Tải bản đầy đủ (.docx) (22 trang)

CHÍ PHÈO và AQ CHÍNH TRUYỆN từ góc NHÌN SO SÁNH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (133.85 KB, 22 trang )

VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU VĂN HỌC THEO HƯỚNG SO SÁNH
I. VỀ VĂN HỌC SO SÁNH
1.Quá trình hình thành và phát triển
Bộ môn văn học so sánh ban đầu chỉ là một phương pháp nghiên cứu văn học,
được gọi là phương pháp so sánh. Từ thời Cổ đại đã có sựu vay mượn của văn học
La Mã đối với văn học Hy Lạp. Ở giai đoạn Trung đại cũng đã có những sự ảnh
hưởng qua lại giữa các nền văn học của các nước phương Tây cơ đốc giáo.Thời
Phục Hưng, thời kỳ Cổ điển nhiều nền văn học bấy giờ đã hướng sự vay mượn vào
nền văn học cổ đại Hy - La, các nhà lí luận thời này chỉ giới hạn ở việc chỉ ra
những hiện tượng vay mượn,công việc so sánh lúc này chưa mang tính khách quan
và lịch sử.
Thế kỷ XVIII, chủ nghĩa tư bản bắt đầu phát triển mạnh ở phương Tây. Điều kiện
cho chủ nghĩa tư bản phát triển là phải có sự trao đổi và giao lưu quốc tế. Tình
trạng cô lập của chế độ phong kiến cát cứ đã trở thành một vật cản chủ chốt đối với
sự phát triển của xã hội tư bản. Giao lưu kinh tế đã dẫn đến giao lưu văn hóa. Và
giao lưu văn hóa lại thúc đẩy giao lưu kinh tế và dẫn đến những biến đổi xã hội.
Thể hiện rõ là cuộc cách mạng tư sản ở Pháp 1789 và các nước châu Âu vào năm
1848.
Maxr và Engels đã tuyên bố trong tuyên ngôn của đảng cộng sản 1848 rằng :
“Thay cho tình trạng cô lập trước kia của các địa phương và dân tộc vẫn tự cung tự
cấp, ta thấy phát triển những quan hệ phổ biến, sự phụ thuộc phổ biến giữa các
dân tộc. Mà sản xuất vật chất đã như thế, thì sản xuất tinh thần cũng không kém
như thế, những thành quả của hoạt động tinh thần của một dân tộc trở thành tài sản
chung của tất cả các dân tộc. Tính chất hẹp hòi và phiến diện dân tộc ngày càng
không thể tồn tại được nũa, và từ những nền văn học dân tộc và địa phương muôn
hình muôn vẻ, đang nảy nở một nền văn học thế giới”.
Goethe cho rằng : “ Ở thời đại chúng ta,văn học dân tộc không còn có ý nghĩa gì
nhiều; bây giờ là thời đại của văn học thế giới và mỗi chúng ta cần phải góp phần
làm cho thời đại đó hình thành càng sớm càng tốt”. Ông cũng nói thêm rằng : “Mọi
cái còn lại (tức các nền văn học khác) chúng ta chỉ nên nhìn nhận theo quan điểm
lịch sử, để từ đó chúng ta chỉ tiếp nhận những gì phù hợp với chúng ta và những gì


là tốt đẹp”.
1


Như vậy,khái niệm “văn học thế giới” vừa có nghĩa là nền văn học thế giới vừa có
nghãi là bộ môn lịch sử văn học thế giới. Đây là cơ sở để dẫn tới sự ra đời của văn
học so sánh, hay nói cách khác giao lưu văn hóa là điều kiện xã hội hình thành văn
học so sánh.
Thế kỷ XIX, vấn đề học thuật tạo điều kiện thuận lợi cho văn học so sánh phát
triển,nhất là các ngành khoa học lịch sử phát triển cực thịnh, tạo điều kiện cho bộ
môn văn học sử hình thành và nở rộ, phương pháp so sánh được nhiều ngành khoa
học áp dụng,nhất là trong ngôn ngữ học so sánh và folclor so sánh.
Năm 1886, một công trình tổng hợp đầu tiên về lịch sử văn học thế giới của
Macauly Posnett(người Anh) xuất hiện với đầu đề văn học so sánh(Comparative
Literature) đánh dấu sự hình thành chính thức của bộ môn văn học so sánh với tính
cách là một bộ môn đọc lập. Cũng năm này,ở Genève , Thụy Sĩ, Eduard Rod bắt
đầu các bài giảng về lich sử so sánh các nền văn học, và ở Đức, Supfle xuất bản tập
sách đầu tiên trong bộ Lịch sử ảnh hưởng của nền văn minh Đức đối với Pháp,
mang tính chất của một công trình văn học so sánh. Có thể coi năm 1886 là năm
khai sinh ra bộ môn văn học so sánh.
Năm 1903 ở Hoa Kỳ xuất hiện Tạp chí văn học so sánh, tới năm 1921 xuất hiện tờ
tạp chí có uy tín nhất và vẫn tồn tại cho đến ngày nay là Tạp chí văn học so sánh
xuất bản ở Pháp.
Trải qua hơn một trăm năm tồn tại, bộ môn văn học so sánh đã có mọt vị trí vững
vàng và độc lập tương đối trong khoa nghiên cứu văn học. Hiện nay, sự giao lưu
văn hóa giữa các dân tộc đã trở thành một hiện tượng có tính chất tòan cầu. Văn
học so sánh, do đó, ngày càng trở nên cần thiết vì nó giúp cho tòan nhân loại hiểu
biết chính mình và hiểu biết lẫn nhau, thúc đẩy tiến trình giao lưu phát triển nhanh
và ngày càng khắng khít. Văn học so sánh đã trở thành một trào lưu thế giới.
Trên phạm vi thế giới, Văn học so sánh đang ở giai đọan phát triển manh và trưởng

thành. Văn học so sánh đã được đưa vào giảng dạy trong các trường đại học trên
toàn thế giới. Có 37 nước đã thành lập Khoa Văn học so sánh hoặc thành lập viện
nghiên cứu Văn học so sánh. Dù đã ra đời hơn 100 năm, song Văn học so sánh vẫn
còn sức hấp dẫn mãnh liệt. Nhưng dường như sự phổ biến của nó ở Phương Tây
vẫn rộng rãi hơn ở Phương Đông.
Vào năm 1954, Hiệp hội Văn học so sánh quốc tế được thành lập, đến nay đã có
trên 4500 thành viên, trở thành một trong những hiệp hội nghiên cứu khoa học xã
2


hội và nhân văn quốc tế lớn nhất. Điều đó càng khẳng định thêm sự hấp dẫn và tầm
quan trọng của bộ môn Văn học so sánh.
Nhất là từ khi có sự xuất hiện của Chủ nghĩa duy vật biên chứng và Chủ nghĩa duy
vật lịch sử, Văn học so sánh đã có một bước ngoặt cách mạng trong tiến trình phát
triển của mình về mặt phương hướng, phương pháp luận.
2. Thuật ngữ và định nghĩa
Thuật ngữ văn học so sánh đã xuất hiện từu thế kỷ XVIII, bên cạnh thuật ngữ văn
học so sánh, người Pháp và người Anh còn sử dụng một số thuật ngữ ,chính xác
hơn và phức tạp hơn nữa như “lịch sử các nền văn học được so sánh”, “lịc sử so
sánh các nền văn học’,…
Kể từ cuối thế kỷ XIX cho đến nay,nhiều nước đã chấp nhậ dung thuật ngữ văn học
so sánh, mặc dù nó có phần thiếu chính xác.Khi nói đến văn học so sánh thì ta
không nên hiểu đó là một nền văn học được so sánh, mà thực chất nó là một bộ
môn khoa học có chức năng so sánh một nền văn học này với một hay nhiều nền
văn học khác, hoặc so sánh các hiện tượng của các nền văn học khác nhau.
Định nghĩa văn học so sánh cũng có nhiều quan niệm khác nhau và có một quá
trình biến đổi theo lịch sử. Tác giả cuốn Lí luận văn học so sánh Nguyễn Văn Dân
đồng tình với ý kiến đông đảo giới nghiên cứu cho rằng văn học so sánh như là
một bộ môn khoa học nghiên cứu các mối quan hệ giữa các nền văn học dân tộc.
Cụ thể văn học so sánh sẽ bao hàm ba bộ phận nghiên cứu:

Những mối quan hệ trực tiếp giữa các nền văn học dân tộc (những ảnh hưởng và
vay mượn lẫn nhau giữa các nền văn học).
Những điểm tương đồng (những điểm giống nhau giữa các nền văn học sinh ra
không phái do ảnh hưởng giữa chúng mà là do điều kiện lịch sử xã hội giống
nhau).
Những điểm khác biệt độc lập, biểu hiện bản sắc của các hiện tượng văn học dân
tộc hay của các nền văn học dân tộc, được chứng minh bằng phương pháp so sánh.
3. Mục đích và đối tượng của văn học so sánh
3.1. Mục đích của văn học so sánh

3


So sánh là một thao tác tư duy rất cơ bản. Trong cuộc sống, khi ta tư duy, ta đã
dùng đến thao tác này rất thường xuyên như một phần tất yếu. Văn học cũng là một
lĩnh vực của tư duy, của nhận thức, mang tính đặc thù, cho nên việc sử dụng thao
tác so sánh trong sáng tác và nghiên cứu văn học là một điều hết sức tự nhiên. Từ
khi có văn học, nhất là văn học viết đến nay, các nhà nghiên cứu đã có ý thức so
sánh khi tìm hiểu văn chương, đặc biệt là khi có những hiện tượng song hành trong
văn học. Có thể nhắc đến những hiện tượng song hành tiêu biểu trong văn học Việt
Nam: Nguyễn Trãi và Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Du và Nguyễn Đình Chiểu,
Cung Oán Ngâm và Chinh Phụ Ngâm,… So sánh các hiện tượng văn chương trở
thành một phương pháp nghiên cứu văn chương. Vậy so sánh văn chương có phải
là văn học so sánh không?
So sánh văn chương là một phương pháp nghiên cứu văn học có đối tượng bất kì.
Người ta có thể so sánh hai hay nhiều đoạn văn, đoạn thơ với nhau, hoặc có thể so
sánh tac phẩm này với tác phẩm kia, tác già này với tác giả khác, giai đoạn với giai
đoạn, trào lưu với trào lưu, so sánh niên đại, lịch đại, các hiện tượng tương đồng
hoặc tương phản, v.v…
Mục đích của so sánh văn học là từ những đối tượng nghiên cứu rút ra được bản

chất, quy luật tồn tại và phát triển của văn học. So sánh văn học có thể đi từ phạm
vi nội bộ dân tộc tiến tới phạm vi rộng hơn bên ngoài dân tộc. Văn học còn là một
hoạt động có tính giao tiếp, giao lưu nên sự so sánh là hết sức cần thiết trong
phương pháp nghiên cứu.
Nhưng không phải so sánh văn học nào cũng là văn học so sánh. Văn học so sánh
không phải là khoa học về mọi sự so sánh trong văn học. Văn học so sánh là một
lĩnh vực, một xu hướng chỉ tiến hành nghiên cứu so sánh các hiện tượng văn học
thuộc các nền văn học khác nhau của các dân tộc khác nhau, hoặc sớm hơn và hẹp
hơn là thuộc các sắc tộc, các cộng đồng ngôn ngữ – văn hoá khác nhau. Nói một
cách khác, Văn học so sánh nghiên cứu các mối quan hệ liên dân tộc, quốc tế trong
văn học (có đối tượng xác định). Văn học so sánh là một bộ môn nghiên cứu văn
học vừa có tính dân tộc, vừa có tính quốc tế.
3.2 Đối tượng của văn học so sánh:
Đối tượng cơ bản của văn học so sánh là các hiện tượng văn học thuộc các nền văn
học khác nhau của các dân tộc khác nhau, hoặc sớm hơn và hẹp hơn là thuộc các
sắc tộc, các cộng đồng ngôn ngữ – văn hoá khác nhau. Nói một cách tổng quát,
4


Văn học so sánh nghiên cứu sự giao lưu, sự tiếp xúc các mối quan hệ quốc tế, liên
dân tộc (international) giữa các nền văn chương.
Ở đây ta cần nói thêm một chút về các trường phái Văn học so sánh. Buổi đầu của
quá trình hình thành và phát triển bộ môn xuất hiện hai trường phái chính, tạm
được đặt tên là trường phái Pháp, trường phái My. Sở dĩ ta cần nói qua về các
trường phái này vì giữa các trường phái có đôi chút khác biệt về đối tượng. Trong
quá trình phát triển của bộ môn, giữa phương pháp và đối tượng của nó có mối
quan hệ khăng khít vàa chặt chẽ với nhau song lại chưa thể có sự ổn định và nhất
quán trong quan niệm.
Trường phái Mỹ không chỉ nghiên cứu đối tượng là những hiện tượng văn chương
ngòai biên giới dân tộc mà còn so sánh văn chương với các lĩnh vực tinh thần khác

như Mỹ học, Triết học, tôn giáo… Nhà nghiên cứu người Mỹ Henry H. H. Remak
định nghĩa Văn học so sánh như sau: “Văn học so sánh là sự nghiên cứu văn
chương bên ngòai giới hạn của một xứ sở riêng biệt, và là sự nghiên cứu các mối
quan hệ giữa văn chương một bên với các lĩnh vực tri thức và tín ngưỡng khác như
nghệ thuật (hội họa, điêu khắc, kiến trúc, âm nhạc), triết học, lịch sử, các khoa học
xã hội (chính trị học, xã hội học, kinh tế học), các khoa học, tôn giáo v.v… một
bên khác. Tóm lại, đây là sự so sánh một nền văn chương với một hay các nền văn
chương khác và sự so sánh văn chương với các lĩnh vực khác của sự diễn tả con
người.”
Mặc dù đặt ra mục tiêu và phạm vi lớn như vậy, trường phái Mỹ thiên về xu
hướng thứ hai, song họ không tránh khỏi một số khó khăn và bế tắc về mặt phương
pháp luận. Phải công nhận rằng mở rộng đối tượng so sánh của Văn học so sánh ra
ngoài biên giới văn chương là làm rối rắm quan niệm , đối tượng đó và làm lạc
hướng nghiên cứu.
Trường phái Pháp chỉ chuyên tâm đi vào xu hướng thứ nhất. Họ quan niệm
rằng nghiên cứu văn chương ngoài biên giới dân tộc đã có phạm vi quá rộng rồi,
nếu còn so sánh văn chương với các lĩnh vực tinh thần khác sẽ làm cho Văn học so
sánh trở thành một bộ môn dàn trải mà nông cạn.
Đối tượng của Văn học so sánh chỉ nên là các mối quan hệ về văn chương
giữa các dân tộc mà thôi, đối tượng so sánh chỉ nên là các hiện tượng văn chương
qua các biên giới địa lý và lịch sử của các dân tộc. Vấn đề dân tộc cũng cần phải
5


được giải thích rõ vì khái niệm quốc gia và dân tộc không hề đồng nhất. Trong biên
giới một quốc gia có thể có nhiều dân tộc, cho nên vẫn có thể có nhiều nền văn học
khác nhau. Việt Nam có cả thảy 56 dân tộc, nên không chỉ có văn học của người
Kinh. Các nhà nghiên cứu vẫn có thể so sánh văn học Ireland với văn học Scotland
trong văn chương Anh, sánh văn học Hindi với văn học Bengali trong văn chương
An Độ…

Trên đây là vấn đề cơ bản trong việc xác định đối tượng của Văn học so sánh. Vậy
cụ thể hơn, mối quan hệ về văn chương giữa các dân tộc là những gì? Các nhà
nghiên cứu đã xếp các mối quan hệ đó vào ba nhóm chính:
Các mối quan hệ trực tiếp giữa các nền văn học dân tộc. Khi nghiên cứu ở mặt
này, các nhà nghiên cứu xác định các luồng giao lưu, ảnh hưởng, nhất là nếu có
hiện tượng vay mượn thì phài tìm ra nguồn gốc vay mượn để đánh giá đóng góp
của người vay mượn lẫn người cho vay.
Ví dụ tiêu biểu cho trường hợp này là tác phẩm Đoạn trường tân thanh của
Nguyễn Du ở Việt Nam và tác phẩm Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài
Nhân ở Trung Quốc. Về mặt cốt truyện, 90% Nguyễn Du vay mượn từ nguyên tác
Kim Vân Kiều truyện, nhưng ở từng tình tiết, tính cách nhân vật… có sự khác biệt
rất lớn. Nhưng so sánh hai tác phẩm này với nhau không có nghĩa là ta làm cái việc
hết lời ca ngợi Nguyễn Du và chê bai Thanh Tâm Tài Nhân, mà ta chỉ cần tìm ra sự
đóng góp của mỗi tác giả và đặc trưng dân tộc được thể hiện trong mỗi tác phẩm.
Xét đến sự ảnh hưởng trong văn học thì có rất nhiều kiểu. Có thể là ảnh
hưởng do nhân cánh nhà văn, ảnh hưởng về kỹ thuật viết văn, vay mượn tư liệu và
chủ đề, ảnh hưởng bằng cách đưa ra một khung cảnh nghệ thuật mới…
Các điểm tương đồng: Nhà so sánh luận Xô Viết Zhirmunsky nhận định: “Các
phong trào văn học nói chung và các sự kiện văn học nói riêng – với tư cách là
những hiện tượng quốc tế – một phần được xây dựng trên cơ sở những sự phát
triển lịch sử tương đồng trong cuộc sống xã hội của các dân tộc và một phần dự
trên những sự giao lưu văn hóa và văn học của các dân tộc đó. (…) Cần phải phân
biệt những điểm tương đồng về loại hình với những sự du nhập văn học hoặc sự
ảnh hưởng, bản thân những cái này cũng lại dự trên những điểm tương đồng trong
quá trình tiến hóa xã hội.” Một ví dụ điển hình cho văn học so sánh nghiên cứu các
điểm tương đồng là công trình của Đinh Gia Khánh, Chu Xuân Diên nghiên cứu về
kiểu truyện Tấm Cám.
6



Việc nghiên cứu các hiện tượng tương đồng có thể được tiến hành theo các vấn đề:
đề tài, tư tưởng, tình cảm, thể lọai, loại hình, phong cách, hình tượng, nhân vật
v.v… Song điển hình nhất và phức tạp nhất vẫn là hiện tượng tương đồng của các
trào lưu và trường phái văn học kể từ thời Phục Hưng cho đến nay.
Việc nghiên cứu các hiện tượng tương đồng giữa các nền văn học cũng cung cấp tư
liệu và gợi ý hướng dẫn cho các nhà viết văn học sử dân tộc, các nhà phê bình và
lý luận để họ khái quát nên những nhận xét và luận điểm về phê bình và lý luận
văn học, giúp họ có nhữngđánh giá chính xác hơn.
Có hai loại hiện tượng tương đồng:
Tương đồng lịch sử: bao gồm hiện tượng tương đồng cùng thời và tương đồng kế
tiếp. Tương đồng lịch sử là tương đồng của những trào lưu thuộc các nền văn học
kế cận nhau (ví dụ: nền văn học Phục Hưng, cổ điển, Anh Sáng, lãng mạn, hiện
thực… ở Châu Au)
Tương đồng phi lịch sử: là sự giống nhau giữa các nền văn học cách xa nhau về
không gian và thời gian. Nghiên cứu những điểm tương đồng phi lịch sử sẽ giúp
cho các nhà lý luậnvăn học rút ra những kết luận bổ ích và xác đáng về quy luật
phát triển chung của văn học, làm sáng tỏ sự phát sinh và phát triển của một thể
lọai, một loại hình văn học cụ thể.
Đối tượng cụ thể thứ ba của Văn học so sánh là nghên cứu các điểm khác biệt
độc lập:
Trong thực tiễn, có khi nhà nghiên cứu phải so sánh hai hiện tươợng văn học
khác nhau để chứng min cho mức độ khác nhau giữa chúng, qua đó khẳng định
thêm cho một yêu cầu nào đó của mình. Việc này không phải để chứng minh đơn
thuần cái này khác cái kia, mà nó nhằm phục vụ những mục tiêu cụ thể của nhà
nghiên cứu.
Ví dụ: so sánh nghệ thuật tả chân giữa Guy de Maupassant và Phạm Duy
Tốn, so sánh tiểu thuyết Robinson Crusoe của Daniel Defoe với Quả dưa đỏ của
Nguyễn Trọng Thuật để thấy Quả dưa đỏ chưa phải là tiểu thuyết phiêu lưu.
Đối tượng thứ ba này là để bổ sung cho hai đối tượng đầu. Các đối tượng ấy
không hề phủ định lẫn nhau mà bổ sung cho nhau.

4. Tình hình nghiên cứu văn học so sánh ở Việt Nam
7


Ở phạm vi Việt Nam, trước kia, bộ môn Văn học so sánh chưa có dịp hình thành và
phát triển như là một bộ môn nghiên cứu văn học chính thức. Mặc dù vậy, văn học
Việt nam lại có nhiều thuận lợi và tiềm năng cũng như nguồn đề tài để Văn học so
sánh phát triển. Có thể so sánh văn học Trung đại Việt Nam với văn học cổ Trung
Quốc, so sánh văn học Việt Nam những năm đầu thế kỷ XX với văn học Pháp, văn
học cách mạng Việt Nam với Văn học xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô… Có thể nói
văn học Việt Nam chịu rất nhiều nguồn ảnh hưởng nhưng lại rất đậm đà bản sắc
dân tộc, là mảnh đất màu mỡ cho nghiên cứu Văn học so sánh.
Văn học so sánh khẳng định vị trí của mình ở Việt Nam hơi muộn. Bước đầu khởi
động là hội nghị chuyên đề về Văn học so sánh được tổ chức vào năm 1972 tại Đại
học Sư Phạm Hà Nội, với báo cáo chính của giáo sư Nguyễn Đức Nam. Từ đó,
ngành Văn học so sánh bắt đầu được chú ý và liên tục phát triển cho đến nay. Đã
có một số chuyên luận giới thiệu lý thuyết và các công trình nghiên cứu cụ thể về
Văn học so sánh xuất hiện trên các báo, nhất là Tạp chí văn học.
Hiện nay, ở Việt Nam, bộ môn Văn học so sánh đã được đưa vào giảng dạy ở bậc
đại học, cao học và nghiên cứu sinh thuộc chuyên ngành văn học. Dựa vào điều
này ta cũng thấy được tầm quan trọng của bộ môn này trong công tác nghiên cứu
văn học. Song bộ môn này chỉ mới phát triển mạnh về mặt lý thuyết. Văn học so
sánh Việt Nam cần có thêm nhiều công trình nghiên cứu những hiện tượng văn học
cụ thể. Điều đó mới là thiết thực nhất cho việc khẳng định vị trí của bộ môn này ở
Việt Nam.
III. Nghiên cứu văn học theo hướng so sánh
Thực hành:
Vấn để: Chí Phèo – Nam Cao và AQ chính truyện – Lỗ Tấn dưới góc nhìn so
sánh.
I. TÁC GIẢ - QUAN ĐIỂM SÁNG TÁC

1. Lỗ Tấn
Lỗ Tấn (1881-1936) tên thật là Chu Thụ Nhân, quê ở phủ Thiệu Hưng tỉnh Chiết
Giang, Trung Quốc. Năm 13 tuổi, chứng kiến cảnh người cha lâm bệnh mà chết vì
không có thuốc, Lỗ Tấn ôm ấp nguyện vọng học nghề thuốc, để chữa bệnh cho
những người nghèo như cha mình. Tuổi trẻ Lỗ Tấn nhiều lần đổi nghề để tìm con
8


đường cống hiến cho dân tộc : nghề hàng hải, khai mỏ rồi chuyển sang nghề y.
Đang học nghành y ở Nhật, một lần xem phim ông thấy những người Trung Quốc
khoẻ mạnh hớn hở đi xem quân Nhật chém một người Trung Quốc chống Nhật.
Ông giật mình nhận ra rằng : Chữa bệnh thể xác không quan trọng bằng chữa bệnh
tinh thần. Và thế là ông chuyển sang làm văn nghệ để phanh phui căn bệnh tinh
thần của quốc dân, lưu ý mọi người tìm cách chạy chữa. Con đường gian nan chọn
nghề của Lỗ Tấn vừa mang đậm dấu ấn của lịch sử Trung Hoa thời cận hiện đại
vừa nói lên tâm huyết của Lỗ Tấn với dân tộc.
Lỗ Tấn là một tác gia lớn của văn học hiện đại Trung Quốc. Từ nhỏ ông
đã say mê nghệ thuật dân gian. Lúc trưởng thành, ông đã lựa chọn con đường văn
chương để cống hiến hết mình cho sự nghiệp cách mạng của lực lượng tiến bộ. Tác
phẩm của ông mang hơi thở nóng hổi của thời đại, là tiếng nói của hồn dân tộc.
Không chỉ là nhà văn lớn của Trung Quốc, Lỗ Tấn kết đọng tinh hoa văn hóa nhân
loại của thế kỉ XX. Ông chuyên vạch trần những thói hư tật xấu của nhân dân để
mọi người tìm cách chạy chữa, tự phấn đấu vươn lên, tự cường dân tộc. Tác phẩm
chính của Lỗ Tấn là AQ chính truyện, Cố hương…
AQ chính truyện là tác phẩm nổi tiếng nhất trong sự nghiệp văn học của
Lỗ Tấn, được sáng tác năm 1921, nghĩa là trong giai đoạn thứ nhất trong cuộc đời
cầm bút của nhà văn (1918 – 1925)
2. Nam Cao
Nam Cao (1917 – 1951) tên khai sinh là Trần Hữu Tri, sinh ra trong
một gia đình nông dân, ở làng Đại Hoàng (tỉnh Hà Nam). Sống chật vật, lay lất

bằng nghề viết văn và gia sư. Tham gia cách mạng từ năm 1943, đến tháng 11 –
1951 bị giặc Pháp phục kích và sát hại.
Nam Cao bề ngoài lạnh lùng nhưng nội tâm phong phú, có tấm lòng
đôn hậu, chan chứa yêu thương, gắn bó sâu nặng với quê hương và những người
nghèo khổ, bị áp bức, khinh miệt trong xã hội cũ. Nam Cao luôn quan niệm nghệ
thuật phải bám sát với cuộc đời, gắn bó với đời sống cuả nhân dân lao động. Nhà
9


văn phải có đôi mắt của tình thương. Tác phẩm văn chương hay, có giá trị phải
chứa đựng nội dung nhân đạo sâu sắc. Văn chương nghệ thuật là lĩnh vực đòi hởi
phải khám phá, tìm tòi, sáng tạo. Lao động nghệ thuật là hoạt động nghiêm túc,
công phu, người cầm bút phải có lương tâm.
Nam Cao là nhà văn hiện thực lớn, nhà nhân đạo chủ nghĩa lớn, có đóng
góp quan trọng đối với quá trình hiện đại hóa truyện ngắn và tiểu thuyết Việt Nam
nửa đầu thế kỉ XX và là nhà văn có phong cách độc đáo. Nam Cao thường viết về
cái nhỏ nhặt, bình thường nhưng có sức khái quát lớn và đặt ra nhiều vấn đề xã hội
lớn lao, mang triết lí nhân sinh sâu sắc. Nam Cao thường viết về người nông dân,
người tri thức nghèo với các tác phẩm tiêu biểu như Chí Phèo, Đời thừa, Lão Hạc,
Một bữa no, Lang rận, Tư cách mỏ…
Chí Phèo là tác phẩm là tác phẩm đặc sắc nhất của Nam Cao. Tác phẩm
đem đến cho người đọc cái nhìn mới về con người. Qua đó thể hiện tinh thần nhân
đạo, sự đồng cảm của tác giả đối với nhân vật.
II. SO SÁNH TÁC PHẨM CHÍ PHÈO CỦA NAM CAOVÀ AQ CHÍNH
TRUYỆN CỦA LỖ TẤN
Nói đến hình tượng người nông dân thì ta không thể không nhắc đến
đại văn hào Lỗ Tấn – cây đại thụ của văn học Trung Quốc, bởi lẽ ông vẫn được coi
là nhà văn hiểu sâu sắc nhất đời sống của nhân dân lao động Trung Quốc dưới ách
áp bức bóc lột của thế lực phong kiến. Trong tác phẩm của ông, hình tượng người
nông dân không phải là hiếm thấy, và khi thể hiện nỗi đau của kẻ bị áp bức bóc lột,

ông không dừng lại ở bề ngoài, ông giỏi nắm lấy cái mâu thuẫn có tính chất bi kịch
trong hồn họ. Theo ông, ngoài những nỗi đau thể xác, nhân dân còn có những nỗi
đau đáng sợ hơn, khó lòng chịu đựng hơn. Vì vậy ông đi sâu khám phá những đau
khổ tinh thần. Tác phẩm của ông thường nói đến trạng thái bi kịch trong tâm hồn
những người cùng khổ. Nó gợi lên sự nham hiểm, độc địa của giai cấp thống trị,
khơi dậy lòng căm phẫn sâu xa đối với chế độ phong kiến. Sự mê muội của quần

10


chúng chính là cột trụ chống đỡ cho sự thống trị, và Lỗ Tấn đã là người nhận thức
rõ ràng về điều này.
Nếu văn học Trung Quốc có Lỗ Tấn – nhà văn xoáy sâu vào căn bệnh vốn
hiện hữu trong con người thì ở văn học Việt Nam, Nam Cao cũng thấy được nỗi
đau, bi kịch tinh thần của con người. Tiếp xúc với nhà văn Lỗ Tấn, ta thấy được sự
đồng điệu giữa Lỗ Tấn với Nam Cao - nhà văn hiện thực Việt Nam. Hai nhà văn
của hai đất nước, hai thế kỷ, khác nhau cả về lịch sử, văn hóa, ngôn ngữ… nhưng
lại cùng nhìn nhận về xã hội đương thời, về hình tượng người nông dân quen thuộc
với những nỗi bi kịch gần giống nhau, đặc biệt là người nông dân trước Cách mạng
tháng Tám năm 1945. Đại diện cho hình tượng người nông dân ấy là hai nhân vật
điển hình AQ (AQ chính truyện của Lỗ Tấn) và Chí Phèo (Chí Phèo của Nam
Cao).
Bước ra từ hoàn cảnh lịch sử xã hội Việt Nam và Trung Quốc đang là nước
thuộc địa nửa phong kiến. Chí Phèo và AQ chính truyện đều tố cáo bọn địa chủ
phong kiến áp bức bóc lột người nông dân về vật chất lẫn tinh thần. Qua ngòi bút
của Nam Cao và Lỗ Tấn, “tấm màn sân khấu” của bọn địa chủ (Cố Triệu, Cố Tiền,
Bá Kiến, Đội Tảo…) bị tháo xuống; những mánh khóe, tiểu xảo của kẻ bóc lột bị
vạch trần. Còn trơ lại là những con người khốn khổ sống dưới đáy xã hội (Binh
Chức, Chí Phèo, Năm Thọ, AQ, Cu Dê…). AQ chính truyện phê phán cuộc cách
mạng tư sản nửa vời. Đó là thứ cách mạng không đúng chất “cách mạng”, cách

mạng đến mà kẻ sợ, người hoang mang, duy chỉ có AQ là phấn khởi. AQ cho rằng
cách mạng là cướp của nhà giàu làm lợi cho mình, là “làm giặc”. Chính vì hiểu sai
hai từ “cách mạng” mà người nông dân này đã nhận một kết quả bi thảm. Đây là
bóng dáng của cách mạng Tân Hợi 1911 – Cuộc cách mạng không triệt để. Lỗ Tấn
phê phán cách mạng nửa vời minh chứng cho một tư tưởng cách mạng dân chủ
mới, Lỗ Tấn muốn thức tỉnh người nông dân về tư tưởng cách mạng thật sự. Chí
Phèo tuy ra đời sau AQ chính truyện 20 năm nhưng vẫn chưa thấy rõ chất đấu
tranh cách mạng của quần chúng nhân dân. Có lẽ, Nam Cao chỉ là trí thức yêu
11


nước, chuộng dân, chứ tư tưởng cách mạng chưa hoàn toàn xuất hiện. Do đó, dẫn
đến những điểm tương đồng, cũng không ít nét riêng biệt cho hai nhân vật AQ và
Chí Phèo.
1. Về nội dung
1.1 Giống nhau
Với tác phẩm Chí Phèo và AQ chính truyện, hai tác giả đều lên án bọn
phong kiến địa chủ và đồng thời phần nào ta thấy được sự đồng cảm của nhà văn
với thân phận người nông dân. Hình tượng người nông dân vẫn là hình tượng rất
đỗi quen thuộc và thân thương đối với những tác giả khi viết về người nông dân
trong những năm tháng kháng chiến đầy gian khổ. Đem đến niềm tin và hi vọng
cũng là nông dân, nhưng chính bản thân họ cũng là những người dễ bị sa ngã nhất.
Dù cho họ không muốn như vậy nhưng số phận lại ép buộc họ lựa chọn con đường
như thế, và con đường đó đầy nỗi đau thương và tuyệt vọng. Mỗi nhà văn sẽ có
những nét nổi bật riêng, có cái hay riêng đáng để ta khám phá, học hỏi. Trang văn
của hai tác giả đều miêu tả hiện thực xã hội của đất nước mình lúc bấy giờ. Không
biết là do sự ngẫu nhiên hay có sự sắp đặt trước mà hai nhà văn ở hai đất nước
khác nhau, có nền lịch sử khác nhau, ngôn ngữ khác nhau, đặc biệt là ở hai thế kỉ
khác nhau…lại thể hiện những nỗi niềm có nét giống nhau đến thế. Trong hoàn
cảnh lịch sử xã hội Việt Nam và Trung Quốc đang là nước thuộc địa nửa phong

kiến, Chí Phèo và AQ chính truyện đều tố cáo bọn địa chủ phong kiến áp bức bóc
lột người nông dân về vật chất lẫn tinh thần. Qua ngòi bút của Nam Cao và Lỗ Tấn,
“tấm màn sân khấu” của bọn địa chủ (Cố Triệu, Cố Tiền, Bá Kiến,…) bị tháo
xuống; những mánh khóe, tiểu xảo của kẻ bóc lột bị vạch trần, còn trơ lại là những
con người khốn khổ sống dưới đáy xã hội (Binh Chức, Chí Phèo, Năm Thọ, AQ,
…). Cả hai tác phẩm đều lên án sự áp bức bóc lột về mặt vật chất, thân xác cùng sự
đầu độc đè nén về mặt tinh thần của bọn địa chủ phong kiến đối với người nông
dân. Những bộ “mặt người dạ thú” như Bá Kiến, Cố Triệu, Cố Tiền… đã bị lật tẩy

12


khi chúng giở hết mọi mánh khoé, tiểu xảo của những kẻ lọc lõi, già đời ra để cai
trị, bóc lột những con người khốn khổ sống ở tầng lớp dưới đáy của xã hội.
Nam Cao và Lỗ Tấn đều bộc lộ tấm lòng đau đớn của mình trước những
số phận của người nông dân. Cuộc đời những Binh Chức, Chí Phèo, Năm Thọ,
những AQ, Vương Râu Xồm… được hai ông miêu tả khiến người đọc không khỏi
chạnh lòng. Qua hai tác phẩm, cả hai tác giả đều thể hiện sự đồng cảm của mình
trước những thân phận khốn khổ của người nông dân, đồng thời tố cáo các thế lực
thống trị chà đạp lên quyền sống của con người.
Xuất phát từ hoàn cảnh lịch sử xã hội của hai nước Việt Nam và Trung
Quốc trong giai đoạn này rơi vào tình trạng vừa thuộc điạ vừa phong kiến, nông
dân bị bần cùng, còn giai cấp thống trị lại ra sức càn quét, bóc lột. Hơn nữa ở đây
còn thể hiện sự gặp gỡ ngẫu nhiên giữa hai tâm hồn, nhân cách lớn - Nam Cao và
Lỗ Tấn, hai nhà văn hiện thực và nhân đạo chủ nghĩa đã khiến cho nội dung hai tác
phẩm có sự tương đồng.
1.2 Khác nhau
Cùng viết về người nông dân, Chí Phèo tuy ra đời sau AQ chính truyện 20
năm nhưng vẫn chưa thấy rõ chất đấu tranh cách mạng của quần chúng nhân dân.
Có lẽ, Nam Cao chỉ là trí thức yêu nước, chuộng dân, chứ tư tưởng cách mạng

chưa hoàn toàn xuất hiện. Do đó, dẫn đến những điểm tương đồng nhưng cũng
không ít nét riêng biệt giữa hai nhân vật AQ và Chí Phèo.
AQ chính truyện phê phán cuộc cách mạng tư sản nửa vời. Đó là thứ
cách mạng không đúng chất “cách mạng”, cách mạng đến mà kẻ sợ, người hoang
mang, duy chỉ có AQ là phấn khởi. AQ cho rằng cách mạng là cướp của nhà giàu
làm lợi cho mình, là “làm giặc”. Chính vì hiểu sai hai từ “cách mạng” mà người
nông dân này đã nhận một kết quả bi thảm. Đây là bóng dáng của cách mạng Tân
Hợi 1911 – Cuộc cách mạng không triệt để. Lỗ Tấn phê phán cách mạng nửa vời
minh chứng cho một tư tưởng cách mạng dân chủ mới. Lỗ Tấn muốn thức tỉnh
người nông dân về tư tưởng cách mạng thật sự. Sự kiện “cách mạng” mà Lỗ Tấn
13


miêu tả trong tác phẩm đã làm người dân Làng Mùi không khỏi ngỡ ngàng. Cách
mạng đến không ai biết, thực chất cuộc cách mạng này là gì không ai hay, cách
mạng đến người sợ kẻ hoang mang, riêng AQ rất hồ hởi, phấn khởi muốn đi làm
“cách mạng”, vì AQ cho rằng làm “cách mạng” tức là “làm giặc”, mà làm giặc tức
là được đi cướp của cải của nhà giàu về cho mình. Sự xuất hiện của cách mạng nửa
vời và sự thiếu hiểu biết về cách mạng của người nông dân đã mang lại một kết
quả thảm hại.
Ở Việt Nam, cuộc cách mạng tư sản nửa vời chưa từng có, cho nên
cũng không thể nào có được sự phản ánh trong “Chí Phèo” nhưng đó chỉ là một
mặt của vấn đề. Ở đây còn phải xét đến nguyên nhân ở chủ quan nhà văn. Lỗ Tấn
là người có tư tưởng cách mạng dân chủ mới. Bản thân việc ông phê phán tính chất
nửa vời của cuộc cách mạng Tân Hợi, chứng tỏ ông có tư tưởng cách mạng triệt để,
ông phê phán cái lối hiểu vớ vẩn của AQ về cách mạng. Điều đó cho thấy Lỗ Tấn
mong muốn giác ngộ người nông dân có tư tưởng cách mạng thật sự. Trái lại, Nam
Cao chỉ là một trí thức văn nghệ sĩ yêu nước, yêu dân, chứ hoàn toàn chưa có tư
tưởng cách mạng. Phải nêu ra điều này mới có thể giải thích rằng ở Việt Nam tuy
không có cuộc cách mạng tư sản nhưng sau khởi nghĩa Yên Bái, lại có cao trào Xô

Viết Nghệ Tĩnh, khởi nghĩa Bắc Sơn, Đô Lương, khởi nghĩa Nam Kỳ… Ra đời sau
“AQ chính truyện” 20 năm, “Chí Phèo” vẫn không có chút bóng dáng nào về cuộc
đấu tranh cách mạng của quần chúng nhân dân.
2. Về nhân vật
2.1. Giống nhau
Cả Chí Phèo và AQ đều có cuộc sống bần cùng, tính cách mâu thuẫn và
tha hoá. Ở họ, sự tha hóa được thể hiện xoáy sâu vào mâu thuẫn tính cách.
2.1.1. Cuộc sống bần cùng
Trong hai tác phẩm, ta nhận thấy cả AQ và Chí Phèo đều có chung một
thân phận khổ cực. Cả hai đều chịu nhiều đau khổ về cuộc sống vật chất và tinh
thần. Chí Phèo thì bị bỏ rơi ở bên một cái lò gạch bỏ hoang, không cha, không mẹ,
14


không họ hàng nhà cửa… Chí lớn lên không được sự quan tâm của đồng loại. AQ
lớn lên “hành trạng” trước kia cũng không rõ thân phận, cũng chẳng còn ai, không
có gì ngoài bản thân. Cả hai đều phải sống bằng nghề đi làm thuê, chịu nhiều tủi
cực trước cuộc đời. Với thân phận nghèo hèn muốn yên phận để làm mướn kiếm
ăn, nhưng số phận cả hai cũng không yên ổn. Chí Phèo gặp Thị Nở những tưởng
cuộc đời đến đây là kết thúc những tháng ngày cô đơn, buồn tủi. Ấy vậy, cuộc đời
không mỉm cười với Chí. Cuộc sống của Chí càng trở nên bi kịch và sống vật vã
trong cơn đau bị cự tuyệt quyền làm người. Tất cả mọi người quay lưng lại với
Chí. Mọi cánh cửa đều đóng sập lại trước mặt Chí. Chí hoàn toàn truyệt vọng. Còn
AQ với những mộng tưởng về cuộc đời. Hắn hy vọng một sự đổi đời khi cách
mạng đến, nhưng thực tế đã đi ngược lại với mong muốn của y.
2.1.2 Tính cách mâu thuẫn, tha hoá
Cuộc sống của Chí Phèo và AQ luôn bị động vì hoàn cảnh đưa đẩy.
Chính vì thế tính cách AQ và Chí Phèo hoàn toàn không bình thường, nó mâu
thuẫn và tha hoá. Một Chí Phèo lương thiện là vậy, nay trở thành “con quỷ dữ” côn
đồ, lưu manh. Một Chí Phèo, một thời ý thức về nhân phẩm rõ ràng. Nay bỗng trở

nên hoàn toàn vô thức trong mọi hoạt động của mình. Một Chí Phèo dương dương
tự đắc, bỗng chốc lại trở nên lo lắng sợ sệt trước con cáo già Bá Kiến… Một AQ
dở dở ương ương, lúc thế này lúc thế kia, lúc khôn lúc dại. Lúc vênh vênh đi bắt
nạt kẻ yếu, lúc lại rụt cổ trước kẻ mạnh. Lúc tự cao, nhưng có lúc lại tự ti, lúc lại tỏ
ra mình có những suy nghĩ rất phong kiến nhưng có lúc lại thả mình sống theo bản
năng… Rõ ràng, cả Chí Phèo và AQ đều bị tha hóa. Ở họ tính cách luôn không
đồng nhất. Sự tha hóa của Chí Phèo bắt đầu từ khi hắn bước ra khỏi ngưỡng cửa
nhà tù trở về làng Vũ Đại. Cái anh chàng Chí hiền lành, chân chất ở tuổi hai mươi
thưở xưa đã không còn nữa. Thay vào đó là một Chí Phèo biến dạng, tha hóa về cả
nhân tính lẫn nhân hình. Trước đây, hắn là một thằng “hiền lành như đất” và cũng ý
thức rất rõ về nhân cách, rất giàu lòng tự trọng. Khi bà Ba bắt hắn bóp đùi, hắn
cảm thấy “nhục hơn là thích” và hắn nghĩ “người ta không thích cái gì người ta
15


khinh”. Hắn cũng có ước mơ giản dị như bao người về một mái gia đình: “Chồng
cuốc mướn cầy thuê, vợ dệt vải, chúng bỏ lại một con lợn nuôi để làm vốn liếng.
Khá giả thì mua dăm ba sào ruộng làm”. Nhưng rồi, Bá Kiến cùng nhà tù thực dân
đã nhào nặn lại hình hài và nhân cách Chí Phèo trong một bộ dạng khác: dị dạng,
méo mó, trở thành “con quỷ dữ của làng Vũ Đại” - nỗi khiếp sợ của bao người.
Dường như, sau bảy tám năm ở tù trở về, Chí Phèo đã trượt dài trên đường ray của
sự tha hóa: tha hóa nhân hình, tha hóa nhân tính, tha hóa cả những suy nghĩ. Nhân
hình của Chí không còn là nhân hình của một người bình thường “Trông đặc như
thằng sắng cá! Cái đầu thì trọc lốc, cái răng cạo trắng hớn, cái mặt thì đen mà rất
câng câng, hai mắt gườm gườm trông gớm chết! (...). Cái ngực phanh, đầy những
nét chạm trổ rồng, phượng với một ông thầy tướng cầm chuỳ, cả hai cánh tay cũng
thế. Trông gớm chết!”. Đó là nhân hình của một người dị dạng, không giống
người. Xưa kia, Chí cũng là một anh canh điền trẻ trai, khỏe mạnh, bình thường.
Thế nhưng, giờ đây nó là sản phẩm của sự tha hóa triệt để: “Cái mặt hắn không trẻ
cũng không già: nó không còn phải là mặt người, nó là mặt của một con vật lạ,

nhìn mặt những con vật có bao giờ biết tuổi ? Cái mặt hắn vàng vàng mà lại muốn
xạm màu gio; nó vằn dọc vằn ngang, không thứ tự, biết bao nhiêu là vết sẹo” . Rõ
ràng, Chí đã bị cướp mất hình hài của một con người. Phải chăng, cái ngoại hình
dữ tợn bị tha hóa kia cũng là sự phản ánh cho đời sống nội tâm, cho phần nhân tính
bên trong cũng đã bị hủy hoại, tha hóa không kém gì cái hình hài bên ngoài? Nhân
tính của hắn là nhân tính của một “con quỹ dữ”. Hắn bây giờ không phải là anh
canh điền “hiền lành như đất” mà “hắn là con quỷ dữ của làng Vũ Ðại, tác quái
cho bao nhiêu dân làng.(...) hắn đã phá bao nhiêu cơ nghiệp, đập nát bao nhiêu
cảnh yên vui, đạp đổ bao nhiêu hạnh phúc, làm chảy máu và nước mắt của bao
nhiêu người lương thiện”. Cuộc đời của hắn bây giờ là triền miên trong những cơn
say, triền miên trong những cảnh ức hiếp, đâm chém, rạch mặt, ăn vạ... Những suy
nghĩ, những ngộ nhận của hắn cũng phản ánh nội tâm của một con người bị tha hóa
hoàn toàn. Hắn vênh vang đắc chí khi nghĩ rằng: “Không vây cánh, không họ hàng
16


thân thích; anh em không có, đến bố mẹ cũng không... Ờ, thế mà dám độc lực chọi
nhau với lý trưởng, chánh tổng, bá hộ tiên chỉ làng Vũ Ðại” và “hắn thấy hắn oai
thêm bậc nữa. Hắn tự đắc: "anh hùng làng này cóc có thằng nào bằng ta !”. Suy
nghĩ đó của Chí phản ánh sự tha hóa đến tận cùng về nhân cách. Bây giờ, hắn sống
trong trạng thái mơ hồ, nhòe mờ về thời gian và cuộc sống: “Vết những mảnh chai
của bao nhiêu lần ăn vạ kêu làng, bao nhiêu lần, hắn nhớ làm sao nổi? Bao nhiêu
việc ức hiếp, phá phách, đâm chém, mưu hại người ta giao cho hắn làm! Những
việc ấy chính là cuộc đời của hắn; cuộc đời mà hắn cũng chả biết đã dài bao
nhiêu năm rồi”. Đối với hắn không còn khái niệm ngày tháng nữa mà đời là một
cơn say dài kéo lê từ ngày này qua ngày khác. Hắn không còn ý thức bình thường
của một con người.
AQ thì lúc nào cũng cho mình là người chiến thắng, tính cách không
thống nhất, lúc thế này lúc thế khác. Cũng như Chí Phèo, AQ với cái mặt vênh
vênh, đắc thắng đi bắt nạt kẻ yếu thế hơn mình nhưng với người mạnh hơn lại co

đầu rụt cổ, không dám phản ứng.
Xã hội phong kiến, thuộc địa không những áp bức bóc lột về mặt vật
chất, thân xác mà còn đầu độc và đè nén về mặt tinh thần đối với người nông dân
cùng khổ, làm cho tính cách của họ trở nên méo mó. Như vậy, ở đây, ta nhận thấy
có sự gặp gỡ giữa Nam Cao và Lỗ Tấn trong việc xây dựng hình tượng người nông
dân.
2.2. Khác nhau
Tuy có một cuộc sống bần cùng, luôn thua thiệt nhưng AQ đã tạo cho
mình một ảo giác thắng lợi, mà trong bất cứ một thực tế nào y cũng là người chiến
thắng. Y sung sướng vì luôn cho mình hơn tất cả mọi người về tất cả mọi mặt trong
cuộc sống, nào là gia thế hơn, con cái hơn, hiểu biết cũng nhiều hơn. Thật ra, cuộc
sống của y rất bi đát, y tồn tại và luôn hớn hở nhờ phép “thắng lợi tinh thần”. Phê
phán cái “thắng lợi” ở điển hình AQ, nhà văn Lỗ Tấn đã khái quát từ quá khứ đau
thương trong lịch sử Trung Quốc. AQ không ý thức được nỗi đau của mình, luôn
17


luôn sống trong những ảo tưởng thắng thế, không biết rằng mình rất thảm hại. Điều
này khác với Chí Phèo. Chí Phèo tuy bị tha hóa về nhân cách nhưng không bị tha
hóa hoàn toàn. Đâu đó trong Chí vẫn ý thức được quyền làm người, vẫn luôn nhen
nhóm khát vọng được làm người lương thiện. Chí vẫn khát khao có một gia đình,
được mọi người thừa nhận. Lúc say, Chí là con người khác hoàn toàn, như một con
quỹ dữ nhưng những lúc tỉnh Chí vẫn có thể ý thức được cuộc sống tăm tối của
mình. Để rồi khi nhận ra mình không thể tồn tại trong xã hội này nữa, Chí đã tìm
đến giết Bá Kiến. Rõ ràng trong Chí Phèo có nhận thức.
Tóm lại, Chí Phèo và AQ đều là điển hình cho người nông dân lạc hậu
tha hoá. Tuy nhiên, AQ lại bộc lộ “phép thắng lợi tinh thần”, mang tính chất điển
hình cho mặt trái của dân tộc Trung Hoa, nhất là trong thời kỳ thuộc địa.
3. Về nghệ thuật
Nếu sự tương đồng và khác biệt về nội dung và nhân vật điển hình trong

“Chí Phèo” và “AQ chính truyện” là gắn bó chặt chẽ với nhau, thì sự giống nhau
và khác nhau về mặt nghệ thuật giữa hai tác phẩm tuy cũng có liên quan với những
mặt nói trên, nhưng cũng mang tính chất tương đối độc lập của nó.
3.1. Giống nhau
3.1.1 Giọng điệu khách quan lạnh lùng
Xuyên suốt toàn bộ tác phẩm “Chí Phèo” và “AQ chính truyện”, một
cảm nhận bao trùm về lối trần thuật trong mỗi tác phẩm là: giọng điệu khách quan
lạnh lùng nhưng chan chứa tình cảm chủ quan của tác giả.
Nam Cao kể về cuộc sống chân thực, trần trụi như nó vốn có: chuyện
một thằng say rượu, chuyện kình nhau giữa các phe cánh, chuyện yêu đương của
những kẻ gàn dở… Nhưng đọc và ngẫm lại những chuyện đó, ta thấy nhà văn kể
không phải chỉ để kể, mà qua những câu chuyện tưởng như vặt vãnh đời thường lại
là chuyện về một chế độ xã hội mà ở đó nhân quyền không được tôn trọng, nó bị
giẫm đạp, xúc phạm như đối xử với con vật. Lời trần thuật của người kể chuyện
như một “ống kính” quay hình ảnh về những hành vi của “con quỷ dữ” làng Vũ
18


Đại: rạch mặt, ăn vạ, cướp của, đốt quán, làm tay sai cho địa chủ làm những việc
bất lương… Lời trần thuật khách quan khiến người đọc có cảm giác ghê sợ, nhưng
đó là cảm giác do ý đồ sáng tạo của nhà văn mang lại.
Cũng phong cách đó, ta bắt gặp ở nhà văn Lỗ Tấn trong “AQ chính
truyện” kể về cuộc đời chú AQ sống vô nghĩa bằng những hành động và suy nghĩ
ngớ ngẩn của mình. Người kể chuyện dường như không có ý định bênh vực một
chút gì cho con người của y: tên y, bộ dạng y, con người y, thân phận y, tính cách …
tất cả đều bộc lộ sự thảm hại. Nhưng đấy không phải là mục đích của ông. Với lối
trần thuật khách quan, ông muốn phơi bày nhược điểm của con người và xã hội
Trung Quốc. Ý đồ nghệ thuật đã giúp ông thành công khi sử dụng lối trần thuật
khách quan lạnh lùng như ẩn chứa những yêu thương và căm giận bên trong.
3.1.2. Ngôn ngữ cá tính hoá

Nam Cao và Lỗ Tấn đã sử dụng ngôn ngữ cá tính hoá của nhân vật rất
đặc sắc. Lời đối thoại của nhân vật cho ta thấy tính cách nhân vật nổi lên rất rõ.
Chí Phèo lúc còn hầu hạ nhà chủ, hầu như tác giả không miêu tả một
lời nói của nhân vật, điều đó đã phản ánh sự nhẫn nại, cam chịu của kiếp người
nông dân nô lệ. Nhưng sự thay đổi tính cách của Chí sau khi ra tù đã bộc lộ rõ khi
hắn cất tiếng ăn vạ, kêu làng, đốt nhà, cướp của… phẩm chất hiền lành biến mất,
thay vào đó là lời lẽ của kẻ lưu manh, côn đồ. Nhưng trước Bá Kiến, hắn vẫn bộc
lộ bản chất nô lệ khi xưng hô rất tử tế. Việc sử dụng ngôn ngữ cá tính phần nào làm
nổi rõ tính cách nhân vật.
Trong “AQ chính truyện”, Lỗ Tấn cũng đặc biệt chú ý đến từng lời nói
nhân vật, qua đó làm nổi lên tính cách của chú. AQ lúc bị thua trước đối thủ mạnh,
luôn giở giọng cầu hoà. Nhưng trước kẻ yếu đuối, hay với người cùng thân phận y
lại lên giọng chửi bới rất khinh thị. Vú Ngò chỉ nói có hai câu, nhưng chính Vú đã
làm bộc lộ tính “ngồi lê đôi mách” của mình …
3.2. Khác nhau
3.2.1.Trần thuật tuyến tính và phi tuyến tính
19


Tác phẩm “AQ chính truyện” được trần thuật theo một trình tự nhất
định, nhân vật xuất hiện và sau đó là những hành động, sự kiện diễn ra nói chung
theo trình tự trước sau.
Với “Chí Phèo” cách trần thuật của Nam Cao có khác. Hình ảnh đầu
tiên không phải là hình ảnh bắt đầu, mà cốt truyện hiện ra trong sự đan xen giữa
quá khứ và hiện tại của nhân vật.
Mỗi nhà văn chọn cho mình một lối trần thuật riêng. Lỗ Tấn trần thuật
theo trình tự thời gian, còn Nam Cao ông không tuân theo lối trần thuật truyền
thống. Nhưng cả hai cách trình bày đều làm nổi bật giá trị nội dung của tác phẩm.
3.2.2. “Vẽ rồng điểm mắt” và khắc hoạ tỉ mỉ
Nếu như Nam Cao không hề bỏ qua một chi tiết nhỏ nào khi khắc hoạ

ngoại hình nhân vật: Như bộ dạng Chí sau khi ra tù, gương mặt xấu xí đến kinh
hồn của Thị Nở, thì Lỗ Tấn với bút pháp “vẽ rồng điểm mắt” chỉ miêu tả vài nét sơ
lược giàu tính biểu trưng, như miêu tả ngoại hình AQ, Lỗ Tấn chỉ miêu tả chiếc
đuôi sam và đặc biệt là cái sẹo. Miêu tả ngoại hình Vương Râu Xồm, nhà văn chú
ý đến mớ râu xồm có ý nghĩa tượng trưng nhất đối với y … Nhưng tất cả sự miêu
tả những chi tiết chọn lọc, điển hình đó đều toát lên tính cách nhân vật.
3.2.3. Mô tả tâm lý và mô tả hành động
Ngòi bút Nam Cao luôn hướng vào khai thác, soi sáng thế giới bên
trong trong con người nhân vật, mọi tâm trạng, suy nghĩ của Chí luôn được nhà
văn thể hiện dưới dạng nội tâm, con người và tính cách của hắn chủ yếu bộc lộ qua
tâm lý. Nhưng với nhân vật của Lỗ Tấn, chúng thường bộc lộ qua hành động. AQ
bộc lộ tính cách của mình qua những hành động của y: đánh nhau, chửi rủa, lườm
nguýt…
Tóm lại: Với những đặc điểm như trần thuật theo thời gian tuyến tính, “vẽ
rồng điểm mắt”, mô tả hành động, “AQ chính truyện” gần giống với lối văn xuôi tự
sự cổ điển Trung Quốc. Trái lại, với lối trần thuật phi tuyến tính, khắc hoạ tỉ mỉ,
mô tả tâm lý, “Chí Phèo” gần với lối văn xuôi thế giới thế kỷ XX hơn. Trên một ý
20


nghĩa nhất định, cách viết của Nam Cao hiện đại hơn. Điều này không phải ngẫu
nhiên. Một điều không phải là không có ý nghĩa gì, nếu chúng ta nhớ rằng, cách
nhau 34 tuổi, Lỗ Tấn đã bước vào tuổi trưởng thành ngay từ cuối thế kỷ XIX, cc̣n
Nam Cao sống trọn trong nửa đầu thế kỷ XX. “Chí Phèo” được Nam Cao viết sau
“AQ chính truyện” sau 20 năm, có điều kiện nhiều hơn khi tiếp cận với lối viết
hiện đại. Mặt khác Trung Quốc với di sản văn hoá, văn học hết sức đồ sộ với
những thành tựu vô cùng rực rỡ đã trở thành niềm tự hào của dân tộc Trung Hoa.
Bởi vậy những mẫu mực trong văn hoá cổ điển đã trở thành áp lực rất lớn đối với
nhiều nhà văn Trung Quốc nói chung, nhà văn Lỗ Tấn nói riêng, cho nên sự ảnh
hưởng của nghệ thuật văn xuôi tự sự truyền thống đối với sáng tác của Lỗ Tấn là

điều dễ hiểu. Trái lại, thành tựu về văn xuôi tự sự trung đại ở Việt Nam chủ yếu là
chữ Hán không gây áp lực gì đối với văn xuôi tự sự quốc ngữ vào đầu thế kỷ XX
trên quá trình hiện đại hoá nhanh chóng. Nam Cao lại thuộc thế hệ sau, vừa được
thừa hưởng tính chất hiện đại đó, vừa có nhiều điều kiện học tập, tiếp thu văn xuôi
tự sự thế giới khoảng giữa thế kỷ XX.
KẾT LUẬN
“Chí Phèo” và “AQ chính truyện” đều là những kiệt tác viết về số phận
người nông dân lạc hậu, tha hoá trong xã hội phong kiến thuộc địa và nửa thuộc
địa. Nhưng trong “AQ chính truyện” còn phê phán cuộc cách mạng tư sản nửa vời,
điều này có căn nguyên chủ yếu ở hiện thực khách quan. Về mặt điển hình hoá, Lỗ
Tấn tỏ ra càng sâu sắc hơn, vì ông không những là nhà văn, mà còn là nhà nghiên
cứu văn học sử, hơn nữa là nhà tư tưởng. Tuy nhiên, về nghệ thuật viết truyện,
Nam Cao có phần hiện đại hơn.

1. Phương pháp luận và các phương pháp của văn học so sánh
21


2. Phạm vi và chủ đề nghiên cứu của văn học so sánh
3.

22



×