Tải bản đầy đủ (.docx) (49 trang)

Ảnh hưởng của Phật giáo tới thơ Trần Nhân Tông

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (218.29 KB, 49 trang )

MỤC LỤC

1


2

MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Phật giáo là một trường phái triết học - tôn giáo lớn của nền văn
hoá Ấn Độ cổ đại. Vấn đề cốt lõi trong Phật giáo là giải thoát nỗi
khổ của con người. Xét về mặt triết học, Phật giáo được coi là triết
lý thâm trầm sâu sắc về vũ trụ và con người. Nó có tầm ảnh
hưởng rộng lớn không chỉ Ấn Độ mà còn nhiều quốc gia trên thế
giới, trong đó có Việt Nam. Phật giáo du nhập vào Việt Nam
khoảng thế kỉ thứ I đến thế kỉ thứ II TCN. Thời kì đầu, ảnh hưởng
của Phật giáo vẫn chưa rõ nét, nhưng với tính nhân văn sâu sắc
Phật giáo ngày càng đi sâu vào đời sống con người.
Trong lịch sử dân tộc Việt Nam, triều đại nhà Trần ( 1226 – 1400)
có những đóng góp không nhỏ trong việc củng cố sự thống nhất
quốc gia, thúc đẩy sự phát triển của văn minh Đại Việt, xây dựng
nền văn hóa Thăng Long rực rỡ, bảo vệ độc lập dân tộc với hào khí
Đông A hùng tráng một thời đại; chính vì vậy nên nó được mệnh
danh là một trong hai triều đại vững bền nhất. Không những thế,
nhà Trần còn được biết đến là một trong những giai đoạn mà đạo
Phật thật sự hoà nhập vào lòng dân tộc, phù hợp với tâm tư,
nguyện vọng của một dân tộc khao khát hoà bình, yêu độc lập, tự
do. Phật giáo đã trở thành cốt tuỷ và hoà nhập với nền văn hóa
dân tộc lúc bấy giờ.
Trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước, dân tộc Việt Nam
tự hào đã xây dựng cho riêng mình một thiền phái nhân văn, gần


gũi với cuộc sống của người dân và hơn cả nó mang đậm bản sắc
dân tộc. Đó chính là Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử do vua Trần Nhân
Tông khai mở. Trần Nhân Tông được biết đến là một nhà chính trị,
một vị vua anh minh, một anh hùng dân tộc, một nhà tu hành
mẫu mực và hơn hết ông còn là nhà thơ tài hoa.
Trong xu thế công nghiệp hóa - hiện đại hóa, giao lưu, hội nhập
quốc tế hiện nay, việc bảo tồn, giữ gìn và phát huy giá trị văn hóa
tinh thần đóng vai trò đặc biệt quan trọng. Điều này vừa khẳng
định vị trí, nét riêng độc đáo, vừa là điều kiện nâng cao giá trị văn
hóa tinh thần của dân tộc Việt Nam. Tuy nhiên, trong bối cảnh
ngày nay, con người, đặc biệt là phần lớn thế hệ trẻ chạy theo
những tư tưởng ngoại lai mà lãng quên đi lịch sử cũng của nước


3

nhà. Đó là một trong những vấn đề vừa mang tính dân tộc vừa
mang tính thời sự cấp bách. Trên cơ sở đó, chúng ta phải có ý thức
trách nhiệm trong việc bảo tồn, gìn giữ và phát huy những giá trị
tốt đẹp và lâu đời của nước ta.
Từ những lí do trên, tác giả đã chọn đề tài “Ảnh hưởng của Phật
giáo tới thơ Trần Nhân Tông” cho nghiên cứu khoa học của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Triết học Phật giáo, xã hội thời Trần, cuộc đời và sự nghiệp của
Vua Trần Nhân Tông và triết học Trần Nhân Tông được thể hiện
sâu sắc qua các tác phẩm, tài liệu, tạp chí và luận án, từ đó cung
cấp những tri thức cơ bản để tác giả đi sâu nghiên cứu đề tài
"Ảnh hưởng Phật giáo tới thơ Trần Nhân Tông”.
Nghiên cứu về Phật giáo, “Lịch sử triết học Ấn Độ cổ đại” (2015),
của Nguyễn Thị Toan, nxb ĐHSP đã cung cấp những tài liệu về lý

luận cơ bản và tổng quát về lịch sử triết học Ấn Độ cổ đại, đặc
biệt là trường phái triết học Ấn Độ. Trong đó, giáo trình đã khái
lược về Phật giáo và những vấn đề triết học cơ bản: Bản thể luận,
nhận thức luận và giải thoát luận. Bên cạnh đó, cuốn sách “Hỏi
và đáp lịch sử triết học” (2009) của Nguyễn Bá Dương, nxb chính
trị - hành chính trình bày những tư tưởng triết học Phật giáo Ấn
Độ và ảnh hưởng của nó ở nước ta.
Nghiên cứu về nhà Trần, “Nhà Trần và con người thời Trần” (2004)
của tác giả Nguyễn Danh Phiệt, Lê Văn Lan, Trần Quốc Tuấn,
Trung tâm Unesco Thông tin tư liệu lịch sử và văn hóa Việt Nam;
nghiên cứu lịch sử, khảo cổ vùng đất
phát tích nhà Trần, sự hình thành và phát triển triều đại nhà Trần,
giới thiệu các vị vua nhà Trần, các vị khai quốc công thần, các
tướng giỏi và các danh nhân văn hoá.“Lịch sử tư tưởng triết học
Việt Nam” (2006) của tác giả Nguyễn Trọng Chuẩn, Nguyễn Tài
Thư, Lê Thị Lan...; Nguyễn Trọng Chuẩn ch.b, nxb Khoa học xã
hội – T.1: Từ đầu công nguyên đến thời Trần và thời Hồ; trình bày
về bối cảnh lịch sử và những tư tưởng triết học của Việt Nam từ
thế kỷ II TCN đến thời Trần và thời Hồ


4

Về Trần Nhân Tông và thơ của ông, tác phẩm “Trần Nhân Tông - vị
vua Phật Việt Nam” của Thích Thanh Từ, Thích Quảng Liên, Ngô
Văn Quán...Tp. Hồ Chí Minh : Nxb. Tp. Hồ Chí Minh, 2004: tập hợp
những bài viết của nhiều tác giả, nhà nghiên cứu về Trần Nhân
Tông - vị vua Phật Việt Nam, về tư tưởng trí tuệ Phật, giáo lí tinh
hoa của đạo Phật Thiền phái Trúc Lâm và trung tâm di tích văn
hoá Yên Tử. “Thơ Trần Nhân Tông : Thưởng thức - cảm thụ” của

Đỗ Thanh Dương, Nxb. Hội Nhà văn, 2006: Giới thiệu thơ Trần
Nhân Tông và nghiên cứu mấy vấn đề về thi pháp cùng những vẻ
đẹp của thơ ông. Đại cương lịch sử tư tưởng triết học Việt Nam T1
: khái quát lịch sử, kinh tế, xã hội và tư tưởng của người Việt thời
kỳ dựng nước, tư tưởng triết học Việt Nam thời kỳ Bắc thuộc. Tư
tưởng triết học Việt Nam từ thế kỷ X đến thế kỷ XIV, từ thế kỷ XV
đến thế kỷ XIX, từ cuối thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX. Qua đó,
cuốn sách đã nêu lên những vấn đề cơ bản của triết học Trần
Nhân Tông.
Một số tài liệu được khái quát trên đây liên quan trực tiếp đến quá
trình nghiên cứu, giúp tôi có cái nhìn khái quát nhất về tư tưởng
triết học Phật giáo, xã hội thời Trần và cuộc đời, sự nghiệp vua
Trần Nhân Tông cũng như nội dung tư tưởng triết học của ông. Từ
việc tìm hiểu vấn đề này, vấn đề đặt ra cho chúng ta, đặc biệt là
thế hệ trẻ là việc giữ gìn và phát huy những giá trị lịch sử cũng
như những nét đẹp truyền thống của dân tộc.
3. Đối tượng nghiên cứu
Ảnh hưởng của Phật giáo tới thơ Trần Nhân Tông
4. Mục tiêu nghiên cứu
Nghiên cứu khoa học nhằm cung cấp những thông tin lịch sử cơ
bản về Phật giáo, xã hội thời Trần và cuộc đời, sự nhiệp Trần Nhân
Tông. Bên cạnh đó, đề tài khai thác về ảnh hưởng của Phật giáo tới
thơ Trần Nhân Tông để khám ruuphá ra những giá trị sâu sắc mà
những tác phẩm gửi gắm.
Nghiên cứu khoa học nhằm đặt ra vấn đề đối người Việt Nam đặc
biệt là thế hệ trẻ nhiệm vụ bảo tồn và giữ gìn những giá trị nhân


5


văn sâu sắc mà ông cha ta đã để lại, trong đó có thơ Trần Nhân
Tông với ảnh hưởng từ Phật giáo.
5. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu đã sử dụng các phương pháp của chủ nghĩa
duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử và các phương
pháp như: liệt kê, quan sát, phân tích, tổng hợp, so sánh, giải
thích.
6. Kết cấu đề tài

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phần
phụ lục, nội dung của đề tài được triển khai thành 3 chương, 8 tiết

NỘI DUNG
Chương 1
KHÁI QUÁT VỀ PHẬT GIÁO NGUYÊN THỦY
1.1 Sự ra đời của Phật giáo
Phật giáo ra đời vào thế kỉ thứ VI TCN – thời kì chiếm hữu nô lệ với
sự phân biệt đẳng cấp khắt khe cùng với sự thống trị của các tư
tưởng duy tâm. Ngày 15 tháng 4 âm lịch khoảng năm 624 TCN, ở
miền Bắc ấn Độ, phía Nam dãy Hymalaya có một vị thái tử ra đời
mang tên Siddhartha (Tất Đạt Đa), con của vua Suddhodam (Tịnh
Phạn). Siddhartha cưới vợ và có 1 cậu con trai năm 19 tuổi. Tuy
nhiên, năm 29 tuổi vị thái tử quyết định từ bỏ cuộc sống trần tục sau
khi tiếp xúc với cảnh đời trong thiên biến vô thường của sinh, lão,
bệnh, tử. Kể từ đó, ngài đã bắt đầu cuộc hành trình gian truân, vất
vả để đi tìm phương thuốc chữa khổ đau cho nhân thế. Trải qua 6
năm tu tập khổ hạnh, ép xác ngài thấy rõ đó không phải là con
đường thoát khổ và cứu khổ. Thái tử quyết định ăn uống bình thường
trở lại, sau đó suốt 49 ngày đêm ngồi yên tu tập, kiên trì, phấn đấu
và cuối cùng đã giác ngộ, thành Phật dưới gốc cây Bồ đề. Cuối cùng

vào năm 35 tuổi, Thái tử Tất Đạt Đa đã trở thành Đức Phật. Sau khi
chứng quả, Đức Phật lên đường đi giáo hóa chúng sinh. Hơn 45 năm
độ sinh thuyết pháp, ngài đã thu nhận hơn ngàn đệ tử, trở thành
người có tầm ảnh hưởng lớn nhất đối với nhân dân Ấn Độ cũng như


6

nhân dân trên toàn thế giới. Khoảnh khắc sau, Phật hiện tướng bệnh
tật, cuộc đời của ngài đã kết thúc năm 80 tuổi.
Sau khi Phật tổ mất, Phật giáo chia làm hai bộ phận: Thượng tọa và
Đại chúng. Trong đó, Thượng tọa bộ chủ trương và duy trì cách hành
đạo như lời Phật dạy trong Kinh Tạng. Mặt khác, Đại chúng bộ đã sửa
đổi, bổ sung, cải cách những giáo lí phù hợp với thực tế của thời đại.
Tư tưởng triết học Phật giáo được tìm hiểu trong kinh điển rất đồ sộ,
nó bao gồm Kinh tạng, Luật tạng và Luận tạng. Trong đó, Kinh tạng ghi lời Phật Thích Ca thuyết phát, Luật tạng - giới luật của người xuất
gia và Luận tạng là các tác phẩm luận giải về Phật Giáo của các cao
tăng, học giả.
Trải qua 6 thế kỉ, Phật giáo không còn được tôn sùng ở vương quốc
Ấn Độ. Thay vào đó nó lan truyền mạnh mẽ và rộng rãi tại các nước
châu Á, trong đó có Việt Nam.
Những năm đầu công nguyên, các nhà buôn và tu sĩ thông qua
đường biển đã truyền bá giáo lí đạo Phật vào nước ta. Cũng có ý kiến
cho rằng, Phật giáo du nhập vào thế kỉ V – VI qua đường bộ, bắt
nguồn từ Vân Nam Trung Quốc. Con đường thứ ba, xuất phát từ TK
XIII tại Đông Bắc Ấn Độ, qua con đường Tây Tạng, trườn dọc sông Mê
Công rồi vào Việt Nam.
1.2 Thế giới quan Phật giáo
Thế giới quan Phật giáo nguyên thủy là sự kết hợp của yếu tố tư duy
biện chứng và chủ nghĩa nhân văn sâu sắc. Bên cạnh đó, Phật giáo

phủ nhận tư tưởng về đấng sáng tạo Brahman, cũng như phủ nhận
"cái tôi" (Atman) và đưa ra những phạm trù: chân như, pháp, không,
vô thường, vô ngã, nhân duyên,.. Trong số đó quan niệm cơ bản và
nổi bật nhất là vô ngã, vô thường và nhân duyên
Vô ngã: Phật giáo cho rằng không có một cái ngã thường hằng, tất cả
sự vật, hiện tượng trên thế giới này đều không có thật, chỉ là hư
không, là giả và bản thân con người cũng như vậy. Mọi vật đều đều
được cấu tạo bởi 2 yếu tố đó là : Sắc – vật chất và Danh – tinh thần.
Sắc (sắc uẩn) là sự kết hợp của tứ đại: địa, thủy, hỏa, phong. Còn
lại, Danh (thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn, thức uẩn) là sự phối hợp
của thất tình: hỉ, nộ, ai, lạc, ái, ố, dục.


7

Vô thường: Theo quan điểm Phật giáo, vô thường là "không chắc
chắn", "thay đổi", "không trường tồn", không mãi mãi ở một trạnh
thái nhất định: “tính vỡ đã nằm trong cái cốc”, “hoại diệt là bản chất
của chư hành”. Tất cả sự vật, hiện tượng trên thế giới này đều biến
đổi theo quá trình sinh - trụ - dị - diệt hay thành - trụ - hoại - không
và con người thì vận hành theo quy luật sinh – lão – bệnh – tử.
Nhân duyên: Tất cả mọi sự vật, hiện tượng tồn tại trong vũ trụ đều bị
chi phối bởi luật nhân duyên, đó là mối quan hệ giữa nguyên nhân và
kết quả. Cái nhân nhờ có cái duyên mới sinh ra được mà thành quả.
Quả lại do cái duyên mà thành ra nhân khác, nhân khác lại nhờ có
duyên mà thành quả mới và cứ biến đổi mãi mãi. Nói cách khác, mọi
sự vật, hiện tượng trong vũ trụ không đứng độc lập tuyệt đối mà tồn
tại trong mối liên hệ nương tựa, ràng buộc, tác động qua lại với
nhau.
Có thể nói, thế giới quan Phật giáo có điểm đặc sắc hơn so với với

các tôn giáo khác (không tin có tạo vật chủ), tuy nhiên Phật giáo
cũng bị đẩy vào chủ nghĩa hư vô khi không thừa nhận sự đứng im
tương đối của sự vật, hiện tượng trên thế giới (thuyết vô thường, vô
ngã).
1.3 Nhân sinh quan Phật giáo
Thừa nhận quan niệm "Luân hồi" và "Nghiệp" trong Upanishad, Phật
giáo đặc biệt chú trọng triết lý nhân sinh, đặt mục tiêu tìm kiếm sự
giải thoát cho chúng sinh khỏi vòng luân hồi, nghiệp báo để đạt tới
trạng thái tồn tại Niết bàn (Nirvana).
Từ sự lý giải về căn nguyên nỗi khổ của con người, Phật Thích Ca
Mâu Ni đã đưa ra thuyết "Tứ diệu đế" và " Thập nhị nhân duyên" để
giải thoát chúng sinh ra khỏi mọi nỗi khổ và kiếp nghiệp báo, luân
hồi. Đây là triết lý nhân sinh chủ yếu của đạo Phật. "Tứ diệu đế" là
bốn chân lý chắc chắn, hiển nhiên, hoàn toàn cao hơn hết, trong đó
gồm có:
Khổ đế: Phật giáo coi " đời là bể khổ". Có trăm ngàn nỗi khổ, nhưng
có 8 nỗi khổ trầm luân, bất tận mà bất cứ ai cũng phải gánh chịu là:
sinh, lão, bệnh, tử, thụ biệt ly ( yêu thương mà phải chia lìa), Oán
tăng hội ( oán ghét nhau mà phải sống với nhau), sở cầu bất đắc


8

( cầu mong mà không được), ngũ thụ uẩn ( năm yếu tố vô thường
nung nấu làm nên sự đau khổ).
Nhân đế (hay Tập đế): Giải thích những nguyên nhân gây nên đau
khổ cho chúng sinh. Đó là 12 nguyên nhân ( Thập nhị nhân duyên):
1. Vô minh; 2. Hành; 3. Thức; 4. Danh sắc; 5. Lục nhập; 6. Xúc; 7.
Thụ; 8. ái; 9. Thủ; 10. Hữu; 11. Sinh và 12. Lão, tử. Trong 12 nhân
duyên ấy thì vô minh tức là ngu tối, không sáng suốt là nguyên nhân

đầu tiên.
Diệt đế: Là lần theo Thập nhị nhân duyên, tìm ra cội nguồn của nỗi
khổ, tiêu diệt nó và đưa chúng sinh thoát khỏi nghiệp chướng, luân
hồi, đạt tới cảnh trí Niết bàn.
Đạo đế: Chỉ ra con đường diệt khổ đạt tới giải thoát. Đó là con đường
"trung đạo", hoàn thiện đạo đức cá nhân gồm 8 nguyên tắc (bát
chính đạo):
1. Chính kiến: Hiểu biết đúng đắn
2. Chính tư duy: Suy nghĩ đúng đắn
3. Chính ngữ: Giữ lời nói phải
4. Chính nghiệp: Giữ đúng trung nghiệp
5. Chính mệnh: Giữ ngăn dục vọng
6. Chính tinh tiến: Rèn luyện không mệt mỏi
7. Chính niệm: Có niềm tin vững chắc vào sự giải thoát
8. Chính định: An định, không bị ngoại cảnh chi phối.
Tám nguyên tắc này có thể thâu tóm vào 3 điều phải học tập, rèn
luyện là: Giới - Định - Tuệ ( tức là: giữ giới luật, thực hành thiền định
và khai thông trí tuệ bát nhã).
Đạo đức Phật giáo luôn xem giới luật là những nguyên tắc cơ bản
mang tính bền vững cũng như ổn định và không thay đổi. Nó còn là
tôn giáo xuất phát từ chính hiện thực con người, nhằm hướng bản
thân con người có thể đi đến hạnh phúc an lạc.Điều đó được thể hiện
thông qua những quy phạm đạo đức như: ngũ giới, lục hòa, tứ vô
lượng tâm,... Trong đó:


9

Ngũ giới: là những điều ngăn cấm mà Phật đề ra để ngăn những
tưởng niệm ác, lời nói không hay và hành động bất chính. Đó là 5

điều:
1. Không được giết hại
2. Không được trộm cướp
3. Không được tà dâm
4. Không được nói sai sự thật
5. Không được uống rượu
Lục hòa: là sáu phương pháp thể hiện nhân cách sống một con người
có đạo đức, đem lại sự hòa thuận, yêu thương, đùm bọc giúp đỡ và
chia sẻ cho nhau, từ vật chất đến tinh thần, từ lời nói cho đến mọi
việc làm trong cuộc sống:
1. Thân hòa đồng trụ (chung sống hòa bình)
2. Khẩu hoà vô tránh (lời nói hòa hợp, không tranh cãi)
3. Ý hoà đồng duyệt (thông cảm, chia sẻ mọi cảnh ngộ)
4. Giới hoà đồng tu (giới hòa cùng tu tập)
5. Kiến hoà đồng giải (cùng nhau học hỏi tiến bộ)
6. Lợi hoà đồng quân (lợi hòa cùng chia)
Tứ vô lượng tâm: là những 4 đặc tính giúp con người trở nên tốt đẹp,
hoàn thiện. Nếu mỗi người tự cố gắng thực hành “tứ vô lượng tâm”,
không phân biệt tôn giáo, chủng tộc .… thì mỗi người sẽ trở thành
một công dân lý tưởng trong một thế giới hòa bình, an lạc.
1.
2.
3.
4.

Từ: lòng tốt, yêu thương con người
Bi: lòng thương xót, cứu khổ, cứu nạn cho chúng sinh
Hỉ: lòng vui, vui cho chúng sinh khi họ làm được điều thiện
Xả: tha thứ cho người và hi sinh bản thân cho chúng sinh


Nhân sinh quan là một trong những vấn đề được Phật giáo quan tâm
sâu sắc. Nó mang tính nhân văn với niềm tin về sự giải thoát con
người từ chiều sâu tâm thức bằng trí tuệ và đạo đức. Bên cạnh đó, nó
đề cao tinh thần bình đẳng, khát khao tự do, hạnh phúc vượt lên trên
mọi đối đãi về sự phân biệt đẳng cấp.

Tiểu kết chương 1


10

Như vậy, trên đây, tác giả đã đề cập những vấn đề lý luận cơ bản về
triết học Phật giáo thông qua lịch sử ra đời của Phật giáo, thế giới
quan và nhân sinh quan Phật giáo. Tư tưởng chủ đạo của đạo Phật là
dạy con người hướng thiện, có tri thức để xây dựng cuộc sống tốt
đẹp yên vui trong hiện tại. Đạo Phật không công nhận có một đấng
tối cao chi phối đời sống của con người, không ban phúc hay giáng
hoạ cho ai mà trong cuộc sống mỗi người đều phải tuân theo luật
Nhân - Quả, làm việc thiện thì được hưởng phúc và làm việc ác thì
phải chịu báo ứng. Đạo Phật còn thể hiện là một tôn giáo tiến bộ khi
không có thái độ phân biệt đẳng cấp. Khác với một số tôn giáo lớn
trên thế giới, đạo Phật chủ trương không có hệ thống tổ chức thế giới
và hệ thống giáo quyền.
Một đặc điểm nổi bật của đạo Phật là một tôn giáo hoà bình, hữu
nghị, hợp tác. Trải qua hơn 25 thế kỷ tồn tại và phát triển, đạo Phật
du nhập vào trên 100 nước trên thế giới, ở hầu khắp các châu lục
nhưng luôn với trạng thái ôn hoà, chưa bao giờ đi liền với chiến tranh
xâm lược hay xảy ra các cuộc thánh chiến. Tính đến năm 2008, đạo
Phật có khoảng 350 triệu tín đồ và hàng trăm triệu người có tình
cảm, tín ngưỡng và có ảnh hưởng bởi văn hoá, đạo đức Phật giáo.

Đức Phật đã từng nói: “Không có đẳng cấp trong dòng máu cùng đỏ
như nhau, không có đẳng cấp trong giọt nước mắt cùng mặn”. Ngoài
ra, đạo Phật cũng thể hiện tinh thần đoàn kết và không phân biệt
giữa người tu hành và tín đồ, quan điểm của đạo Phật là “Tứ chúng
đồng tu”, đó là Tăng, Ni, Phật tử nam và Phật tử nữ đều cùng được tu
và nếu ai có quyết tâm đều có thể thành tựu như Đức Phật

CHƯƠNG 2
XÃ HỘI THỜI TRẦN, CUỘC ĐỜI VÀ SỰ NGHIỆP TRẦN NHÂN
TÔNG
Tư tưởng triết học Trần Nhân Tông một mặt phản ánh và bị chi phối
bở đặc điểm, nhu cầu của xã hội Việt Nam thời kì nhà Trần; bên cạnh
đó, là sự kế thừa những tôn giáo khác trước đó. Chính vì vậy, nghiên
cứu vể ảnh hưởng của Phật giáo trong thơ Trần Nhân Tông không thể
không nghiên cứu về bối cảnh lịch sử - xã hội cũng như những tiền
đề hình thành nên tư tưởng triết học của ông


11

2.1 Xã hội thời Trần
Dưới sự thống trị của triều đại nhà Lí vào khoảng giữa thế kỉ XII, đất
nước ta đang bước vào giai đoạn khủng hoảng trầm trọng. Nền kinh
tế càng ngày càng sa sút bởi dịch bệnh, thiên tai, mất mùa và đói
kém; mặt khác, bộ máy chính quyền từ trung ương đến địa phương
quản lí lỏng lẻo, quan liêu dẫn đến những cuộc chống phá ở nhiều
địa phương. Vốn sống bằng nghề đánh cá, họ Trần thường sinh sống
làm ăn ở những vùng cửa sông ven biển, đến đời Trần Lý (ông nội của
vua Trần Thái Tông) đã trở thành một cự tộc có thế lực vùng Hải Ấp
(nay là xã Lưu Xá, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình).

Năm 1209, khi trong triều có biến loạn, vua Lý Cao Tông phải chạy
lên Quy Hoá, Thái tử Sảm chạy về Hải Ấp đã được gia đình Trần Lý
giúp đỡ. Hoàng tử Sảm đã kết duyên cùng Trần Thị Dung, con gái thứ
hai của Trần Lý. Họ Trần đã tập hợp hương binh giúp nhà Lý dẹp loạn,
diệt trừ Quách Bốc (thuộc tướng của Phạm Bỉnh Di), đưa vua Lý trở
lại kinh đô. Cậu ruột Trần Thị Dung là Tô Trung Từ làm Điện tiền chỉ
huy sứ. Uy thế họ Trần bắt đầu được đề cao từ khi hoàng tử Sảm lên
ngôi vào năm 1211, tức là vua Lý Huệ Tông. Ông cho đón vợ là Trần
Thị Dung về cung lập làm nguyên phi. Lúc này, Tô Trung Từ được
phong Thái uý phụ chính. Huệ Tông là người yếu đuối, lại bị Thái hậu
họ Đàm khống chế, nên mọi việc đều phó thác cho Đàm Dĩ Mông,
người chức cao, quyền lớn nhưng "không có học thức, không có mưu
thuật, lại nhu nhược không quyết đoán, chính sự ngày một đổ nát".
Lợi dụng tình hình đó, Đoàn Thượng làm phản, tụ tập bè đảng ở Hồng
Châu thả sức cướp bóc, khiến triều đình không chế ngự nổi. Năm
1216, trước tình thế bức bách của Đàm thái hậu, Lý Huệ Tông đã bí
mật rời bỏ hoàng cung, cùng với Trần thị Dung trốn đến nơi đóng
quân của Trần Tự Khánh. Từ đó, vua Lý hoàn toàn phụ thuộc vào thế
lực anh em họ Trần. Năm 1223, Trần Tự Khánh chết, mọi việc đều uỷ
quyền cho Trần Thủ Độ (em họ Trần Thừa và Tự Khánh) khi ấy là chỉ
huy sứ, quản lĩnh cấm quân. Là người cơ mưu, quyết đoán, Trần Thủ
Độ đã sắp xếp để vua Huệ Tông nhường ngôi cho công chúa Chiêu
Thánh, rồi cắt tóc đi tu ở chùa Chân Giáo. Liền sau đó, Trần Thủ Độ
lại thu xếp cho Lý Chiêu Hoàng lên 7 tuổi lấy con trai thứ của Trần
Thừa là Trần Cảnh lên 6 tuổi. Một năm sau, vào tháng 12 âm lịch
năm 1225, Trần Thủ Độ ép Chiêu Hoàng nhường ngôi cho chồng, nhà


12


Trần bắt đầu nắm quyền cai trị. Khi lên ngôi, Trần Cảnh (Trần Thái
Tông) còn nhỏ, mọi việc triều chính đều trong tay Thái sư Trần Thủ
Độ và cha là Nhiếp chính Trần Thừa.

Trong quá trình xây dựng chính quyền quý tộc quân chủ vững mạnh,
đồng thời củng cố, phát triển kinh tế, văn hóa mang đậm bản sắc
dân tộc, xã hội thời đã có sự phân hóa mạnh mẽ. Trong gần hai thế
kỉ, nhà Trần đã hình thành và tồn tại 3 giai cấp chính:
-

Đẳng cấp quý tộc, tôn thất – quan lại trong chính quyền quân
chủ.
Đẳng cấp những người bình dân, chủ yếu là nông dân các làng
xã, thợ thủ công và thương nhân, địa chủ.
Đẳng cấp nô tỳ.

Đẳng cấp quý tộc gọi cách khác là giai cấp quý tộc vương hầu, tôn
nhất nhà Trần. Các vua nhà Trần giữ một vai trò rất đặc biệt, ở đó
vua là người nắm giữ quyền tối thượng bao gồm các lĩnh vực của nhà
nước, xã hội và là người quyết định mọi hình thức nghi lễ, tôn giáo
cũng như mọi hình thức sử dụng ruộng đất tài sản của nhà nước. Bên
cạnh đó, những người xuất thân từ tầng lớp chân tay cũng có quyền
tham gia bộ máy cầm quyền bởi những chính sách mở rộng thi cử,
tuyển chọn quan lại, người tài cho nhà nước. Chính tầng lớp này đã
làm pha loãng đi tính chất quý tộc của nhà nước Trần, tạo ra những
xáo trộn không nhỏ vào buổi cuối Trần.
Đẳng cấp thứ hai chiếm phần lớn hơn cả, họ, êm ả trong tập thể làng
xã. Bên cạnh những người nông dân làm ruộng là những người thợ
thủ công và thương nhân. Tuy thủ công là nghề chính, nhưng những
người thợ vẫn gắn với ruộng đồng và nông thôn. Thương nhân là

tầng lớp hình thành mới nhưng là lực lượng sản xuất chủ yếu và cũng
là đẳng cấp gánh vác nhiều nghĩa vụ nhất trong xã hội. Trong luật
pháp hay những chiếu chỉ của nhà vua, những người bình dân được
gọi chung là “bách tính” hay “dân”. Phải gánh chịu hầu hết trọng
trách của xã hội như: sản xuất, nộp thuế, đi lính, bảo vệ đất nước,...
nhưng về cơ bản những người nông dân có cuộc sống bình yênlại
nhanh chóng phát triển. Chuyên buôn bán là số ít, hầu hết nghề tay
phụ của họ là làm nông cũng như thủ công.


13

Đẳng cấp bị cho thấp hèn nhất là nô tỳ. Họ là những người dân
nghèo không có tiền phải bán thân, tội nhân bị sung làm nô và tù
binh. Nô tỳ chủ yếu có 2 loại: thứ nhât là “gia nô” hay “tư nô” những
người làm trong nhà quý tộc, quan lại; thứ hai là nô tùy của nhà
nước, chuyên làm những việc đồn điền, làm ruộng và các công việc
công cộng khác. Gọi là thấp hèn nhất, bởi họ không có tư liệu sản
xuất trong tay, không được kết hợp với các tầng lớp trên, không có
quyền quyết định với chính thân thể của mình và hơn thế họ bị thích
vào mặt mang hàm hiệu của chủ.

Cùng với việc kế thừa và phát triển các giá trị tư tưởng và văn hóa
truyền thống Việt Nam được hun đúc nên trong tiến trình lịch sử đấu
tranh dựng nước và giữ nước, tư tưởng triết học Trần Nhân Tông được
hình thành và phát triển còn do ông tiếp thu, chắt lọc các quan điểm
khác nhau của Nho, Lão, Phật. Những tôn giáo này xuất phát từ
những luồng tư tưởng bên ngoài, khi du nhập vào Việt Nam đã trải
qua những giai đoạn thăng trầm để tìm được chỗ đứng trong đời
sống tinh thần của người Việt. Văn hóa bản địa kết hợp hài hòa với

những tư tưởng ngoại lai đã tạo nên bản sắc riêng cho dân tộc Việt
Nam.
Nho giáo du nhập buổi đầu Việt Nam không còn là Nho giáo nguyên
thủy, mà đã được cải tạo cho phù hợp với tư tưởng của những nhà
cầm quyền lúc bấy giờ. Tuy nhiên, không đúng như những thế lực
phong kiến kì vọng, chính sách đồng hóa dân tộc ta hoàn toàn thất
bại. Sở dĩ có điều đó là vì, thứ nhất là sự khác biệt về chữ viết. Chữ
Hán vốn là một loại chữ tượng hình, nó khác hoàn toàn so với chữ
quốc ngữ sử dụng kí tự La Tinh. Chính vì vậy, chỉ có những con em
quan lại và những con em bản địa mới có điều kiện học tập loại ngôn
ngữ khó viết này. Thêm vào đó, “nhân dân ta có một lòng nồng nàn
yêu nước”; để khẳng định tinh thần độc lập, nhân dân ta đã bảo tồn
và phát huy di sản văn hóa cổ truyền, bảo tồn ngôn ngữ, chữ viết, tín
ngưỡng, phong tục tập quán của dân tộc. Nội dung Nho giáo thời
Trần là tư tưởng Thiên mệnh, tư tưởng tôn quân đại thống nhất, đề
cao quyền uy của Thiên tử, truyền bá thuyết “tam cương ngũ
thường”, “tam tòng tứ đức”... để làm công cụ tinh thần phục vụ cho
bộ máy quan liêu và thần bí hóa để lợi dụng lòng tin của nhân dân.


14

Nho giáo và Nho học đã có sự khởi sắc hơn thời Lí đặc biệt là trong
bối cảnh khoang dung văn hóa, sự dung hợp của “tam giáo đồng
nguyên”. Ảnh hưởng rõ nét nhất có thể thấy là giáo dục và chế độ thi
cử. Không những giảng dạy Nho học, phát triển và hoàn thiện chế độ
khoa cử, mà còn tôn tạo Văn Miếu, tế tự Khổng Tử, du nhập kinh điển
làm cho Nho giáo tạo lên bước ngoặt mới. Cũng như những vị vua
thời Trần, Nho giáo đã ảnh hưởng không nhỏ đến nội dung tư tưởng
của Trần Nhân Tông, ông từng nhiều lần đề cập đến điển tích, Kinh,

Dịch và những quan điểm, khái niệm của Nho giáo như: “Trong đạo
nghĩa, khoảng cơ quan, đã lọt lẫn trường Kinh cửa Tổ” 1 hay “Sống mà
không giúp gì được cho đời là điều đáng hổ thẹn của kẻ trượng phu”.
Không có tầm ảnh hưởng như Nho giáo và Phật giáo, nhưng Đạo giáo
vẫn có chỗ đứng nhất định trong tiền đề lí luận của Trần Nhân Tông.
Đạo giáo du nhập vào Việt Nam cùng với Nho giáo; nhưng sau khi đi
vào đời sống nhân dân, học thuyết triết học Lão - Trang đã có những
biến đổi để phù hợp với ý chí của các tầng lớp trong xã hội và hơn cả
là để thích ứng với nền văn hóa bản địa. Nếu Đạo gia được tiếp thu
mạnh mẽ ở tầng lớp tri thức thì Đạo giáo lại được tiếp biến ở quần
chúng nhân dân. Ví dụ có thể thấy ở đây là là sự phân hóa của Đạo
giáo thành 2 khuynh hướng là: Đạo phù thủy và Đạo thần tiên. Đạo
thần tiên với tư tưởng tiêu dao, khoáng đạt, vi vu, sống ung dung tự
tại đã ảnh hưởng sâu sắc tới tầng lớp vua, quan, quý tộc. Ngược lại,
Đạo phù thủy hòa nhập với tín ngưỡng ma thuật cổ truyền của nhân
dân. Thời Trần, Đạo giáo kết hợp với triết lí vô ngã của Phật giáo,
tính chất duy lí của Nho giáo và tín ngưỡng dân gian của người Việt
nên không hoàn toàn mang tính chất ma thuật thần bí, mà hết sức
chất phác. Trong triết học Đạo gia, vua Trần Nhân Tông kế thừa quan
điểm “tiêu dao”, “hòa với tự nhiên”, sống ung dung với nơi non xanh
nước biếc; ông cũng đề cao cuộc sống thanh bình, không bon chen,
không xô bồ “công danh chẳng trọng, phú quý chẳng màng”, “lánh
thị phi, ghê danh sắc”.
Sự du nhập của Phật giáo vào nước ta ở những bước căn bản đầu
tiên thật ra không phải xuất phát từ Trung Hoa, mà chính là được
truyền sang trực tiếp từ Ấn Độ. Dựa trên những chứng liệu lịch sử
đáng tin cậy, một số nhà nghiên cứu chuyên sâu, có uy tín về Phật
/>1



15

giáo đã khẳng định điều này1. Thế kỷ đầu tiên của công lịch, sự hòa
hợp giữa tín ngưỡng bản địa có sẵn với những sinh hoạt văn hóa,
giáo lý cơ bản của Phật giáo đã hình thành nên một loại tín ngưỡng
Phật giáo bình dân phù hợp với đời sống tinh thần của nhân dân
cũng như phù hợp với tín ngưỡng bản địa ; vì lẽ đó, nên việc thâm
nhập của Phật giáo không gặp trở ngại, mà lại còn dễ dàng và nhanh
chóng. Khi nói đến lịch sử thời Lý - Trần, là người ta nghĩ ngay đến
một quốc gia Phật giáo, bởi Phật giáo đã thể nhập toàn diện vào đời
sống con người, xã hội và dân tộc ta thời ấy. Nhờ tín ngưỡng Phật
giáo mà dân tộc ta có được sự cấu kết lòng dân trong việc dựng nước
và giữ nước để đánh bại giặc ngoại xâm. Đó là 3 cuộc kháng chiến
đại thắng Nguyên - Mông vĩ đại. Vào đầu thế kỷ 13, đã có sự dần dần
sáp nhập vào với nhau của ba thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi, Vô Ngôn
Thông và Thảo Đường. Thiền phái Yên Tử từ đây mà hình thành.
Thiền phái này sau đó, dưới sức ảnh hưởng rất lớn của vua Trần Thái
Tông và Tuệ Trung Thượng Sĩ, đã có một bước phát triển lớn, trở
thành thiền phái Trúc Lâm - thiền phái duy nhất dưới đời nhà Trần.
Nhìn lại lịch sử thời Trần, chúng ta càng thấy vị trí và vai trò không
nhỏ của đạo Phật trong việc giữ nước và an dân. Về điều này P.Tilich,
Nhà nghiên cứu tôn giáo Nga nói: “Tín ngưỡng tôn giáo là mối quan
tâm cao nhất của con người và tôn giáo là nội dung thiết yếu của
văn hóa” hay trong bài trong bài: “Hãy bay với hai cánh vào hiện
đại” của Giáo sư Cao Huy Thuần: “Chẳng lẽ đạo Phật trí tuệ đã bay
cả rồi qua bên Tây ? Chẳng lẽ Tây phương thừa hưởng hết tinh túy
của Phật giáo? May thay chúng ta rất giàu lòng tin, nhưng buồn thay,
lắm khi, nắm nơi vẫn còn mê tín, đó không phải là đạo Phật. Không,
nhất thiết ta không để gãy đôi cánh trí tuệ của con đại bàng Lý Trần.
Nhất quyết ta củng cố lòng tin chân chính” 2.

2.2 Trần Nhân Tông – cuộc đời và sự nghiệp
Với Trần Nhân Tông, sự nghiệp để lại cho đời và đạo thật to lớn:
Không lĩnh vực nào mà ngài không tỏa sáng, đó là nhận xét và đánh
giá của các học giả và các nhà khoa học ở nhiều lĩnh vực phát biểu
như vậy về ngài.
Theo Nguyễn Lang, Việt Nam Phật giáo sử luận, in lần thứ 3, Nxb Văn
hóa, Hà Nội, 1992
1
2

Nhân tuần Văn hóa Phật giáo 2012 tại Nghệ An


16

Trần Nhân Tông tên thật là Trần Khâm, sinh ngày 11 tháng 11 âm lịch
năm Mậu Ngọ niên hiệu Thiệu Long năm thứ 1 (tức 7 tháng 12 năm
1258). Ông là con trai đầu lòng của Trần Thánh Tông và Nguyên
Thánh Thiên Cảm hoàng hậu Trần Thị Thiều. Theo Đại Việt Sử ký Toàn
thư (bộ quốc sử Đại Việt biên soạn năm 1479, thời Lê Thánh Tông),
Trần Khâm ngay từ khi sinh ra đã được tinh anh thánh nhân, thuần
túy đạo mạo, sắc thái như vàng, thể chất hoàn hảo, thần khí tươi
sáng, nên vua cha và ông nội - thái thượng hoàng Trần Thái Tông đã
gọi ông là Kim Tiên đồng tử Các sách Tam Tổ thực lục và Thánh đăng
ngữ lục (đều ra đời khoảng thế kỷ XIV) chép biệt hiệu này là Kim
Phật. Cả 2 sách này và Toàn thư đều kể rằng bên vai phải Trần Khâm
có nốt ruồi đen lớn như hạt đậu; người xem tướng đoán rằng hoàng
tử về sau sẽ làm được việc lớn.
Năm 1274, ở tuổi 16 tuổi, Trần Khâm được vua cha sách phong làm
hoàng thái tử. Trần Thánh Tông cũng lập trưởng nữ của Hưng Đạo

vương Trần Quốc Tuấn (tức Khâm Từ hoàng hậu sau này) làm thái tử
phi. Nhà vua còn vời các nho sĩ có tài đức trong cả nước về hầu cận
thái tử. Tướng Lê Phụ Trần được phong chức Thiếu sư, kiêm Trừ cung
giáo thụ, đảm trách việc dạy học thái tử. Bản thân nhà vua cũng viết
thơ giáo huấn cho Trần Khâm. Các chú giải của Trần Quang Chỉ trong
tranh Trúc Lâm đại sĩ xuất sơn đồ cho biết Trần Khâm đã đạt được
trình độ cao về các lĩnh vực như quân sự, âm nhạc, lịch số học và
thiên văn học. Ông cũng học kỹ về tam giáo Phật-Lão-Nho và am
hiểu tường tận giáo pháp nhà Phật. Sách Thánh đăng ngữ lục cũng
viết: "Bản chất Ngài rất thông minh và hiếu học, có nhiều tài năng,
xem khắp hết các sách, thông suốt cả nội điển lẫn ngoại điển”.
Tuy ở ngôi thái tử và có hôn nhân hạnh phúc, Trần Khâm có chí
hướng xuất gia theo Phật. Ông đã nhiều lần xin nhường ngôi Thái tử
cho em là Tá Thiên vương Trần Đức Việp, nhưng không được vua cha
chấp thuận. Thậm chí có lần ông trốn lên núi Yên Tử ẩn tu, khiến vua
Trần Thánh Tông phải sai quan quân đi tìm và thỉnh cầu ông về kinh
đô. Trần Khâm đành chấp nhận ngôi Thái tử, nhưng ông vẫn sống
thanh tịnh trên tinh thần Phật giáo; ông cũng dành nhiều thời gian
đàm đạo với thiền sư Tuệ Trung Thượng Sĩ (tức Hưng Ninh vương Trần
Quốc Tung – anh họ của Trần Thánh Tông) và tôn xưng vị này làm
thầy mình. Vào năm 1285, Giặc Nguyên - Mông xâm lăng xứ sở, Trần
Nhân Tông hai phen cầm binh ra trận cùng với Trần Hưng Đạo dẹp


17

giặc giữ nước và cả hai lần đều chiến thắng rực rỡ. Năm Quý Tỵ
1293, Trần Nhân Tông nhường ngôi cho con là Trần Anh Tông, còn
ngài lên làm Thái Thượng Hoàng, ở địa vị này 6 năm, ngài dạy bảo
con cháu và sắp xếp việc xuất gia.

Trần Nhân Tông là một vị hoàng đế mà sự nghiệp nổi hẳn trên cả ba
mặt : Giữ nước, dựng nước và mở nước. Trên cả ba lãnh vực này, Trần
Nhân Tông đã có những đóng góp hết sức đặc biệt.
Đầu tiên là sự nghiệp giữ nước của Trần Nhân Tông:
Thời Trần Nhân Tông ở ngôi hoàng đế, dân tộc ta phải đương đầu với
một kẻ thù hung hãn nhất của thời đại: Giặc Mông - Nguyên. Trong
vòng nửa thế kỷ, bộ tộc Mông Thát đã mở rộng chiến tranh xâm lược
và làm chủ nhiều vùng đất đai rộng lớn ở hai lục địa Á - Âu, lập nên
một đế chế kéo dài từ bờ Hắc Hải đến Thái Bình Dương. Thế nhưng
cả ba lần xâm lược Đại Việt, đội quân "bách chiến bách thắng" đó
đều bị đánh bại, trong đó có hai lần diễn ra dưới thời Trần Nhân Tông.
Để chuẩn bị cho chiến tranh, Trần Nhân Tông ý thức rất sâu sắc về
"thế trận lòng dân" hạt nhân để làm nên chiến thắng. Trần Nhân
Tông đã tổ chức hội nghị Bình Than (1282), gồm tướng sĩ để bàn kế
giữ nước. Đặc biệt, đầu năm 1285, Trần Nhân Tông đã tổ chức hội
nghị Diên Hồng, gồm các bô lão đại diện cho thần dân khắp cả nước,
để rồi từ điện Diên Hồng vang lên tinh thần quyết chiến. Rõ ràng là
mỗi khi sức mạnh nhân dân vào trận thì không một thế lực nào có
thể vượt thắng được.
Vai trò tối cao của Trần Nhân Tông còn thể hiện trong chính sách
dùng người. Trần Nhân Tông giao cho Hưng Đạo vương chỉ huy trực
tiếp toàn quân, hoặc trọng dụng các tướng lĩnh tài năng dù họ có lỗi
lầm trong quá khứ như Nhân Huệ vương Trần Khánh Dư được giao
làm Phó tướng, phụ trách toàn bộ thủy quân; hoặc như Chiêu Văn
vương Trần Nhật Duật tuổi đời còn rất trẻ vẫn được cử trông coi cả
một vùng Tây Bắc rộng lớn,... Nhà sử học đời Lê là Ngô Sĩ Liên nhận
xét: “Tôi từng thấy các danh tướng nhà Trần như Hưng Đạo Vương thì
học vấn tỏ ra ở bài hịch, Phạm Điện Súy thì học vấn biểu hiện ở câu
thơ, không chỉ có chuyện về nghề võ. Thế mà dùng binh tinh diệu, hễ
đánh là thắng, đã tấn công là chiếm được, người xưa cũng không



18

một ai vượt nổi các ông ... Đủ biết, nhà Trần dùng người, vốn căn cứ
vào tài năng của họ để trao trách nhiệm”1.
Không những vậy, Trần Nhân Tông còn được biết đến bởi lối ứng xử
ngoại giao mềm dẻo, cứng rắn. Trong cuộc chiến tranh năm 1285,
khi quân Nguyên sắp vào nước ta, Trần Nhân Tông cho sứ đưa thư
đến Thoát Hoan, từ chối việc cho mượn đường Đại Việt đánh
Champa: “Từ nước tôi đến Champa, đường thủy đường bộ đều không
tiện”. Phương sách ngoại giao của Trần Nhân Tông dù không cản
được chính sách xâm lược của triều Nguyên, nhưng nó có tác dụng
giúp triều Trần có thêm thời gian chuẩn bị để ứng phó với chiến tranh
mà biết trước sẽ diễn ra; mặt khác, nó góp phần quán triệt tư tưởng
trong nhân dân về bản chất hiếu chiến của kẻ thù để mà dốc lòng
cứu nước. Vì vậy, điều không phải ngẫu nhiên khi quân lính, mỗi
người đều thích vào cánh tay hai chữ "Sát Thát” trước lúc ra trận.
Khi chiến tranh diễn ra, Trần Nhân Tông có mặt hầu như khắp mọi
mặt trận để cùng với tướng lãnh có những quyết sách tối ưu trước
những tình thế hiểm nghèo, nổi bật nhất là những quyết định lui
quân hoặc phản công chiến lược. Trong cuộc kháng chiến năm 1285,
Trần Nhân Tông đã khẳng định sự sáng suốt khi quyết định lui quân ở
Hải Đông sau khi Nội Bàng thất thủ, rời bỏ Thăng Long, thực hiện
“vườn không nhà trống”,... Trong trận thủy chiến (14-2-1285) ở Bình
Than, các trận Trường Yên, Hàm Tử tiêu diệt đạo quân của Toa Đô,
đặc biệt là trận quyết chiến chiến lược Bạch Đằng (1288) chôn vùi ý
chí xâm lược của Hốt Tất Liệt,... Trần Nhân Tông, người vừa hoạch
định kế sách, vừa đốc binh ngoài mặt trận.
Nhìn lại những trang sử chống ngoại xâm của dân tộc, nhân dân ta

đã đương đầu với biết bao kẻ thù hung bạo và đã lập nên biết bao
chiến công lừng lẫy, song điều cần khẳng định là cuộc kháng chiến
chống đế quốc Mông - Nguyên thắng lợi ở thế kỷ XIII là một trong hai
chiến công vĩ đại của dân tộc ta mang tầm thời đại, có ý nghĩa quốc
tế sâu sắc. Tổng Bí thư thư Lê Duẩn khẳng định: “Dân tộc ta hơn các
dân tộc khác ở chỗ ngay từ buổi đầu giữ nước dân tộc ta có Bà Trưng,
Bà Triệu; ở chỗ đã hai lần đánh bại những tên sen đầm quốc tế: Mông
- Nguyên và Hoa Kỳ”.
Lê Văn Hưu, Phan Phu Tiên, Ngô Sĩ Liên, Đại Việt Sử ký Toàn thư. Bản
dịch Viện Khoa Học Xã Hội Việt Nam. Ấn bản điện tử, năm 2001, tr.200
1


19

Tất cả những lẽ đó đã khẳng định, Trần Nhân Tông không những là
một vị vua hiền, một nhà quân sự tài ba mà còn là nhà ngoại giao
xuất sắc; những đóng góp của ông đã tô sáng thêm trang sử vẻ vang
của dân tộc.
Tiếp theo là sự nghiệp dựng nước của Trần Nhân Tông:
Sau cuộc kháng chiến chống Mông - Nguyên thắng lợi, dưới sự lãnh
đạo của Trần Nhân Tông, công cuộc tái thiết đất nước diễn ra trên
nhiều linh vực. Nhưng nổi bật nhất phải nói lĩnh vực văn hóa.
Một là, Trần Nhân Tông tái dựng về một quá khứ huy hoàng của dân
tộc bằng việc phong thần cho những người có công với nước, như
Phù Đổng Thiên Vương, Triệu Quang Phục, Lý Nam Đế, Phùng Hưng,
Lý Thường Kiệt,... Việc phong thần cho những anh hùng, liệt nữ và
những người có công với dân tộc đã được thực hiện từ thời Lý Thái
Tổ, song chỉ đến thời Trần Nhân Tông, mới được tiến hành một cách
đầy đủ và có hệ thống hơn.

Căn cứ vào những ghi chép của Lý Tế Xuyên trong Việt điện u linh
tập, trong những năm Trùng Hưng thứ nhất (1285) và Trùng Hưng thứ
4 (1288) đã có tới 27 vị được phong thần. Các vị thần Việt Nam đến
thời Trần Nhân Tông đã lên tới con số không phải ít. Việc làm này của
Trần Nhân Tông có một ý nghĩa cực kỳ lớn lao trong việc tạo dựng
truyền thống đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam.
Lần đầu tiên, một thần điện Việt Nam được hình thành với những con
người cụ thể, sống bằng xương bằng thịt trong quá khứ, có sự tích,
có hành trạng, chứ không chỉ gồm những vị thần, vị thánh từ nước
ngoài đưa vào, hay được tưởng tượng ra. Giáo sư, Tiến sĩ Lê Mạnh
Thát khẳng định: “Trần Nhân Tông gầy dựng một quá khứ anh hùng
và thần thánh cho dân tộc ta, dùng những tấm gương anh hùng liệt
nữ và thần thánh đó để giáo dục cho nhân dân ta sống xứng đáng
với tổ tiên, đất nước mình. Có thể nói chủ nghĩa yêu nước và anh
hùng Việt Nam đã được phát huy cao độ vào thời đại Trần Nhân
Tông... Không có quá khứ đó, việc phát huy không thể dễ dàng. Đây
có thể là một đóng góp to lớn về đời sống tư tưởng của Trần Nhân
Tông với dân tộc ta”1.

1

Lê Mạnh Thát. Sđd., tr.171


20

Hai là, Trần Nhân Tông là một trong rất ít người đi tiên phong trong
việc sử dụng quốc ngữ (chữ Nôm) trong công việc triều chính lẫn
trong đời sống xã hội và trong sáng tác văn học. Ngày 27 tháng Ba
năm Mậu Tý (1288), chỉ ít ngày sau khi trở về Thăng Long, Trần Nhân

Tông ban chiếu, tuyên bố lệnh đại xá cho thiên hạ, Trần Nhân Tông
buộc các quan phải đọc chiếu bằng hai thứ tiếng: Hán và Quốc ngữ.
Đại Việt Sử ký Toàn thư chép: “Vua dụ ty Hành khiển giao hảo với
viện Hàn lâm. Lệ cũ, mỗi khi tuyên đọc lời vua, thì viện Hàn lâm lĩnh
đưa bản thảo tờ chiếu cho Hành khiển để giảng tập trước. Đến khi
tuyên đọc, thì giảng cả âm nghĩa cho dân thường dễ hiểu”. Với Trần
Nhân Tông, ý nghĩa của việc làm này là cốt để cho quần thần và dân
chúng nghe được nội dung chiếu chỉ, bởi trong số họ đa số không
biết chữ Hán hoặc có biết cũng chưa đạt đến trình độ thông hiểu hết;
mặt khác còn là ở chỗ Việt hóa ngôn ngữ trong dân gian lẫn chốn
cung đình.
Trong đời sống xã hội, những lúc xa giá, tiếp xúc với chốn thôn dã,
Trần Nhân Tông sử dụng tiếng Việt trong giao tiếp, vừa thể hiện sự
hòa quyện quân dân, vừa có ý nghĩa đề cao tiếng mẹ đẻ, cổ xúy
nhân dân chăm lo gìn giữ tiếng Việt. Đại Việt Sử ký Toàn thư chép:
“Vua từng ngự chơi bên ngoài, giữa đường, hễ gặp gia đồng của
vương hầu thì tất gọi chúng mà hỏi: ‘Chủ mày đâu?’, rồi răn các vệ sĩ
không được thét đuổi. Đến khi về cung, bảo tả hữu rằng: ‘Ngày
thường thì có thị vệ tả hữu, khi quốc gia lắm hoạn nạn thì chỉ có bọn
chúng có mặt’”.
Một vị hoàng đế, một vị thiền sư, rất giỏi chữ Hán, mà lại buộc quần
thần đọc chiếu với hai thứ tiếng, giao tiếp với dân bằng quốc ngữ,
đặc biệt là sáng tác thơ văn bằng chữ Nôm, trong đó diễn đạt những
tư tưởng triết lý cao siêu của Phật giáo, như “Cư trần lạc đạo phú".
Đây không phải ngẫu nhiên mà là một tất yếu trong tính thống nhất
giữa tư tưởng và hành động của Trần Nhân Tông trong sự nghiệp bảo
vệ độc lập dân tộc. Từ kinh nghiệm giữ nước trong những thời kỳ
trước đó; đồng thời là người lãnh đạo tối cao dân tộc trong một giai
đoạn lịch sử đầy cam go và ác liệt trước một đội quân hung bạo như
quân đội Mông - Nguyên, Trần Nhân Tông ý thức sâu sắc rằng việc

bảo vệ độc lập dân tộc không tách rời với việc xây dựng và phát huy
chiều sâu của nền văn hóa dân tộc. Rõ ràng, việc sử dụng chữ Nôm
trong sáng tác “đối với Trần Nhân Tông không chỉ dừng lại ở chỗ


21

‘nghệ thuật vị nghệ thuật’ mà còn là và chính là ‘nghệ thuật vị nhân
sinh’, tức là phải đáp ứng được yêu cầu phát huy tính độc lập dân tộc
ngay cả trong văn tự”1.
Ba là, Trần Nhân Tông đã sáng lập ra phái Thiền Trúc Lâm Yên Tử.
Đây được xem như là mặt nổi bật nhất trong sự nghiệp văn hóa của
Trần Nhân Tông. Đầu thế kỷ XII, ba Thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi, Vô
Ngôn Thông và Thảo Đường dần dần thống nhất, trên cơ sở đó hình
thành phái Thiền Trúc Lâm. Đây là thiền phái đầu tiên do một người
Việt Nam sáng lập. Thiền phái Trúc Lâm đề cao sự tự ngộ, sự nỗ lực
rèn luyện của hết thảy mọi người. Dù xuất gia hay tại gia, sống trong
chùa hay ở ngoài đời, miễn là biết tu tập, cải tạo tâm từ ác chuyển
thành thiện, từ xao động chuyển thành bình lặng, định tĩnh, biết phá
trừ vô minh, tham dục thì đều đi đến con đường giác ngộ
Điều quan trọng nhất là Thiền phái Trúc Lâm đã thể hiện tinh thần
nhập thế hết sức mãnh liệt. Bản thân Trần Nhân Tông, khi xuất gia
vẫn quan tâm đến vận mệnh đất nước. Trần Nhân Tông đã chọn Yên
Tử làm trung tâm của Giáo hội Trúc Lâm. Tại đây, trên đỉnh núi Yên
Tử, cùng với việc tu chứng, Trần Nhân Tông có thể quan sát được sự
động tĩnh của các cánh quân xâm lược từ phương Bắc xuống. Mặt
khác, Trần Nhân Tông đi khắp các chốn thôn dã, khuyên dân bỏ
những hủ tục, mê tín và thực hành giáo lý Thập thiện. Ngay cả đến
thời điểm trước lúc viên tịch, Trần Nhân Tông vẫn căn dặn các đệ tử
rằng: “Các người hãy xuống núi lo tu hành, đừng coi sinh tử là việc

nhàn”.
Cuối cùng là Trần Nhân Tông với sự nghiệp mở nước:
Nói đến mở nước là nói đến “Công cuộc Nam tiến” của dân tộc ta. Khi
nghiên cứu “Công cuộc Nam tiến” của dân tộc ta, Trần Nhân Tông
phải được đặt ở vị trí cao nhất. Về sự nghiệp mở nước về phía Nam
mà chính Trần Nhân Tông, “người vừa thiết kế, vừa thi công” như đã
trình bày có hai vấn đề sau đây đã đến lúc cần phải được khẳng
định:
1 Nguyễn Hồng Dũng. Văn học đời Trần và thơ văn Trần Nhân Tông. Kỷ yếu

Hội thảo Khoa học quốc gia “Thân thế và sự nghiệp Trần Nhân Tông (1258 1308)”, Trường Đại học Khoa học, Đại học Huế, tháng 12-2003, tr.114.


22

Một là, sau khi xuất gia tu Phật, Trần Nhân Tông không chỉ tập trung
lo việc đạo mà còn lo cho việc đời. Một số tác giả cho rằng: "Nhưng
thắng giặc không lâu, Nhân Tông nhường ngôi cho Anh Tông để đi
tìm một cuộc sống tĩnh tại trong cảnh tu hành, trở thành ông tổ thứ
nhất của phái Trúc Lâm và gửi hơi thở cuối cùng ở am Ngọa Vân trên
núi Yên Tử tĩnh mịch lúc mới 51 tuổi”, và “Ông muốn dứt bỏ những
bận rộn thường tình của xã hội để tìm lẽ huyền vi chi phối cuộc sống
con người”1. Chắc chắn rằng cách nhìn này không còn có sức thuyết
phục khi chúng ta nhìn vào sự nghiệp mở nước của Trần Nhân Tông
với việc hai châu Ô, Lý sáp nhập vào Đại Việt là lúc Trần Nhân Tông
đã khoác trên mình áo cà sa.
Hai là, vấn đề Trần Nhân Tông mở rộng lãnh thổ. “Việc mở nước vượt
qua đèo Hải Vân, một dãy núi cao và hiểm trở nhất, chắn ngang con
đường thiên lý Bắc - Nam mà không bằng con đường đao binh; và
chắc chắn nếu lịch sử không chọn cuộc hôn nhân Chế Mân - Huyền

Trân mà bằng con đường khác thì xương máu đồng loại cũng phải
chất thành sông núi”2. Mặt khác, vượt qua đèo Hải Vân đem lại cho
Đại Việt hai cửa biển: Tư Hiền và Đà Nẵng vừa sâu, vừa thuận lợi cho
thủy quân; kết hợp với núi cao hiểm trở không chỉ góp phần bảo vệ
biên cương phía Nam mà hơn thế nữa nó đã mở ra bước phát triển
mới về phía Nam của Đại Việt. Với ý nghĩa như vậy, nên khi đề cập
đến sự nghiệp mở nước của dân tộc ta, không thể nào phủ định cống
hiến to lớn của Trần Nhân Tông.

Làm vua chỉ chăn dân trăm họ. Làm Phật cứu độ cả muôn loài.
Sau khi xuất gia, Trần Nhân Tông lên núi Yên Tử hoàn thiện hệ thống
tư tưởng thiền phái Trúc Lâm, trở thành nền tảng tư tưởng và đạo
đức của một thời đại hoàng kim triều Trần, giai đoạn Phật giáo được
coi là quốc đạo: “Thế tôn bỏ ngai vàng quý báu, nửa đêm vượt
thành, bỏ áo rồng cao sang, non xanh cắt tóc, mặc chim thước làm
tổ trên đỉnh đầu, mặc con nhện chăng tơ trên vai cánh, tu pháp tịch
diệt để tỏ đại chân như, dứt cõi trần duyên mà thành bậc chính giác.
Trần Lê Sáng. Tìm hiểu văn phú thời kỳ Trần - Hồ trong Tuyển tập 40 năm
tạp chí Văn học, 1960 - 1999, Tập 2, Nxb. TP.HCM, 1999, tr.232.
1
2

Lê Cung, Tạp chí đã dẫn, tr.26.


23

Đức tổ ta là Điều Ngự Nhân Tông Hoàng đế ra khỏi cõi trần, thoát
vòng tục lụy, bỏ chốn cung vua ra giữa sơn môn…”
Ông đi tu không phải là để trốn đời, yếm thế mà dành phần đời còn

lại để tu tập học đạo, cứu đời và phát triển Thiền phái Trúc Lâm Yên
Tử. Có điều, nhà vua cứu đời không phải theo kiểu của một ông vua,
mà là theo kiểu của thánh nhân. Làm vua chỉ chăn dân trăm họ. Làm
Phật cứu độ cả muôn loài.
Trên đỉnh Yên Sơn cách biệt với kinh kỳ, vua Phật Nhân Tông vẫn rõ
được triều chính, nhiều lần về triều khuyên bảo vua Anh Tông tu
dưỡng tâm tính, kìm bớt lòng dục, xa rời tửu sắc, gìn giữ chân tâm…
xứng đáng trở thành bậc quân vương tôn kính.
Trong kho tàng thi ca cổ điển Việt Nam, Trần Nhân Tông là nhân vật
lịch sử rất đặc biệt: Ngài không chỉ là một bậc minh quân lỗi lạc hiếm
có, mà còn là một vị thiền sư đã liễu ngộ Phật pháp, đồng thời, cũng
là một nhà thơ lớn của dân tộc.
Tác phẩm thơ của Trần Nhân Tông, trải qua nhiều thời kỳ loạn lạc
chiến tranh đã bị thất tán khá nhiều. Đến nay, di sản thơ của Trần
Nhân Tông đã được sưu tập và lưu giữ chỉ còn khoảng trên dưới 35
bài và một số câu thơ lẻ nằm rải rác ở các bài giảng, ngữ lục, phú...
Tuy số lượng thơ còn lại khá khiêm tốn, nhưng giá trị về nội dung tư
tưởng, nghệ thuật trong thơ Trần Nhân Tông được người đương thời,
cũng như các thế hệ đời sau rất tâm đắc, ca ngợi và ngưỡng mộ.
Bởi vậy, tấm gương vua Phật tuy ẩn mà lại hiện, tuy mờ mà lại sáng.
Ngài bứt khỏi cái bình thường để vượt lên thành cái phi thường. Bởi
thế, hàng ngàn năm qua, bao triều đại thịnh suy trị vì đất nước này,
bao người đã làm vua, song có ai được nhân gian ngưỡng vọng, tôn
thờ như vua Phật Trần Nhân Tông.

Tiểu kết chương 2
Tư tưởng triết học Trần Nhân Tông ra đời không phải ngẫu nhiên mà
nó chịu sự quy định và phản ánh sâu sắc điều kiện lịch sử, xã hội Việt
Nam thời kì nhà Trần. Sự phân hóa giai cấp ngày một gay gắt trong
xã hội và nhiệm vụ lịch sử lớn lao chống lại cuộc xâm lăng của giặc

Nguyên Mông chính là cơ sở xã hội và nhu cầu thực tiễn hình thành
nên tư tưởng triết học của Trần Nhân Tông. Sự kế thừa, chắt lọc


24

những yếu tố tư tưởng triết lí chính trị, đạo đức nhân sinh của Nho
giáo, Đạo giáo, Phật giáo cũng như tiếp thu những tư tưởng, trường
phái trước đó đã hình thành một hệ thống triết học với những nét
độc đáo, đặc sắc riêng, mang đậm dấu ấn Việt Nam mang tên Trúc
Lâm Yên Tử. Qua đó, tưởng niệm Phật hoàng Trần Nhân Tông - ông
vua đã khước từ phú quý, vinh hoa, tước vị cao sang, giã biệt chốn
phồn hoa, lên non xanh Yên Tử tu hành, trút bỏ một cuộc sống của
người thường để trở thành một nhà thơ nhập thế, một đức Đại Hùng
Đại Lực, Đại Bi, Đại Trí và Đại Dũng. Cuộc đời và sự nghiệp của vua
Trần Nhân Tông là một biểu hiện cao đẹp, tiêu biểu nhất tinh thần
nhập thế “đạo pháp gắn liền với dân tộc”. Từ chức vị cao sang của
nhà vua, vua Trần trở về ngôi tôn quý nhà Phật. Nhà vua đã từ cái
nhất thời hữu hạn mà trở về cái vô hạn, vĩnh hằng, , xứng danh là
Đức Phật của dân tộc Việt Nam.

CHƯƠNG 3
ẢNH HƯỞNG CỦA PHẬT GIÁO TRONG THƠ TRẦN NHÂN
TÔNG

2.1 Thế giới quan trong thơ Trần Nhân Tông

Kế thừa tư tưởng của thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi, Vô Ngôn Thông
quan điểm và Trần Thái Tông, Tuệ Trung Thượng Sĩ; Trần Nhân Tông
đã đưa ra hệ thống những khái niệm, phạm trù để chỉ bản thể của

vạn pháp. Với Trần Nhân Tông, “bản” là bản thể, là cái để chỉ bản
nguyên của vũ trụ, nói cách khác đó còn là “ tâm”, “ là tinh yếu của
thiền”.
Trong “Phật tâm ca”, Tuệ Trung Thượng Sĩ đã từng viết:
“Phật Phật Phật bất khả kiến,
Tâm tâm tâm bất khả thuyết.
Nhược Tâm sinh thì thị Phật sinh,
Nhược Phật diệt thì thị Tâm diệt.
Diệt Tâm tồn Phật thị xứ vô,


25

Diệt Phật tồn Tâm hà thì yết.”
Dịch nghĩa:
“Phật, Phật, Phật không thể thấy được,
Tâm, tâm, tâm không thể nói được.
Khi Tâm sinh thì Phật sinh,
Khi Phật diệt thì Tâm diệt.
Không có chỗ nào diệt Tâm mà còn Phật,
Diệt Phật mà còn Tâm thì bao giờ cho hết.”1
Tuệ Trung khẳng định Phật không phải bậc Sáng tạo, Thượng đế, hay
Thiên thần gì cả; Phật là con người cụ thể, có thể luôn hóa hiện ngay
giữa cõi đời trần tục: “Nhược tâm sinh thì thị Phật sinh”(Khi tâm sinh
thì Phật sinh), và Phật thị hiện giữa đời chẳng khác nào hoa sen
thơm ngát vươn lên trong bùn lầy “Liên nhị hồng hương bất trước nê”
(Nhị sen đỏ thơm chẳng nhuốm bùn) như trong bài "Thị chúng" mà
ông đã cụ thể hóa bằng hình ảnh hoa sen. Tiếp thu quan điểm của
người thầy của mình, Trần Thái Tông cho rằng : Bụt là chính ta,
không ở dâu xa. Bụt ở đây là cái tâm giác ngộ, cái tâm “ trong sạch”,

“ báu vật”. Điều này đã được thể hiện sâu sắc qua bài “ Cư trần lạc
đạo phú” :
“ Vậy mới hay !
Bụt ở trong nhà;
Chẳng phải tìm xa
Nhân khuây bản nên ta tìm bụt
Đến cốc hay chỉn bụt là ta”2
Bản thể hay thế giới quan theo quan niệm thường đó là những thứ
tồn tại xung quanh con người, là mối quan hệ giữa con người với vũ
vien. /Tuệ-Trung-thượng-sĩ/Phật-tâm-ca/poemcC9BgQ8wCRkxD4aCpfpwXw
1

/>2


×