Tải bản đầy đủ (.doc) (113 trang)

Hoàn thiện kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại các doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài trên địa bàn thành phố hà nội sản xuất

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (458.52 KB, 113 trang )

1

LỜI MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Quá trình đổi mới cơ chế quản lý kinh tế từ kế hoạch hoá tập trung sang
cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của nhà nước bằng
pháp luật trong những năm qua đã tạo ra môi trường cạnh tranh bình đẳng giữa
các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế. Doanh nghiệp nào nắm bắt
được thời cơ, vượt qua thách thức thì doanh nghiệp đó sẽ tồn tại và phát triển,
để có thể thực hiện được những điều đó, một yêu cầu đặt ra là phải có hệ thống
thông tin kịp thời, chính xác và có hiệu quả.
Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài là một thành phần quan trọng
trong nền kinh tế quốc dân với vốn đầu tư lớn, công nghệ và trình độ quản lý
tiên tiến, nó không những đóng góp đáng kể vào xuất khẩu và tăng trưởng kinh
tế mà còn giải quyết vấn đề lao động một cách có hiệu quả. Trong xu hướng hội
nhập kinh tế quốc tế và cạnh tranh khốc liệt trên thị trường Việt Nam hiện nay,
các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài bên cạnh khả năng có nhiều cơ hội
để đầu tư, mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh thì cũng gặp không ít những
khó khăn, thách thức bên ngoài cũng như bên trong doanh nghiệp. Đó là giải bài
toán chiếm lĩnh thị trường trong và ngoài nước, đó là không ngừng hoàn thiện
công tác quản lý chi phí, tăng cường công tác quản trị doanh nghiệp.
Quản lý chặt chẽ, sử dụng tiết kiệm chí phí sản xuất, góp phần hạ giá
thành sản phẩm là những biện pháp cơ bản giúp doanh nghiệp nâng cao lợi
nhuận, là điều kiện cần và đủ để doanh nghiệp tồn tại và phát triển. Kế toán là
một bộ phận cấu thành quan trọng của hệ thống công cụ quản lý kinh tế tài
chính, có vai trò tích cực trong việc quản lý điều hành và kiểm soát các hoạt
động kinh tế. Với tư cách là công cụ quản lý kinh tế, tài chính-kế toán là một


2



lĩnh vực gắn liền với hoạt động kinh tế, tài chính đảm nhiệm hệ thống tổ chức
thông tin có ích cho các quyết định kinh tế, đặc biệt là thông tin về chi phí và
giá thành sản phẩm.
Tuy nhiên, xuất phát từ thực tế hạch toán tại các doanh nghiệp có vốn đầu
tư nước ngoài trên địa bàn thành phố Hà Nội cho thấy hạch toán chi phí sản xuất
và tính giá thành sản phẩm chưa đi sâu đi sát vào tình hình sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp. Với lý do đó mà tác giả đã chọn đề tài cho luận văn tốt
nghiệp là: “Hoàn thiện kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại
các doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài trên địa bàn thành phố Hà Nội
sản xuất linh kiện ô tô, xe máy”.
2. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Trình bày một cách có hệ thống và làm sáng tỏ những vấn đề lý luận cơ
bản áp dụng trong kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại các
doanh nghiệp sản xuất công nghiệp.
Nghiên cứu thực trạng kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản
phẩm tại các doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài trên địa bàn thành phố
Hà Nội sản xuất linh kiện ô tô, xe máy.
Dựa trên cơ sở lý luận và thực tế khảo sát tại các doanh nghiệp để đề xuất
những kiến nghị nhằm hoàn thiện kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản
phẩm tại các doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài trên địa bàn thành phố
Hà Nội sản xuất linh kiện ô tô, xe máy.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
3.1 Đối tượng nghiên cứu của đề tài
Xuất phát từ mục đích nghiên cứu của đề tài, đối tượng nghiên cứu của
luận văn là kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành của ngành sản xuất công
nghiệp, trong đó đi sâu nghiên cứu quy trình tập hợp chi phí sản xuất, phương
pháp phân bổ chi phí sản xuất, tính giá thành sản phẩm từ đó hoàn thiện công



3

tác kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm trong các doanh nghiệp
100% vốn đầu tư nước ngoài trên địa bàn thành phố Hà Nội sản xuất linh kiện ô
tô, xe máy.
3.2 Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Phạm vi nghiên cứu của luận văn tập trung vào nghiên cứu thực trạng kế
toán chi phí sản xuất, tính giá thành sản phẩm các loại linh kiện, chi tiết nhựa,
cao su trong các doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài trên địa bàn thành
phố Hà Nội sản xuất linh kiện ô tô, xe máy.
Nguồn tài liệu được sử dụng là các thông tin và số liệu thực tế tại các
doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài trên địa bàn thành phố Hà Nội sản
xuất linh kiện ô tô, xe máy trong những năm gần đây, nguồn tài liệu này được
làm luận cứ để hoàn thiện kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm.
4. Phương pháp nghiên cứu của đề tài
Trên cơ sở phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử cùng với
các nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lê Nin, luận văn nghiên cứu, phân
tích các vấn đề lý luận và thực tiễn một cách khoa học và lôgíc.
Phần trình bày trong luận văn được kết hợp giữa diễn giải với quy nạp,
giữa lời văn và bảng biểu, sơ đồ minh hoạ.
5. Những đóng góp của luận văn
Hệ thống hoá những vấn đề lý luận chung về kế toán chi phí sản xuất và
tính giá thành sản phẩm trong các doanh nghiệp sản xuất công nghiệp.
Trình bày và đánh giá thực trạng kế toán chi phí sản xuất và tính giá
thành linh kiện ô tô, xe máy trong các doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước
ngoài trên địa bàn thành phố Hà Nội từ đó nêu rõ những kết quả và tồn tại cần
tiếp tục hoàn thiện.


4


Đề xuất các biện pháp nhằm hoàn thiện công tác kế toán chi phí sản xuất
và tính giá thành linh kiện ô tô, xe máy .
6. Tên và kết cấu của luận văn
- Tên luận văn: Hoàn thiện kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành
sản phẩm tại các doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài trên địa bàn
thành phố Hà Nội sản xuất linh kiện ô tô, xe máy.
- Kết cấu của luận văn gồm 3 chương:
Chương I: Cơ sở lý luận về kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm
trong các doanh nghiệp sản xuất công nghiệp.
Chương II: Thực trạng kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại
các doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài trên địa bàn thành phố Hà Nội
sản xuất linh kiện ô tô, xe máy.
Chương III: Hoàn thiện kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại
các doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài trên địa bàn thành phố Hà Nội
sản xuất linh kiện ô tô, xe máy.


5

CHƯƠNG I
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ KẾ TOÁN CHI PHÍ SẢN XUẤT VÀ TÍNH
GIÁ THÀNH SẢN PHẨM TRONG CÁC DOANH NGHIỆP SẢN
XUẤT CÔNG NGHIỆP
1.1 Chi phí sản xuất, giá thành sản phẩm trong các doanh nghiệp sản
xuất công nghiệp
1.1.1 Chi phí sản xuất
1.1.1.1 Bản chất của chi phí
Doanh nghiệp sản xuất là những doanh nghiệp trực tiếp sản xuất ra của
cải vật chất để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của xã hội. Để tiến hành hoạt động

sản xuất, các doanh nghiệp sản xuất thường xuyên phải bỏ ra các khoản chi phí
về các loại đối tượng lao động, tư liệu lao động và lao động của con người, các
chi phí dịch vụ mua ngoài và các chi phí bằng tiền khác. Để có thể biết được số
chi phí mà doanh nghiệp đã chi ra trong từng kỳ hoạt động là bao nhiêu, nhằm
tổng hợp tính toán các chỉ tiêu kinh tế tổng hợp phục vụ yêu cầu quản lý, mọi
chi phí chi ra cuối cùng đều được biểu hiện bằng thước đo tiền tệ và được gọi là
chi phí sản xuất.
Như vậy: Chi phí sản xuất là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ chi phí về
lao động sống và lao động vật hoá mà doanh nghiệp đã bỏ ra có liên quan đến
hoạt động sản xuất kinh doanh trong một thời kỳ nhất định ( tháng, quý, năm...)
Ở góc độ doanh nghiệp, để tạo ra sản phẩm thì doanh nghiệp phải bỏ ra
hai bộ phận chi phí là: lao động vật hoá và lao động sống. Đó là chi phí sản xuất


6

mà doanh nghiệp phải bỏ ra để chế tạo sản phẩm. Về mặt lượng chi phí sản xuất
phải phụ thuộc vào hai nhân tố:
- Khối lượng lao động và tư liệu sản xuất tham gia vào quá trình sản xuất
trong một thời kỳ nhất định.
- Giá cả các tư liệu sản xuất đã tiêu hao trong quá trình sản xuất và tiền
lương đơn vị...
Điều này cho thấy, trong điều kiện giá cả thường xuyên biến động thì việc
đánh giá chính xác các chi phí sản xuất không những là yếu tố khách quan mà
còn là một vấn đề trọng yếu nhằm xác định đúng đắn chi phí sản xuất, phù hợp
với giá cả thị trường tạo điều kiện cho doanh nghiệp bảo toàn và phát triển vốn
theo yêu cầu của chế độ quản lý kinh tế mới hiện nay.
Khi đề cập đến chi phí sản xuất cần phân biệt rõ chi phí sản xuất và chi
phí của doanh nghiệp. Chi phí của doanh nghiệp là toàn bộ chi phí mà doanh
nghiệp đã bỏ ra trong một thời kỳ nhất định bao gồm cho nhiều mục đích khác

nhau trong đó có mục đích là cho sản xuất. Chi phí sản xuất có phạm vi hẹp hơn
chi phí của doanh nghiệp và nằm trong chi phí của doanh nghiệp. Ở doanh
nghiệp cũng cần phân biệt giữa chi phí và chi tiêu. Đây là hai khái niệm không
hoàn toàn giống nhau, có trường hợp chi phí không phải là chi tiêu và có trường
hợp chi tiêu không phải là chi phí.
Chi phí sản xuất là những chi phí mà doanh nghiệp bỏ ra để tiến hành
hoạt động sản xuất trong kỳ, còn chi tiêu chỉ là sự giảm đi đơn thuần của các
loại tài sản, vật tư, tiền vốn trong kỳ của doanh nghiệp không kể nó được dùng
vào việc gì. Như vậy, chi tiêu và chi phí có sự khác biệt nhau về lượng và thời
gian. Chi phí có phạm vi hẹp hơn chi tiêu, chi tiêu cũng có thể là chi phí (mua
NVL đưa ngay vào sản xuất) nhưng chi tiêu không phải là chi phí (mua NVL
nhập kho không sử dụng đến). Mặt khác, cũng có những khoản chi tiêu chưa
xảy ra hoặc đã xảy ra ở kỳ trước được đưa vào chi phí kỳ này.


7

Việc phân biệt chi phí và chi tiêu có ý nghĩa rất quan trọng trong việc tìm
hiểu bản chất cũng như nội dung, phạm vi và phương pháp hạch toán chi phí
sản xuất. Việc làm rõ chi phí sản xuất trong doanh nghiệp giúp chúng ta tính
đúng, tính đủ chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm. Từ đó thì chỉ tiêu giá
thành mới có tác dụng trong công tác quản lý, kiểm tra và giám sát quá trình sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
- Dưới góc độ kế toán tài chính
Kế toán tài chính đặt trọng tâm vào việc ghi chép tổng hợp các nghiệp vụ
kinh tế phát sinh để phục vụ cho quá trình soạn thảo các báo cáo tài chính theo
qui định chung, đồng thời phản ánh sự hình thành và vận động của tài sản trong
một đơn vị cụ thể, cung cấp cho quản lý doanh nghiệp và những người bên
ngoài có nhu cầu sử dụng các báo cáo đó. Do đó, dưới góc độ kế toán tài chính
thì chi phí được nhận thức như những khoản phí tổn thực tế phát sinh gắn liền

với hoạt động của doanh nghiệp. Nó được định lượng bằng một lượng tiền chi
ra, một mức giảm sút giá trị tài sản, một khoản nợ dịch vụ, thuế. Như vậy, trong
lĩnh vực kế toán tài chính chi phí được đặt trong mối quan hệ với tài sản, vốn sở
hữu của doanh nghiệp và thường phải đảm bảo bởi những chứng cứ nhất định
(chứng từ) chứng minh là phí tổn thực tế trong hoạt động sản xuất kinh doanh.
- Dưới góc độ kế toán quản trị
Kế toán quản trị đặt trọng tâm giải quyết các vấn đề quản trị ở doanh
nghiệp. Do vậy, kế toán quản trị thiết kế thông tin kế toán nhằm cung cấp cho
các nhà quản trị dùng vào việc điều hành, hoạch định và ra các quyết định kinh
doanh. Vì vậy, kế toán quản trị không chỉ đơn thuần nhận thức theo phương
pháp nhận diện thông tin ra quyết định. Chi phí có thể là những phí tổn thực tế
phát sinh trong một hợp đồng sản xuất kinh doanh, những phí tổn mất đi do
chọn lựa phương án, hy sinh cơ hội kinh doanh. Như vậy, trong kế toán quản trị


8

khi xem xét chi phí cần chú ý đến sự lựa chọn so sánh theo mục đích sử dụng, ra
quyết định kinh doanh hơn là trú trọng vào chứng cứ.

1.1.1.2 Phân loại chi phí
a. Phân theo lĩnh vực hoạt động
Căn cứ vào việc tham gia của chi phí vào hoạt động kinh doanh, toàn bộ chi phí
được chia làm ba loại :
+ Chi phí sản xuất kinh doanh: Bao gồm những chi phí liên quan đến hoạt
động sản xuất, tiêu thụ và quản lý hành chính.
+ Chi phí hoạt động tài chính: Gồm những chi phí liên quan đến hoạt
động về vốn và đầu tư tài chính.
+ Chi phí khác: Gồm những khoản chi phí ngoài dự kiến có thể do chủ
quan hoặc khách quan mang lại.

Cách phân loại này giúp cho việc phân định chi phí được chính xác, phục vụ
cho việc tính giá thành, xác định chi phí và kết quả của từng loại hoạt động kinh
doanh đúng đắn cũng như lập báo cáo tài chính nhanh chóng kịp thời.
b. Phân theo yếu tố chi phí
Đây là cách phân loại dựa vào nội dung kinh tế của chi phí. Theo cách này toàn
bộ chi phí sản xuất được chia thành các yếu tố sau:
+ Chi phí về nguyên vật liệu: Bao gồm toàn bộ giá trị nguyên vật liệu
chính, nguyên vật liệu phụ, phụ tùng thay thế, công cụ, dụng cụ… sử dụng vào
sản xuất kinh doanh (loại trừ giá trị dùng không hết nhập lại kho và phế liệu thu
hồi).
+ Chi phí về nhiên liệu, động lực: Loại trừ giá trị không sử dụng hết nhập
lại kho và phế liệu thu hồi.
+ Tiền lương và các khoản phụ cấp lương: Phản ánh tổng số tiền lương và
phụ cấp mang tính chất lương phải trả cho công nhân viên chức.


9

+ Bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế và kinh phí công đoàn: Tính theo tỷ lệ quy
định trên tổng số lương và phụ cấp lương phải trả cho công nhân viên chức.
+ Chi phí khấu hao tài sản cố định: Phản ánh tổng số khấu hao tài sản cố
định phải trích trong kỳ của tất cả các tài sản sử dụng trong sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp.
+ Chi phí dịch vụ mua ngoài: Phản ánh toàn bộ chi phí dịch vụ mua ngoài
dùng vào sản xuất kinh doanh.
+ Chi phí khác bằng tiền: Phản ánh toàn bộ chi phí khác bằng tiền chưa
phản ánh vào các yếu tố trên, dùng vào hoạt động sản xuất kinh doanh trong kỳ.
Phân loại theo cách này cho biết tỷ trọng từng loại chi phí, từ đó làm cơ
sở để tập hợp chi phí sản xuất theo yếu tố chi phí. Cách phân loại này giúp xây
dựng và phân tích định mức vốn lưu động cũng như việc lập, kiểm tra và phân

tích dự toán chi phí.
c. Phân theo khoản mục chi phí trong giá thành
Đây là cơ sở để kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm theo
khoản mục, là cơ sở để phân tích tình hình thực hiện kế hoạch giá thành sản
phẩm, dịch vụ và định mức chi phí sản xuất cho kỳ sau. Theo cách này thì chi
phí sản xuất được phân thành 3 khoản mục sau:
+ Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp: Bao gồm toàn bộ giá trị nguyên vật
liệu liên quan trực tiếp đến việc sản xuất, chế tạo sản phẩm hay thực hiện lao
vụ, dịch vụ.
+ Chi phí nhân công trực tiếp: Bao gồm toàn bộ tiền lương, các khoản
phụ cấp mang tính chất lương trả cho công nhân trực tiếp sản xuất, chế tạo sản
phẩm hay thực hiện các lao vụ, dịch vụ cùng với các khoản trích theo tỉ lệ quy
định trên lương cho các quỹ bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội, kinh phí công đoàn
(phần tính vào chi phí).


10

+ Chi phí sản xuất chung: Toàn bộ chi phí còn lại phát sinh trong phạm vi
phân xưởng, bộ phận sản xuất sau khi đã loại trừ chi phí nguyên vật liệu và chi
phí nhân công trực tiếp trên.
d. Phân theo cách thức kết chuyển chi phí
Toàn bộ chi phí sản xuất kinh doanh được chia thành chi phí sản phẩm và chi
phí thời kỳ. Chi phí sản phẩm là những chi phí gắn liền với các sản phẩm được
sản xuất ra hoặc được mua còn chi phí thời kỳ là những chi phí làm giảm lợi tức
trong một kỳ nào đó, nó không phải là một phần giá trị sản phẩm được sản xuất
hoặc được mua nên được xem là các phí tổn, cần được khấu trừ ra từ lợi tức của
thời kỳ mà chúng phát sinh.
e. Phân theo quan hệ của chi phí với khối lượng công việc sản phẩm hoàn thành
Để thuận tiện cho việc lập kế hoạch và kiểm tra chi phí, đồng thời làm căn cứ để

đề ra các quyết định kinh doanh, toàn bộ chi phí sản xuất kinh doanh được phân
theo quan hệ với khối lượng công việc hoàn thành. Theo cách này chi phí được
phân thành biến phí và định phí.
+ Biến phí: Là những chi phí thay đổi về tổng số, về tỷ lệ so với khối
lượng công việc hoàn thành, chẳng hạn chi phí về nguyên vật liệu, nhân công
trực tiếp.
+ Định phí: Là những chi phí không đổi về tổng số, về tỷ lệ so với khối
lượng công việc hoàn thành, chẳng hạn các chi phí về khấu hao TSCĐ, chi phí
thuê mặt bằng, phương tiện kinh doanh.
f. Phân loại chi phí sản xuất theo phương pháp qui nạp: Theo tiêu thức này chi
phí tồn tại dưới hai hình thức.
+ Chi phí trực tiếp: Là những chi phí phát sinh liên quan trực tiếp đến
từng đối tượng chịu chi phí như CPNVLTT, CPNCTT… Loại chi phí này
thường chiếm một tỷ lệ rất lớn trong tổng chi phí.


11

+ Chi phí gián tiếp: là những chi phí phát sinh liên quan đến nhiều đối
tượng chịu chi phí khác nhau như chi phí nguyên vật liệu phụ, chi phí nhân
công phục vụ sản xuất, chi phí quảng cáo…Để xác định chi phí cho từng đối
tượng cần phải dùng phương pháp phân bổ gián tiếp theo tiêu thức phân bổ
thích hợp.
Cách phân loại này có ý nghĩa đối với việc xác định phương pháp tập hợp và
phân bổ các nguồn lực đã tiêu dùng cho các đối tượng chịu chi phí, song chỉ
thuần tuý là kỹ thuật hạch toán. Đối với chi phí liên quan đến nhiều đối tượng
cần tiến hành phân bổ để đạt được mục tiêu xác định giá thành của một loại sản
phẩm nhất định, nhưng khó có thể đạt được mục tiêu kiểm soát chi phí.
g. Phân loại chi phí theo cách ứng xử của chi phí
+ Chi phí biến đổi (biến phí) là những khoản mục chi phí thay đổi tỷ lệ

với mức độ hoạt động của đơn vị. Mức độ hoạt động có thể là số lượng sản
phẩm sản xuất ra, số lượng sản phẩm tiêu thụ.
Tuy nhiên biến phí không phải thuần nhất một hình thức tồn tại mà còn tồn tại
dưới nhiều hình thức khác nhau:
Biến phí tuyệt đối : Là một loại biến phí mà sự biến động của chúng thực
sự thay đổi tỷ lệ thuận với mức độ hoạt động. Với cách ứng xử này, để thực sự
kiểm soát biến phí trên một mức độ hoạt động (định mức biến phí) thì việc
hoạch định việc xây dựng và hoàn thiện định mức biến phí tuyệt đối sẽ là tiền
đề tiết kiệm, kiểm soát biến phí và giá thành sản phẩm một cách chặt chẽ hơn.
Biến phí cấp bậc: Là loại biến phí mà sự thay đổi của chúng chỉ xảy ra
khi mức độ hoạt động đạt tới một cấp độ nhất định. Những chi phí này cũng
thay đổi tỷ lệ thuận với mức độ hoạt động của doanh nghiệp. Nhưng chúng chỉ
thay đổi khi qui mô sản xuất, mức độ hoạt động của máy móc thiết bị đạt đến
một phạm vi nhất định.


12

+ Chi phí cố định (định phí): Là những khoản mục chi phí ít thay đổi
hoặc không thay đổi theo mức độ hoạt động của đơn vị. Nếu xét trên tổng chi
phí thì định phí không thay đổi, ngược lại, nếu quan sát chúng trên một đơn vị
mức độ hoạt động, định phí tỷ lệ nghịch với mức độ hoạt động. Như vậy dù
doanh nghiệp có hoạt động hay không thì định phí vẫn tồn tại. Có hai loại định
phí :
Định phí bắt buộc: Là những định phí có tính chất cơ cấu, liên quan đến
cấu trúc tổ chức của một doanh nghiệp mà rất khó thay đổi. Nếu muốn thay đổi
loại định phí này phải cần một khoảng thời gian tương đối dài. Định phí bắt
buộc có hai đặc điểm cơ bản là chúng tồn tại lâu dài trong hoạt động sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp và không thể cắt giảm đến bằng không trong một
thời gian ngắn.

Do những đặc điểm trên, việc dự báo và kiểm soát định phí bắt buộc phải bắt
đầu từ lúc xây dựng, triển khai dự án, xây dựng cơ cấu tổ chức quản lý doanh
nghiệp.
Định phí không bắt buộc: Là các định phí có thể được thay đổi nhanh
chóng bằng các quyết định của các nhà quản trị doanh nghiệp.
+ Chi phí hỗn hợp: Là những khoản mục chi phí bao gồm các yếu tố biến
phí và định phí pha trộn lẫn nhau. Ở một mức độ hoạt động nào đó, chi phí hỗn
hợp thể hiện đặc điểm của định phí. Để lập kế hoạch, kiểm soát và chủ động
điều tiết chi phí, các nhà quản trị doanh nghiệp cần phải phân tích chi phí hỗn
hợp thành định phí và biến phí. Các phương pháp phân tích chi phí thường được
áp dụng là phương pháp cực đại cực tiểu và phương pháp bình phương bé nhất.
Đây là cách phân loại đặc biệt chú ý trong việc phục vụ cho các nhà quản trị
doanh nghiệp hoạch định, kiểm tra và ra quyết định. Cách phân loại này quan
tâm đến cách ứng xử chi phí dựa vào đó để nghiên cứu mối quan hệ chi phí khối lượng - lợi nhuận, điều này có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc khai


13

thác khả năng tiềm tàng của doanh nghiệp, là cơ sở cho việc ra quyết định ngắn
hạn nhằm tối đa hoá lợi nhuận. Việc phân biệt định phí, biến phí giúp cho nhà
quản trị doanh nghiệp xác định đúng đắn phương hướng để nâng cao hiệu quả
của chi phí và biến phí đơn vị.
h. Phân loại chi phí nhằm mục đích ra quyết định
+ Chi phí cơ hội là chi phí lớn nhất mà doanh nghiệp phải từ bỏ khi chọn
phương án hành động này thay vì phương án hành động khác. Ngoài các chi phí
sản xuất đã tập hợp được, phản ánh trên hệ thống sổ kế toán thì trước khi chọn
phương án nhà quản trị còn phải xem xét cơ hội do những yếu tố kinh doanh đó
có thể sử dụng theo cách khác nhưng vẫn mang lại lợi nhuận cho họ.
+ Chi phí chênh lệch là những chi phí có ở phương án này nhưng không
có hoặc chỉ có một phần của phương án khác. Chi phí chênh lệch là một căn cứ

quan trọng để lựa chọn phương án đầu tư hoặc phương án sản xuất kinh doanh.
+ Chi phí chìm là loại chi phí mà doanh nghiệp phải gánh chịu bất kể đã
lựa chọn phương án hay hành động nào. Do đó chi phí chìm có ở mọi phương
án nên không có tính chênh lệch và không phải xét đến khi so sánh lựa chọn
phương án.
1.1.2 Giá thành sản phẩm và các loại giá thành sản phẩm
1.1.2.1 Giá thành sản phẩm
Trong quá trình sản xuất kinh doanh thì chi phí sản xuất chỉ là một mặt
thể hiện sự hao phí tức là lượng chi phí bỏ ra trong kỳ. Để đánh giá được chất
lượng sản xuất thì chi phí chi ra phải được xem xét trong mối quan hệ chặt chẽ
với mặt thứ hai là kết quả thu được từ sản xuất.
Giá thành sản phẩm là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ chi phí về lao
động sống và lao động vật hoá mà doanh nghiệp đã bỏ ra có liên quan đến khối
lượng công tác, sản phẩm, lao vụ đã hoàn thành.


14

Như vậy, giá thành sản phẩm là một phạm trù của sản xuất hàng hoá phản
ánh lượng giá trị của lao động sống và lao động vật hoá đã thực sự chi ra cho
sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Những chi phí đưa vào giá thành sản phẩm phải
phản ánh được giá trị thực của các tư liệu sản xuất, tiêu dùng cho sản xuất, tiêu
thụ và những khoản chi tiêu khác có liên quan đến việc bù đắp giản đơn hao phí
lao động sống.
Giá thành sản phẩm được tính toán xác định theo từng loại sản phẩm dịch
vụ cụ thể hoàn thành (theo từng đối tượng tính giá thành) và chỉ tính cho những
sản phẩm đã hoàn thành toàn bộ quy trình sản xuất tức là thành phẩm hoặc một
số giai đoạn công nghệ sản xuất nhất định tức là nửa thành phẩm.
1.1.2.2 Các loại giá thành sản phẩm
- Xét theo thời điểm tính và nguồn số liệu để tính giá thành thì toàn bộ giá

thành được chia ra
+ Giá thành kế hoạch: Việc tính toán, xác định giá thành kế hoạch sản
phẩm được tiến hành trước khi tiến hành quá trình sản xuất, chế tạo sản phẩm
do bộ phận kế hoạch thực hiện. Giá thành kế hoạch của sản phẩm được tính trên
cơ sở chi phí sản xuất kế hoạch và được xem là mục tiêu phấn đấu của doanh
nghiệp, là cơ sở để phân tích, đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch giá thành,
kế hoạch hạ giá thành của doanh nghiệp.
+ Giá thành định mức: Cũng giống như giá thành kế hoạch, giá thành
định mức cũng có thể thực hiện được trước khi sản xuất chế tạo sản phẩm dựa
vào các định mức, dự toán chi phí. Giá thành định mức được xem là thước đo
chính xác để xác định kết quả sản xuất kinh doanh.
+ Giá thành thực tế: Khác với hai loại giá thành trên, giá thành thực tế
của sản phẩm, lao vụ chỉ được xác định khi quá trình sản xuất, chế tạo sản phẩm
đã được hoàn thành và dựa trên cơ sở số liệu chi phí sản xuất thực tế đã phát
sinh tập hợp được trong kỳ.


15

Giá thành thực tế sản phẩm là chỉ tiêu tổng hợp phản ánh kết quả phấn
đấu của doanh nghiệp trong việc tổ chức và sử dụng các giải pháp kinh tế, kỹ
thuật để sản xuất sản phẩm, là cơ sở để xác định kết quả hoạt động sản xuất
kinh doanh, có ảnh hưởng trực tiếp đến thu nhập của doanh nghiệp.
- Xét theo phạm vi phát sinh chi phí
+ Giá thành sản xuất (hay còn gọi là giá thành công xưởng): là chỉ tiêu
phản ánh tất cả những chi phí phát sinh liên quan tới việc sản xuất, chế tạo sản
phẩm trong phạm vi phân xưởng sản xuất.
+ Giá thành tiêu thụ (hay còn gọi là giá thành toàn bộ hay giá thành đầy
đủ): là chỉ tiêu phản ánh toàn bộ các chi phí phát sinh liên quan đến việc sản
xuất, tiêu thụ sản phẩm.

Cách phân loại này có tác dụng giúp cho nhà quản lý biết được kết quả
kinh doanh (lãi, lỗ) của từng mặt hàng, từng loại dịch vụ mà doanh nghiệp kinh
doanh. Tuy nhiên, do những hạn chế nhất định khi lựa chọn tiêu thức phân bổ
chi phí bán hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp cho từng mặt hàng, từng loại
dịch vụ nên cách phân loại này chỉ mang ý nghĩa học thuật, nghiên cứu.
1.1.3 Mối quan hệ giữa chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm
Chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm là hai khái niệm khác nhau nhưng
có mối quan hệ mật thiết. Chi phí sản xuất là cơ sở để tính giá thành sản phẩm,
chi phí sản xuất biểu hiện sự hao phí để sản xuất sản phẩm, còn giá thành sản
phẩm biểu hiện kết quả của quá trình sản xuất.
Đây là hai mặt thống nhất của cùng một quá trình, vì vậy chúng giống
nhau về chất, cùng biểu hiện bằng tiền những hao phí về lao động sống, lao
động vật hoá bỏ ra. Nhưng giữa chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm khác
nhau về mặt lượng. Khi nói đến chi phí sản xuất là giới hạn chúng trong một
thời kỳ nhất định, không phân biệt là cho loại sản phẩm nào, đã hoàn thành hay
chưa. Còn khi nói đến giá thành sản phẩm là xác định một lượng chi phí sản
xuất nhất định, tính cho một đại lượng kết quả hoàn thành nhất định. Đứng trên


16

giác độ quá trình hoạt động để xem xét, thì quá trình sản xuất là một quá trình
hoạt động liên tục, còn việc tính giá thành sản phẩm là một điểm cắt có tính chu
kỳ để so sánh chi phí với đại lượng kết quả, nên tại thời điểm tính giá thành có
thể có khối lượng sản phẩm chưa hoàn thành, chứa đựng một lượng chi phí cho
nó, gọi là chi phí sản xuất dở dang cuối kỳ. Tương tự như vậy, đầu kỳ có thể có
một lượng sản phẩm sản xuất chưa hoàn thành ở kỳ trước chuyển sang kỳ này
để tiếp tục sản xuất chứa đựng một lượng chi phí sản xuất cho nó, gọi là chi phí
sản xuất dở dang đầu kỳ. Như vậy, giá thành sản phẩm hoàn thành trong kỳ bao
gồm chi phí sản xuất của kỳ trước chuyển sang và một phần chi phí phát sinh

trong kỳ. Hơn nữa, giá thành sản phẩm mang tính chủ quan, phụ thuộc vào
những phương pháp tính toán phân bổ như việc ghi nhận trước vào giá thành
sản phẩm những khoản được coi là chi phí nhưng thực tế chưa phát sinh hoặc
những chi phí thực tế đã chi ra nhưng được phân bổ cho nhiều kỳ, nhằm đảm
bảo một sự ổn định tương đối cho giá thành sản phẩm qua các thời kỳ.

1.2 Đối tượng tập hợp chi phí sản xuất, tính giá thành sản phẩm trong
các doanh nghiệp sản xuất công nghiệp
1.2.1 Đối tượng tập hợp chi phí sản xuất
Là phạm vi giới hạn để tập hợp các chi phí sản xuất phát sinh trong kỳ
nhằm phục vụ cho việc kiểm tra, phân tích và tính giá thành sản phẩm. Giới hạn
tập hợp chi phí có thể là nơi phát sinh chi phí hoặc đối tượng chịu chi phí. Việc
lựa chọn đối tượng tập hợp chi phí sản xuất ở từng doanh nghiệp có sự khác
nhau. Việc xác định đối tượng tập hợp chi phí phải căn cứ vào:
- Tính chất sản xuất và quy trình công nghệ của sản phẩm: Là đơn giản
hay phức tạp, quy trình công nghệ liên tục hay song song.
- Loại hình sản xuất: Đơn chiếc hay sản xuất hàng loạt, khối lượng lớn.
+ Sản xuất đơn chiếc là sản phẩm hoặc khối lượng hoàn thành không lặp
lại, đôi khi lặp lại ở các khoảng thời gian không xác định thì đối tượng tập hợp
chi phí sản xuất là từng sản phẩm, từng công trình, từng hạng mục công trình.


17

+ Sản xuất hàng loạt, khối lượng lớn gồm nhiều sản phẩm ở cùng một
giai đoạn sản xuất, giai đoạn chế biến thì đối tượng tập hợp chi phí sản xuất là
nhóm sản phẩm.
- Đặc điểm tổ chức sản xuất: Mỗi doanh nghiệp có cơ cấu tổ chức khác
nhau. Nếu doanh nghiệp có phân xưởng thì đối tượng tập hợp chi phí là nơi phát
sinh chi phí. Nếu doanh nghiệp không có phân xưởng thì đối tượng tập hợp chi

phí sản xuất là đối tượng chịu chi phí như sản phẩm, đơn đặt hàng, từng nhóm
sản phẩm hoặc bộ phận, chi tiết sản phẩm. Việc tập hợp chi phí theo phân xưởng
phục vụ phân tích, kiểm tra chi phí ở phân xưởng, tạo điều kiện để xác định
đúng đắn kết quả hạch toán kinh tế nội bộ của doanh nghiệp.
- Căn cứ vào yêu cầu và trình độ quản lý của doanh nghiệp: Đối với
doanh nghiệp hạch toán kinh tế nội bộ rộng rãi, đòi hỏi phải kiểm tra, phân tích
kết quả hạch toán chi phí theo phân xưởng thì các giai đoạn sản xuất cũng là đối
tượng tập hợp chi phí.
- Căn cứ vào yêu cầu tính giá thành sản phẩm để từ đó xác định đối tượng
tập hợp chi phí cho phù hợp.
1.2.2 Đối tượng tính giá thành
Là các loại sản phẩm, lao vụ phải tính tổng giá thành đơn vị. Việc xác
định được đối tượng tính giá thành cũng phải được căn cứ vào đặc điểm tổ chức
sản xuất, quy trình công nghệ, kỹ thuật sản xuất cũng như yêu cầu trình độ quản
lý. Tuỳ theo đặc điểm của từng doanh nghiệp mà xác định đối tượng tính giá
thành khác nhau, thường là các sản phẩm hoặc đơn đặt hàng đã hoàn thành.
Việc xác định đối tượng tính giá thành là căn cứ để kế toán mở các thẻ
tính giá thành sản phẩm, tổ chức tính giá thành theo đối tượng, giúp cho doanh
nghiệp kiểm tra được tình hình thực hiện kế hoạch giá thành.

1.3 Phương pháp hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản
phẩm trong các doanh nghiệp sản xuất công nghiệp


18

1.3.1 Phương pháp hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm
trong các doanh nghiệp sản xuất công nghiệp duới góc độ kế toán tài chính
1.3.1.1 Phương pháp hạch toán chi phí sản xuất
Sau khi đã xác định được đối tượng tập hợp chi phí sản xuất thì hàng kỳ

căn cứ vào chứng từ, kế toán tiến hành tập hợp chi phí sản xuất theo từng đối
tượng hạch toán chi phí sản xuất.
Hạch toán chi phí nguyên vật liệu trực tiếp
- Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp bao gồm giá trị nguyên vật liệu chính,
phụ, nhiên liệu…. được xuất dùng trực tiếp cho việc chế tạo sản phẩm. Đối với
những vật liệu khi xuất dùng có liên quan trực tiếp đến từng đối tượng tập hợp
chi phí riêng biệt (phân xưởng, bộ phận sản xuất, sản phẩm hay loại sản
phẩm….) thì hạch toán trực tiếp cho đối tượng đó. Trong trường hợp vật liệu
xuất dùng có liên quan đến nhiều đối tượng tập hợp chi phí, không thể tổ chức
hạch toán riêng thì phải áp dụng phương pháp phân bổ gián tiếp để phân bổ chi
phí cho các đối tượng liên quan.
Công thức phân bổ như sau:
Chi phí vật liệu cho
từng đối tượng

Tỉ lệ (hệ số) phân bổ

=

=

Tổng chi phí vật
liệu cần phân bổ

x

Tỉ lệ (hệ số)
phân bổ

Tổng tiêu thức phân bổ từng đối tượng

Tổng tiêu thức phân bổ tất cả các đối tượng

- Tài khoản sử dụng theo dõi các khoản chi phí nguyên vật liệu trực tiếp
là TK621 "Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp"
Tài khoản này không có số dư và được mở chi tiết theo từng đối tượng
hạch toán chi phí (phân xưởng, bộ phận sản xuất, sản phẩm, nhóm sản phẩm,
đơn đặt hàng.).


19

Bên nợ: Giá trị nguyên vật liệu xuất dùng trực tiếp chế tạo sản phẩm hay
thực hiện lao vụ, dịch vụ.
Bên có:
- Giá trị nguyên vật liệu xuất dùng không hết nhập lại kho.
- Kết chuyển chi phí nguyên vật liệu trực tiếp vào tài khoản tính giá
thành.
Sơ đồ 1.1: Sơ đồ hạch toán chi phí nguyên vật liệu trực tiếp
(Theo phương pháp kê khai thường xuyên)
NVL sử dụng không hết nhập lại kho
TK 621

TK 152

NVL xuất cho sản xuất

TK 111, 112, 331
Mua NVL về dùng ngay cho sx,
không qua kho


TK 154
KC hoặc PB
CPNVLTT

TK 1331
VAT hàng
mua

Hạch toán chi phí nhân công trực tiếp
- Chi phí nhân công trực tiếp là các khoản thù lao lao động phải trả cho
lao động trực tiếp sản xuất sản phẩm, trực tiếp thực hiện các lao vụ, dịch vụ


20

như: tiền lương chính, tiền lương phụ và các khoản phụ cấp có tính chất lương
(phụ cấp khu vực, đi lại, độc hại, phụ cấp thêm giờ…). Ngoài ra chi phí nhân
công trực tiếp còn gồm các khoản đóng góp cho các quỹ bảo hiểm xã hội, bảo
hiểm y tế và kinh phí công đoàn do chủ sử dụng lao động chịu và được tính vào
chi phí nhân công trực tiếp theo một tỷ lệ nhất định với tiền lương công nhân
sản xuất.
- Tài khoản sử dụng để theo dõi chi phí nhân công trực tiếp là tài khoản
622 "Chi phí nhân công trực tiếp"
Bên nợ: Chi phí nhân công trực tiếp thực tế phát sinh.
Bên có: Kết chuyển chi phí nhân công trực tiếp sang tài khoản tính giá
thành. Tài khoản này không có số dư và được mở chi tiết theo từng đối tượng
hạch toán chi phí sản xuất.


21


Sơ đồ 1.2: Sơ đồ hạch toán chi phí nhân công trực tiếp
(Theo phương pháp kê khai thường xuyên)
TK 334

TK 622
Tiền lương và phụ cấp lương phải trả
cho CNTTSX

TK 338
TK 154
BHXH, BHYT, KPKĐ trích theo
tỷ lệ 19% tính vào chi phí

TK 335

Trích trước tiền lương nghỉ phép
của CNSX

KC
CPNCTT


22

Hạch toán chi phí sản xuất chung
- Chi phí sản xuất chung là những chi phí cần thiết còn lại để sản xuất sản
phẩm sau chi phí nguyên vật liệu trực tiếp và chi phí nhân công trực tiếp. Đây là
những chi phí phát sinh trong phạm vi các phân xưởng, bộ phận sản xuất của
doanh nghiệp. Nó bao gồm các chi phí về lương nhân viên quản lý phân xưởng,

chi phí về vật liệu và công cụ dụng cụ sử dụng cho phân xưởng, chi phí khấu
hao tài sản cố định, chi phí dịch vụ mua ngoài và các chi phí bằng tiền khác.
- Tài khoản sử dụng là TK627 "Chi phí sản xuất chung"
Bên nợ: Chi phí sản xuất chung thực tế phát sinh trong kỳ.
Bên có:

- Các khoản ghi giảm chi phí sản xuất chung.
- Kết chuyển (hay phân bổ) chi phí sản xuất chung vào tài
khoản tính giá thành.

Tài khoản này không có số dư và được chi tiết thành 6 tiểu khoản
+ 6271: Chi phí nhân viên phân xưởng
+ 6272: Chi phí vật liệu
+ 6273: Chi phí công cụ dụng cụ
+ 6274: Chi phí khấu hao tài sản cố định
+ 6277: Chi phí dịch vụ mua ngoài
+ 6278: Chi phí bằng tiền khác
Do chi phí sản xuất chung có liên quan tới nhiều loại sản phẩm, lao vụ,
dịch vụ trong phân xưởng nên cần phải phân bổ phù hợp theo từng đối tượng:
phân bổ theo định mức, theo giờ làm việc thực tế của công nhân sản xuất, theo
tiền lương công nhân sản xuất….


23

Sơ đồ 1.3: Sơ đồ hạch toán chi phí sản xuất chung
(Theo phương pháp kê khai thường xuyên)
TK627

TK 334,

338

TK 154

Lương và các khoản trích

Phân bổ hoặc

theo lương của nhân viên PX

kết chuyển chi

TK 152, 153
Chi
phí
dụng
Chi
phívật
vật liệu,
liệu, dụng
cụ cụ
phục
xuất
phụcvụ
vụ sản
sản xuất

TK 214
Chi phí khấu hao TSCĐ


TK 142, 335
Phân bổ, trích trước các
khoản chi phí sản xuất

TK 111, 112
Chi phí bằng tiền khác

phí sản xuất chung


24

1.3.1.2 Phương pháp đánh giá sản phẩm dở dang
- Đánh giá theo chi phí NVLTT
Theo phương pháp này, giá trị sản phẩm dở dang cuối kỳ
chỉ tính phần chi phí NVL trực tiếp hoặc NVL chính, còn các
khoản chi phí khác tính cả cho sản phẩm hoàn thành. Giá trị
sản phẩm dở dang cuối kỳ tính bằng công thức sau:
Giá trị
SPDD
cuối kỳ

=

CPSX dở dang đầu kỳ
(NVL trực tiếp)
Số lượng sản phẩm
hoàn thành

+


CP phát sinh trong
kỳ (NVL trực tiếp)

+

Số lượng SPDD
cuối kỳ

x

Số lượng
SPDD
cuối kỳ

Đối với doanh nghiệp có quy trình công nghệ sản xuất phức tạp, chế biến
liên tục qua nhiều giai đoạn thì ở giai đoạn đầu giá trị SPDD cuối kỳ được tính
theo chi phí NVL chính còn ở các giai đoạn sau tính theo giá trị bán thành phẩm
dở dang giai đoạn khác chuyển sang.
+ Ưu điểm của phương pháp này là tính toán đơn giản, dễ làm, xác định
chi phí sản phẩm dở dang cuối kỳ được kịp thời phục vụ cho việc tính giá thành
sản phẩm được nhanh chóng.
+ Nhược điểm: Độ chính xác không cao vì không tính đến các chi phí chế
biến khác.
+ Điều kiện áp dụng: Phương pháp này phù hợp với những doanh nghiệp
có chi phí NVL chiếm tỷ trọng lớn, khối lượng sản phẩm dở dang cuối kỳ ít và
biến động không lớn so với đầu kỳ.
- Đánh giá theo sản lượng hoàn thành tương đương
Theo phương pháp này, SPDD cuối kỳ phải chịu toàn bộ các chi phí trong
kỳ theo mức độ hoàn thành. Do vậy, cần căn cứ vào khối lượng và mức độ hoàn

thành của chúng để quy đổi số SPDD ra sản phẩm hoàn thành tương đương làm
cơ sở xác định chi phí. Trình tự tính toán như sau:


25

+ Đối với các khoản chi phí bỏ vào một lần từ đầu quy trình công nghệ
sản xuất như các khoản mục chi phí NVL trực tiếp thì tính cho SPDD như
sau:

Chi phí
SPDD cuối =
kỳ (Dck)

Chi phí SPDD
đầu kỳ (Dđk)
Số lượng sản
phẩm hoàn thành
(Stp)

+

Chi phí phát sinh
trong kỳ (C)

+

Số lượng SPDD
cuối kỳ (Sd)


x

Số lượng
SPDD
cuối kỳ
(Sd)

+ Đối với các khoản chi phí bỏ dần vào trong quá trình sản xuất như chi
phí NCTT, chi phí SX chung thì chi phí SPDD được xác định theo công
thức:
Chi phí
SPDD
cuối kỳ
(Dck)

=

Chi phí SPDD đầu
+
kỳ (Dđk)

Chi phí phát sinh
trong kỳ (C)

Số lượng sản phẩm
Số lượng sản phẩm
+
hoàn thành (Stp)
tương đương (S’d)


Số lượng sản
x phẩm tương
đương (S’d)

Trong đó:
Số lượng sản phẩm
tương đương (S’d)

=

Số lượng SPDD cuối kỳ (Sd)

x

Mức độ hoàn thành

So với phương pháp đánh giá sản phẩm dở dang theo chi phí nguyên vật
liệu trực tiếp, phương pháp đánh giá sản phẩm dở dang theo khối lượng sản
phẩm hoàn thành tương đương đảm bảo tính hợp lý và độ tin cậy cao hơn của
chi phí sản xuất kinh doanh dở dang cũng như chỉ tiêu thành phẩm và giá vốn
hàng bán trong báo cáo kế toán. Tuy vậy, phương pháp này cũng có nhược điểm
là khối lượng tính toán nhiều, hơn nữa việc xác định mức độ chế biến hoàn
thành của sản phẩm dở dang là một công việc phức tạp mang nặng tính chủ
quan.
Điều kiện áp dụng: Thích hợp với những doanh nghiệp mà chi phí NVL
trực tiếp chiếm tỷ trọng không lớn trong tổng chi phí sản xuất, khối lượng sản
xuất dở dang đầu kỳ, cuối kỳ nhiều và biến động lớn.



×