Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

SKKN GDCD9 MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC TÍCH CỰC MÔN GDCD 9

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (132.18 KB, 13 trang )

PHÒNG GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO NGA SƠN
SỞ GIÁO DỤC
VÀ ĐÀO
TẠO
THANH
HOÁ
TRƯỜNG
THCS
NGA
AN
PHÒNG GD&ĐT NGA SƠN

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

TÊN ĐỀ TÀI:

MỘT
SỐ PHƯƠNG
PHÁP
XÂY DỰNG VÀ SỬ
DỤNG
SƠ ĐỒ TRONG
DẠY HỌC PHẦN
DẠY
HỌC
TÍCH
CỰC
“ĐỊA LÍ KINH TẾ VIỆT NAM”- ĐỊA LÍ 9
MÔN GIÁO DỤC CÔNG DÂN 9


Người thực hiện:
Lê Thị kim Dung
Chức vụ:
Giáo viên
Người
hiện: Hoàng
Thanh
Đơn vị công
tác:thực Trường
THCSThị
Nga
An
ChứcGDCD
vụ: Giáo
SKKN thuộc môn:
9 viên
Đơn vị công tác: Trường THCS Nga An
SKKN thuộc lĩnh mực (môn): Địa lí

THANH HOÁ NĂM: 2014

1


Mục lục

Đề mục
I- Đặt vấn đề.
II- Giải quyết vấn đề.
1. Cơ sở lý luận.

2. Thực trạng.
3. Các giải pháp và tổ chức thực hiện.
4. Kiểm nghiệm.
III- Kết luận.

Trang
2
3
3
3
4
11
12

I- ĐẶT VẤN ĐỀ.
Trong sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước giáo dục có
vị trí quan trọng của chiến lược xây dựng con người. Giáo dục quyết định
đến việc hình thành tính cách con người. Nhiệm vụ của giáo dục hiện nay là
rèn luyện ra những học sinh có đủ đức, đủ tài, để đưa đất nước sánh vai với
các cường quốc năm châu như sinh thời Bác Hồ hằng mong muốn.
Bên cạnh mục tiêu giáo dục chung thì môn Giáo dục công dân trong
trường THCS còn có những mục tiêu riêng đó là: Trang bị kiến thức cho
2


công dân trên các lĩnh vực chính trị, tư tưởng, đạo đức, pháp luật; hình
thành ý thức công dân; ý thức quyền và nghĩa vụ, giáo dục tinh thần trách
nhiệm; tình cảm lành mạnh của người công dân; rèn luyện hành vi thói
quen, ý thức tình cảm đạo đức, phù hợp với chuẩn mực xã hội, rèn luyện kĩ
năng vận dụng kiến thức đã tích luỹ vào cuộc sống hàng ngày.

Môn Giáo dục công dân trong các nhà trường THCS còn chưa được
chú trọng, việc đầu tư của giáo viên vẫn còn hạn chế hoặc có sử dụng đồ
dùng dạy học thì chủ yếu là các giờ thao giảng và nhất là các thông tin về
giáo dục của môn giáo dục công dân còn nhiều hạn chế. Điều đó dẫn tới các
giờ học diễn ra còn khô khan, nghèo nàn về phương pháp, nặng về thuyết
trình, giảng giải, vấn đáp... trong giờ học, học sinh tiếp thu bài thụ động, ít
có cơ hội tìm tòi khám phá, thể hiện mình, chủ yếu là nghe giảng. Hình
thức tổ chức dạy học còn nghèo nàn, chỉ bó hẹp trong khuôn khổ lên lớp
đại trà, học sinh ít được tổ chức học tập theo nhóm, tổ cá nhân. Các hình
thức hoạt động ngoại khoá và thực hành chưa được coi trọng. Nhìn chung
các giờ học Giáo dục công dân chưa gây được hứng thú học tập và rèn
luyện cho học sinh. Mà môn học này có nhiệm vụ là giáo dục đạo đức và
pháp luật cho học sinh giúp học sinh có những hành trang cần thiết khi vào
đời.
Mặt khác, đối với môn Giáo dục công dân, học sinh luôn coi là môn
phụ do đó không chú trọng vào môn học. Ngoài ra, với những kiến thức đạo
đức, pháp luật khô khan, khó hiểu, phần lớn học sinh có tâm lí ngại học và
học để làm gì môn này? Do đó vấn đề đặt ra cần phải đổi mới các phương
pháp dạy học tích cực để tạo cho học sinh sự hứng thú, niềm say mê học
tập, phát huy khả năng tư duy, sáng tạo của mình trong quá trình chiếm
lĩnh tri thức môn Giáo dục công dân đồng thời biết vận dụng linh hoạt
những kiến thức đó xử lí các tình huống xảy ra trong cuộc sống hàng ngày.
Là một giáo viên trực tiếp giảng dạy môn Giáo dục công dân lớp 9 nhiều
năm, được tiếp xúc gần gũi với đối tượng học sinh hiểu rõ hơn về thực
trạng dạy và học môn giáo dục công dân hiện nay, nên tôi đã nghiên cứu và
thử nghiệm “Một số phương pháp dạy học tích cực môn giáo dục công dân
9” và đã có kết quả khả quan, đã giúp cho học sinh hiểu rõ cần phải trang bị
cho mình những kiến thức về bộ môn giáo dục công dân để có đủ hành
trang sau này bước vào cuộc sống mới.
Trong quá trình nghiên cứu tôi đã sử dụng phương pháp thực nghiệm

và khảo sát tại trường THCS Nga An năm học 2013 - 2014.
II- GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ.
1. Cơ sở lý luận.
Trong thời đại xã hội phát triển như hiện nay, nhiều tệ nạn xã hội có chiều
hướng gia tăng như rượu chè, ma tuý, mại dâm, bạo lực học đường... đã và đang
3


xâm nhập vào trường học. Vì vậy, dạy và học tốt môn Giáo dục công dân là một
trong những yếu tố quan trọng góp phần giáo dục đạo đức, nhân cách cho các em,
giáo dục cho các em hiểu biết vê pháp luật. Để hiểu được các vấn đề đó các em
phải có hứng thú học tập. Nhưng trong thực tế môn Giáo dục công dân là môn học
mà học sinh chưa chú trọng, vì thế đổi mới phương pháp để tạo cho các em có hứng
thú trong học tập là việc làm thiết thực và thường xuyên của giáo viên dạy môn học
này.
2. Thực trạng.
Môn Giáo dục công dân là môn học mà các tri thức, chuẩn mực, kĩ
năng của nó đều gắn chặt với các sự kiện và chất liệu của cuộc sống hiện
thực. Đó là những vấn đề đạo đức và pháp luật của đời sống hàng ngày, là
tác động qua lại giữa con người với con người, giữa con người với các thể
chế xã hội. Môn học có nhiệm vụ dạy cho học sinh vừa biết làm một công
dân có ích trong tương lai, nhưng cũng vừa biết sống hoà nhập với đời
sống như một thành viên xã hội với những yêu cầu đạo đức, pháp luật, văn
hoá hiện tại. Vì vậy, trong dạy học môn giáo dục công dân phải gắn bó chặt
chẽ với cuộc sống thực tiễn vào nội dung dạy học, phải mang chất liệu của
đời sống xã hội, đời sống thường ngày của học sinh.
Năm học 2013 - 2014 tôi tiếp tục được phân công dạy môn Giáo dục
công dân khối 9 trường THCS Nga An. Đây là một xã thuần nông, đời sống
nhân dân còn gặp nhiều khó khăn. Một số hộ gia đình để con em ở nhà rồi
đi làm ăn xa. Nhiều gia đình vẫn chưa quan tâm đến việc học tập của con

em và các gia đình có quan tâm đến việc học của con em nhưng cũng chỉ
chú trọng đến các môn mà sau này các em thi vào cấp ba. Điều đó đã ảnh
hưởng không nhỏ đến việc học của học sinh. Nhiều em chưa có đủ sách vở,
đồ dùng học tập, chưa có thời gian cho việc học ở nhà, vì thế rất khó khăn
cho học sinh khi tiếp thu bài giảng của giáo viên. Bên cạnh đó, năng lực
học tập của các em còn nhiều hạn chế, số học sinh học yếu và ngại học môn
Giáo dục công dân còn nhiều. Hơn nữa đồ dùng học tập của học sinh còn
thiếu, học sinh không nắm vững kiến thức, khả năng vận dụng, liên hệ thực
tế yếu. Vì vậy chất lượng dạy và học chưa cao, học sinh chưa có niềm say
mê, hứng thú với môn học.
Trước thực trạng đó tôi chọn đề tài: “Một số phương pháp dạy học tích
cực môn Giáo dục công dân 9”, với mong muốn nâng cao hiệu quả dạy và
học, giúp học sinh có hứng thú hơn trong môn học này.
Để có kế hoạch và biện pháp giảng dạy đạt hiệu quả cao, sát với mục
tiêu chương trình tôi thực hiện công tác điều tra chất lượng thực tế của học
sinh qua các tiết giảng dạy, dự giờ, theo dõi chất lượng để có biện pháp phù
hợp.

4


Trong quá trình giảng dạy và điều tra khảo sát chất lượng của môn học
giáo dục công dân đầu năm học 2013 - 2014 tại trường THCS Nga An. Tôi
thu được kết quả như sau:
Điểm yếu
Điểm giỏi Điểm khá
Điểm TB.
kém

Lớp

Thời điểm
số
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
Khi
9A 37
4 10.8 12 32.4 20 54.1
1
2.7
chưa áp dụng
Khi
9B 29
2
6.9
8
27.6 17 58.6
2
6.9
chưa áp dụng
Khi
9C 30
2
6.7
9

30.0 17 56.6
2
6.7
chưa áp dụng
\

Chính vì thực trạng trên là một giáo viên trực tiếp giảng dạy môn
Giáo dục công dân 9 tôi đã mạnh dạn đưa ra “Một số phương pháp dạy học
tích cực môn giáo dục công dân 9”.
3. Các giải pháp và tổ chức thực hiện.
Trong dạy học giáo dục công dân 9 cần phải đổi mới phương pháp dạy
theo hướng phát huy tính tích cực chủ động sáng tạo của học sinh trong quá
trình học tập. Trong dạy học giáo viên phải biết vận dụng các phương pháp
vào việc tổ chức hoạt động kích thích học sinh nỗ lực suy nghĩ và tự tìm
tòi, phát hiện. Những chuẩn mực đạo đức và pháp luật cần hình thành ở học
sinh không phải là những khuôn mẫu cho sẵn trong quá trình học tập. Học
sinh tự khai thác thông tin, tự kiến tạo tri thức và kĩ năng, qua đó phát triển
nhận thức, niềm tin và tình cảm đạo đức pháp luật.
Trong dạy học phải đa dạng hoá các phương pháp và hình thức tổ
chức dạy học bộ môn, khắc phục tính đơn điệu, nghèo nàn trong việc áp
dụng các phương pháp và hình thức tổ chức dạy học. Hiệu quả của việc sử
dụng phương pháp dạy học môn Giáo dục công dân phụ thuộc vào việc lựa
chọn và kết hợp một cách hài hoà hợp lí các phương pháp dạy học cụ thể,
phù hợp với nội dung bài học, với khả năng học tập và thái độ của học sinh,
phù hợp với từng tình huống dạy học cụ thể để tạo ra một thái độ tích cực,
sẵn sàng đáp ứng nhiệm vụ học tập và có sự nỗ lực cao trong hoạt động.
Kết hợp một cách linh hoạt, hợp lí nhiều phương pháp cả phương pháp
truyền thống và các phương pháp hiện đại, không phủ định hoàn toàn hoặc
lạm dụng, tuyệt đối hoá vai trò vạn năng của một phương pháp nào, tuỳ
từng bài, từng phần, tuỳ điều kiện dạy học của nhà trường, khả năng của

học sinh và năng lực, sở trường của giáo viên mà lựa chọn phương pháp.
Những kiến thức môn Giáo dục công dân thường khô khan cứng nhắc,
đặc biệt môn Giáo dục công dân 9 những chuẩn mực đạo đức pháp luật
trong nội dung chương trình học khó hơn, phức tạp hơn, do đó học sinh rất
5


ngại học. Chính vì vậy, trong các giờ học, để tạo hứng thú cho học sinh tôi
thường kể những câu chuyện có liên quan đến các chủ đề đạo đức, chủ đề
pháp luật. Bên cạnh các phương pháp dạy học truyền thống (đàm thoại,
thuyết trình, trực quan, kể chuyện...), tôi luôn chú trọng đến các phương
pháp hiện đại (thảo luận nhóm, đóng vai, tổ chức trò chơi hay phương pháp
tình huống...). Bởi các phương pháp dạy học này ngoài việc tăng cường
hứng thú cho học sinh, nâng cao sự chú ý làm giảm trạng thái tâm lí mệt
mỏi thì nó còn rèn kĩ năng ứng xử, giao tiếp, khả năng trình bày suy nghĩ
trước tập thể lớp của học sinh, các em được giao lưu, được bày tỏ ý kiến
của mình với bạn học, giúp các em tự tin hơn trong học tập và các hoạt
động xã hội.
3.1. Phương pháp trò chơi:
Tổ chức trò chơi là một phương pháp rất hiệu quả để thu hút sự tham
gia của học sinh. Trong cuộc chơi mọi người đều bình đẳng và đều cố gắng
thể hiện “hết mình”. Vì vậy tổ chức trò chơi không những là biện pháp để
tăng cường hứng thú học tập, nâng cao sự chú ý, thay đổi trạng thái tâm lí
mệt mỏi trong quá trình nhận thức mà còn là biện pháp rèn luyện các kĩ
năng ứng xử, giao tiếp, củng cố và phát triển khả năng tự tin của các em.
Giáo viên có thể sử dụng các trò chơi dân gian có nội dung phù hợp với yêu
cầu nội dung bài học. Cũng có thể dựa trên nội dung bài học để sáng tạo ra
trò chơi mới.
3.1.1, Mục tiêu của phương pháp:
- Thông qua trò chơi giáo viên gợi ý cho học sinh thảo luận, khai thác

yêu cầu bài học.
- Qua trò chơi học sinh có cơ hội trực tiếp vận dụng kiến thức trong
nội dung bài học vào điều kiện cụ thể và thể hiện cách ứng xử phù hợp.
- Học sinh thu hút vào quá trình học tập một cách tự nhiên, hứng thú,
giảm bớt sự mệt mỏi, căng thẳng trong học tập.
3.1.2, Cách thực hiện.
- Giáo viên phổ biến tên trò chơi và luật chơi cho học sinh.
- Học sinh tiến hành chơi.
- Đánh giá sau trò chơi.
- Thảo luận về ý nghĩa giáo dục của trò chơi.
3.1.3, Một số lưu ý.
- Trò chơi phải dễ tổ chức thực hiện, phải phù hợp với đặc điểm, điều
kiện thực tế của trường, lớp, địa phương và trình độ học sinh THCS, đồng
thời không mất sức và an toàn cho học sinh.
- Học sinh phải nắm được quy tắc chơi.
- Phải quy định rõ thời gian địa điểm chơi.
- Phải tạo điều kiện cho học sinh tham gia đầy đủ.
6


- Học sinh phải được luân phiên thay đổi hợp lý khi tham gia trò chơi.
- Nên tổ chức trò chơi ở sân trường có diện tích vừa đủ để thực hành.
3.1.4, Ví dụ: Khi dạy bài 2 “Tự chủ” ở phần nội dung bài học sau
khi giáo viên hướng dẫn học sinh rút ra được khái niệm tự chủ thì giáo viên
có thể tổ chức trò chơi tiếp sức cho học sinh.
Giáo viên chia lớp thành hai nhóm các nhóm cử đại diện lần lượt lên
bảng tìm những bông hoa mang nội dung tự chủ dán vào ô tự chủ, những
bông hoa mang nội dung trái với tự chủ dán vào ô trái với tự chủ...mỗi
nhóm chỉ có một người ở trên bảng dán xong thì bạn khác mới đựơc lên..
Nếu nhóm nào có hai người cùng lên bảng thì nhóm đó phạm luật chơi và bị

trừ điểm. Sau khi kết thúc trò chơi giáo viên phải tổng kết, đánh giá và cho
điểm từng nhóm.
Hoặc khi dạy bài 7 “Kế thừa và phát huy truyền thống tốt đẹp của dân
tộc”. Sau khi hướng dẫn học sinh nắm được toàn bộ phần nội dung bài học
giáo viên hướng dẫn học sinh trò chơi, thi hát những làn điệu dân ca của
quê hương mình và mọi miền đất nước cũng có thể tổ chức trò ch ơi tiếp sức
với chủ đề: Viết một đoạn văn ngắn nói về “tình cảm yêu quê hương đất
nước” học sinh phát biểu và lần lượt ghi nối tiếp nhau cho tới khi hoàn
thành đoạn văn.
3.2. Phương pháp thảo luận nhóm:
Phương pháp thảo luận nhóm là giáo viên tổ chức chia học sinh
thành các nhóm nhỏ (từ 4 đến 8 học sinh) để thảo luận những vấn đề của
bài học dưới sự hướng dẫn của giáo viên.
3.2.1, Mục tiêu của phương pháp.
- Đây là phương pháp được sử dụng rộng rãi nhằm giúp học sinh tham
gia một cách chủ động vào quá trình học tập, học sinh có thể chia sẻ kinh
nghiệm, ý kiến hay để giải quyết một vấn đề, một tình huống đạo đức, pháp
luật nào đó.
- Giúp học sinh lĩnh hội được kiến thức nhanh hơn, dễ nhớ và chắc
chắn hơn.
- Nhờ không khí thảo luận tập thể cởi mở nên học sinh sẽ mạnh dạn
hơn.
- Thông qua thảo luận nhóm học sinh có điều kiện phát triển kỹ năng
giao tiếp và kỹ năng hợp tác.
3.2.2, Cách thực hiện:
- Giáo viên giới thiệu chủ đề thảo luận, quy định thời gian thảo luận.
- Nêu các câu hỏi có liên quan đến chủ đề
- Chia học sinh thành các nhóm, giao nhiệm vụ để các nhóm tiến hành
thảo luận và ghi kết thảo luận ra giấy khổ lớn, phân công vị trí làm việc
cho các nhóm.

7


(Nếu không khí thảo luận trầm có thể bắt dầu cuộc thảo luận bằng một câu
chuyện hoặc một bức tranh gợi ý)
- Cần khích lệ mọi học sinh cùng tham gia đóng góp ý kiến không nên
chê bai vào ý kiến nào.
- Nhóm trưởng quán xuyến điều hành cuộc thảo luận và thư kí có
nhiệm vụ ghi chép kết quả thảo luận trước lớp.
- Đại diện nhóm trình bày kết quả thảo luận
Cách tổ chức lớp học áp dụng theo phương pháp này tôi nhận thấy
học sinh tiếp thu bài tốt và lớp học sôi nổi, các em rất hứng thú học tập.
Nhờ không khí thảo luận cởi mở nên học sinh đặc biệt những em nhút nhác
trở nên bạo dạn hơn. Kĩ năng giao tiếp, kĩ năng hợp tác của học sinh được
phát triển.
3.2.3, Một số lưu ý:
- Chủ đề thảo luận phải sát với nội dung bài học, trình độ học sinh.
- Cách chia nhóm phải hết sức linh hoạt, luôn thay đổi để tạo điều
kiện cho mỗi học sinh được giao lưu với tất cả học sinh trong lớp, tránh chỉ
giới hạn trong một nhóm cố định.
- Kết quả thảo luận có thể được trình bày bằng nhiều hình thức (bằng
lời, bằng tranh vẽ, bằng tiểu phẩm, bằng văn bản viết trên giấy lớn...)
Sau đó tôi cử nhóm trưởng, thư kí cũng nên luân phiên để từng học sinh
đều được rèn luyện các kĩ năng cần thiết.
3.2.4 Ví dụ: Khi dạy bài: “Làm việc có năng suất, chất lượng hiệu
quả” sau khi cho học sinh tìm hiểu truyện đọc trong phần đặt vấn đề tôi
chia học sinh thành 2 nhóm thảo luận 2 câu hỏi sau:
Nhóm 1: Em có nhận xét gì về việc làm của giáo sư Lê Thế Trung?
Nhóm 2: Em hãy tìm những chi tiết trong chuyện chứng tỏ giáo sư Lê Thế
Trung là người làm việc có năng suất chất lượng hiệu quả?

Sau khi học sinh các nhóm thảo luận khai thác phần đặt vấn đề tôi
cho học sinh khái quát tìm hiểu nội dung bài học. Với 2 câu hỏi này từng
nhóm sẽ tập trung thảo luận và đưa ra ý kiến, đại diện cho nhóm sẽ trình
bày trước lớp, giáo viên làm trọng tài và kết luận thông qua ý kiến của các
em.
3.3 Phương pháp giải quyết vấn đề (xử lý tình huống).
Giải quyết vấn đề là phương pháp dạy học đặc trưng có nhiều lợi thế
của môn Giáo dục công dân. Phương pháp này đặt ra yêu cầu cần phải xem
xét, phân tích những vấn đề cụ thể thường gặp phải trong cuộc sống, qua đó
xác định cách giải quết, xử lý vấn đề đó sao cho phù hợp.
3.3.1 Mục tiêu của phương pháp:

8


- Giúp học sinh đưa ra các ửng xử phù hợp với nội dung bài học, qua
đó củng cố kiến thức đã học và làm quen với kỹ năng vận dụng liên hệ vào
đời sống thực tiễn của xã hội.
- Giúp học sinh làm quen với yêu cầu thể hiện quan điểm của mình
trước các tình huống qua đó rèn luyện các phẩm chất đạo đức và ý thức
chấp hành pháp luật.
3.3.2 Cách thực hiện.
Giáo viên nêu tình huống có liên quan tới nội dung bài học trong các
lĩnh vực khác nhau phù hợp với nội dung nội dung bài học, với các biểu
hiện hành vi khác nhau để học sinh xử lý.
- Học sinh xác định, nhận dạng vấn đề.
- Học sinh phát hiện vấn đề cần giải quyết.
- Học sinh thu thập thông tin có liên quan đến vấn đề cần giải quyết.
- Học sinh liệt kê các cách giải quyết.
- Giáo viên kết luận, đưa ra cách giải quyết đúng và phù hợp nhất với

nội dung bài học.
3.3.3, Một số lưu ý:
- Tình huống phải phù hợp với nội dung bài học không v ượt ra ngoài
chuẩn kiến thức kỹ năng.
- Tình huống phải phù hợp với nhận thức của học sinh.
- Tình huống phải gần gũi với đời sống thực tiễn xã hội, với cuộc
sống của học sinh.
- Tình huống cần có độ dài vừa phải.
- Tình huống phải chứa đựng mâu thuẫn cần giải quyết, gợi ra cho
học sinh nhiều cách suy nghĩ và nhiều cách giải quyết khác nhau.
- Các nhóm học sinh có thể cùng nhau giải quyết một tình huống hoặc
các tình huống khác nhau tuỳ theo mục đích của hoạt động.
Có ba loại tình huống:
+ Tình huống định hướng cho học sinh nhận xét.
+ Tình huống định hướng cho học sinh đưa ra cách ứng xử.
+ Tình huống cho trước cách ứng xử để học sinh lựa chọn cách ứng
xử phù hợp.
3.3.4. Ví dụ. Khi dạy bài tự chủ “Kế thừa và phát huy truyền thống
tốt đẹp của dân tộc” ở lớp 9 giáo viên nêu tình huống sau:
Hồng rủ Huệ đi xem vở chèo do đoàn chèo Thanh Hoá về biểu diễn
phục vụ bà con xã nhà. Huệ bĩu môi nói: “Thời buổi này ai xem chèo làm gì
nữa, cái đó chỉ có các ông bà già thích thôi, chứ còn bọn mình thà ở nhà
xem ca nhạc còn hơn”.
Câu hỏi:
1/ Nếu là Hồng em sẽ nói gì với Huệ?
9


2/ Theo em suy nghĩ của Huệ có phải là suy nghĩ của tất cả giới trẻ
hiện nay không?

Sau đây là một ví dụ vè bài dạy học theo hướng tích cực:
Tiết 4. Bài 4. Bảo vệ hoà bình môn GDCD 9.
I. MỤC TIÊU BÀI HỌC:
1. Kiến thức : Học sinh hiểu được hoà bình và khát vọng của nhân loại, hoà bình
mang lại hạnh phúc cho con người. học sinh thấy được tác hại của chiến tranh. Có
trách nhiệm bảo vệ hoà bình.
2. Kĩ năng : HS tích cực tham gia các hoạt động bảo vệ hoà bình chống chiến tranh
tuyên truyền vận động mọi người tham gia các hoạt động chống chiến tranh.
3. Thái độ: Có thái độ tốt với mọi người xung quanh. Góp phần nhỏ tuỳ theo sức
lực bảo vệ hoà bình chống chiến tranh.
II. THIẾT BỊ, TÀI LIỆU:
1, Máy chiếu.
2, Tranh, ảnh, báo, bài viết về chiến tranh.
III. TIẾN TRÌNH DẠY HỌC:
1. Giới thiệu bài mới:
GV. Gọi lớp phó văn nghệ bắt nhịp bài hát “ Tiếng chuông và ngọn cờ hoà bình”
để cả lớp hát.
? Bài hát đề cập đến vấn đề gì.
HS. Trả lời.
GV. Giới thiệu. Hoà bình là khát vọng của toàn nhân loại. Dân ỵôc Việt Nam đã
trải qua bao cuộc chiến tranh, nên hơn ai hết chúng ta hiểu được tác hại của chiến
tranh và giá trị của hoà bình. Để làm cụ thể vấn đề này cô trò chúng ta cùng tìm
hiểu bài mới.
2. Dạy bài mới.
HOẠT ĐỘNG CỦA THẦY
HOẠT ĐỘNG CỦA TRÒ
Hoạt động 1
I. Đặt vấn đề.
GV. Gọi phần đặt vấn đề trong SGK.
HS. Đọc thông tin.

GV: Tổ chức cho học sinh thảo luận HS. Làm việc theo nhóm.
theo 4 nhóm.
GV. Cử nhóm trưởng và nói rõ nhiệm
vụ của 4 nhóm.
Nhóm 1: Em có suy nghĩ gì khi đọc
những thông tin và xem ảnh.
Nhóm 2: Qua thông tin, tư liệu và sự
hiểu biết của em hãy cho biết chiến
tranh đã gây lên hậu quả gì?
Nhóm 3: Chúng ta phải làm gì để ngăn
chặn chiến tranh và bảo vệ hoà bình?
Nhóm 4: Em có nhận xét gì khi đế quốc
10


Mĩ gây chiến ở Việt nam?
GV: Cho các nhóm lên báo cáo kết quả
GV. Gọi đại diện của các nhóm nhận xét
bài làm của nhóm bạn.
GV. Tổng kết và cho điểm.
Hoạt động 2
Sau khi tìm hiểu phần đặt vấn đề và
bằng hiểu biết của mình em hãy cho biết
thế nào là hoà bình?
Có được hoà bình rồi chúng ta phải
làm gì?
GV. Chiếu nội dung 1,2 lên máy để học
sinh đọc.
GV. Cho học sinh quan sát ảnh : Tầng
lớp nhân dân Hà Nội mít tinh phản đối

chiến tranh
? Em có nhận xét gì sau khi quan sát
ảnh ?
GV. Chiếu bài tập 1 SGK sau đó gọi học
sinh làm bài tập.
GV. Nhận xét đánh giá kết quả đạt được
của HS.
GV. Gọi học sinh lên đóng vai tình
huống :
- An chán thật ! Mĩ lại tấn công IRắc.
- Nam : Ối dào ! có phải tấn công nước
mình đâu mà sợ.
- An : Cậu hay thật mình cũng phải có
trách nhiệm ngăn chặn chiến tranh chứ.
- Nam : Đó đâu phải là việc của bọn
mình ?
Thông qua tình huống trên em có nhận
xét gì ?
? Vậy theo em trách nhiệm bảo vệ hoà
bình là của ai ?
? HS cần phải làm gì để thể hiện lòng
yêu chuộng hoà bình?
Gv. Nhấn mạnh để học sinh liên hệ tình
hình hiện nay của học sinh như đánh
nhau cãi vã.
Hoạt động 3.

HS. Các nhóm cử đại diện trình bày
kết quả.
HS. Quan sát

II. Nội dung bài học
1. Hoà bình là tình trạng không có
chiến tranh hay xung đột vũ trang:
2. Bảo vệ hoà bình: Giữ gìn cuộc sống
bình yên
HS. Quan sát và nhận xét.

HS. Làm bài tập 1.

3. Ngăn chặn chiến tranh, bảo vệ hoà
bình là trách nhiệm của toàn nhân loại.
HS. Giải thích
4. Có mối quan hệ thân thiện với mọi
người xung quanh
III. Luyện tập.
HS. Làm việc theo nhóm.
11


GV. Chia lớp thành hai nhóm và tổ chứ
trò chới tiếp sức. Chia đôi bảng phổ
biến trò chơi.
Nhóm 1. Tìm những biểu hiện của lòng
yêu chuộng hoà bình.
Nhóm 2. Tìm những biểu hiện trái với
yêu chuộng hoà bình.
GV. Nhận xét và cho điểm.
GV. Hướng dẫn học sinh làm bài tập
3. Sơ kết bài:
? Theo em thế nào là hoà bình.

? Những biểu hiện của lòng yêu hoà bình là gì.
? Nhân loại nói chung và dân tộc ta nói riêng phải làm gì để bảo vệ hoà bình.
4. Hoạt động nối tiếp:
- Làm các bài tập còn lại
- Sưu tầm báo chí, tranh ảnh về các hoạt động vì hoà bình.
- Soạn bài: Tình hữu nghị giữa các dân tộc trên thế giới
4. Kiểm nghiệm.
Khi vận dụng đề tài này vào giảng dạy trong chương trình tôi thấy được việc
ứng dụng có hiệu quả trong năm học 2013 - 2014. Kết quả đạt được như sau:
Lớp
9A
9B
9C


số

Thời điểm

37
29
30

Khi áp dụng
Khi áp dụng
Khi áp dụng

Điểm giỏi

Điểm khá


Điểm TB.

SL
10
7
6

SL
22
13
11

Sl
5
10
13

%
27.0
24.1
20.0

%
59.5
41.4
36.7

%
13.5

34.5
43.3

Điểm yếu
kém
SL
%
0
0
0
0
0
0

Để đạt được kết quả như trên cần cho học sinh nắm được tầm quan trọng
trong môn giáo dục công dân 9 và phương pháp để học môn này từ đó học sinh
vận dụng kiến thức vào thực tế.
Để làm được như vậy mỗi giáo viên cần nghiên cứu tìm tòi có nhiều phương
pháp, có hình ảnh để giáo dục hướng dẫn và tung ra cho học sinh cùng quan sát.
Thông qua đó giáo dục cho các em năng lực tư duy độc lập, rèn tư duy sáng
tạo, tính tự giác chủ động trong học tập, năng lực phát hiện tốt trong quá trình lĩnh
hội tri thức.
III- Kết luận.
Sau một thời gian đưa vào áp dụng giảng dạy cho học sinh ở ba lớp
9A, 9B, 9C tôi trực tiếp giảng dạy, tôi tự nhận thấy và rút ra một số kết
luận sau đây:

12



1. Mức độ yêu thích môn học giáo dục công dân của học sinh được nâng
lên, các em đã không còn thấy sự khô khan trong môn học và từ đó trở lên
hứng thú trong môn học một cách say mê hơn.
2. Thông qua đó đa số các em đã tích cực học tập và từ đó các em đã biết
vận dụng các bài học vào thực tế.
3. Trong giờ học tôi đã vận dụng các phương pháp đã nêu ở trên nhằm
giúp học sinh được chủ động sáng tạo hơn trong các tiết học một cách tích
cực.
4. Chất lượng khoảng cách giữa học sinh giỏi và học sinh yếu được rút
ngắn.
Sau thời gian đưa vào áp dụng dạy học môn giáo dục công dân lớp 9 tôi
đã lựa chọn phương pháp phù hợp với đối tượng học sinh, gây được hứng
thú môn học đối với các em.
Nga An, ngày 10 tháng 04 năm 2014
XÁC NHẬN
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của tôi
CỦA HIỆU TRƯỞNG
viết, không sao chép nội dung của người khác.
TÁC GIẢ

Lê Thị Kim Dung

13



×