Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC VỀ PHẬT GIÁO

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (112.61 KB, 17 trang )

MỤC LỤC
CHƯƠNG 1: SỰ HÌNH THÀNH CỦA TRIẾT HỌC PHẬT GIÁO ẤN ĐỘ........................................2
1.1.
KHÁI QUÁT NHỮNG ĐẶC ĐIỂM TỰ NHIÊN, KINH TẾ - XÃ HỘI, VĂN HÓA
ẤN ĐỘ CỔ ĐẠI.......................................................................................................................................2
1.2.

SỰ HÌNH THÀNH CỦA PHẬT GIÁO ẤN ĐỘ CỔ ĐẠI.........................................................3

1.3.

KINH ĐIỂN PHẬT GIÁO..........................................................................................................4

CHƯƠNG 2: TƯ TƯỞNG GIẢI THOÁT TRONG TRIẾT HỌC PHẬT GIÁO.................................5
2.1.

NHỮNG TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC PHẬT GIÁO....................................................................5

2.2.

TƯ TƯỞNG GIẢI THOÁT TRONG TRIẾT HỌC PHẬT GIÁO............................................5

CHƯƠNG 3: NHỮNG ẢNH HƯỞNG CỦA PHẬT GIÁO ẤN ĐỘ CỔ ĐẠI ĐỐI VỚI ĐỜI
SỐNG NGƯỜI VIỆT...............................................................................................................................11
3.1.

SỰ DU NHẬP CỦA PHẬT GIÁO ẤN ĐỘ CỔ ĐẠI VÀO VIỆT NAM................................11

3.2.

ẢNH HƯỞNG CỦA PHẬT GIÁO ĐỐI VỚI ĐỜI SỐNG NGƯỜI VIỆT.............................12



KẾT LUẬN..............................................................................................................................................15
TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................................................................................................16

1


CHƯƠNG 1:

SỰ HÌNH THÀNH CỦA TRIẾT HỌC PHẬT GIÁO ẤN ĐỘ

1.1.

KHÁI QUÁT NHỮNG ĐẶC ĐIỂM TỰ NHIÊN, KINH TẾ - XÃ HỘI,

VĂN HÓA ẤN ĐỘ CỔ ĐẠI
Quá trình hình thành và phát triển của tư tưởng triết học Ấn Độ cổ đại
chịu ảnh hưởng sâu sắc của điều kiện sống và tính chất sinh hoạt xã hội Ấn Độ cổ
 Đặc điểm tự nhiên
Phía Bắc là dãy núi Himalaya hùng vĩ, trong đó có tới 40 ngọn núi cao
hơn 7000m so với mặt biển. Theo tưởng tượng của người Ấn Độ cổ thì đây là
những “trụ trời”, đã nâng cao vòm trời lên cho nhân gian sinh sống. Đây từng là nơi
chốn tu hành khổ luyện của những đạo sĩ muốn xa lánh sự nó nhiệt, quay cuồng của
thế gian, đến đây tĩnh tâm thiền định, chiêm nghiệm về bản chất của vũ trụ và nhân
sinh, tìm con đường giải thoát cho chúng sinh khỏi cảnh lầm than, khổ ải của cuộc
đời.
Các con sông lớn của Ấn Độ đều chảy từ núi Himalaya, tạo nên đồng
bằng Ấn Độ. Sông Ấn và sông Hằng tuy cùng bắt nguồn từ chân Himalaya nhưng
chúng lại chảy theo hai hướng ngược nhau. Với nguồn nước mát và phù sa mù mỡ,
sông Hằng là cái nôi của nền nông nghiệp lúa nước cổ xưa.

Cùng với sự phong phú và phức tạp của điều kiện thiên nhiên,khí hậu ở
Ấn Độ cũng rất khắc nghiệt. Dãy Himalaya quanh năm tuyết phủ, các cơn cuồng
phong băng giá bất tận, những cơn gió lạnh thấu xương, sương mù dày đặc, u ám.
Mùa hè nhiệt độ tăng làm tan băng tạo thành những cơn thác lũ cuốn lấp cả vùng
làng mạc dân cư.
Nói chung, Ấn Độ là một đất nước có điều kiện tự nhiên, điều kiện địa
lý hết sức đa dạng nhưng vô cùng khắc nghiệt. Đó là một bán đảo mênh mông, vừa
có những miền núi cao đầy băng giá và rừng rậm âm u, vừa có những miền đại

2


dương chói chang ánh nắng, vừa có những con sông lớn với những vùng đồng bằng
trù phú lại vừa có những cao nguyên và sa mạc khô khan, nóng nực.
 Đặc điểm kinh tế - xã hội
Ngành kinh tế chủ yếu ở Ấn Độ cổ là nông nghiệp lúa nước. Bên cạnh
đó ngành chăn nuôi và thương nghiệp cũng đã phát triển.
Ấn Độ cổ đại là sự tồn tại sớm và kéo dài kết cấu kinh tế xã hội theo
mô hình “công xã nông thôn”. Trong kết cầu này, ruộng đất thuộc về nhà nước, dân
công xã canh tác ruộng đất công và nộp tô cho nhà nước, nô lệ không có vai trò
trong sản xuất.
Chính vì vậy, xã hội Ấn Độ cổ đại không chỉ bị đè nặng bởi nổi khổ do
quan hệ bất công và sự bóc lột hà khắc của giai cấp quý tộc và chủ nộ đối với giai
cấp nô lệ mà còn bị bóp nghẹt bởi chế độ phân biệt chủng tộc, màu da còn gọi là
chế độ đẳng cấp hết sức nghiệt ngã gây nên. Chế độ phân biệt đẳng cấp không chỉ
góp phần quy định cơ cấu, trật tự xã hội Ấn Độ mà còn ảnh hưởng sâu sắc đến nội
dung và tính chất của các quan điểm triết lý tôn giáo Ấn Độ cổ đại.
 Đặc điểm văn hóa
Nền văn hóa Ấn Độ cổ đại rất phát triển. Người Ấn thời kỳ này đã biết
quả đất tròn quay xung quanh một trục, đã biết sáng tạo ra lịch pháp, đã có hệ thống

số đếm thập phân, đã có những thành tựu trong đại số, hình học, khai căn, đường
tròn…, y học và hóa học phát triển. Đây là thời kỳ phát triển tư duy trừu tượng, thời
kỳ ra đời của các hệ thống tôn giáo, triết học.

1.2.

SỰ HÌNH THÀNH CỦA PHẬT GIÁO ẤN ĐỘ CỔ ĐẠI
Phật giáo là một trong những tôn giáo thế giới, là niềm tự hào của nhân dân

Ấn Độ. Tuy là một tôn giáo, song Phật giáo chứa đựng nhiều tư tưởng triết học độc
đáo và sâu sắc, có ý nghĩa giáo dục lớn. Nghiên cứu Phật giáo là quá trình quay trở
lại thời kỳ quá khứ xa xăm để tìm kiếm đời sống vật chất, tinh thần của người Ấn
cổ.
3


Phật giáo xuất hiện vào cuối thế kỷ VI trước Công nguyên ở phía Nam dãy
Hymalaya thuộc miền Bắc Ấn Độ. Phật giáo ra đời trong làn sống phản đối ngự trị
của chế độ Bà-La-Môn và chế độ phân biệt đẳng cấp khắc nghiệt. Bởi vậy nó trở
thành một trong những ngọn cờ của phong trào đòi tự do tư tưởng và bình đẳng xã
hội ở Ấn Độ đương thời. Phật giáo bao gồm một hệ thống giáo lý và một tổ chức
tôn giáo được xây dựng trên tư tưởng triết học và giáo lý của Buddha (Đức Phật).
Theo truyền thuyết kể rằng, Người sáng lập ra Phật giáo là Thích Ca Mau Ni,
có tên thật là Siddhattha (Tất Đạt Đa), là con đầu vua Suddhodama. Năm 29 tuổi
ông đã quyết định từ bỏ cuộc đời vương giả đi tu tìm con đường “cứu độ chúng
sinh”. Sau bảy năm liền tu luyện, Siddhattha đã ngộ đạo và tìm ra con đường giải
thoát con người khỏi những nỗi khổ đè nặng trong đời sống xã hội Ấn Độ cổ đại.
Sau khi đắc đạo, Đức Phật đi khắp đất Ấn Độ để thuyết pháp và tổ chức tăng
hội. Các tín đồ của Phật thuộc đủ loại, không phân biệt đẳng cấp, giàu nghèo, chủng
tộc. Cuối cùng Đức Phật trở về quê hương giác ngộ cho những người thân và tịch ở

đó vào tuổi 80.

1.3.

KINH ĐIỂN PHẬT GIÁO
Tư tưởng Phật giáo ban đầu chỉ là truyền miệng, sau đó được các đệ tử của

Phật chép thành sách bằng tiếng Phạn và tiếng nam Phạn chia thành 3 bộ gọi là
Kinh tam tạng:
 Tạng kinh là tập hợp những giáo lý của Đức Phật khi ngài đi thuyết
pháp.
 Tạng luật là tập hợp những giáo lý, những điều luật mà Phật tử phải
tuân thủ.
 Tạng luận gồm những tác phẩm bình chú, giải thích những giáo lý của
Phật giáo do các cao tăng viết ra sau này.

4


CHƯƠNG 2:

TƯ TƯỞNG GIẢI THOÁT TRONG TRIẾT HỌC PHẬT GIÁO

1.

NHỮNG TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC PHẬT GIÁO
Phật giáo là một tôn giáo có nhiều tư tưởng triết lý sâu sắc. Xét về tính chất

nội dung, các tư tưởng đó được chia thành hai mảng lớn là thế giới quan (quan niệm
về thế giới) và nhân sinh quan (quan niệm về đời sống con người):

 Thế giới quan Phật giáo chứa đựng nhiều yếu tố duy vật mộc mạc và
biện chứng sơ khai. Nó được thể hiện một cách cụ thể trong các phạm trù sau:
phạm trù vô tạo giả, phạm trù vô ngã, phạm trù vô thường, phạm trù nhân duyên,
phạm trù sắc – không, phạm trù niết bàn
 Nhân sinh quan Phật giáo Ấn Độ cổ đại mang tính nhân bản sâu sắc
nhưng cũng chứa đầy tính chất duy tâm chủ quan, bi quan yếm thế, không tưởng về
đời sống. Từ một vũ trụ căn cứ trên những thuyết nhân duyên, thuyết sự vật duyên
khởi đi đến nhận thức là vô thủy, vô chung từ những thuyết vô thường vô ngã

2.

TƯ TƯỞNG GIẢI THOÁT TRONG TRIẾT HỌC PHẬT GIÁO
Đỉnh cao của tư tưởng giải thoát trong triết học, tôn giáo Ấn Độ cổ đại là triết

lý giải thoát của Phật giáo. Trái với quan điểm của các môn triết học và tôn giáo
đương thời thừa nhận sự tồn tại của thực thể siêu nhiên tuyệt đối, tối cao, sáng tạo
và chi phối vũ trụ, đạo Phật cho rằng vũ trụ này là vô thủy vô chung, vạn vật trong
thế giới này chỉ là dòng biến hóa vô thường, vô định, không do một vị thần nào
sáng tạo nên cả. Sở dĩ tất cả các sự vật, hiện tượng trong vũ trụ luôn biến đổi không
ngừng nghỉ theo quá trình sinh, trụ, dị, diệt hay thành, trụ, hoại, không là vì vạn
pháp từ cái vô cùng nhỏ tới cái vô cùng lớn đều không thoát khỏi sự chi phối của
luật nhân quả, còn gọi là “nhân sinh duyên”. Theo triết lý Phật giáo thì cái gì phát
động ra ở vật, gây nên một hay nhiều kết quả nào đó thì gọi là “nhân”. Cái gì được
kết tập lại từ nhân gây ra gọi là “quả”. “Duyên” là điều kiện, là mối liên hệ trợ giúp
5


cho nhân biến thành quả. Cái nhân nhờ có cái duyên tương hợp, trợ giúp mới sinh ra
được thành quả. Quả lại do cái duyên mà trở thành nhân khác. Nhân mới lại nhờ có
duyên mà kết hợp lạ thành quả mới… cứ như thế nối tiếp nhau vô cùng, vô tận mà

thế giới vạn vật, muôn loài cứ sinh sinh hóa hóa mãi mãi. Quá trình đó có thể diễn
ra trong nháy mắt hay trong từng giai đoạn thay đổi hẳn về chất lượng. Sự biến hóa
trôi chảy không ngừng của vạn pháp do nhân duyên, Phật giáo gọi là “chư hành vô
thường”.
Ví dụ: Nhân gian thường có câu hỏi rằng: “con gà có trước hay cái trứng có
trước”. Bởi lẻ cái trứng là quả của con gà mà lại là nhân của con gà sắp nở. Cái
trứng muốn nở thành con gà phải trải qua quá trình được ấp, đủ điều kiện nhiệt độ,
thời gian, độ ẩm, không khí, đảo trứng và phải bảo quản kỹ lưỡng. Tất cả những yếu
tố đó là duyên, là điều kiện, là môi trường cần phải có giúp cho trứng nở thành gà
con.
Tuy nhiên, do không thấy được nguồn gốc của sự biến đổi vô cùng vô tận
của vạn vật và chúng sinh là do lý nhân duyên, nên con người ta đã lầm tưởng rẳng
ta tồn tại mãi mãi, cái gì cũng là của ta, do ta. Vì thế con người ta cứ khát ái tham
dục, dẫn đến hành động chiếm đoạt để thỏa mãn dục vọng của mình, tạo ra những
kết quả, gây nên nghiệp báo, bước vào bể khổ triền miên trong tam giới (dục giới,
sắc giới, vô sắc giới) và lục đạo (cõi trời, nhân gian, súc sinh, Atula, ngả quỷ, địa
ngục) gọi là sự luân hồi.
Bằng học thuyết “Tứ diệu đế”, “Thập nhị nhân duyên” và “Bát chính đạo”,
Phật giáo đã chỉ ra căn nguyên của nổi khổ cuộc đời con người, từ đó vạch ra con
đường, cách thức để giải thoát chúng sinh ra khỏi nghiệp báo, luân hồi và những nỗi
khổ của cuộc đời. Chính ở đây đã thể hiện tập trung và rõ nét nội dung tư tưởng giải
thoát đặc sắc của triết lý Phật giáo.
“Tứ diệu đế” trong triết lý nhân sinh Phật giáo phản ánh triết lý về cuộc đời
và sự giải thoát của Phật giáo – tức bốn chân lý tối cao mà mọi người phải thấu triệt
 Khổ đế: Phật giáo quan niệm “đời là bể khổ”, là những chuỗi bi kịch
triền miên. Nỗi khổ của cuộc đời rất đa dạng nhưng chung quy lại trong tám loại gọi
là “bát khổ”:
6



 Sinh khổ: Khi sinh, con người chào đời bằng tiếng khóc
 Lão khổ: Chân yếu, mắt mờ, đầu bạc, răng long
 Bệnh khổ: Hữu bệnh thì vái thập phương
 Tử khổ: Chết một cách bất đắc kỳ tử
 Thụ biệt ly khổ: Yêu nhau mà phải sống xa nhau là khổ
 Oán tăng hội khổ: Ghét nhau mà phải sống cùng nhau là khổ
 Sở cầu bất đắc khổ: Mong muốn mà không thành đạt là khổ
 Ngũ thụ uẩn khổ: Ngũ uẩn (sắc, thụ, tưởng, hành, thức) nhóm
họp lại, sinh ra bản thân ta, ta hiện hữu ở đời tức là khổ
 Nhân đế hay tập đế: Giáo lý Phật giáo cho rằng, mọi nỗi khổ ở đời
của con người đều có nguyên nhân của nó. Nguyên nhân thì vô vàn nhưng chủ yếu
là “thập nhị nhân duyên”. Đó là:
 Vô minh: Vô minh là sự mông muội, mờ tối, không sáng tỏ của
tâm lý con người, do vậy mà con người không nhận thức đúng thực tướng của vạn
vật và không thấu triệt được chân bản tính của mình. Nói cách khác, vô minh là sự
ngu dốt, không sáng suốt trong tư duy và ý nghĩ, bởi vậy luôn lầm tưởng, không có
khả năng xác định được một cách rõ ràng đâu là thật là giả, đâu là thị là phi, đâu là
thiện là ác. Vô minh khiên tâm trí con người luôn dao động, từ đó phát sinh sự ham
muốn và hành động để thỏa mãn ham muốn đó.
 Hành: Hành là cái tạo nên nghiệp. Tất cả những tư tưởng, lời
nói, việc làm thiện và ác đều nằm trong hành. Từ hành mà phát sinh ra thức
 Thức: Thức là ý thức, biết ta là ta. Do có ý thức mà danh sắc
được sinh ra
 Danh sắc: Danh là tên, là yếu tố tinh thần. Còn sắc là hình, là
yếu tố vật chất hay thể xác. Sự thống nhất giữa danh và sắc biểu hiện sự thống nhất
giữa linh hồn và thể xác, giữa các quá trình tâm lý và sinh lý. Do có sự thống nhất
giữa tâm lý và sinh lý mà sinh ra lục nhập
7



 Lục nhập: Lục nhập là quá trình lục cảnh (sắc, thanh, hương,
vị, xúc, pháp) tác động lên lục căn (mắt, tai, mũi, lưỡi, da, trực giác). Từ lục nhập
làm phát sinh xúc.
 Xúc: Xúc là sự tiếp xúc. Nó được hành thành do sự phối hợp
của lục cảnh (cái bên ngoài) và lục căn (cái bên trong) và ý thức. Điểm giao hợp
giữa ba yếu tố đó là xúc. Do có sự tiếp xúc mà phát sinh ra thụ
 Thụ hay thọ: thụ là cảm giác. Thụ có nhiều dạng:
Thụ lạc: cảm giác sung sướng, hạnh phúc
Thụ khổ: Cảm giác đau khổ , bất hạnh
Thụ vô ký: không sung sướng cũng không đau khổ, không
hạnh phúc cũng không bất hạnh
Từ cảm giác mà sinh ra quá trình nhận thức được các đối
tượng tác động và do nhận biết được nên mới sinh ra ái
 Ái: Ái là sự luyến ái, yêu thích, khao khát, mong muốn nên gọi
là ái dục. Ái dục có ba dạng:
Ái dục duyên theo nhục dục ngũ trần, nghĩa là tham muốn
thỏa mãn những thèm khát xác thịt, tham muốn chiếm đoạt của người khác làm của
mình, tham muốn phá hoại những gì mà mình không thích
Ái dục duyên theo khoái lạc vật chất có liên quan đến quan
niệm thường kiến. Nghĩa là trong khi hưởng thụ, con người nghĩ rằng vạn vật
trường tồn vĩnh cửu và những khoái lạc tồn tại mãi mãi
Ái dục duyên theo khoái lạc vật chất có liên quan đến quan
niệm đoản kiến. Nghĩa là trong lúc hưởng thụ, con người nghĩ rằng tất cả sẽ mất đi
sau khi chết.
Do có lòng yêu thích mà phát sinh tư tưởng ham muốn, từ
ham muốn nên phát sinh ra thủ

8



 Thủ:Thủ là sự chiếm giữ, cố bám lấy đối tượng mà mình ham
thích, mà muốn chiếm giữ đối tượng thì bản thân chủ thể cần phải có
 Hữu: Hữu là có, là tồn tại, là hiện hữu ở đời, mà muốn có mặt
ở đời thì trước hết phải cần sinh ra
 Sinh: Sinh là sự sinh thành, có mặt hay hiện hữu ở thế gian, là
quá trình thống nhất giữa ba yếu tố tâm lý, sinh lý, vật lý hay là sự thống nhất giữa
linh hồn và thể xác. Đã sinh ra ắt phải chịu sự chi phối của quy luật làm người, tức
đau khổ, dằn vặt, già yếu, bệnh tật và cuối cùng là cái chết
 Lão – tử: Lão là sự già nua, ốm yếu; tử là cái chết. Sinh – tử là
hai mặt đối lập nhưng không tách rời nhau, nó luôn níu kéo con người trong vòng
sinh tử luân hồi bất tận khó lòng có thể thoát ra.
Trong 12 nguyên nhân thì có hai nguyên nhân cơ bản, quyết định những
nhuyên nhân khác, đó là ái dục và vô minh. Ái dục có nguồn gốc sâu xa từ vô minh.
Do con người không nhận thức được vô ngã, vô thường nên luôn lầm tưởng rằng cái
gì cũng trường tồn, cũng là của ta dẫn đến tham lam, chiếm đoạt. Nhưng khi chiếm
đoạt lại không biết dùng phương pháp thích hợp nên dẫn đến thất bại, tạo nên một
nỗi khổ triền miên bất tận trong suốt cả cuộc đời. Muốn thoát khỏi bể khổ và luân
hồi thì phải diệt trừ ái dục, loại bỏ vô minh mà hạt nhân của chúng là tham – sân –
si.
 Diệt đế: Phật giáo khẳng định rằng muốn thoát khỏi bể khổ trầm luân
và dòng luân hồi bất tận, con người phải diệt trừ ái dục, loại bỏ vô minh. Muốn vậy
phải tuân theo đạo đế - tức con đường giải thoát.
 Đạo đế: Phật giáo đưa ra lịch trình giải thoát, thực chất là diệt khổ,
loại trừ vô minh. Muốn diệt khổ, thoát khỏi vòng sinh tử luân hồi bất tận thì phải
đạt đến trạng thái niết bàn. Để đạt được trạng thái niết bàn cần tuân theo “bát chính
đạo” tức tám con dường chính. Đó là:
 Chính kiến: Nhìn nhận đúng, nhận rõ mọi sự phải, trái
 Chính tư: Suy nghĩ đúng để nhanh chóng đạt tới chân lý
9



 Chính ngữ: Nói năng một cách đúng đắn, không đặt điều nói
xấu hoặc vu oan, giáng hoa cho người khác.
 Chính nghiệp: Làm những việc phải đạo làm người, không làm
những việc trái với lương tâm, nhân tính
 Chính mệnh: Phải thực hiện các điều răn, ức chế dục vọng,
sống trung thực, đúng đắn, nhân nghĩa, không tham lam, không gian tà, vụ lợi
 Chính tinh tiến: Phải suốt đời rèn luyện bản thân không mệt
mỏi, sáng suốt vươn lên, hăng hái truyền dạy đạo lý của Đức Phật cho chúng sinh
 Chính niệm: Luôn tâm niệm và suy nghĩ đến điều tốt, không
bao giờ nghĩ đến những điều xấu xa tồi tệ
 Chính định: Tập trung tư tưởng cao độ để nghĩ về Đức Phật, về
con đường giải thoát, đạt đến trạng thái thiền và cuối cùng là giác ngộ
Nếu đạt được chính định thì sẽ đạt được tuệ. Lúc đó tâm hồn sẽ khai
mở, thông tỏ được mọi điều trên trần thế và linh hồn có thể nhập vào niết bàn. Nếu
đạt được trạng thái niết bàn, con người có thể làm thay đổi các yếu tố cấu trúc sinh
học của cơ thể, có thể dập tắt tham – sân – si. Lúc đó con người sẽ thoát khỏi bể khổ
trầm luân và vòng luân hồi bất tận.
Cùng với bát chính đạo, Phật giáo còn đưa ra phép tu tổng quát cho các
Phật tử, đó là duy trì ngũ giới và lục độ.
 Ngũ giới là năm điều răn hay năm điều cần tránh: không sát sinh,
không trộm cướp, không tà dâm, không nói dối, không uống rượu
 Lục độ: Là sáu phép tu của tu sĩ và Phật tử, bao gồm
 Bố thí: Đem của cải và tài trí của mình giúp người một cách vô
tư, không vụ lợi
 Trì giới: Giữ nghiêm giới luật, bỏ điều ác, giữ điều thiện
 Nhẫn nhục: Là sự kiên định, nhường nhịn, chịu đựng trong lời
nói, hành động và ý nghĩa, không giận dữ, nóng nảy, không phục thù
10



 Tinh tiến: Là sự cố gắng, nỗ lực vươn lên, chuyên làm điều
thiện, tránh làm điều ác
 Thiền định: Sự tập trung tư tưởng cao độ vào một đối tượng
nào đó
 Bát nhã: Là sự khai mở trí tuệ nhằm hiểu rõ thực tướng của vạn
vật, thấu suốt chân tướng của chính bản thân mình.
Nói một cách khái quát, trong học thuyết Tứ diệu đế thì Khổ đế và Tập
đế trình bày về sự khổ và nguyên nhân của nỗi khổ. Đây là điểm xuất phát của tư
tưởng giải thoát trong triết lý Phật giáo. Diệt đế là quan điểm của Phật giáo về mục
đích và nhiệm vụ tối cao của sự giải thoát. Mục đích và nhiệm vụ ấy là xóa bỏ mọi
vọng tưởng, thoát khỏi mọi sự ràng buộc của thế giới vật dục, diệt mọi ái dục nhằm
đạt tới sự giác ngộ và cảnh trí niết bàn. Còn đạo đế chính là con đường, cách thức
để dẫn tới sự giải thoát. Con đường và cách thức giải thoát đó là Bát chính đạo, Ngũ
giới và Lục độ.
Như thế, tư tưởng giải thoát trong triết lý Phật giáo đã thể hiện tính chất
nhân bản rất sâu sắc. Nó không chỉ phủ nhận thế giới quan thần quyền và chủ nghĩa
siêu nhiên đương thời mà còn lên án mọi sự bất công, đau khổ của xã hội do chế độ
chiếm hữu nô lệ và chế độ phân biệt đẳng cấp xã hội lạc hậu và khắc nghiệt gây
nên. Nó quan tâm đến thân phận và đời sống của mỗi con người. Nó chủ trương
giải thoát cho tất cả chúng sinh khỏi những đau khổ của cuộc đời bằng tin tưởng
vào đời sống đạo đức, từ, bi, hỉ, xả, bác ái và sức mạnh của trí tuệ, huệ giác của
chính con người

11


CHƯƠNG 3:

NHỮNG ẢNH HƯỞNG CỦA PHẬT GIÁO ẤN ĐỘ CỔ ĐẠI

ĐỐI VỚI ĐỜI SỐNG NGƯỜI VIỆT
1.

SỰ DU NHẬP CỦA PHẬT GIÁO ẤN ĐỘ CỔ ĐẠI VÀO VIỆT NAM
Sự du nhập của Phật giáo vaò nước ta ở những bức căn bản đầu tiên thật ra

không phải xuất phát từ Trung Quốc mà chính là được truyền sang trực tiếp từ Ấn
Độ. Dựa trên những chứng liệu lịch sử đáng tin cậy, một số nhà nghiên cứu chuyên
sâu, có uy tín về Phật giáo đã khẳng định điều này.
Quốc gia Âu Lạc đã bị Nam Việt của Triệu Đà thôn tình vào năm 179 TCN
và lập thành quận Giao Chỉ. Năm 110 TCN, Nam Việt trở thành nội thuộc của nhà
Hán, Giao Châu theo đó mà cũng quy về và được chia thành hai quận là Giao Chỉ
và Cửu Chân.
Trên lãnh thổ của nhà Hậu Hán, sau đó đã tồn tại trung tâm Phật giáo là Luy
Lâu, Lạc Dương và Bành Thành. Sử liệu cổ của Trung Hoa cũng không ghi nhận
được rõ ràng sự hình thành của hai trung tâm Lạc Dương và Bành Thành, chỉ có
Luy Lâu thuộc Giao Chỉ là được xác định rõ ràng và sớm nhất và còn là bàn đạp
cho việc hình thành hai trung tâm kia.
Từ nữa thế kỷ thứ hai, Luy Lâu đã tồn tại như một trung tâm Phật giáo quan
trọng và phồn thịnh. Điều này cho thấy việc du nhập Phật giáo vào Giao Châu là rất
sớm, có lẽ từ đầu Công Nguyên.
Vào đầu Công Nguyên, Ấn Độ đã có được sự giao thương mạnh mẽ với
Trung Đông và gián tiếp với vùng Địa Trung Hải. Do đó họ cần có một nguồn cung
cấp nguyên vật liệu, vật phẩm cho sự giao thương này. Họ giông buồm theo gió
mùa tây nam mà đi về đông. Họ đến Giao Chỉ rồi có thể từ Giao Chỉ mà lại theo
tiếp đường biển hay đường bộ vào trong nội địa Trung Hoa. Trong khi đợi gió mùa
đông bắc để quay về Ấn, sự lưu trú của số thương gia này đã lan truyền dần những
nét văn hóa Ấn Độ, trong đó có việc thờ cúng Phật, tụng kinh… Những tăng sĩ mà
12



các thương nhân đem theo trên thuyền buôn nhằm làm công việc cầu khẩn phù trợ
của Đức Phật là những người đã trực tiếp truyền bá Phật học và lập nên trung tâm
Phật giáo Luy Lâu.
Một số chứng liệu, lập luận đáng chú ý khác cũng củng cố nguồn gốc khởi
thủy sớm từ Ấn Độ của Phật giáo Việt Nam so với Phật giáo Trung Hoa. Theo đó
thì vào thời kỳ nhà Hán, Khổng và Lão giáo, đặc biệt là Khổng giáo đã rất mạnh,
giới trí thức Khổng, Lão đã chống lại Phật giáo, một luận thuyết tỏ ra khá xa lạ với
những chuẩn mực đạo đức, xã hội của Khổng, Lão. Do đó mà Phật giáo rất khó để
có thể thâm nhập. Người Hán muốn đưa Phật giáo vào, sau đó đã phải mượn thuyết
“hóa Hồ” để dễ dàng hơn trong việc thực hiện công việc này. Trong khi đó, ở Giao
Châu, Phật giáo xem ra rất phù hợp với tín ngưỡng dân gian, nên việc thâm nhập
không gặp trở ngại, mà lại còn dễ dàng và nhanh chóng.
Vào thời đó, dù từ Trung Hoa đã có con đường bộ đi đến Ấn gần hơn đường
biển, nhưng con đường xuyên qua Trung Á lại chứa đựng nhiều hiểm nguy, và
đường biển lại là con đường an ninh hơn, không có núi non, sa mạc, hay cướp bóc,
giết chóc. Bằng chứng là vào đầu thế kỷ thứ tư, con đường bộ đã dễ đi hơn, nhưng
đến cuối thế kỷ này, Pháp Hiển mới từ Trung Hoa sang Ấn, và đến tận thế kỷ thứ
bảy, Huyền Trang đã phải trải qua không biết bao nhiêu gian nan mới đi trọn vẹn
con đường.
Ngoài ra còn có hai chứng liệu rất quan trọng cho nguồn gốc rất sớm của
Phật giáo Việt Nam. Thứ nhất, tập luận thuyết Phật giáo đầu tiên bằng Hán tự, Lý
hoặc luận của Mâu Tử đã được viết ở Giao Chỉ, chứ không phải ở một nơi nào khác
sâu trong nội địa Hán. Thứ hai, vào thế kỷ thứ hai, ở Giao Chỉ đã có một tăng đoàn
đến 500 vị và khoảng 15 bộ kinh, trong khi đến thế kỷ thứ ba ở Hán mới có tăng
đoàn.

2.

ẢNH HƯỞNG CỦA PHẬT GIÁO ĐỐI VỚI ĐỜI SỐNG NGƯỜI

VIỆT

13


Do tính chất nội dung phong phú của mình nên ngay sau khi mới du nhập,
Phật giáo đã dễ dàng bén rễ trong hệ tư tưởng người Việt và nó đã có ảnh hưởng
đến nhiều mặt trong đời sống xã hội Việt Nam.
 Phương diện nghi lễ - tín ngưỡng
Phật giáo đã tạo nên một không gian kiến trúc chùa chiền: chùa chiền là
một không gian tín ngưỡng, là nơi tụ hội của các Tăng ni, Phật tử và những ngày lễ
hội Phật giáo, ngày tết cổ truyền, mồng một, ngày rằm. Ở đây con người như được
giao lưu với thần phật, xin được ban phúc, ban lành. Khi đến vãn cảnh chùa, con
người như trút bỏ được phiền não, dịu bớt đau khổ, căng thẳng.
Những ngày lễ của Phật giáo đã trở thành những hiện tượng văn hóa
cộng đồng như Rằm tháng giêng, lễ Cầu an, Rằm tháng tư; lễ Phật Đản: kỷ niệm
ngày Đức Phật sinh, Rằm tháng bảy: Lễ Vu Lan với nghĩa báo ân, báo hiếu; Lễ Phật
A di đà giáng sinh (ngày 17 tháng 11); Lễ kỷ niệm Đức Phật đắc đạo (ngày mồng 8
tháng 12).
 Phương diện phong tục và lối sống
Những tư tưởng cơ bản của Phật giáo như “tứ diệu đế”, “ngũ giới”, “lục
độ” ảnh hưởng lớn đến phong tục, quan niệm đạo đức và lối sống người Việt, tạo
nên nhân cách của người Việt. Nhân cách đó của Phật giáo có tác dụng hai mặt:
Mặt tích cực là chấp nhận sự biến đổi của thế giới và con người, sống
có gia phong, nề nếp, trong sạch, giản dị và quan tâm đến nổi khổ của người khác.
Phật giáo kêu gọi lối sống vị tha, bao dung, nhân ái. Ngũ giới là những giới luật cơ
bản, về thực chất đó là những nguyên tắc đạo đức được hình thành trong đời sống
xã hội. Sự thật, đây chính là tư tưởng giải thoát của Phật giáo, tuy nhiên đối với xã
hội, đó là điều kiện để xây dựng một xã hôi văn minh, có lối sống lành mạnh.
Mặt tiêu cực là nhìn đời một cách bi quan. Người Việt thiên về sùng bái

siêu nhân mà không tin tưởng và năng lực của bản thân mình và quá đề cao hay
tuyệt đối hóa lối sống khổ hạnh. Một trong những điều cấu thành cơ bản của lục độ
là “nhẫn nhục”, nhẫn nhục trong mọi phương diện của cuộc sống. Yếu tố này cũng
có tác dụng hai mặt. Một mặt nó thủ tiêu đấu tranh, đòi hỏi con người phải cam chịu
14


khổ hạnh, thiếu thốn, áp bức. Mặt khác nó góp phần rèn luyện ý chí con người,
khuyên con người phải chịu đựng đau khổ, áp bức mới mong đến ngày giàu sang,
phú quý, tự do. Theo quan điểm chính trị hiện tại, nhẫn là điều kiện tiên quyết để
dẫn tới giải pháp hòa bình, chuyển đối đầu thành đối thoại, chiến trường thành thị
trường.
 Phương diện y học
Phật giáo đã dạy cho con người phép dưỡng sinh bằng cách thiền định
và tu dưỡng đạo đức tinh thần, loại trừ mọi tham vọng, tức giận, si mê để tâm hồn
trở nên thanh thản, sống hòa mình với mọi người.
 Phương diện tư duy
Phật giáo đã đưa vào ngôn ngữ người Việt một hệ thống các khái niệm
như “vô ngã”, “vô thường”, “ngũ giới”…. Những khái niệm này một mặt làm giàu
thêm ngôn ngữ tiếng Việt, mặt khác chúng có ý nghĩa giáo dục lớn. Phật giáo dạy
rằng, muốn có tư duy và suy nghĩ đúng thì cần phải tập trung tư tưởng.Tư duy và ý
thức của con người giống như một ngọn đèn, nếu cứ để ánh sáng bình thường thì nó
tỏa sáng khắp bốn phương nhưng nếu biết tập trung chúng lại thành một điểm (có
chao đèn) thì nó trở nên rất sáng – đó chính là vai trò của thiền, của sự tập trung
trong học tập, nghe giảng, nghiên cứu khoa học.
Phật giáo nhìn nhận sự vật và hiện tượng trong mối quan hệ nhân quả,
xem cái gì cũng là kết quả của cái trước và là nguyên nhân của cái sau. Đặc biệt
trong đời sống xã hội, người Việt luôn suy luận theo phương thức: ở hiền gặp lành,
ác giả ác báo, đời cha ăn mặn đời con khát nước. Lối tư duy đó có tác dụng to lớn
trong việc chi phối hành vi thường nhật của con người.

Phật giáo từ lâu đã thâm nhập vào tâm thức, hằn sâu vào nếp nghĩ, in
đậm trong lối sống người Việt và trở thành nét bản sắc văn hóa dân tộc. Trải qua
bao biến đổi thăng trầm lịch sử, Phật giáo đã khẳng định mình, có chỗ đứng vững
chắc, tồn tại, phát triển và đồng hành cùng dân tộc. Lịch sử đã chứng minh những
giai đoạn hiểm nghèo của đất nước trước họa xân lăng, nhiều Thiền sư, Phật tử đã
cùng dân tộc chống giặc, bảo vệ non sông, tranh đấu cho công bằng và tự do. Phật
15


giáo đã từng đóng một vai trò trong việc củng cố tinh thần đoàn kết của toàn dân và
đấu tranh bảo vệ Tổ quốc. Khi hòa bình đất nước có điều kiện phát triển, Phật giáo
cũng góp phần không nhỏ làm nên những tinh hoa văn hóa được thể hiện qua kiến
trúc, điêu khắc, văn học nghệ thuật, lễ hội.
Trong bối cảnh kinh tế thị trường hiện nay, Phật giáo càng có ý nghĩa
trong việc giáo hóa con người giảm thiểu tham – sân – si để tự hoàn thiện bản thân
và xây dựng một xã hội văn hóa.

KẾT LUẬN
Phật giáo ra đời như một sự chối bỏ các tôn giáo truyền thống trước đó,
tìm con đường giải thoát cụ thể hơn, trần tục hơn nhưng rồi con đường đó vẫn rơi
vào ngõ cụt. Con người ở Ấn Độ cổ đại vẫn là con người đau khổ phải chịu mọi áp
bức bất công của một xã hội trong sự phân biệt đẳng cấp ngặt nghèo. Có thể nói tư
tưởng nhân sinh của Phật giáo như một tiếng thở dài của chúng sinh sống trong xã
hội bị áp bức, một xã hội Ấn Độ mà từ xưa cho đến nay vẫn chưa giải quyết được
vấn đề như nghèo đói, bất bình đẳng.

16


TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Giáo trình Triết học (dùng cho học viên cao học và nghiên cứu sinh không
thuộc chuyên ngành triết học) – Nhà xuất bản Lý luận Chính trị Hà Nội – 2007.
2. Triết học cố đại – TS Lê Công Sự - Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia.
3. Lịch sử tư tưởng Triết học Ấn Độ cổ đại – PGS Doãn Chính – Nhà xuất bản
chính trị quốc gia.
4. Đại cương lịch sử triết học Việt Nam – GS.TS Nguyễn Hùng Hậu – Nhà xuất

bản Chính trị Quốc gia.

17



×