơ pháp lý bao gồm:
+ Các tài liệu chứng minh năng lực pháp luật dan sự, hành vi dân sự:
CMND, sổ hộ khẩu, xác nhận hộ khẩu.
+ Giấy phép kinh doanh được cấp có thẩm quyền cấp (nếu vay SXKD)
+ Giấy tờ hợp lệ được giao, cho thuê QSDĐ, mặt nước (đối với hộ nông,
lâm, ngư nghiệp)
+ Giấy phép đánh bắt thủy hải sản, đăng kiểm tàu thuyền (nếu là kinh
doanh đánh bát thủy sản)
+ Hợp đồng hợp tác, chứng tực của UBND xã, phường, thị trấn cho phép
hoạt động (đối với tổ hợp tác)
+ Các giấy tơ khác cần thiết theo qui định của pháp luật.
+ Hồ sơ tài sản bảo đảm (đối với hộ phải thực hiện thế chấp, bỏ lãnh.
- Hồ sơ mổi lần vay vốn (tương tự doanh nghiêp)
6.3. Hồ sơ do ngân hàng lập bao gồm:


- Các báo cáo thẩm định, tái thẩm định.

- Các loại thông báo cho vay, từ chối cho vay, nợ đén hạn, quá hạn,…
- Báo cáo kiểm tra sử dụng vốn vay, báo cáo phân tích tình hình tài chính,
sản xuất kinh doanh của bên vay vốn.
- Sổ theo dõi cho vay và thu nợ
6.4. Hồ sơ do khách hàng và ngân hàng cùng lập:
- Hợp đồng tín dụng hoặc sổ vay vốn.
- Hợp đồng bảo đảm tiền vay
Câu 7: Các nguồn thông tin sử dụng để phân tích khách hàng ? ưu
nhược điểm của nguồn thông tin.
Thông tin của khách hàng chính là nguồn tài sản quan trọng của
doanh nghiệp. Thông qua việc thu thập thông tin của khách hàng để
doanh nghiệp kịp thời nắm bắt động thái thụ trường và phát hiện khách
hàng tiềm năng, bạn có thể tham khảo giải pháp miêu tả chi tiết dưới đây
để biết cách làm thế nào thu thập được thông tin khách hàng
1. Thông tin phục vụ phân tích tín dụng
Như trong khái niệm đã nêu rõ, phân tích tín dụng là một quá trình thu
thập và xử lý thông tin để phục vụ cho việc ra quyết định. Do đó, vấn đề
quan trọng thiết yếu đầu tiên khi thực hiện phân tích tín dụng là vấn đề
thu thập thông tin có chất lượng. Chất lượng thông tin đưa vào phân tích
có ảnh hưởng rất lớn đến kết quả phân tích, qua đó ảnh hưởng đến quyết
định cấp tín dụng. Chất lượng thông tin thể hiện ở ba thuộc tính sau: (1)
đầy đủ, (2) kịp thời và (3) chính xác. Chỉ khi nào thông tin thu thập được
với đầy đủ ba thuộc tính này thì mới được xem là thông tin có chất lượng
và là thông tin hữu ích cho quá trình phân tích. Thông tin cần thu thập
gồm: thông tin tài chính và thông tin phi tài chính.
1.1 Thông tin thu thập từ khách hàng
Khi Khách hàng đề nghị cấp tín dụng, ngân hàng yêu cầu khách hàng
phải lập và nộp cho ngân hàng một bộ hồ sơ. Qua bộ hồ sơ này ngân
hàng có thể thu thập được khá nhiều thông tin về khác hàng, bao gồm:
- Thông tin về tư cách pháp nhân của khách hàng vay vốn

- Thông tin về tình hình tài chính của khách hàng thể hiện qua các báo
cáo tài chính của các kỳ gần nhất
- Thông tin về kế hoạch và chiến lược sản xuất kinh doanh của khách
hàng
- Thông tin về hiệu quả sử dụng vốn vay và khả năng hoàn trả nợ vay
thể hiện qua phương án sản xuất kinh doanh
1.2. Thông tin lưu trữ tại ngân hàng
Đây là nguồn thông tin mà ngân hàng đã thu thập trước kia khi khách
hàng có quan hệ tín dụng với ngân hàng và lưu trữ lại để sử dụng trong
những lần vay tiếp theo. Nguồn thông tin này rất quan trọng vì nó đã trải
qua kiểm chứng và đáng tin cậy. Chẳng hạn khách hàng A trước đây đã
có quan hệ tín dụng với ngân hàng và chấp hành tốt các điều khoản của
hợp đồng tín dụng. Nay khách hàng lại có nhu cầu vay vốn ngân hàng,
thông tin lưu trữ về khách hàng này giúp ích rất lớn cho ngân hàng khi
phân tích tín dụng ngắn hạn.
1.3. Thông tin từ phỏng vấn và điều tra khách hàng
Thông tin từ hồ sơ khách hàng có nhược điểm là mức độ tin cậy không
cao vì thông tin này do chính khách hàng cung cấp, chưa qua kiểm chứng


và xử lý. Thông tin lưu trữ có ưu điểm là đã trải qua kiểm chứng nhưng
nhược điểm của nó là lạc hậu và không phải lúc nào cũng phù hợp cho
việc phân tích. Do vậy, để kiểm chứng và cập nhập hóa thông tin ngân
hàng cần thông quan phỏng vấn và điều tra khách hàng khi họ vay vốn.
Thông tin qua phỏng vấn có ưu điểm là thông tin mới nhất đồng thời qua
nghệ thuật phỏng vấn có thể loại bỏ được một số thông tin gây nhiễu để
từ đó chắt lọc thông tin chính xác hơn phục vụ cho việc phân tích. Ngoài
ra, thông tin qua phỏng vấn còn có thể bổ sung thêm cho thông tin về
khách hàng mà qua hồ sơ chưa thể thu thập đầy đủ.
1.4. Thông tin từ các nguồn khác

Ngoài ra các nguồn thông tin như vừa nêu trên, ngân hàng còn có thể sử
dụng các nguồn thông tin khác để phân tích tín dụng. Các nguồn thông
tin này có thể bao gồm: thông tin từ các ngân hàng khác, thông tin từ bạn
hàng của khách hàng, thông tin từ đối thủ cạnh tranh của khách hàng,
thông tin từ các tổ chức chuyên môn thu thập và cung cấp thông tin,
thông tin từ các phương tiện truyền thông và thông tin từ các ấn phẩm
của chính phủ và cơ quan có liên quan.
Tham gia các cuộc triển lãm ngành nghề và các cuộc hội đàm để thu thập
thông tin khách hàng
Tư liệu tuyên truyền và báo chí. Trên báo thường có các thông tin của
doanh nghiệp tham gia triển lãm, những thông tin này tương đối đầy đủ
và hoàn chỉnh. Trong cuộc triển lãm, các tư liệu tuyên truyền bao gôm
lượng thông tin lớn về khách hàng, cần thu thập càng nhiều càng tốt.
Hiện trường triển lãm: phát các món quà và tư liệu tuyên truyền về công
ty mình, đồng thời, yêu cầu khách hàng điền các thông tin cá nhân vào
bảng đăng ký như: họ tên, đơn vị công tác, chức vụ, điện thoại liên hệ
của khách hàng.
Thu thập danh thiếp: các doanh nghiệp tham gia triển lãm thường đặt
danh thiếp của mình ở gian hàng để khách hàng lấy, cũng có khi doanh
nghiệp chủ động trao danh thiếp cho khách hàng và trao đổi danh thiếp
với khách hàng.
Thăm các gian hang: Có thể thăm các gian hàng khác và giao lưu với các
doanh nghiệp củng ngành nghề kinh doanh, đồng thời cùng trao đổi cách
thức liên hệ. Sau khi kết thúc triển lãm có thể bổ sung những thông tin về
khách hàng như thông tin về sản phẩm hay qui mô doanh nghiệp của
khách hàng.
Xin bảng thông tin của đơn vị tổ chức triển lãm. Thông thường các đơn
vi triển lãm sẽ có bảng thông tin về cuộc triển lãm, nội dung bao gồm:
tên các đơn vị tham gia triển lãm và cách thức liên hệ với khách hàng,
thậm chí bạn còn có thể biết các chương trình khuyến mại của khách

hàng.
Thông qua báo chi, quảng cáo để thu thập thông tin khách hàng.
Thông qua báo chí để thu thập thông tin của khách hàng, chủ yếu là
thông qua tin tức quảng cáo trên báo để thu thập thông tin, chúng ta có
thể biết được địa chỉ, điện thoại liên lạc, tên đơn vị của khách hàng, có
khi chúng ta còn tìm được người liên lạc trực tiếp vừa nhanh, vừa hiệu
quả. Nhưng thông tin quảng cáo trên báo chí khá phức tạp vì sau khi đọc
xong ta còn phải chỉnh lý lại thông tin.
Tìm đọc trên các biển quảng cáo: Thông thường, các tấm biển quảng cáo
chứa đựng lượng lớn thông tin khách hàng, thông tin khá xác thực, đáng
tin, đồng thời thông qua phân loại ngành nghề sẽ tạo thuận lợi cho doanh


nghiệp quản lý thông tin khách hàng.
Thông qua quảng cáo để thu thập thông tin khách hàng. Ví dụ thông qua
tin tức, quảng cáo bên đường hoặc trên các phương tiện giao thông công
cộng.v.v. Nếu doanh nghiệp nào sử dụng các cách thức này để thu thập
thông tin khách hàng cũng khá phức tạp, tốn nhiều thời gian nhưng thông
tin thu được lại rất mới, có tính chính xác cao.
Thông qua mạng để thu thập thông tin khách hàng
Thông qua việc tìm kiếm trên mạng để thu thập thông tin,ví dụ vào trang
“google” để tra cứu thông tin khách hàng khi tìm, phải chú ý đến việc lựa
chọn, sử dụng những từ mấu chốt, dùng dấu cách để phân cách, hoặc có
thể trực tiếp sử dụng sự giúp đở để tìm(dựa vào những chỉ dẩn)
Lướt xem các trang mạng mang tính chuyên nghiệp. Có thể lướt xem
trang chuyên đề thuộc ngành nghề của mình, cũng có thể vào xem trang
tin tức của các nghành nghề tổng hợp, ví dụ trang “mạng thông minh”, ...
Trực tiếp vào trang mạng của doanh nghiệp. Có thể tìm địa chỉ của doanh
nghiệp nào đấy trên mạng, sau đó trực tiếp vào xem trang web của doanh
nghiệp này. Như vậy, thông tin thu được khá hoàn chỉnh, đầy đủ và có

tính chính xác.
Thu thập thông tin khách hàng thông qua cơ cấu chuyên nghiệp
Khi lựa chọn cơ cấu điều tra chuyên nghiệp phải xét đến các nhân tố kinh
nghiệm chuyên nghiệp cũng như sự sắp xếp công nhân viên, trình độ
chuyên nghiệp hoá, giá cả phục vụ của họ. Lựa chọn cơ cấu điều tra tốt,
có tín nhiệm sẽ nâng cao được tính xác thực của thông tin khách hàng đã
thu được.
Tham gia vào các đoàn thể xã hội hoặc các hiệp hội ngành nghề.
Hiệp hội ngành nghề sẽ cung cấp cho các hội viên những thông tin về
từng hội viên khác, đồng thời, các hoạt động của hiệp hội ngành nghề
cũng là cơ hội để tiếp xúc với khách hàng và thu thập thông tin khách
hàng.
Thông qua sự giới thiệu của bạn thân hoặc bạn hàng hợp tác.
Thông qua sự giới thiệu của bạn thân hoặc bạn hàng hợp tác có thể thu
được những thông tin tỉ mỉ về khách hàng, thậm chí cả sở thích, tình hình
gia đình của khách hàng, ngoài ra bạn còn có thể trực tiếp liên hệ với
khách hàng.
Câu 8: Các dấu hiệu của rủi ro tín dụng
1. Khái niệm chung
Rủi ro tín dụng xảy ra khi khách hàng không trả đủ cả gốc và lãi của
khoản vay hoặc thanh toán nợ gốc và lãi không đúng kỳ hạn cam kết
trong hợp đồng tín dụng vì bất kỳ lý do gì.
Hoạt động ngân hàng bao gồm nhiều loại hình hoạt động như: cho vay,
huy động, thanh toán... trong đó, nhìn chung, hoạt động tín dụng thường
mang lại lợi nhuận nhiều nhất cho phần lớn các NHTM. Tuy nhiên, tín
dụng cũng là hoạt động tiềm ẩn nhiều rủi ro nhất cho chính các NHTM.
Thực tế đã chứng minh, hầu hết các vụ phá sản hoặc nguy cơ phá sản
ngân hàng đều có liên quan ít nhiều đến hoạt động tín dụng. Một trong
những minh chứng rõ nhất là hàng loạt các ngân hàng khổng lồ của Mỹ
bị sụp đổ hoặc phải phải sát nhập hoặc được nhà nước bảo hộ trong năm

2008 và 2009 đều bắt nguồn từ hoạt động cho vay mua nhà dưới chuẩn
của Mỹ. Theo hãng tin AP, có 25 ngân hàng Mỹ phải đóng cửa vào năm
2008 và trong quý 1/2009, có thêm 23 ngân hàng Mỹ tiếp tục phải đóng


cửa. Và đây cũng là một trong các nguyên nhân gây lên cuộc suy thoái
kinh tế toàn cầu trong năm 2008 và 2009.
2. Quản trị rủi ro tín dụng
Để quản trị và phòng ngừa rủi ro tín dụng, các NHTM áp dụng nhiều mô
hình khác nhau. Tuy nhiên, thông thường, các NHTM áp dụng đồng thời
cả mô hình định tính và mô hình định lượng.
2.1. Mô hình định tính
Mô hình định tính để quản trị rủi ro tín dụng sẽ bao gồm:
Xây dựng hành lang pháp lý cho hoạt động tín dụng của NHTM.
Quá trình đánh giá khách hàng từ khi tiếp nhận hồ sơ vay vốn, cho
đến khi khách hàng hoàn tất trả nợ gốc và lãi của NHTM.
Thực tế hiện nay, hành lang pháp lý cho hoạt động tín dụng đều được các
NHTM xây dựng tương đối đầy đủ và chặt chẽ. Các NHTM đều đã có
các quy chế, quy định chi tiết về hoạt động cho vay, đảm bảo tiền vay,
phân cấp hạn mức tín dụng, danh mục tín dụng theo ngành, phân loại
nợ… Ngoài ra, với mỗi sản phẩm cụ thể, các NHTM đều ban hành các
văn bản hướng dẫn triển khai chi tiết nên có thể nói các NHTM đã hạn
chế được rủi ro do đã xây dựng được hành lang pháp lý cho hoạt động tín
dụng.
Với lý do nêu trên, phần này sẽ đi sâu phân tích mô hình định tính để
quản trị rủi ro tín dụng theo quá trình đánh giá khách hàng từ khi tiếp
nhận hồ sơ vay vốn cho đến khi khách hàng hoàn tất trả nợ gốc và lãi.
2.1.1.. Đánh giá khách hàng khi tiếp nhận nhu cầu vay vốn của khách
hàng
Khi tiếp nhận bất kỳ nhu cầu vay vốn nào của khách hàng, cán bộ tín

dụng cần phải trả lời được 3 câu hỏi căn bản sau:
Khách hàng vay có tin cậy không và mình đã biết gì về họ.
Khách hàng vay có khả năng trả nợ vay mà không cần đến một sức ép
nào không.
Trường hợp khách hàng vay không trả được nợ gốc và lãi thì NHTM
có thể thu hồi nợ như thế nào để hạn chế rủi ro ở mức tối đa.
2.1.2. Thăm hỏi khách hàng
Đây là một việc làm quan trọng, giúp NHTM nắm được triển vọng hoạt
động của khách hàng. Cụ thể, NHTM biết được chất lượng cơ sở vật chất
của khách hàng, chất lượng lãnh đạo, trình độ quản lý, dấu hiệu hoạt
động quá tải, quy mô và năng lực CBNV hay tính trung thực của khách
hàng trong việc minh bạch hóa hoạt động kinh doanh.
Tổ chức thăm hỏi khách hàng cần phải được thực hiện trước khi quyết
định cho vay và phải được duy trì trong suốt thời gian hiệu lực của khoản
vay. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện, NHTM phải đảm bảo khách
quan, trung thực tránh làm khách hàng hiểu nhầm là nhũng nhiễu, gây
khó dễ, ảnh hưởng đến uy tín và thương hiệu của NHTM.
2.1.3. Thực hiện kiểm tra tại chỗ
Thực hiện kiểm tra tại chỗ là việc làm cần thiết, nhất là đối với khách
hàng có cơ sở hoạt động đặt tại nhiều địa điểm khác nhau. Ngoài ra, kiểm
tra tại chỗ còn giúp các NHTM tránh bị gian lận đối với những nội dung
mà kiểm toán độc lập loại trừ khi thực hiện kiểm toán cho khách hàng.
Kiểm tra tại chỗ giúp NHTM biết được các giao dịch giữa khách hàng và
đối tác của họ có diễn ra thực sự hay không (bằng cách đối chiếu giữa các


chứng từ gốc tại tại cơ sở kinh doanh của khách hàng) và hàng hoá tồn
kho hay tài sản đảm bảo có còn nguyên vẹn về hình thức và giá trị hay
không.
2.1.4. Quản lý và theo dõi khoản vay

Sau khi NHTM giải ngân khoản vay, NHTM cần thực hiện quản lý và
theo dõi khoản vay. Công việc này bao gồm theo dõi thông tin về khách
hàng vay, tình hình tài chính của khách hàng vay, tình trạng của tài sản
thế chấp… để biết chắc rằng khách hàng vẫn đủ năng lực tài chính và tài
sản thế chấp vẫn đủ giá trị đảm bảo cho khoản vay.
Dưới đây là một số dấu hiệu khả nghi cho thấy những thay đổi của khách
hàng vay và rất có thể phản ánh tình trạng tài chính xuống cấp, thậm chí
quẫn bách của khách hàng:
Gửi báo cáo muộn
Giảm đột ngột tài sản có
Chủ nợ khác đăng ký quyền nắm giữ tài sản thế chấp
Tăng công nợ vượt quá tốc độ tăng doanh số bán hàng
Doanh số bán hàng đột nhiên tăng hoặc là những con số tròn trĩnh
Khách hàng mới đến ồ ạt
Tăng bất thường trong công nợ phải trả
Điện thoại bị ngắt hoặc rất khó liên lạc được với khách hàng
Hàng trong kho tăng đột biến
Kéo dài thời gian tính khấu hao TSCĐ
Giảm lương, chậm nộp thuế
Cá nhân thay đổi thói quen chi tiêu theo hướng tiết kiệm hơn; thay đổi
phương tiện đi lại...
Thay đổi cơ cấu nhân sự trong hệ thống quản trị
Thấu chi liên tục
Giá cổ phiếu của đơn vị thay đổi bất lợi
2.1.5.. Thực hiện xác minh chéo
NHTM có trách nhiệm xác minh công nợ bằng cách lựa chọn một số
công nợ ngẫu nhiên rồi thực hiện xác minh chéo sự tồn tại cũng như giá
trị của chúng.
Để làm được việc này, đại diện NHTM sẽ liên lạc với bên nợ của khách
hàng để xác nhận số nợ thực tế (theo nguyên tắc không để lộ thông tin về

khoản vay của khách hàng tại ngân hàng của mình). Tần suất thực hiện
xác minh chéo tùy thuộc vào tình hình tài chính của khách hàng vay,
những thay đổi gần đây trong vấn đề tài chính cũng như các điều kiện
kinh tế xung quanh khách hàng. Ngoài ra, tần suất xác minh chéo còn
phải phụ thuộc vào sự cân nhắc giữa một bên là mong muốn bảo đảm cho
NHTM không bị khách hàng vay gian lận với một bên là mong muốn
không làm tổn hại đến mối quan hệ giữa khách hàng vay và đối tác của
họ.
Câu 9: Phân tích các nguyên nhân dẫn đến nợ xấu của hệ thống
NHTM ở Việt Nam.
1. Về phía doanh nghiệp, cá nhân vay vốn
• Nguyên nhân khách quan:
- Doanh nghiệp cá nhân vay vốn gặp rủi ro trong hoạt động kinh doanh


của mình: Thiên tai, hỏa hoạn,...khiến việc sử dụng vốn vay không hiệu
quả, thậm chí là mất hoàn toàn vốn.
- Sự biến động và sức ép của thị trường và môi trường kinh doanh cạnh
tranh khiến doanh nghiệp không thích ứng kịp thời, làm mất khả năng
thanh toán. Trong điều kiện hội nhập và cạnh tranh quốc tế ngày nay, vấn
đề về biến động tỷ giá, giá xăng dầu, nhiên liệu, nguyên liệu là vấn đề
quan trọng cần theo dõi, dự đoán tốt và đề phòng.
- Lạm phát cao, sức mua thấp, tồn kho cao.
- Nhà nước cắt giảm đầu tư công khiến cho các doanh nghiệp ngành
xây dựng, nguyên vật liệu xây dựng, công nghiệp...điêu đứng về đầu ra.
Ngân hàng hạn chế cho vay trong mối lo nợ xấu. Tỷ lệ phá sản tăng và nợ
quá hạn lẽ đương nhiên tăng mạnh.
• Nguyên nhân chủ quan:
- Doanh nghiệp phụ thuộc quá nhiều vào vốn vay. Có doanh nghiệp tỷ
lệ nợ lên đến 80-90% tổng tài sản, Những doanh nghiệp này rất nhạy cảm

với các biến động về lãi suất ngân hàng và giá cả. Một khi có những biến
động ngoài dự kiến, lợi nhuận kinh doanh không đủ khả năng chi trả lãi
suất, thành nợ xấu,
- Doanh nghiệp thiếu khả năng quản lý sản xuất kinh doanh khiến đồng
vốn sử dụng không hiệu quả, thua lỗ, nợ ngân hàng tăng cao và mất khả
năng chi trả. Hoặc doanh nghiệp sử dụng vốn không đúng với nhu cầu
vay vốn, phục vụ cho những mục đích khác, không tập trung phát triển
hoạt động sản xuất kinh doanh. Lợi nhuận không có và nợ ngân hàng
thành nợ xấu.
- Doanh nghiệp đầu tư tràn lan nhiều ngành, kể cả những ngành không
liên quan khiến nguồn vốn phân tán, thiếu hụt vốn, sản xuất ngưng trệ
dẫn đến phá sản.
- Phương án kinh doanh không khả thi, lập kế hoạch dự báo, dự phòng
kém, quản trị rủi ro kém.
- Phải kể đến nguyên nhân là mối liên hệ giữa doanh nghiệp và đối tác
kinh doanh. Doanh nghiệp chạy theo doanh thu, sản lượng. Trong quá
trình sản xuất kinh doanh chỉ quan tâm và chú trọng làm thế nào để tăng
nhanh doanh thu, đẩy mạnh sản lượng và xem nhẹ phương thức và điều
kiện thanh toán do đó công tác thu hồi vốn sau này gặp rất nhiều vấn đề
phức tạp, khó khăn.
- Doanh nghiệp không đề cao công tác kiểm tra, xác minh thông tin
khách hàng trước khi hợp tác: Có rất nhiều các giao dịch kinh tế hiện nay
được xác lập dựa trên sự quen biết và thông qua các mối quan hệ không
rõ ràng, do đó khi hợp tác những nguyên tắc, quy định đặt ra sẽ thường
bỏ qua, không áp dụng. Nhất là việc thẩm tra, xác minh tình hình hoạt
động, khả năng tài chính của đối tác thường các Doanh nghiệp không đặt
ra. Khi gặp vấn đề về thu hồi vồn, những mối quan hệ trước đây sẽ không
có vai trò và không thể tác động để khách hàng thanh toán tiền.
- Sự quản lý lỏng lẻo đối với cán bộ phòng kinh doanh, cán bộ phụ
trách trực tiếp: Chính nhận thức, trình độ chuyên môn của cán bộ phụ

trách trực tiếp thu hồi nợ và đặc biệt là sự quản lý lỏng lẻo từ phía Doanh
nghiệp đã tạo cơ hội để nhân viên kinh doanh, cán bộ phụ trách trực tiếp
bật đèn xanh cho khách hàng, để khách hàng lợi dụng sự sơ hở, tận dụng
những điểm yếu để cố tình kéo dài không thanh toán nợ.
- Vấn đề đạo đức, uy tín và ý thức trả nợ của doanh nghiệp, cá nhân vay
vốn, không muốn trả nợ dù khả năng tài chính có.


2. Nguyên nhân từ phía ngân hàng
- Nguyên nhân đầu tiên và quan trọng nhất là mối quan hệ truyền thống
giữa Doanh nghiệp nhà nước và các ngân hàng thương mại nhà nước.
Việc các ngân hàng thương mại nhà nước bỏ qua các kỷ luật tín dụng để
cấp vốn vay cho các dự án yếu kém không phải là chuyện lạ, và đây
chính là nguyên nhân đa phần của các món nợ xấu của doanh nghiệp nhà
nước. Và khi nào mối quan hệ này còn thì nợ xấu sẽ không bao giờ bị
loại trừ được.
- Chạy theo cạnh tranh thu hút khách hàng và áp lực tăng trưởng nóng,
một số ngân hàng sẵn sàng nới lỏng điều kiện phê duyệt tín dụng: tỷ lệ
cho vay/ trị giá TSĐB, tín chấp, cầm cố hàng hóa không giám sát chặt
món vay; tỷ lệ cho vay/nhu cầu vốn
- Tổ chức, nhân sự và biện pháp quản trị rủi ro của các ngân hàng
thương mại còn nhiều hạn chế, chỉ có khoảng 40% ngân hàng thương mại
tiếp cận được chuẩn quốc tế (Basel III);
- Khâu thẩm định hời hợt: Trừ một số ít khách hàng có phát sinh nợ xấu
bắt nguồn từ nguyên nhân khách quan như: kinh doanh thua lỗ, công nợ
khó đòi, khó khăn do thay đổi cơ chế, thay đổi chính sách tăng trưởng
của Nhà nước thì hầu hết các khoản nợ xấu bắt nguồn từ khâu thẩm định
quá hời hợt của cán bộ tín dụng. Do không xác định được quy mô kinh
doanh thực sự của khách hàng, khả năng cạnh tranh của khách hàng đối
với ngành nghề mà khách hàng đang kinh doanh, không xác định được

nguồn thu của khách hàng từ đâu và về đâu để có thể đưa ra một mức cho
vay và cách thức giám sát hợp lý. Cán bộ ngân hàng đôi khi còn hời hợt
trong phần kiểm tra sử dụng vốn, dẫn đến không phát hiện kịp thời những
khó khăn của khách hàng ngay từ khi vừa nhen nhóm. Không ít khách
hàng, khi được kiểm tra về việc sử dụng vốn sau khi vay cho biết một
phần vốn vay thực sự vào kinh doanh, phần khác dùng cho mục đích sửa
nhà, mua sắm vật dụng, thậm chí là tiêu xài cá nhân... Đến khi phần vốn
đầu tư kinh doanh thua lỗ, không còn nguồn khác để trả nợ ngân hàng,
thế là phát sinh nợ xấu. Mặt khác, tư cách khách hàng là yếu tố quan
trọng gắn liền với thiện chí hoàn trả tiền vay của khách hàng thường bị
lãng quên trong quá trình thẩm định ban đầu.
- Nguồn cung cấp thông tin hạn chế. Thực sự, ngoài những thông tin do
khách hàng cung cấp, cán bộ tín dụng cũng gặp nhiều khó khăn với các
kênh thông tin về khách hàng. Rất khó kiểm chứng được toàn bộ những
thông tin mà khách hàng cung cấp cho ngân hàng. Tâm lý một số cán bộ
muốn đẩy phần rủi ro cho ngân hàng khác bằng cách chỉ cung cấp thông
tin tốt về khách hàng đó khi ngân hàng bạn hỏi thăm. Ngân hàng vẫn
chưa có sự liên thông với các cơ quan khác như Thuế, Hải quan,... để
kiểm chứng những thông tin tài chính do khách hàng cung cấp. Trừ
những doanh nghiệp lớn, các công ty cổ phần do yêu cầu phải kiểm toán
cáo báo cáo tài chính của các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Hệ thống kế toán
của chúng ta còn nhiều bất cập và chưa hoàn toàn thống nhất với các
chuẩn mực của hệ thống kế toán thế giới. Thậm chí còn có doanh nghiệp
sử dụng đồng thời hai hệ thống kế toán, một luôn lỗ hay lợi nhuận rất
thấp để đối phó với cơ quan thuế và một rất đẹp đẽ khi đặt quan hệ giao
dịch với ngân hàng.
- Một số cán bộ ngân hàng suy thoái đạo đức nghề nghiệp, cấu kết, móc
ngoặc với DN để trục lợi cá nhân và cho vay không đúng quy định;
- Hiệu quả công tác thanh tra, giám sát còn hạn chế, nhất là không kịp
thời phát hiện, ngăn chặn và xử lý các vi phạm quy định về hạn chế cấp



tín dụng và đầu tư một số lĩnh vực rủi ro cao.
3. Nguyên nhân từ tài sản đảm bảo
- Thứ 1: Tài sản đảm bảo bị giảm giá trị quá nhanh trong một thời gian
ngắn như BĐS, hàng tồn kho một số khu vực và một số loại hàng hóa.
- Thứ 2: Khâu xử lý tài sản thế chấp còn vướng nhiều thủ tục nhiêu
khê, mất nhiều thời gian.
- Thứ 3: Các văn bản hướng dẫn quy định về phân loại về xử lý nợ còn
chồng chéo, chưa cụ thể khiến các ngân hàng chưa chủ động trong việc
xử lý tài sản đảm bảo. Bên cạnh đó trong quá trình xử lý tài sản, khi
khách hàng không hợp tác, còn chưa có sự quy định phù hợp và thực tế
của luật pháp và sự hỗ trợ của các cơ quan chức năng.
Câu 10: Đề xuất các giải pháp để giải quyết vấn đề nợ xấu của hệ
thống NHTM ở VN.
1. Kiến nghị về hệ thống pháp luật, chính sách
- Hoàn thiện hệ thống pháp luật, tạo hành lang pháp lý chặt chẽ, có hiệu
lực, đảm bảo sự công bằng bình đẳng trong hoạt động tài chính ngân
hàng.
- Có những biện pháp, cơ chế để thúc đẩy, tạo sức ép, buộc các ngân
hàng, tổ chức tín dụng vận động theo hướng hoàn thiện, nâng cao chất
lượng dịch vụ và năng lực cạnh tranh.
- Thực hiện tái cơ cấu hệ thống ngân hàng theo đề án đã được Chính
phủ phê duyệt, phù hợp với các cam kết của các tổ chức tài chính quốc tế,
nhằm tạo ra các ngân hàng có quy mô lớn, đủ sức cạnh tranh.
- Về cơ cấu lại tài chính: Tăng vốn điều lệ và xử lý dứt điểm nợ tồn
đọng ở các ngân hàng thương mại nhằm lành mạnh hóa tài chính, giảm
thiểu rủi ro và nâng cao năng lực cạnh tranh. Đối với ngân hàng thương
mại nhà nước, cần bổ sung vốn điều lệ để đạt tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu
8%, xử lý hết nợ tồn đọng, lành mạnh và minh bạch tài chính. Đối với

các ngân hàng thương mại cổ phần, tăng vốn điều lệ thông qua sát nhập
và hợp nhất, phát hành bổ sung cổ phiếu. Đối với những trường hợp quá
yếu kém về tài chính, cần giải quyết triệt để, có thể thu hồi giấy phép
kinh doanh hoạt động.
- Việc tuân thủ các luật về quy định trong hoạt động ngân hàng cần
được kiểm tra giám sát thường xuyên để đảm bảo thực hiện đúng và đầy
đủ.
- Phối hợp nhịp nhàng chính sách tài khóa và tiền tệ, giải quyết vấn đề
tồn kho đang nhức nhối cả nền kinh tế.
- Phối hợp với chính quyền địa phương, tòa án các cấp để phát mãi các
tài sản thế chấp trong hệ thống ngân hàng để tạo ra nguồn xử lý nợ xấu.
- Khuyến khích các tổ chức tín dụng có tài chính lành mạnh mua bán lại
nợ của các TCTD khác. Khuyến khích các TCTD đàm phán với các
doanh nghiệp để biến nợ thành cổ phần, góp phần tháo gỡ khó khăn cho
doanh nghiệp.
2. Kiến nghị về phía ngân hàng
- Xây dựng và chuẩn hóa, văn hóa toàn bộ các quy định, quy trình
nghiệp vụ liên quan đến mọi hoạt động của ngân hàng. Xác định trách
nhiệm rõ ràng và tuân thủ triệt để các quy trình đã được xây dựng.
- Xây dựng các quy chế chuẩn mực phù hợp với các tiêu chuẩn quốc tế
như quản trị rủi ro, quản trị tài sản nợ - có, quản trị nguồn vốn, kiểm tra


kiểm toán nội bộ. Xây dựng quy trình tín dụng hiện đại và sổ tay tín
dụng. Xây dựng hệ thống kế toán và thiết lập các chỉ tiêu, các báo cáo tài
chính phù hợp với các chuẩn mực kế toán quốc tế.
- Nâng cao chất lượng nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ ngân hàng, đào tạo
kỹ năng kiến thức ngân hàng hiện đại.
- Xây dựng và hoàn thiện hệ thống cảnh báo sớm về nợ xấu. Bởi nợ xấu
nếu kịp thời xác định, ngân hàng thương mại sẽ sớm có biện pháp ứng

phó, từ đó giảm thiểu tác động của nợ xấu. Dấu hiệu nợ xấu có thể nhận
diện qua nhiều vấn đề như phát sinh nợ quá hạn, áp lực chi phí tài chính
lớn, doanh thu sụt giảm. Việc theo dõi sát sao để phát hiện nợ xấu là rất
cần thiết. Trên thực tế có rất nhiều nguyên nhân từ vĩ mô đến vi mô gây
nên nợ xấu, và vấn đề thu thập, nắm giữu thông tin khách hàng, đồng thời
phân tích nguyên nhân là những mấu chốt quan trọng đối với hoạt động
của ngân hàng.
- Ngân hàng phải đánh giá đúng tiềm năng và nhận diện rõ khó khăn
của doanh nghiệp. Trong nhiều trường hợp, nếu thấy doanh nghiệp còn
khả năng phục hồi, ngân hàng phải đồng hành với doanh nghiệp, gia hạn
nợ, tái cơ cấu để tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp, biến nợ xấu thành
nhóm nợ bình thường.
- Đối với khối nợ xấu cũ, biện pháp xử lý: Sử dụng nguồn trích lập dự
phòng rủi ro theo quy định. Tìm mọi biện pháp để thanh lý, phát mãi tài
sản bảo đảm cho các khoản nợ xấu để thu hồi nợ. Tiếp tục giảm lãi suất
xuống để thực hiện các khoản cho vay mới, giúp DN giảm chi phí đầu
vào, bán được hàng, có điều kiện trả nợ ngân hàng. Thực hiện việc mua
bán nợ.
- Đối với các ngân hàng thương mại nhà nước, bên cạnh trách nhiệm
thực hiện chính sách phát triển kinh tế thông qua cấp tín dụng cho các
doanh nghiệp, dự án, hộ gia đình, trong quá trình thực hiện cần đảm bảo
nguyên tắc tín dụng của ngân hàng thương mại để xác định rõ thực hiện
như thế nào, cho ai vay, vay bao nhiêu và bao lâu, đảm bảo quản lý được
các khoản nợ mình cấp vốn. Thêm vào đó, cán bộ chính quyền các cấp
phải học để có kiến thức về ngân hàng, đảm bảo không can thiệp vào các
hoạt động ngân hàng. Đồng thời xây dựng nguyên tắc kiểm tra việc cho
vay doanh nghiệp nhà nước hoặc các dự án do chính quyền địa phương
xây dựng để đảm bảo các quyết định của ngân hàng độc lập với các cấp
chính quyền. Quy định chặt chẽ nguồn ngân sách đối ứng của địa phương
trong các dự án này.

3. Kiến nghị về phía doanh nghiệp cá nhân vay vốn.
- Về phía các doanh nghiệp - con nợ, giải quyết các khoản nợ xấu
thương mại là nghĩa vụ thị trường hiển nhiên của mình. Vì vậy, các con
nợ này phải tìm mọi nguồn có thể để trả nợ; thương lượng với các chủ nợ
để cơ cấu lại nợ; rà soát các dự án để điều chỉnh kế hoạch sản xuất kinh
doanh, tập trung vào các hoạt động có hiệu quả nhất, giảm thiểu chi phí
và sự lệ thuộc vào nguồn vốn ngân hàng, tăng khả năng quản trị rủi ro,
khả năng tự đổi mới và phản ứng thị trường của mình
- Hàng tồn kho chính là “cục máu đông” làm tắc nghẽn nền kinh tế và
là nguyên nhân làm cho nợ xấu tăng lên. Đặc biệt, trong lĩnh vực bất
động sản, hơn một năm nay đóng băng, hàng tồn kho nhiều, đó là nguyên
nhân 70% nợ xấu hiện nay liên quan đến bất động sản. Giải quyết hàng
tồn kho là vấn đề cấp bách hiện nay, giải quyết hàng tồn kho thì sẽ giải
quyết được nợ xấu, mà để giải quyết được hàng tồn kho ngoài việc hạ giá
bán (chấp nhận lỗ) để thu hồi vốn về quay vòng thì một hình thức liên kết


giữa các DN, sử dụng các sản phẩm của nhau cũng là cách làm hiện nay.
Bên cạnh đó, việc minh bạch thông tin tài chính, nâng cao khả năng quản
trị DN, để tạo niền tin trong quan hệ tín dụng với ngân hàng.
- Cụ thể, trước mắt cần giải quyết hàng tồn kho, tập trung kích cầu vào
sắt thép, xi măng, vật liệu xây dựng, căn hộ nhà chung cư, đẩy mạnh
tuyên truyền khuyến khích, mở các đợt bán giảm giá thu hút người tiêu
dùng; tiếp tục mở rộng thị trường xuất khẩu, nhất là các mặt hàng nông,
thủy, hải sản; khuyến khích các doanh nghiệp sử dụng sản phẩm của
nhau. Bên cạnh đó, các ngân hàng phải chia sẻ, tham gia tháo gỡ khó
khăn với doanh nghiệp.
Câu 11: Các NHTM hiện nay đang đối mặt với những khó khăn gì?
Các ngân hàng thương mại đang đối mặt với những khó khăn trong huy
động và cho vay, dẫn đến khó đáp ứng nhu cầu vay vốn của các doanh

nghiệp và dẫn đến những hạn chế nội tại.
Về huy động vốn, với trên 90% tỷ trọng vốn của ngân hàng hiện nay là
nguồn vốn ngắn hạn, gây khó khăn cho các ngân hàng thương mại trong
việc quản trị nguồn vốn, khó bảo đảm cân đối kỳ hạn. Kỳ hạn huy động
vốn bình quân có xu hướng rút ngắn trong khi kỳ hạn cho vay bình quân
dài, tạo nguy cơ rủi ro kỳ hạn và lãi suất.
Hơn nữa, sự mất cân đối kỳ hạn vốn của ngân hàng hiện nay cũng là một
trong những nguyên nhân khiến nhiều ngân hàng không thể đáp ứng nhu
cầu vay vốn của doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp nhỏ và vừa,
do các doanh nghiệp này chủ yếu vay vốn trung và dài hạn để đầu tư mở
rộng sản xuất kinh doanh.
Về tăng trưởng tín dụng, do hàng tồn kho lớn, sản xuất của các khách
hàng đang suy giảm nghiêm trọng, các ngân hàng khó khăn trong thu nợ
(gốc, lãi), nợ xấu có xu hướng tăng cao. Một số lĩnh vực cho vay cần ưu
tiên như cho vay nông nghiệp, nông thôn gặp nhiều khó khăn do khách
hàng vay không đủ điều kiện để ngân hàng xem xét cho vay (không có
phương án sản xuất - kinh doanh có hiệu quả không có hoặc không đủ tài
sản bảo đảm, tình hình tài chính không minh bạch, nợ xấu phát sinh do
không tiêu thụ được sản phẩm...).
Cụ thể hơn, ở tình hình huy động vốn, những tháng đầu năm lạm phát
tăng cao, các ngân hàng gặp khó khăn, nguồn vốn huy động toàn hệ
thống có xu hướng giảm. Tuy nhiên, sau khi có Chỉ thỉ 02 của Thống đốc
Ngân hàng Nhà nước, với việc xử lý nghiêm các ngân hàng vi phạm trần
lãi suất huy động vốn, hầu hết các tổ chức tín dụng đã nghiêm túc thực
hiện trần lãi suất; hiện tượng chạy đua lãi suất, khách hàng mặc cả lãi
suất với ngân hàng trước đây, đến nay nhìn chung đã giảm đáng kể.
Qua thực tế tình hình huy động vốn, một số ngân hàng thương mại có lợi
thế về mạng lưới, thương hiệu, nguồn vốn huy động tăng mạnh; một số
ngân hàng quy mô nhỏ huy động vốn trên thị trường 1 gặp khó khăn, một
số khác quản trị rủi ro thanh khoản yếu, vốn huy động phụ thuộc lớn vào

thị trường 2, nắm giữ ít giấy tờ có giá, thực hiện cạnh tranh lách huy
động vốn với lãi suất cao đã ảnh hưởng đến hoạt động của các tổ chức tín
dụng khác và gây mất ổn định thị trường tiền tệ.
Tuy nhiên, do Ngân hàng Nhà nước có biện pháp xử lý kịp thời thông
qua tái cấp vốn, nghiệp vụ thị trường mở và các biện pháp khác, nên về
cơ bản thanh khoản VND toàn hệ thống hiện vẫn đảm bảo.
Về tín dụng, các tổ chức đã điều chỉnh lãi suất cho vay VND theo xu
hướng giảm dần, phù hợp với xu hướng giảm của lãi suất huy động. Và


mặc dù, các ngân hàng đã “giảm mạnh” mức lãi suất cho vay, tuy nhiên
nhiều doanh nghiệp chưa tiếp cận được nguồn vốn ngân hàng.
Về chất lượng tín dụng và tỷ lệ nợ xấu, trong bối cảnh lãi suất vẫn còn
cao, môi trường kinh tế trong và ngoài nước tiềm ẩn rủi ro, các doanh
nghiệp tiếp tục gặp nhiều khó khăn trong quá trình hoạt động sản xuất
kinh doanh, làm dư nợ quá hạn và nợ xấu có xu hướng gia tăng.
Thu nhập của ngân hàng đến chủ yếu từ hoạt động cho vay, nhưng năm
qua với điều kiện kinh tế nói chung và thị trường tài chính nói riêng,
nguồn thu từ hoạt động tín dụng của hầu hết các ngân hàng bị ảnh hưởng,
dẫn đến hiệu quả hoạt động của hầu hết ngân hàng bị giảm sút đáng kể.
Câu 12: Hai bài tập đã giới thiệu trên lớp
Câu 13: Nghiệp vụ chiết khấu và bao thanh toán của NHTM
Chiết khấu
Chiết khấu là một nghiệp vụ tái cấp vốn ngắn hạn, trong đó khách hàng
chuyển nhượng thương phiếu hoặc các giấy tờ có giá ngắn hạn khác chưa
đáo hạn cho ngân hàng, để nhận được một số tiền bằng mệnh giá trừ lãi
chiết khấu và phí. NHTM được chiết khấu thương phiếu và các giấy tờ có
giá ngắn hạn khác đối với các tổ chức, cá nhân và tái chiết khấu đối với
các TCTD khác;
Bao thanh toán

Bao thanh toán là hình thức cấp tín dụng cho bên bán hàng hoặc bên mua
hàng thông qua việc mua lại có bảo lưu quyền truy đòi các khoản phải
thu hoặc các khoản phải trả phát sinh từ việc mua, bán hàng hoá, cung
ứng dịch vụ theo hợp đồng mua, bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ.
Các loại hình bao thanh toán: Bao thanh toán truy đòi, miễn truy đòi.
Câu hỏi 15. Phân tích chức năng và vai trò của NHTM, liên hệ ở
Việt Nam
Ngân hàng thương mại đã hình thành tồn tại và phát triển hàng trăm năm gắn
liền với sự phát triển của kinh tế hàng hoá. Sự phát triển hệ thống ngân hàng
thương mại (NHTM) đã có tác động rất lớn và quan trọng đến quá trình phát
triển của nền kinh tế hàng hoá, ngược lại kinh tế hàng hoá phát triển mạnh
mẽ đến giai đoạn cao nhất là nền kinh tế thị trường thì NHTM cũng ngày
càng được hoàn thiện và trở thành những định chế tài chính không thể thiếu
được.
Ngân hàng thương mại là một bộ phận lớn nhất của hệ thống trung gian tài
chính. Tổng tài sản có của NHTM luôn có khối lượng lớn nhất. Các trung
gian tài chính này thu hút vốn trước hết bằng cách phát hành: Tiền gửi có thể
phát hành séc được, tiền gửi tiết kiệm và các tiền gửi có kỳ hạn. Sau đó họ
dùng vốn này để thực hiện cho vay: Cho vay thương mại, cho vay tiêu dùng,
cho vay thế chấp và để mua: Các chứng khoán chính phủ, các trái khoán của
chính quyền địa phương.
Trong thế giới hiện đại, tính cho đến thời điểm này thì ngân hàng thương
mại và cơ cấu hoạt động của nó đóng vai trò quan trọng nhất trong thể chế
tài chính của mỗi nước. Hoạt động của NHTM đa dạng, phong phú và có
phạm vi rộng lớn, trong khi các tổ chức tài chính khác thường hoạt động trên
một lĩnh vực hẹp và theo hướng chuyên sâu.
Hoạt động kinh doanh của NHTM có những đặc trưng cơ bản sau:
- Đối tượng kinh doanh của NHTM là tiền tệ - là một hàng hóa đặc biệt. Đặc
điểm của tiền tệ là rất nhạy cảm và dễ bị tác động ảnh hưởng bởi những biến



động, những thay đổi của các yếu tố môi trường bên ngoài hoặc bên trong.
- Nguồn vốn kinh doanh của ngân hàng chủ yếu là nguồn vốn đi vay dưới
hình thức tiền gửi. Bản chất của nó là nguồn vốn tiền tệ tạm thời nhàn rỗi do
đó tính ổn định tương đối thấp.
- Sử dụng vốn: Chủ yếu là cấp tín dụng cho các doanh nghiệp, tổ chức và cá
nhân, hoặc đầu tư vào các tài sản tài chính. Đó là hoạt động kinh doanh tạo
ra nguồn thu nhập chủ yếu của mỗi ngân hàng, nhưng mức độ rủi ro của
nghiệp vụ này rất cao và gần như không thể tránh được (do nhiều nguyên
nhân chủ quan và khách quan dẫn đến).
- Cương độ cạnh tranh trong lĩnh vực ngày càng cao: (cạnh tranh giữa các
ngân hàng trong nước, với các ngân hàng nước ngoài và các tổ chức tài
chính phi ngân hàng…)
- KHách hàng của các ngân hàng cũng có nhiều điểm khác biệt so với khách
hàng của các xí nghiệp công nghiệp thương mại và dịch vụ khác đó là: Họ
có quan hệ tiếp tục, thường xuyên, gắn bó mật thiết và lâu dài với ngân
hàng, do đó nhiều người cho rằng họ là những thân chủ của ngân hàng.
- Sản phẩm của ngân hàng là dịch vụ tài chính với những đặc điểm vô hình,
không tách rời, không ổn định và không dự trữ được. Đặc điểm này cũng
ảnh hưởng khá lớn đến kinh doanh ngân hàng.
- Mức độ rủi ro trong kinh doanh ngân hàng rất cao. Vì vậy các NHTM luôn
phải đối đầu với rủi ro phải có những biện pháp hữu hiệu để phòng ngừa và
hạn chế rủi ro (rủi ỏ tín dụng, rủi ro thanh khoản, rủi ro lãi suất, rủi ro phá
sản…)
- NHTM phải chịu sự giám sát chặt chẽ và thường xuyên của các cơ quan
quản lý vĩ mô. Tính hệ thống trong kinh doanh ngân hàng cao hơn các lĩnh
vực khác (mang tính đồng nhất cao về kĩ thuật nghiệp vụ, tính dặc thù là
tương đối hạn chế). Các NHTM mặc dù cạnh tranh gay gắt với nhau nhưng
lại cần phải có sự thống nhất về một số nghiệp vụ, phải hỗ trợ nhau về thanh
khoản, vốn kinh doanh, chia sẽ rủi ro, sẽ đảm bảo an toàn cho từng ngân

hàng cũng như cho toàn hệ thống và cho nền kinh tế.
Trong sự phát triển của nền kinh tế-xã hội, Ngân hàng là một yếu
tố không thể thiếu bởi các chức năng cơ bản của nó: là trung gian tài
chính, tạo phương tiện thanh toán, trung gian thanh toán
- Trung gian tài chính: Ngân hàng là một tổ chức trung gian tài chính với
hoạt động chủ yếu là chuyển tiết kiệm thành đầu tư, đòi hỏi sự tiếp xúc với
hai loại cá nhân và tổ chức trong kinh tế: Các cá nhân và tổ chức tạm thời
thâm hụt chi tiêu (tức là chi tiêu cho tiêu dùng và đầu tư vượt quá thu nhập
và vì thế họ là những người cần bổ sung vốn). Các cá nhân và tổ chức thặng
dư tạm thời trong chi tiêu (tức là thu nhập hiên tại của họ lớn hơn các khoản
chi tiêu cho hàng hóa, dịch vụ và do vậy họ có tiền để tiết kiệm).Sự tồn tại
của hai loại cá nhân và tổ chức trên hoàn toàn độc lập với Ngân hàng, và
điều tất yếu là tiền sẽ chuyển từ nhóm thứ hai sang nhóm thứ nhất nếu cả hai
cùng có lợi. Khi đó sẽ hình thành nên mối quan hệ tài chính, mà có thể là
quan hệ trực tiếp dưới hình thức tín dụng hoặc quan hệ cấp phát, hùn vốn và
cũng có thể là quan hệ gián tiếp nếu trong quan hệ trực tiếp bị nhiều giới hạn
do không phù hợp về qui mô, thời gian, không gian... Với quan hệ gián tiếp
đòi hỏi có sự tham gia của các trung gian tài chính mà với sự chuyên môn
hóa họ có thể giảm chi phí giao dịch xuống, làm tăng thu nhập cho người tiết
kiệm từ đó mà khuyến khích được tiết kiệm, đồng thời giảm phí tổn tín dụng
cho người đầu tư và cũng khuyến khích đầu tư. Trung gian tài chính đã tập
hợp những người tiết kiệm và đầu tư, vì vậy giải quyết được mâu thuẫn của


quan hệ tài chính trực tiếp.Đồng thời do sự phân bổ không đều thông tin và
năng lực phân tích thông tin thường được gọi là tình trạng “thông tin không
cân xứng” làm giảm tính hiệu quả của thị trường và Ngân hàng có năng lực
để làm giảm đến mức thấp nhất những sai lệch đó.
- Tạo phương tiện thanh toán: Tiền-Vàng có một chức năng quan trọng là
làm phương tiện thanh toán trong trao đổi mua bán hàng hóa, dịch vụ, song

khi nền sản xuất phát triển cao hơn, lượng phân phối qua lại ngày càng nhiều
thì trong thanh toán bằng tiền mặt, vàng gặp nhiều khó khăn và Ngân hàng
đã tạo phương tiện thanh toán khi phát hành giấy nhận nợ cho khách hàng,
và với những ưu điểm nhất định nó đã trở thành phương tiện thanh toán rộng
rãi được nhiều người chấp nhận. Ngoài ra giấy nhận nợ đó còn được thay thế
tiền kim loại làm phương tiện lưu thông, phương tiện cất trữ, nó trở thành
tiền giấy.Ngày nay giấy nhận nợ đã được phát triển dưới nhiều hình thức
khác nhau như: Séc, kỳ phiếu... đã giúp cho việc thanh toán được diễn ra
nhanh gọn và có hiệu quả hơn.
-Trung gian thanh toán: Ngân hàng trở thành trung gian thanh toán lớn nhất
hiện nay ở hầu hết các quốc gia. Thay mặt cho khách hàng, Ngân hàng thực
hiện thanh toán giá trị hàng hóa và dịch vụ, để việc thanh toán nhanh chóng
thuận tiện và tiết kiệm chi phí, Ngân hàng đưa ra cho khách hàng nhiều hình
thức thanh toán như thanh toán bằng Sec, ủy nhiệm chi, nhờ thu... Cung cấp
mạng lưới thanh toán điện tử, kết nối các quỹ và cung cấp tiền giấy khi
khách hàng cần. Các Ngân hàng còn thực hiện thanh toán bù trừ với nhau
thông qua Ngân hàng trung ương hoặc thông qua các trung tâm thanh toán,
công nghệ thanh toán qua Ngân hàng càng đạt hiệu quả cao khi qui mô sử
dụng công nghệ đó càng được mở rộng. Nhiều hình thức thanh toán được
chuẩn hóa góp phần tạo tính thống nhất trong thanh toán không chỉ giữa các
ngân hàng trong một quốc gia mà còn giữa các Ngân hàng trên toàn thế giới.
Với các trung tâm thanh toán quốc tế được thiết lập đã làm tăng hiệu quả của
thanh toán qua Ngân hàng, biến Ngân hàng trở thành trung tâm thanh toán
quan trọng và có hiệu quả, phục vụ đắc lực cho nền kinh tế toàn cầu.
Vai trò của NHTM đối với sự phát triển của nền kinh tế:
- Ngân hàng thương mại là nơi cung cấp vốn cho nền kinh tế: Thực tế cho
thấy, để phát triển kinh tế các đơn vị kinh tế cần phải có một lượng vốn lớn
đầu tư cho hoạt động sản xuất kinh doanh và các hoạt động khác. Nhưng
điều khó khăn hơn lợi ích là cần có người đứng ra tập trung tiền nhàn dỗi ở
mọi nơi mọi lúc và kịp thời cung ứng cho nơi cần vốn. Bằng vốn huy động

được trong xã hội thông qua hoạt động tín dụng, Ngân hàng thương mại đã
cung cấp vốn cho mọi hoạt động kinh tế, đáp ứng nhu cầu vốn một cách kịp
thời cho quá trình sản xuất. Nhờ có hoạt động của hệ thống Ngân hàng
thương mại và đặc biệt là hoạt động tín dụng, các doanh nghiệp, cá nhân có
điều kiện mở rộng sản xuất, cải tiến máy móc, công nghệ để tăng năng suất
lao động, nâng cao hiệu quả kinh tế và chất lượng sản phẩm cho xã hội.
- Ngân hàng thương mại là cầu nối các doanh nghiệp với thị trường: Bước
sang cơ chế thị trường, đòi hỏi sự phát triển của tín dụng Ngân hàng đã làm
biến đổi hoạt động ruỗng lát trong các nhà máy, xí nghiệp khơi dậy sức sống
bằng các dây chuyền sản xuất hiện đại năng suất cao, thực hiện chuyển giao
công nghệ từ các nước tiên tiến. Điều không thể thực hiện bằng vốn tự có
của các doanh nghiệp vốn dĩ đã rất ít ỏi. Bên cạnh đó, tín dụng ngân hàng
còn cung cấp một phần vốn không nhỏ trong việc tăng cường nguồn vốn lưu
động của các doanh nghiệp. Một vấn đề luôn là mối lo thường trực của các
doanh nghiệp. Một khía cạnh khác đòi hỏi sự có mặt của tín dụng ngân hàng
đối với doanh nghiệp. Đó là một ngân quỹ để dành cho việc đào tạo đội ngũ


lao động phù hợp với sự phát triển của khoa học - kỹ thuật - công nghệ cao.
Đặc biệt trong điều kiện nước ta vẫn còn thiếu nhiều những chuyên gia đầu
ngành, những cán bộ có năng lực và những công nhân lành nghề.
- Ngân hàng thương mại là một công cụ để Nhà nước điều tiết vĩ mô nền
kinh tế: Cùng với sự vận động của nền kinh tế, hệ thống ngân hàng được
chia làm hai cấp: Ngân hàng Nhà nước và các Ngân hàng chuyên doanh
(NHTM). NHCT được Nhà nước cấp vốn cho hoạt động và sử dụng như
công cụ để quản lý hoạt động tiền tệ, điều tiết chính sách tiền tệ quốc gia.
Nhà nước điều tiết ngân hàng, ngân hàng dẫn dắt thị trường thông qua hoạt
động tín dụng và thanh toán giữa các Ngân hàng thương mại trong hệ thống
từ đó góp phần mở rộng khối lượng tiền cung ứng trong lưu thông và thông
qua việc cung ứng tín dụng cho các ngành trong nền kinh tế, Ngân hàng

thương mại thực hiện việc dẫn dắt các luồng tiền tập hợp và phân chia vốn
của thị trường, điều khiển chúng một cách có hiệu quả.
- Ngân hàng thương mại là cầu nối nền tài chính quốc gia với nền tài chính
quốc tế. Nhận thức được tầm quan trọng của kinh tế quốc tế, sự hội nhập
kinh tế quốc gia với thế giới đem lại những lợi ích kinh tế to lớn, thúc đẩy
nền kinh tế phát triển nhanh và bền vững. Một trong các điều kiện quan
trọng góp phần thúc đẩy sự hội nhập nền kinh tế quốc gia với nền kinh tế thế
giới đó là nền tài chính quốc gia. Nền tài chính quốc gia là cầu nối với nền
tài chính quốc tế thông qua hoạt động của Ngân hàng thương mại trong các
lĩnh vực kinh doanh như nhận tiền gửi, cho vay, nghiệp vụ thanh toán,
nghiệp vụ ngoại hối và các nghiệp vụ khác. Đặc biệt là các hoạt động thanh
toán quốc tế, buôn bán ngoại hối, quan hệ tín dụng với các ngân hàng Nhà
nước của Ngân hàng thương mại trực tiếp hoặc gián tiếp tác động góp phần
thúc đẩy hoạt động thanh toán xuất nhập khẩu và thông qua đó Ngân hàng
thương mại đã thực hiện vai trò điều tiết tài chính trong nước phù hợp với sự
vận động của nền tài chính quốc tế.
Trong vài năm qua, những đóng góp của hệ thống NHTM VN vào quá trình
đổi mới và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, đẩy nhanh quá trình công nghiệp
hoá - hiện đại hoá là rất lớn. Các NHTM không chỉ tiếp tục khẳng định là
một kênh dẫn vốn quan trọng cho nền kinh tế, mà còn góp phần ổn định sức
mua đồng tiền . Đến nay, hệ thống ngân hàng vẫn đóng vai trò chi phối trên
thị trường vốn vớitổng số 100 ngân hàng từ nhà nước, cổ phần, chi nhánh
nước ngoài đến nhà băng 100% vốn nước ngoài và liên doanh. Vốn cho sản
xuất kinh doanh chủ yếu vẫn do các NHTM đáp ứng, với tổng tài sản của hệ
thống lên tới khoảng 140% GDP. Tổng tài sản của cả hệ thống ngân hàng
đạt khoảng 3,5 triệu tỷ đồng, hơn 250.000 tỷ vốn điều lệ
Nhà nước mà ở đây là NHNN dùng các công cụ như lãi suất, tỷ giá, tỷ lệ dự
trữ bắt buộc, cho vay tái cấp vốn, thị trường mở, hoán đổi tiền tệ thông qua
hệ thống NHTM để điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Ngân hàng nhà nước thực
hiện công việc tái chiết khấu các hối phiếu đối với các NHTM, cấp vốn

thông qua cho vay đối với các tổ chức này đồng thời qua đây kiểm soát lãi
suất. Nhà nước thông qua NHTM điều tiết tiền tệ để xác lập lãi suất hợp lí
cho kinh tế phát triển, tạo lợi thế cạnh tranh cho doanh nghiệp với các nước
trên thế giới, vì lãi suất đưa vào chi phí kinh doanh, nếu chi phí cao quá,
doanh nghiệp không cạnh tranh được. Ngân nhà nước còn mua và bán các
giấy tờ có giá, qua đó điều tiết lượng vốn trên thị trường. Ngân hàng nhà
nước có quyền yêu cầu các ngân hàng thương mại mở tài khoản tại chỗ mình
và các ngân hàng phải gửi vào tài khoản của họ một lượng tiền nhất định.
Thông thường lượng tiền này được quy định tương đương với một tỷ lệ nào


đó tiền gửi vào ngân hàng thương mại, gọi là tỷ lệ dự trữ bắt buộc.Trong
trường hợp có tổ chức tín dụng gặp nguy cơ đổ vỡ ngân hàng nhà nước sẽ tái
cấp vốn cho tổ chức tín dụng đó để cứu nó tránh làm ảnh hưởng đến cả hệ
thống tài chính của quốc gia…
Câu 16. Phân tích chức năng , vai trò của Ngân hàng trung ương và
chính sách tiền tệ, liên hệ với Việt Nam
Ngân hàng trung ươnglà một định chế quản lý nhà nước về tiền tệ tín dụng
và ngân hàng độc quyền phát hành tiền, là ngân hàng của các ngân hàng thực
hiện chức năng điều hòa, lưu thông tiền tệ trong phạm vi cả nước nhằm ổn
định tiền tệ. Hầu hết các ngân hàng trung ương thuộc sở hữu của Nhà nước,
nhưng vẫn có một mức độ độc lập nhất định đối với Chính phủ.
Ngân hàng trung ương liên quan đến ba chức năng cơ bản, đó là phát hành
tiền tệ, ngân hàng của các tổ chức tín dụng, ngân hàng của chính phủ,quản
lí nhà nước về tiền tệ và hoạt động ngân hàng. Tuy nhiên, không phải ngân
hàng trung ương nào cũng mang đầy đủ ba chức năng này
- Phát hành tiền tệ: Ở phần lớn các nước (trong đó có Việt Nam), ngân hàng
trung ương là cơ quan duy nhất có quyền phát hành tiền tệ.
- Ngân hàng của các tổ chức tín dụng: Ngân hàng trung ương thực hiện công
việc tái chiết khấu các hối phiếu đối với các tổ chức tín dụng, cấp vốn thông

qua cho vay đối với các tổ chức này (đồng thời qua đây kiểm soát lãi suất).
Ngân hàng trung ương còn mua và bán các giấy tờ có giá, qua đó điều tiết
lượng vốn trên thị trường.
Ngân hàng trung ương có quyền yêu cầu các ngân hàng thương mại mở tài
khoản tại chỗ mình và các ngân hàng phải gửi vào tài khoản của họ một
lượng tiền nhất định. Thông thường lượng tiền này được quy định tương
đương với một tỷ lệ nào đó tiền gửi vào ngân hàng thương mại, gọi là tỷ lệ
dự trữ bắt buộc.Trong trường hợp có tổ chức tín dụng gặp nguy cơ đổ vỡ
làm ảnh hưởng đến cả hệ thống tài chính của quốc gia, ngân hàng trung
ương sẽ tái cấp vốn cho tổ chức tín dụng đó để cứu nó. Vì thế, ngân hàng
trung ương được gọi là người cho vay cuối cùng (hay người cho vay cứu
cánh).
- Ngân hàng của Chính phủ: Ở nhiều nước, ngân hàng trung ương là người
quản lý tiền nong cho chính phủ. Chính phủ sẽ mở tài khoản giao dịch không
lãi suất tại ngân hàng trung ương. Tuy nhiên, ở một số nước, chẳng hạn như
ở Việt Nam, chức năng này do kho bạc đảm nhiệm.Ngân hàng trung ương
còn làm đại diện cho chính phủ khi can thiệp vào thị trường ngoại hối
Câu 17. Những vấn đề cơ bản về lãi suất của NHTM; diễn biến lãi
suất tiền gửi và cho vay trong thời gian vừa qua ( từ 2010 đến nay)
Lãi suất là một trong những biến số dược theo dõi một cách chặt chẽ
trong báo chí vì nó trực tiếp ảnh hưởng đến đời sống hàng ngày của mỗi
chúng ta và có những hệ quả quan trọng đối với sức khoẻ của nền kinh tế .
Nó tác động đến những quyết định cá nhân như chi tiêu hay để dành ,mua
nhà hay mua trái phiếu hay gửi vốn vào một tài khoản tiết kiệm. Lãi suất
cũng tác động đến những quyết định kinh tế của các doanh nghiệp hoặc của
các gia đình như dùng vốn để đầu tư mua thiết bị mới cho các nhà máy hoặc
để giửi tiết kiệm trong một Ngân hàng .
Lãi suất là một phạm trù kinh tế tổng hợp có liên quan chặt chẽ đến một số
phạm trù kinh tế khác nó đóng vai trò như một đòn bẩy kinh tế trong nền
kinh tế thị trường , tín dụng Ngân hàng phản ánh mối quan hệ giữa các chủ

thể sử dụng vốn (người vay vốn) với chủ thể sở hữu vốn (người thừa vốn)
theo nguyên tắc hoàn trả có kỳ hạn kèm theo lãi ở thị trường vốn người mua


người bán rất quan tâm đến giá cả tiền tệ đó chính là lãi suất hay giá cả của
quyền sử dụng vốn trong một thời kỳ nhất định .
Những vấn đề chung về lãi suất:
Khái niệm lãi suất: Lãi suất là giá cả của quyền được sử dụng vốn trong một
thời gian nhất định mà người sử dụng trả cho người sở hữu nó.
Lãi suất phải được trả bởi lẽ người đi vay đã sử dụng vốn của người cho vay
phục vụ nhu cầu sinh lợi trong sản xuất kinh doanh hoặc nhu cầu tiêu dùng
của mình . Việc người cho vay chuển quyền sử dụng vốn cho người khác có
nghĩa là anh đã hy sinh quyền sử dụng tiền tệ ngày hôm nay của mình .
Đánh đổi cho sự chuyển quyền đó là quyền người cho vay được trả lãi suất .
Phân loại lãi suất
• Căn cứ vào thời hạn tín dụng lãi suất được chia thành 3 loại:
+ Lãi suất ngắn hạn áp dụng đối với các khoản tín dụng ngắn hạn
+ Lãi suất trung hạn áp dụng đối với các khoản tín dụg trung hạn
+ Lãi suất tín dụng dài hạn áp dụng đối với các khoản tín dụng dài hạn
• Căn cứ vào các loại hình tín dụng (phân loại theo chủ thể tham gia
quan hệ tín dụng) lãi suất được chia thành các loại sau:
+ Lãi suất tín dụng thương mại áp dụng khi các doanh nghiệp cho nhau vay
dưới hình thức mua bán chịu hàng hoá .
+Lãi suất tiền gửi : là lãi suất trả cho các khoản tiền giửi .Nó được áp dụng
để tính tiền lãi phải trả cho người giửi tiền .
+Lãi suất tiền vay: là lãi suất người đi vay phải trả cho Ngân hàng do việc sử
dụng vốn vay của Ngân hàng . Nó được áp dụng để tính lãi mà khách hàng
phải trả cho Ngân hàng .
+Lãi suất chiết khấu : áp dụng khi Ngân hàng cho khách hàng vay dưới hình
thức triết khấu thường phiếu hoặc giấy tờ có giá trị khác chưa đên hạn thanh

toán của khách hàng . Nó được tính bằng tỷ lệ % trên mệnh giá của giấy tờ
có giá trị và được khấu trừ ngay khi Ngân hàng phát tiền vay cho khách
hàng.
+Lãi suất tái triết khác: áp dụng khi Ngân hàng trung ương tái cấp vốn cho
các Ngân hàng dưới hình thức triết khấu lại thương phiếu hoặc giấy tờ có giá
ngắn hạn chưa đến hạn thanh toán cho các Ngân hàng.Nó được tính bằng tỷ
lệ % trên mệnh giá của giấy tờ có giá cũng được khấu trừ ngay khi Ngân
hàng Trung ương cấp vốn tiền vay cho Ngân hàng
+Lãi suất liên Ngân hàng : là lãi suất mà Ngân hàng áp dụng khi cho nhau
vay trên thị trường liên Ngân hàng .
+Lãi suất cơ bản: Là lãi suất được các Ngân hàng sử dụng làm cơ sở để ổn
định mức lãi suất kinh doanh của mình .
+Lãi suất tín dụng Nhà nước : áp dụng khi Nhà nước đi vay của các chủ thể
khác nhau trong xã hội dưới hình thức phát hành tín phiếu hoặc trái phiếu .
+Lãi suất tín dụng tiêu dùng : áp dụng khi doanh nghiệp cho người lao động
vay phục vụ nhu cầu tiêu dùng cá nhân .
• Căn cứ vào giá trị thực của lãi suất, Lãi suất được chia thành 2 loại :
+Lãi suất danh nghĩa : Là lãi suất tính theo giá trị danh nghĩa của tiền tệ vào
thời điểm nghiên cứu hay nói cách khác là loại lãi suất chưa loại trừ đi tỷ lệ
lạm phát .
+Lãi suất thực tế là lãi suất được điều chỉnh lại cho đúng theo những thay
đổi về lạm phát .Hay nói cách khác là lãi suất đã loại trừ đi tỷ lệ lạm phát


Lãi suất thực có hai loại:
*Lãi suất thực tính trước ( dự tính ): là lãi suất thực được điều chỉnh lại cho
đúng theo đúng những thay đổi dự tính về lạm phát
*Lãi suất thực tính sau : là lãi suất thực được điều chỉnh lại cho đúng theo
những thay đổi trên thực tế về lạm phát
Lãi suất danh nghĩa = lãi suất thực + tỷ lệ lạm phát

Hoặc Lãi suất thực = lãi suất danh nghĩa – tỷ lệ lạm phát
• Căn cứ vào mức ổn định của lãi suất, Lãi suất được chia làm hai loại .
+Lãi suất cố định : là lãi suất áp dụng cố định trong suất thời hạn vay . Nó
có ưu điểm : Người gửi tiền và vay tiền biết trước số tiền lãi được trả và phải
trả .Bên cạnh đó nó có nhược điểm bị ràng buộc vào một lãi suất nhất định
trong một thời hạn nào đó dù cho các loại lãi suất khác thay đổi như thế
nào .
+Lãi suất thả nổi : Là lãi suất có thể thay đổi lên xuống và có thể báo trước
hoặc không báo trước.Lãi suất thả nổi có lợi cho cả hai bên khi nhận và trả
tiền đều tính theo một lãi suất chung là lãi suất hiện tại
• Căn cứ vào mức ổn định của lãi suất, Lãi suất được chia làm 2 loại lãi
đơn và lãi kép
+Lãi suất đơn là lãi suất tính một lần trên số vốn gốc cho suất kỳ hạn vay
Công thức tính : I = Co . i . n
( trong đó I số tiền lãi , Co vốn gốc , i là lãi suất , n số kỳ )
Trong đó thời kỳ gửi vốn phải tương đương với thời kỳ của lãi suất
+ Lãi suất kép : là mức lãi suất có tính đến giá trị đầu tư lại của lợi tức thu
được trong thời hạn sử dụng tiền vay
Công thức : C = Co (1+i)n
Trong đó :C số tiền thu được theo lãi gộp sau n kỳ ,Co vốn gốc ban đầu ,i lãi
suất n só kỳ gửi vốn
Vai trò của lãi suất trong nền kinh tế
Trong nền kinh tế kế hoạch hoá tập chung quan liêu bao cấp vai trò của lãi
suất được nhìn nhận một cách hết sức mờ nhạt và lệ thuộc nhiều khi được
hiểu như là một sự phan phối cuối cùng của sản phẩm giữa những người sản
xuất và người cho vay
Chuyển sang nền kinh tế thị trường lãi suất giữ vai trò hết sức quan trọng là
một trong những đòn bẩy kinh tế .Nó tác động đến tất cả các lĩnh vực của
nền kinh tế quốc dân nói chung vai trò của lãi suất được thể hiện ở nội dung
sau đây:

-Lãi suất là công cụ để khuyến khích tiết kiệm đầu tư
Lãi suất là công cụ khuyến khích lợi ích vật chất để thu hút các khoản tiết
kiệm của các chủ thể kinh tế tạo nên quỹ cho vay đáp ứng nhu cầu của nền
kinh tế
Theo lý thuyết tài chính chúng ta có thể đưa ra phương trình về thu nhập như
sau :
Thu nhập = Tiêu dùng + Tiết kiệm
Phương trình này không những đúng với đặc điểm tài chính của các hộ gia
đình các doanh nghiệp mà còn đúng với cả nền kinh tế quốc gia .Giả trong
điều kiện của một nền kinh tế bình thường tỷ lệ giữa tiêu dùng và tiết kiệm
là hợp lý để tăng tỷ lệ tiết kiệm cho toàn bộ nền kinh tế quốc dân thì biện
pháp hiệu quả là tăng lãi suất huy động vốn .Khi lãi suất vốn tăng nên thì


×