Tải bản đầy đủ (.pdf) (24 trang)

SKKN: Giáo dục kĩ năng sống cho học sinh qua một số phương pháp dạy học tích cực trong chương trình Ngữ Văn lớp 10 trung học phổ thông

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (481.99 KB, 24 trang )

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

GIÁO DỤC KĨ NĂNG SỐNG CHO HỌC
SINH QUA MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP
DẠY HỌC TÍCH CỰC TRONG
CHƯƠNG TRÌNH NGỮ VĂN LỚP 10
THPT


I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Trong xu thế hội nhập và phát triển, thế kỉ XXI đòi hỏi con người phải
ln năng động, sáng tạo; có khả năng tìm kiếm, xử lí thơng tin và ứng phó với
các tình huống trong đời sống. Nhằm đáp ứng yêu cầu này, mục tiêu giáo dục
phổ thông của nước ta đã chuyển từ chủ yếu là trang bị kiến thức cho học sinh
(HS) sang trang bị những năng lực cần thiết cho các em, đặc biệt là năng lực
hành động, năng lực thực tiễn. Vì vậy, việc đổi mới phương pháp giảng dạy
cũng là tất yếu nhằm phát huy tính tích cực của học sinh. Với bản chất là hình
thành và phát triển cho HS khả năng làm chủ bản thân, khả năng ứng xử phù
hợp với những tình huống, phương pháp giáo dục kĩ năng sống (KNS) rõ ràng
là một trong những phương pháp ưu thế đáp ứng mục tiêu giáo dục hiện nay.
Hơn nữa, rèn luyện KNS cho HS còn được xác định là một trong những nội
dung cơ bản của Phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân thiện, HS tích
cực” trong các trường phổ thơng, giai đoạn 2008-2013 do Bộ Giáo dục và Đào
tạo chỉ đạo.
Giáo dục KNS là một yêu cầu cấp thiết đối với thế hệ trẻ. Đó là lí do khiến
giáo dục KNS trở thành xu thế chung của nhiều nước trên thế giới. Dù Ngữ
Văn là một mơn học có khả năng đặc biệt trong việc giáo dục KNS cho HS
nhưng thực tế cho thấy vấn đề giáo dục KNS ở trường phổ thông mới chỉ được
chú trọng từ năm học 2010-2011. Do vậy việc làm thế nào để tích hợp nội dung
giáo dục KNS trong nội dung bài học và thông qua các phương pháp triển khai
nội dung bài học đến nay vẫn là sự thử nghiệm tìm đường của các giáo viên


dạy văn.
Bản chất của môn Văn là sự kết hợp giữa tính khoa học và nghệ thuật.
Làm sao để HS vừa cảm thụ, rung động với tác phẩm văn chương lại vừa tích
hợp được các KNS cũng khơng phải là đơn giản. Hơn nữa, cùng với xu thế
chung của xã hội hiện nay, hầu như học sinh chỉ chú trọng đến các môn học
khoa học tự nhiên và không chú trọng các mơn khoa học xã hội. Đây cũng là
tình hình chung của xã hội và chính điều này đã gây ảnh hưởng không nhỏ đến


việc học tập nói chung cũng như việc tìm hiểu, cảm thụ, rung động với tác
phẩm văn chương nói riêng. Vì vậy, việc thiết kế những bài dạy sao cho vừa
đảm bảo yêu cầu về nội dung vừa giúp HS nhận thức được các giá trị trong
cuộc sống, hình thành lối sống, cách ứng xử có văn hóa trong các tình huống
giao tiếp đa dạng của cuộc sống mà vẫn tạo hứng thú cho học sinh trong một
thời lượng có hạn là vấn đề rất cần thiết đối với người giáo viên Ngữ Văn.
Đối với việc dạy học Văn ở các cấp học nói chung và ở trường THPT nói
riêng, việc làm sao để đảm bảo được nội dung kiến thức bài học mà đồng thời
học sinh lại phải chủ động chiếm lĩnh kiến thức bài học theo yêu cầu đổi mới
về phương pháp hiện nay quả thật là điều không dễ thực hiện. Văn học là khoa
học nhưng cũng là nghệ thuật, vì vậy việc dạy văn địi hỏi người giáo viên phải
vận dụng nhiều kĩ năng, trong đó khơng chỉ là kiến thức mà địi hỏi cả sự sáng
tạo, linh hoạt của người giáo viên ở mỗi bài dạy cụ thể. Sự chuẩn bị kĩ càng
cho việc lên lớp của người giáo viên từ khâu chuẩn bị - tức là phần thiết kế bài
dạy - là một trong những yếu tố góp phần khơng nhỏ vào hiệu quả của tiết học,
đặc biệt là trong việc vận dụng và phát huy tối đa công năng của các phương
pháp dạy học tích cực trong việc giáo dục KNS cho HS.
Trước thực tế đó, tơi đã tiến hành khảo sát tìm hiểu về phía HS. Cụ thể, tơi
đã phát câu hỏi cho học sinh ở ba lớp 10 mà tôi phụ trách giảng dạy, để cho
các em phát biểu những cảm nhận của mình về những tác dụng của bài học
trong việc rèn luyện KNS. Kết quả cụ thể như sau:

STT

1

NỘI DUNG CÂU HỎI
Theo em, học Văn có giúp em nâng
cao khả năng nhận thức khơng?

KẾT QUẢ
- Có
- Có nhưng
khơng thực tế.

83/132
49


2

67

Theo em, học Văn có giúp em điều

Khơng

4

chỉnh hành vi khơng?

Khơng biết

(Khơng trả lời)

3

Theo em, học Văn có ý nghĩa khơng?



41
132/132


4

Theo em, học Văn có cần thiết khơng?

Cần

73

Khơng cần

59

Qua kết quả khảo sát, tơi nhận thấy có sự mâu thuẫn trong nhận thức của
HS khi các em nhận định văn học là mơn học bổ ích, có ý nghĩa nhưng có đến
37,12% HS cho rằng học văn có giúp em nâng cao khả năng nhận thức nhưng
khơng thực tế vì các tác phẩm văn học toàn phản ánh những cái đã qua nên chỉ
giúp các em nhìn nhận lại quá khứ mà không giúp các em hội nhập với cuộc
sống hiện đại. Thậm chí có đến 31,1% HS khơng biết là học Văn có giúp em

điều chỉnh hành vi của mình hay khơng và 44,70% HS kết luận khơng cần học
mơn Văn là một tỉ lệ khơng nhỏ. Từ đó ta dễ dàng nhận ra HS cảm nhận được
Văn là mơn học có ý nghĩa nhưng cịn mơ hồ về khả năng áp dụng thực tiễn
của môn học này. Thực tế ấy khiến người giáo viên dạy Văn không khỏi không
suy nghĩ.
Từ thực trạng trên, để việc dạy học môn Văn nói chung và giảng dạy mơn
Văn ở chương trình lớp 10, lớp đầu cấp của khối THPT - HS cịn nhiều bỡ ngỡ,
đạt hiệu quả, hấp dẫn, lơi cuốn và tác động tích cực hơn đối với HS nhằm giáo
dục KNS cho các em, chúng tôi đã mạnh dạn cải tiến nội dung, phương pháp
dạy học để nâng cao chất lượng giờ dạy bằng việc áp dụng một số phương
pháp dạy học như: dạy học nhóm, dạy học theo dự án và dạy học thơng qua trị
chơi nhằm giúp cho HS phát triển và rèn luyện những kĩ năng cần thiết để hội
nhập cuộc sống một cách chủ động hơn.
Mơn Ngữ Văn ở trường phổ thơng nói chung và trường trung học phổ
thơng (THPT) nói riêng có vai trị quan trọng trong việc thực hiện mục tiêu
giáo dục trong xu thế mới. Do đặc trưng của bộ môn, Văn học khơng chỉ giúp
HS nhận thức mà cịn có khả năng điều chỉnh hành vi cũng như nâng cao cảm
quan thẩm mĩ để hướng đến định hình và hồn thiện nhân cách của mình. Như
vậy, việc giáo dục KNS cho HS khơng phải đến nay mới có mà vấn đề là bằng
những phương pháp giảng dạy tích cực giáo viên sẽ giúp HS nâng cao KNS
của mình một cách nhẹ nhàng nhưng hết sức sâu sắc.


Từ thực tế dạy học qua nhiều năm và việc rút kinh nghiệm của bản thân
trong quá trình giảng dạy, cũng là để trao đổi với các đồng nghiệp giảng dạy
Ngữ Văn về hướng áp dụng các phương pháp dạy học tích cực để giáo dục
KNS cho HS lớp 10, khối lớp đầu cấp THPT, tơi mạnh dạn trình bày đề tài
“Giáo dục kĩ năng sống cho học sinh qua một số phương pháp dạy học tích cực
trong chương trình Ngữ Văn lớp 10 trung học phổ thông” mà bản thân tơi nhận
thấy có hiệu quả trong q trình thực hiện.

II. TỔ CHỨC THỰC HIỆN
1. Cơ sở lí luận
1.1. Quan niệm về kĩ năng sống
Theo WHO (1993) “Năng lực tâm lí xã hội là khả năng ứng phó một
cách có hiệu quả với những yêu cầu và thách thức của cuộc sống. Đó cũng là
khả năng của một cá nhân để duy trì một trạng thái khỏe mạnh về mặt tinh
thần, biểu hiện qua hành vi phù hợp và tích cực khi tương tác với người khác,
với nền văn hóa và mơi trường xung quanh. Năng lực tâm lí xã hội có vai trị
quan trọng trong việc phát huy sức khoẻ theo nghĩa rộng nhất về mặt thể chất,
tinh thần và xã hội. KNS là khả năng thể hiện, thực thi năng lực tâm lí xã hội
này”.
Theo UNICEF, giáo dục dựa trên KNS cơ bản là sự thay đổi trong hành
vi hay một sự phát triển hành vi nhằm tạo sự cân bằng giữa kiến thức, thái độ
và hành vi. Ngắn gọn nhất đó là khả năng chuyển đổi kiến thức (phải làm gì)
và thái độ (ta đang nghĩ gì, cảm xúc như thế nào, hay tin tưởng vào giá trị nào)
thành hành động (làm gì và làm như thế nào).
Như vậy, KNS chính là năng lực của mỗi người giúp giải quyết những
nhu cầu và thách thức của cuộc sống một cách có hiệu quả. Việc đưa giáo dục
KNS vào nhà trường cho thấy mục tiêu của giáo dục trong thời kì mới chú
trọng tính hữu dụng, thiết thực của chương trình nhà trường, đồng thời tăng
khả năng đáp ứng yêu cầu đào tạo con người mới năng động, tích cực, tự tin,
hội nhập thành cơng trong xã hội.


Mục tiêu và nội dung môn Ngữ Văn đã chứa đựng những yếu tố của giáo
dục KNS, phù hợp với các nội dung cơ bản của giáo dục KNS, bao gồm kĩ
năng tư duy sáng tạo, kĩ năng hợp tác nhóm, kĩ năng giao tiếp,... phù hợp với
cách tiếp cận làm thay đổi hành vi của người học trên cơ sở nhận thức về các
nội dung của môn Ngữ Văn. Nhiều bài học của môn Ngữ Văn hướng đến việc
giúp HS nhận thức được các giá trị trong cuộc sống, hình thành lối sống, cách

ứng xử có văn hóa trong các tình huống đa dạng của cuộc sống. Mặt khác, các
KNS cịn được giáo dục thơng qua phương pháp học tập tích cực, dựa trên sự
tương tác giữa nội dung bài học với những hiểu biết, kinh nghiệm vốn có của
bản thân người học và quá trình đối thoại, tương tác người học với nhau để
thực hành, vận dụng linh hoạt vào các tình huống trong cuộc sống phù hợp với
lứa tuổi của các em.
1.2. Đặc điểm của các phương pháp
Phát biểu tại buổi tọa đàm “Đổi mới phương pháp giảng dạy” do báo Tuổi
Trẻ phối hợp với Sở Giáo Dục - Đào Tạo TP.Hồ Chí Minh tổ chức chiều
17/11/2010, Phó thủ tướng – nguyên Bộ trưởng Bộ GD-ĐT Nguyễn Thiện
Nhân nhấn mạnh: “Đổi mới phương pháp không phải lấy từ trên xuống mà
phải từ dưới lên để thúc đẩy bộ máy”. Đồng tình với quan điểm này, các đại
biểu tham gia buổi tọa đàm đều khẳng định giáo viên chính là chủ thể đổi mới,
là người chủ động tìm ra phương pháp giảng dạy mới. Tuy nhiên áp dụng các
phương pháp mới không đồng nghĩa với việc loại bỏ phương pháp truyền
thống. Tiết học có hiệu quả, hấp dẫn, lôi cuốn hay không phụ thuộc vào sự linh
động, sáng tạo của người giáo viên trong việc lựa chọn, vận dụng các phương
pháp sao cho phù hợp với đặc trưng thể loại và nội dung của từng bài học. Vì
thế có thể nói mỗi phương pháp đều có những điểm khả thủ riêng mà người
giáo viên bằng kinh nghiệm và năng lực của mình phải lựa chọn, ứng dụng sao
cho hiệu quả nhất. Trong khuôn khổ một sáng kiến kinh nghiệm, người viết chỉ
trình bày một số vận dụng mà bản thân nhận thấy có hiệu quả tích cực trong
giáo dục KNS cho HS ở ba phương pháp: dạy học nhóm, dạy học theo dự án và
phương pháp trị chơi.


1.2.1. Phương pháp dạy học nhóm
Dạy học theo nhóm là một hoạt động học tập có sự phân chia học sinh
theo từng nhóm nhỏ với đủ thành phần khác nhau về trình độ, cùng trao đổi ý
tưởng, một nguồn kiến thức dựa trên cơ sở hoạt động tích cực của từng cá

nhân. Từng thành viên của nhóm khơng chỉ có trách nhiệm với việc học tập của
mình mà cịn có trách nhiệm quan tâm đến việc học tập của các thành viên
trong nhóm.
Hoạt động nhóm hợp lí, tích cực sẽ giúp HS rèn luyện các kĩ năng: đảm
nhận trách nhiệm, hợp tác, chia sẻ, thương lượng, giải quyết mâu thuẫn, giải
quyết vấn đề,...
1.2.2. Phương pháp dạy học theo dự án
Dạy học theo dự án (DHDA) có nguồn gốc từ châu Âu (thế kỉ 16, ở Ý và
Pháp). Đầu thế kỉ 20, các nhà sư phạm Mỹ đã xây dựng cơ sở lí luận cho
DHDA (Richard, J.Dewey,.v.v.), và coi đó là PPDH quan trọng để thực hiện
quan điểm dạy học định hướng vào người học, nhằm khắc phục nhược điểm
của dạy học truyền thống coi GV là trung tâm.
DHDA là phương pháp trong đó cá nhân hay nhóm người học thiết lập
một dự án có nội dung gắn kết với nội dung học tập. Dựa vào tri thức, kinh
nghiệm và kĩ năng vốn có, trên cơ sở phân tích thực tiễn thuộc phạm vi học
tập, cùng với tài liệu, phương tiện, người học đề xuất ý tưởng, thiết kế dự án,
soạn thảo và hoàn chỉnh dự án.
Trong DHDA, người học tham gia tích cực và tự lực vào các giai đoạn của
q trình dạy học, từ việc xác định mục đích, lập kế hoạch đến việc thực hiện
dự án. Vì thế DHDA là một PPDH tích cực, hữu hiệu phát huy được năng lực
của HS, đồng thời rất ưu việt trong giáo dục KNS cho các em. Thực hiện
DHDA, HS làm việc theo nhóm để giải quyết những vấn đề có thực mang tính
thách đố, dựa trên bài học và thường có tính liên mơn. Vì vậy, đặc điểm này
cịn được gọi là học tập mang tính xã hội. Các dự án học tập góp phần gắn liền
nhà trường với thực tiễn đời sống xã hội và có thể mang lại những tác động xã


hội tích cực. DHDA khơng chỉ rèn luyện cho HS các kĩ năng sống cần thiết mà
còn tạo ra các sản phẩm cụ thể. Các sản phẩm của dự án khơng giới hạn trong
những thu hoạch lí thuyết mà trong đa số trường hợp, các dự án học tập tạo ra

những sản phẩm vật chất của hoạt động thực tiễn, thực hành.
1.2.3. Phương pháp trị chơi
A.I Xơrơkina đã đưa ra một luận điểm vô cùng quan trọng về đặc thù của
dạy học kết hợp với trò chơi: “Trò chơi học tập là một q trình phức tạp, nó là
hình thức dạy học và đồng thời nó vẫn là trị chơi… Khi các mối quan hệ chơi
bị xóa bỏ, ngay lập tức trò chơi biến mất và khi ấy, trò chơi biến thành tiết học,
đôi khi biến thành sự luyện tập”. Vì vậy có thể kết luận: học và chơi là hai việc
khơng loại trừ lẫn nhau. Trị chơi có thể được điều chỉnh cho phù hợp với hầu
hết các chủ đề hoặc đề tài trong nội dung học tập.
Bản chất của phương pháp sử dụng trò chơi học tập là dạy học thông qua
việc tổ chức hoạt động cho học sinh. Dưới sự hướng dẫn của GV, HS được
hoạt động bằng cách tự chơi trị chơi trong đó mục đích của trò chơi chuyển tải
mục tiêu của bài học. Luật chơi (cách chơi) thể hiện nội dung và phương pháp
học, đặc biệt là phương pháp học tập có sự hợp tác và sự tự đánh giá.
Trò chơi học tập khác với trò chơi khác là ở chỗ, nhiệm vụ nhận thức và
luật chơi trong trò chơi đòi hỏi người chơi phải huy động trí óc làm việc thực
sự nhưng chúng lại được thực hiện dưới hình thức chơi vui vẻ, thú vị (chơi là
phương tiện, học là mục đích). Học trong quá trình chơi là quá trình lĩnh hội tri
thức nhẹ nhàng, tự nhiên khơng gị bó, khơi dậy hứng thú tự nguyện và giảm
thiểu sự căng thẳng cho HS. Học tập thơng qua trị chơi sẽ giúp HS ghi nhớ tri
thức dễ dàng và bền vững hơn.
Trò chơi học tập giúp học sinh lĩnh hội những tri thức và kĩ năng khác
nhau mà khơng có chủ định từ trước. Đồng thời, giúp người học cảm nhận
được một cách trực tiếp kết quả hành động của mình, từ đó thúc đẩy tính tích
cực, mở rộng, củng cố và phát triển vốn hiểu biết của người học.


Phương pháp trò chơi được sử dụng trong học tập để hình thành kiến thức,
kĩ năng mới hoặc củng cố kiến thức, kĩ năng đã học. Trong thực tế dạy học,
GV thường tổ chức trò chơi học tập để củng cố kiến thức, kĩ năng. Tuy nhiên

việc tổ chức cho học sinh chơi các trị chơi để hình thành kiến thức, kĩ năng
mới là rất cần để tạo hứng thú học tập cho học sinh ngay từ khi bắt đầu bài học
mới. Việc tạo ra các trò chơi mà học không chỉ giúp HS khắc sâu tri thức, nâng
cao nhận thức mà còn tăng cường các KNS cho HS như: biết ứng xử linh hoạt,
quan hệ tích cực và hợp tác,...
2. Nội dung, biện pháp thực hiện các giải pháp của đề tài
2.1. Phương pháp dạy học nhóm
PPDH nhóm rất đa dạng từ cách chọn chủ đề cần thảo luận cho đến cách
phân chia nhóm, cho nên GV có thể vận dụng linh hoạt tùy theo từng mục tiêu
và đặc trưng của bài học.
Trong PPDH nhóm, có rất nhiều cách phân chia nhóm khác nhau. Nếu
hoạt động nhóm diễn ra trên lớp học thì nên tạo các nhóm nhỏ, tối đa 10 HS
một nhóm, để HS có điều kiện thảo luận với nhau. Các nhóm này cũng khơng
nên trùng lặp trong suốt quá trình dạy của GV. Việc phân chia nhóm linh hoạt
sẽ giúp HS hứng thú hơn, đồng thời tạo cơ hội cho các HS được học hỏi, giao
lưu với các bạn trong lớp. Ví dụ như GV có thể chia nhóm theo cách gộp hai
bàn kế nhau làm một nhóm, với mơ hình lớp học phổ biến trong trường phổ
thơng ở Việt Nam hiện nay thì cách chia này hiệu quả vì HS dễ dàng xoay
chuyển để thảo luận cùng nhau; hoặc trong trường hợp vấn đề cần thảo luận
khơng q khó ta có thể chia nhóm theo đơn vị một bàn là một nhóm; ngồi ra
cũng có thể chia nhóm theo ngày sinh, theo sở thích, theo đặc điểm,... hoặc cho
HS bốc thăm tạo nhóm theo các chủ đề như: trái cây, các loại hoa, cây cối, tên
địa danh thắng cảnh,...
Việc lựa chủ đề thảo luận cũng là một nhân tố quyết định đến việc phân
chia nhóm. Nếu vấn đề thảo luận lớn, cần dung lượng thời gian nhiều để tìm
kiếm thơng tin, phân tích, tổng hợp thì GV khơng nên cho thảo luận trên lớp.


Bởi khi đó việc thảo luận sẽ chỉ là hình thức. Nhưng cũng khơng phải bất kì
vấn đề nào cũng tạo nhóm thảo luận trước bởi có những vấn đề GV có thể u

cầu HS tìm hiểu cá nhân trước sau đó khi lên lớp mới tạo nhóm để cho HS thảo
luận, thống nhất ý kiến trên cơ sở nội dung tìm hiểu của các cá nhân.
Đối với những bài văn học sử như: Tổng quan văn học Việt Nam, Khái
quát văn học dân gian Việt Nam, Khái quát văn học Việt Nam từ thế kỉ X đến
hết thế kỉ XIX, Nguyễn Trãi, Nguyễn Du,... GV có thể cho HS thảo luận nhóm
trước để tìm hiểu vấn đề, thống nhất ý kiến và trình bày trong buổi học. Bằng
hình thức thảo luận nhóm, các bài học này sẽ bớt khơ khan và HS cũng dễ tiếp
nhận hơn vì đã thảo luận và tìm hiểu từ trước. Vấn đề của GV là phải đưa ra
những yêu cầu cụ thể để HS không thể thảo luận chiếu lệ mà thực sự phải tìm
tịi, động não và tranh luận thì bài học mới được lĩnh hội dễ dàng hơn, sâu sắc
hơn và các KNS từ đó cũng được gia tăng.
Chẳng hạn khi dạy bài Khái quát văn học Việt Nam từ thế kỉ X đến hết thế
kỉ XIX, tôi chia lớp thành bốn nhóm và u cầu mỗi nhóm tìm hiểu một giai
đoạn phát triển của văn học Việt Nam tương ứng với nội dung bài học:
Nhóm 1: Giai đoạn văn học từ thế kỉ X đến hết thế kỉ XIV.
Nhóm 2: Giai đoạn từ thế kỉ XV đến hết thế kỉ XVII.
Nhóm 3: Giai đoạn từ thế kỉ XVIII đến nửa đầu thế kỉ XIX.
Nhóm 4: Giai đoạn nửa cuối thế kỉ XIX.
u cầu: Mỗi nhóm cần chỉ ra được hồn cảnh lịch sử, các đặc điểm chính
về nội dung và thành tựu về nghệ thuật của giai đoạn đó. Ngồi ra, GV cần lưu
ý là HS phải chỉ ra được mối liên hệ giữa hoàn cảnh lịch sử và văn học. Đồng
thời, khuyến khích HS có dẫn chứng hoặc hình ảnh minh họa.
Thế nhưng khi dạy các tiết về tác giả: Nguyễn Du, Nguyễn Trãi, tơi vẫn
chia lớp thành bốn nhóm nhưng yêu cầu chung là các nhóm phải thảo luận và
tìm ra những điểm chính về cuộc đời và sự nghiệp thơ văn của tác giả, trình
bày bằng PowerPoint, sưu tầm các dẫn chứng và hình ảnh minh họa.
Khi yêu cầu khác nhau thì việc tổ chức dạy học dĩ nhiên cũng khơng thể
giống nhau. Nếu mỗi nhóm đảm nhận một u cầu khác nhau thì khi một nhóm
lên trình bày, nhiệm vụ của các nhóm khác là theo dõi, đặt câu hỏi để làm sáng



tỏ vấn đề và ghi nhận những nội dung thống nhất. Cịn nếu các nhóm cùng thảo
luận một vấn đề, GV lại phải theo dõi và xem xét sản phẩm của các nhóm trước
khi lên lớp. Nếu tất cả các nhóm đều làm tốt thì GV cho tiến hành bốc thăm
trình bày. Khi nhóm thứ nhất lên trình bày thì nhiệm vụ của các nhóm cịn lại
là phải theo dõi, đặt câu hỏi cho nhóm được trình bày nếu thấy vấn đề được
trình bày chưa rõ và có thể dùng bài soạn của nhóm mình để trình bày minh
họa bổ sung cho những luận điểm mà nhóm đã được trình bày cịn thiếu. Nếu
kết quả cơng việc của các nhóm có độ chênh lớn thì GV có thể chọn nhóm nổi
trội hơn trình bày. Nếu thời gian cho phép, GV cũng có thể cho các nhóm lần
lượt trình bày để HS có sự đối chiếu cụ thể. Tuy nhiên, nếu muốn giờ dạy có
hiệu quả hơn thì GV nên theo dõi q trình hồn thiện sản phẩm của HS để có
những gợi ý cho HS điều chỉnh phù hợp. Dĩ nhiên là để phát huy năng lực sáng
tạo của HS, GV chỉ gợi ý, khuyến khích, động viên chứ khơng nên gị ép HS
theo ý của mình.
Điều quan trọng là sau khi HS trình bày, thảo luận bao giờ GV cũng phải
có phần nhận xét, chốt ý và có những câu hỏi gợi mở, dẫn dắt để giúp HS hiểu
rõ hơn những nội dung chưa được thể hiện, hoặc thể hiện chưa sâu.
PPDH nhóm khơng phải là phương pháp hồn toàn mới, ngay từ khi Bộ
Giáo Dục chủ trương: dạy học tích cực, lấy HS làm trung tâm, PP này đã được
sử dụng rộng rãi bởi đây là một PP ưu việt trong việc thúc đẩy HS tự chiếm
lĩnh kiến thức. Tuy nhiên có nhiều giờ học, GV chỉ sử dụng PPDH nhóm chiếu
lệ, khơng phát huy được hết tác dụng của PP này. Nghĩa là GV vẫn tổ chức
hoạt động nhóm nhưng thực sự các thành viên trong nhóm có hợp tác với nhau
khơng thì GV khơng kiểm sốt. Hoặc có nhiều GV lại quá lạm dụng, mỗi hoạt
động đều tổ chức thảo luận nhóm khiến HS rất áp lực, giờ học cũng trở nên
nhàm chán. Điều này dẫn tới việc HS đối phó bằng cách đem sách giải ra chép
để trả lời. Hơn nữa với tiêu chí lồng ghép giáo dục KNS cho HS bằng chiến
thuật mưa dầm thấm lâu thì GV cần phải lựa chọn PP hợp lí để phát huy tác
dụng của PP và có những biện pháp để tất cả các thành viên trong nhóm đều

phải hợp tác tham gia và có cơ hội rèn luyện KNS như nhau.


Ngồi ra, GV cũng nên có những u cầu cụ thể với mức độ lũy tiến về độ
khó để phát triển đồng đều KNS của tất cả HS trong lớp. Chẳng hạn như khi
dạy bài Truyện An Dương Vương và Mị Châu, Trọng Thủy, với những vấn đề
như: Bàn luận về chi tiết ngọc trai -giếng nước, chi tiết An Dương Vương
chém đầu con gái, chi tiết An Dương Vương cầm sừng tê bảy tấc... đi xuống
biển, GV có thể chia nhóm nhỏ theo kiểu đơi bạn hoặc ba em một nhóm nhưng
phải trình bày theo kiểu bàn trịn. Nghĩa là các thành viên trong nhóm phải phối
hợp để cùng trình bày chứ khơng phải chỉ cử một HS lên trình bày mà thơi. Và
trong q trình HS trình bày, GV nên khuyến khích các nhóm khác tham gia
thảo luận để bảo vệ quan điểm của mình. Đồng thời khi nhận xét cho điểm GV
cũng nên hướng các em đến các kĩ năng xử lí tình huống như là: khơng trừ
điểm nếu HS không trả lời được câu hỏi của HS khác nhưng có cách xử lí hay.
Chẳng hạn như HS biết cách chất vấn ngược lại, hoặc tìm cách hứa hẹn trả lời
sau,...Với những giải pháp này, HS sẽ dạn dĩ hơn, xử lí tình huống nhanh hơn,
đồng thời cũng hạn chế được việc HS tìm cách né tránh hoặc đùn đẩy trách
nhiệm cho bạn trong nhóm.
Nhưng cũng có những vấn đề thảo luận ngay trên lớp, trong một thời gian
có hạn mà GV lại muốn HS thống nhất ý kiến trên cơ sở mọi thành viên đều có
ý kiến riêng thì lúc đó ta có thể áp dụng kĩ thuật khăn trải bàn trong việc tổ
chức thực hiện hoạt động nhóm. Ví dụ như cũng trong bài Truyện An Dương
Vương và Mị Châu, Trọng Thủy, nhưng với yêu cầu thảo luận: Cảm nhận của
em về những bài học được gửi gắm trong tác phẩm? GV có thể chuẩn bị những
tờ giấy khổ lớn và yêu cầu mỗi thành viên trong nhóm đều phải ghi ý kiến
riêng của mình ở các ơ xung quanh, sau đó thống nhất ý kiến của cả nhóm và
ghi vào giữa. Với cách này mỗi HS đều được thể hiện chính kiến của mình,
đồng thời vẫn phải hợp tác, tranh luận để đi đến thống nhất lựa chọn ý kiến
chung.

2.2. Phương pháp dạy học theo dự án


PPDH theo dự án là một trong những PP ưu việt trong việc phát huy năng
lực tư duy sáng tạo của chủ thể - trò, đồng thời lồng ghép được KNS hợp lí, tự
nhiên. Đây là phương pháp dạy học kết hợp có hiệu quả việc sử dụng máy tính
với các chương trình dạy học hiện có, giúp các GV phát huy khả năng sáng tạo
của mình và phát triển trí tưởng tượng của HS ra ngồi phạm vi học đường,
học tập kết hợp với thực hành.
Để thực hiện PPDH này, trước hết GV phải chuẩn bị một kế hoạch bài
dạy cụ thể, chi tiết. Hồ sơ và các bước thực hiện bao gồm:
 Bước 1:
-

Kế hoạch bài dạy với các mục tiêu học tập của học sinh đáp ứng yêu cầu
về kiến thức, kĩ năng của chương trình do Bộ Giáo Dục và Đào Tạo quy
định.

-

Thu thập tư liệu, thiết kế bài trình bày đa phương tiện của GV.

-

Thiết lập các tiêu chí đánh giá cho bài trình bày đa phương tiện của học
sinh.

-

Bài trình bày, bài báo, tờ giới thiệu, hoặc trang web,… của GV hỗ trợ

cho bài dạy.

 Bước 2:
-

Hướng dẫn HS cách thiết kế các bài trình bày đa phương tiện:
PowerPoint, cách sử dụng phần mềm làm phim: Windows Movie Maker
hoặc Corel Video Studio,...

-

Gợi ý cho HS hình thành ý tưởng, chọn vai.

 Bước 3:
- Theo dõi quá trình thực hiện dự án của HS.
- Gợi ý cho HS điều chỉnh để có sản phẩm tốt hơn.
 Bước 4:
- Thực hiện giờ dạy:


HS các nhóm trình bày.



GV nhận xét, củng cố nội dung bài học theo từng phần, dùng những câu
hỏi gợi mở để HS các nhóm thảo luận đưa ra ý kiến, sử dụng bài trình
bày đa phương tiện để chốt ý.





Đánh giá, cho điểm.
Lưu ý là khi xây dựng dự án, khâu chọn vai rất quan trọng. Nếu vai trò

đảm nhiệm q khó hoặc nếu vai khơng phù hợp HS cũng khó mà thực thi
được nhiệm vụ của mình. Chẳng hạn như khi dạy bài Trình bày một vấn đề,
GV có thể cho trước một số vấn đề để HS lựa chọn. Sau khi HS thống nhất
chọn đề tài, GV cho HS tìm vai thích hợp. Nếu đề tài là: Thời trang cuộc sống
hoặc Thời trang học đường thì HS có thể vào vai nhà thiết kế thời trang, phóng
viên chuyên mục thời trang,... Nếu đề tài là: Vấn đề bạo lực học đường, Tuổi
trẻ và tình yêu,... HS cũng có thể vào vai phóng viên, biên tập viên, chuyên gia
tâm lí,...Và quan trọng là sau khi trình bày HS phải rút ra được các bước thực
hiện trình bày và xác định được tầm quan trọng của việc trình bày một vấn đề.
Bên cạnh đó, GV nhất thiết phải có một bài trình bày để hệ thống kiến
thức cho HS nếu không PPDH này sẽ phản tác dụng. Mặc dù thực hiện PPDH
theo dự án HS rất hứng thú nhưng nếu GV q lạm dụng hoặc phó thác hồn
tồn vào HS thì có thể sẽ làm cho HS khơng nắm được kiến thức một cách hệ
thống. Từ đó dẫn tới việc HS phải sử dụng sách giải hoặc đi học thêm để tự
tích lũy kiến thức cho mình, để đối phó với thầy cơ và gia đình.
Tóm lại, với PPDH theo dự án GV sẽ chỉ là người hướng dẫn, định hướng
việc tìm hiểu cũng như chiếm lĩnh nội dung kiến thức trong bài học của học
sinh. HS chính là người thiết kế dự án, lên kế hoạch, thiết lập ý tưởng, tìm
hiểu, phân tích và thể hiện nội dung bài học trong sự tương tác lẫn nhau. Với
PP này bài học luôn luôn mới, đặc biệt trong thời đại hiện nay, chỉ với một
chiếc máy tính ta đã có “cả thế giới trong tầm tay” thì HS hồn tồn có khả
năng thể hiện những bài học đa dạng. Ngồi ra, với PPDH theo dự án này HS
cịn có thể tạo ra các ấn phẩm bên cạnh những bài trình chiếu.
2.3. Phương pháp trò chơi
PP trò chơi thường được tổ chức đầu tiết dạy để tạo tâm thế hứng thú cho
HS đi vào tìm hiểu bài học hoặc để kiểm tra những kiến thức đã học qua, hoặc

sử dụng ở cuối giờ để củng cố nội dung bài học. Nhưng GV cũng có thể thực


hiện PP trò chơi này ở giữa tiết học để nối kết các hoạt động của bài học; tạo sự
chuyển ngoặt sơi nổi, hợp lí. Đặc biệt là GV có thể tổ chức các trị chơi trong
các bài ơn tập nhằm củng cố, khắc sâu và hệ thống các kiến thức đã học theo
những đơn vị nhất định.
Việc tổ chức hình thức chơi rất đa dạng, cũng là câu hỏi trắc nghiệm
nhưng GV có thể cho HS thi đua dưới hình thức Ai nhanh hơn, Ai tài thế,...
hoặc cũng có thể mơ phỏng các trị chơi do đài truyền hình tổ chức như: Rung
chuông vàng, Chung sức, Đấu trường 100, Đuổi hình bắt chữ,... Ví dụ như sau
bài học GV cho 5 câu hỏi củng cố. Nếu GV muốn tính điểm cho cả lớp và tất
cả các HS đều tham gia thì tổ chức theo hình thức là mỗi câu hỏi tất cả các HS
đều trả lời cho đến kết quả cuối cùng. Nhưng nếu GV chỉ tính điểm cho những
HS nào trả lời đến đích cuối cùng thì có thể cho loại dần bằng cách chỉ cho
phép những HS nào có câu trả lời đúng mới được trả lời câu hỏi kế tiếp, còn
HS trả lời sai sẽ phải dừng lại. Nếu GV muốn phân loại HS thì có thể chỉ cho 3
đến 4 câu hỏi trắc nghiệm, còn lại là câu hỏi suy luận có độ khó cao để phân
định điểm số của HS.
Luật chơi phụ thuộc nội dung và mục đích. Bởi cùng một nội dung nhưng
có thể chơi với nhiều cách khác nhau như ghép đáp án đúng, ghép tranh đốn
nội dung, đi tìm kho báu bằng cách qua mỗi chặng thử thách là một câu hỏi,
giải ô chữ,...
Người tổ chức chơi thông thường là GV, nhưng trong một số trường hợp
GV có thể gợi ý, khuyến khích các em xây dựng trị chơi. Ví dụ đối với các bài
học có ứng dụng PPDH nhóm hoặc DH dự án, tơi khuyến khích các em xây
dựng trị chơi củng cố sau phần trình bày của mình. Kết quả rất khả quan, HS
các nhóm theo dõi tập trung vào bài trình bày của bạn hơn để có thể trả lời câu
hỏi của các nhóm, HS thích thú hơn khi được tham gia trị chơi do chính bạn
mình thiết kế, trị chơi càng độc đáo thì sự phấn khích của HS càng cao, các HS

trong nhóm cũng gắn kết hơn, chủ động sáng tạo trong việc thiết kế các trò
chơi.
PP này đặc biệt ứng dụng hiệu quả ở các bài ơn tập. Vì những kiến thức ở
bài học này HS đều đã học qua, vấn đề là kiến thức phải được hệ thống lại và


nâng cao hơn. Nhưng nếu GV sử dụng cách dạy lâu nay như nêu vấn đề hay
phát vấn thơi thì HS rất thụ động. Áp dụng PP trò chơi cho bài ơn tập, tơi phân
khối lượng bài cho từng nhóm để tránh trùng lặp, yêu cầu đặt ra là HS các
nhóm phải thiết kế một trị chơi sử dụng tồn bộ các bài được giao để đặt câu
hỏi, ngoài ra phải ơn tập lại các nội dung cịn lại để tham gia trị chơi của nhóm
khác. Đặc biệt phải giới hạn thời gian để HS thiết kế trò chơi phù hợp. Điểm số
của mỗi HS được tính bằng tổng điểm của q trình tham gia thảo luận trong
nhóm, những cơng việc đã làm, biểu hiện trên lớp học (có tham gia điều hành
cùng nhóm mình khơng, có trả lời tốt câu hỏi của nhóm khác khơng,...).
Tuy nhiên để HS làm tốt vai trị của mình, GV phải có những chỉ dẫn cụ
thể như đưa ra những hình thức chơi mà HS có thể áp dụng và hình dung ra
phải áp dụng như thế nào, cách thiết kế câu hỏi,... Bên cạnh đó, GV cũng phải
kiểm tra trước hệ thống câu hỏi HS các nhóm đã xây dựng để giúp HS có
những điều chỉnh đúng hướng, đáp ứng yêu cầu của bài học. Dĩ nhiên là GV
cũng chỉ dẫn dắt, góp ý chứ không nên áp đặt hay cầm tay chỉ việc để HS được
phát huy khả năng sáng tạo của mình. GV có thể cho HS các nhóm lần lượt
triển khai trị chơi của mình rồi GV chốt lại cuối cùng nhưng cũng có thể xen
kẽ phần thực hiện của HS với phần củng cố của GV.
Với phương pháp trò chơi này, không những việc học trở nên hứng thú
hơn mà HS còn được rèn luyện nâng cao các kĩ năng khác như: hợp tác, tổ
chức, dẫn dắt vấn đề, xử lí tình huống,... Nhưng khi tổ chức hình thức dạy học
bằng PP trò chơi, GV phải nghĩ ra các hình thức chế tài nhất định để HS chơi
trong luật, có ổn định trật tự bởi với mơ hình lớp học trong trường phổ thông
của chúng ta hiện nay rất khó cho GV khi tổ chức PP này mà khơng ảnh hưởng

đến các lớp học xung quanh. Đây cũng là điều mà người viết gặp khó khăn
nhất khi tổ chức dạy học bằng PP trò chơi, bởi khi đã chơi là có thắng - thua vì
vậy HS dễ phấn khích và ồn ào hơn các giờ học thơng thường, ngồi ra cũng
khơng ngoại trừ trường hợp HS cố tình gây rối. Dù có những khó khăn nhất
định, nhưng đây vẫn là một trong những PP rất hiệu quả trong việc tạo hứng
thú cho HS trong giờ học môn Văn và rèn luyện KNS hữu hiệu cho các em.


2.4. Thiết kế tiết dạy minh họa: Tiết 99 - Làm văn

VIẾT QUẢNG CÁO
Mục tiêu
bài dạy:

-

Khái niệm văn bản quảng cáo, vai trò của quảng cáo
trong đời sống.

-

Yêu cầu và cách viết quảng cáo cho một sản phẩm hoặc
một dịch vụ.
Biết lựa chọn hình thức quảng cáo phù hợp với nội dung
quảng cáo.
Biết viết các văn bản quảng cáo thông thường.

 Kiến thức

 Kĩ năng


-

-

Yêu cầu về
kiến thức của
học sinh

1. Kiến thức về CNTT: HS biết soạn thảo văn bản, biết cách
tìm thơng tin, biết sử dụng các phần mềm, biết xử lí thơng
tin và thiết kế bài học.
2. Kiến thức chung về môn học: HS nắm được cách hành văn,
cách sử dụng từ ngữ chọn lọc, và đặc điểm của quảng cáo.

Yêu cầu về
trang thiết bị
dạy học

1. Trang thiết bị/Đồ dùng dạy học liên quan đến CNTT:

Chuẩn bị việc
giảng dạy

1. Phần chuẩn bị của Giáo viên: Thu thập các loại tư liệu về
quảng cáo; chụp hình các panơ, áp phích, tờ rơi; cắt một số
quảng cáo tĩnh và động trên web, hướng dẫn HS cách làm
bài, chia nhóm, giúp HS hình thành ý tưởng; duyệt bài, góp
ý cho HS cách thực hiện, trình bày.
2. Phần chuẩn bị của Học sinh: Tất cả học sinh đều soạn bài


a. Phần cứng: Máy tính, máy chiếu, máy chụp hình kĩ thuật
số, máy quay phim (điện thoại).
b. Phần mềm: MS Word, MS PowerPoint, Windows Media
Player, Herosoft, SnagIt 7, Hot Potatoes 6, eMindMaps…
2. Những đồ dùng dạy học khác: Bảng, phấn màu, áp phích,
panơ, tờ rơi, quảng cáo…


vào vở theo cách chia trang vở làm hai: nội dung chính ghi
bên phải tập, phần bên trái để trống dùng để bổ sung nội
dung khi lên lớp; cả 3 nhóm đều phải họp nhóm, thiết lập ý
tưởng, sưu tập thông tin và thiết kế bài; nhiệm vụ các thành
viên và công việc mà mỗi thành viên đã làm được phải
được ghi lại một cách chi tiết.
Kế hoạch giảng 1. Dẫn nhập
- Kiểm tra bài cũ
dạy
- Giới thiệu bài mới: Thời đại công nghiệp, quảng cáo mọi
nơi mọi lúc. Vậy quảng cáo là gì? Làm thế nào để quảng
cáo hiệu quả?
2. Bài mới
Hoạt động của GV & HS

Nội dung cần đạt

 Hoạt động 1: Giáo
viên giới thiệu cấu trúc
bài, nêu u cầu về nhiệm
vụ của từng nhóm.


Hoạt
động
2:
Nhóm 1 lên trình bày
nội dung phần I (Vai trò
và yêu cầu chung của
văn bản quảng cáo).
Yêu cầu phải nêu được:
 Văn bản quảng cáo ở
đâu? (Ti vi, báo, đài, tờ
rơi,…)
 Mục đích của quảng
cáo là gì?
 Quảng cáo có vai trị
như thế nào?
 Yêu cầu chung của văn
bản quảng cáo?
- Giáo viên theo dõi, nhận
xét về phần trình bày và
thảo luận của học sinh,
củng cố những nội dung
chính của phần 1 bằng
phần trình chiếu: MS
PowerPoint.
 Cho HS xem quảng
cáo ví dụ, GV gợi ý để

I. Vai trò và yêu cầu chung
của văn bản quảng cáo:

1. Văn bản quảng cáo trong
đời sống:

- Hình thức quảng cáo: áp
phích, pa-nơ, báo, tờ rơi, đài
phát thanh, truyền hình.
 Khái niệm:
- Thơng tin về sản phẩm, dịch
vụ.
- Thuyết phục khách hàng tin
vào chất lượng, lợi ích, sự
tiện lợi của sản phẩm.
- Tăng thêm lịng ham thích
mua hàng và sử dụng dịch
vụ của họ.
2. Yêu cầu chung của văn bản
quảng cáo:


HS rút ra nhận xét.
 Lưu ý học sinh về vai
trò của quảng cáo
trong đời sống hàng
ngày.
 Chú ý các yêu cầu cụ
thể đối với một văn
bản quảng cáo.
 Hoạt động 3: Nhóm 2
trình bày nội dung phần
II (Cách viết văn bản

quảng cáo). Yêu cầu:
 Các nhóm phải thực
hành viết quảng cáo.
 Xác định được cách
viết quảng cáo về nội
dung và hình thức.
- Giáo viên theo dõi
nhận xét về phần thảo
luận của các nhóm, nội
dung trình bày của nhóm
2, nhấn mạnh trọng tâm
bài học. Và chú ý những
nội dung học sinh chưa
giải quyết được. Định
hướng cho HS đi sâu vào
bài học và mở rộng nội
dung có liên quan.

- Nội dung thơng tin: Độc đáo,
gây ấn tượng, thể hiện được
tính ưu việt của sản phẩm, dịch
vụ.
- Hình thức: Ngắn gọn, hấp dẫn
tạo ấn tượng, trung thực, tôn
trọng pháp luật và thuần phong
mĩ tục.
II. Cách viết văn bản quảng
cáo
1. Xác định nội dung cơ bản
cho lời quảng cáo

2. Chọn hình thức quảng cáo
- Trình bày theo kiểu qui nạp,
so sánh và sử dụng từ ngữ
khẳng định tuyệt đối để
thuyết phục.
- Kết hợp với tranh ảnh, hình
thức trình bày.

3. Củng cố
- Tổng kết bài bằng cách cho học sinh sơ đồ hoá bài học.
GV đối chiếu bằng sơ đồ đã chuẩn bị (Mindmap).
- Giáo viên cho HS làm bài tập củng cố nhằm kiểm tra
mức độ hiểu bài của HS và khắc sâu kiến thức chính cũng
như mở rộng thêm nội dung bài học cho HS (Câu hỏi trắc
nghiệm – thiết kế trò chơi: Rung chng vàng ).
Vịng 1:
 Câu 1: Văn bản quảng cáo càng nêu đầy đủ đặc điểm,
ý nghĩa, tác dụng của sản phẩm càng gây được ấn
tượng mạnh đối với khách hàng.
a. Đúng
b. Sai
 Câu 2: Mục đích của văn bản quảng cáo là :
a. Thông tin, thuyết phục khách hàng.
b. Giới thiệu hoạt động của các tổ chức, cơ quan,
trường học, doanh nghiệp,...


-

Kiến thức,

KNS:

-

c. Thu hút mọi người vào những lợi ích chung của
cộng đồng.
d. Cả ba mục đích trên.
 Câu 3: Khâu khó khăn, quan trọng nhất khi xây dựng
hình ảnh của một văn bản quảng cáo là :
a. Thiết kế ý tưởng.
b. Xác định mục đích, đối tượng.
c. Phác thảo nội dung thông tin về sản phẩm.
d. Sử dụng các thủ pháp để tăng hiệu quả hấp dẫn,
thuyết phục.
Vòng 2:
HS xem một đoạn clip và dựa vào những kiến thức
đã học về mục đích, yêu cầu của văn bản quảng cáo để
nhận xét.
Giao bài tập cho cả lớp, HS làm ấn phẩm với nội dung:
Viết quảng cáo về các hoạt động chào mừng 26/3 ở lớp
em.
Học sinh không chỉ biết cách viết quảng cáo mà còn biết
đánh giá nhận xét về một quảng cáo.
Rèn luyện tư duy đánh giá, phân tích.
KNS: hợp tác, chia sẻ, sáng tạo, thuyết trình,…

III. HIỆU QUẢ
Qua thực tiễn dạy học của bản thân những năm gần đây và từ thực tế dạy
học các lớp 10 ban Cơ bản tại trường THPT Nguyễn Hữu Cảnh, tôi nhận thấy
các phương pháp này có những ưu điểm sau đây:

-

Kiến thức đúng trọng tâm, tích hợp liên mơn, lồng ghép nội dung giáo dục
KNS nhẹ nhàng nhưng hiệu quả.

-

Phát huy được khả năng nhiều mặt của học sinh, kích thích động cơ, hứng
thú học tập của người học, phát huy tính độc lập, khả năng sáng tạo. Người
học tự định hướng hoạt động học tập, tự khám phá, tích hợp, trình bày, tự
chủ động tổ chức hoạt động học tập, dám chịu trách nhiệm.

-

Rèn luyện cho HS năng lực làm việc theo nhóm, vận dụng kiến thức lí
thuyết, năng lực thiết kế, khả năng tổ chức, năng lực tư duy sáng tạo, năng
lực giải quyết những vấn đề phức hợp, năng lực đánh giá, kĩ năng ứng dụng
CNTT,… Đồng thời cịn rèn luyện tính bền bỉ, kiên nhẫn,… cho các em.

-

Gắn lí thuyết với thực hành, tư duy và hành động, nhà trường và xã hội.


-

Phát huy vai trị tích cực của học sinh trong việc tự khám phá, chiếm lĩnh
tác phẩm. Tạo hứng thú, kích thích khả năng tư duy của học sinh trong mỗi
giờ học.
Đặc biệt là sau một năm học áp dụng các PP dạy học này bên cạnh các PP


truyền thống thì 100% HS đều đồng ý là mơn Văn rất cần thiết và hữu ích với
các em trong cuộc sống sau này. Tuy nhiên, có đến 43% HS nói thêm là càng
u thích mơn Văn thì lại càng thấy đây là mơn học khó, địi hỏi tư duy và sáng
tạo chứ không như các em nghĩ ban đầu: Văn chỉ là môn học thuộc bài.
IV. ĐỀ XUẤT, KHUYẾN NGHỊ
Ba PPDH trên chỉ là một trong những kiểu dạy học lấy hoạt động học của
người học làm trung tâm. Mỗi PPDH đều có những điểm khả thủ và những hạn
chế riêng, vì vậy khi vận dụng PPDH địi hỏi người GV phải hết sức linh hoạt
lựa chọn sao cho phù hợp với đặc trưng bài học, năng lực học sinh, điều kiện
áp dụng của từng thời điểm,...
Trong quá trình vận dụng, tơi nhận thấy cả ba PP đều địi hỏi người GV
phải dụng công nhiều trong khâu chuẩn bị, lên kế hoạch giảng dạy. Kế hoạch
giảng dạy càng chi tiết thì xác xuất thành công càng cao. Đặc biệt là với
phương pháp dạy học theo dự án, giáo viên phải chấp nhận tốn nhiều thời gian
đầu tư hơn là giờ học thơng thường bởi ngồi khâu soạn giảng, GV cịn phải
chuẩn bị, chỉ dẫn, điều chỉnh cho việc chuẩn bị của HS.
Ngoài ra để thực hiện được những tiết dạy như thế này địi hỏi GV phải có
một q trình tập luyện từng bước cho HS, bởi nếu áp dụng tức thời HS sẽ khó
hồn thành nhiệm vụ, hoặc có thể tạo ra những sản phẩm không tốt bởi chưa
quen. Hơn nữa để triển khai thuận lợi các PPDH này đòi hỏi sự đồng thuận cao
của tổ bộ môn, sự ủng hộ của lãnh đạo trong nhà trường.
Người viết có may mắn được giảng dạy trong một môi trường mà ngay từ
năm 2002 chủ trương của lãnh đạo nhà trường đã là: đẩy mạnh ứng dụng công
nghệ thông tin trong dạy học, tích cực đổi mới PPGD, phát huy vai trị tích cực
của chủ thể trị trong giờ học cho nên việc áp dụng các PP mới trong dạy học


ln được khuyến khích. Nhưng cũng khơng phải khơng cịn những vướng mắc
thuộc về qui chế như phân phối chương trình, thời gian hạn hẹp, áp lực thi cử,

điều kiện HS khó khăn,... Vì vậy, nếu được kiến nghị người viết mong các cấp
lãnh đạo cao hơn như Sở Giáo Dục và Đào Tạo, Bộ Giáo Dục Đào Tạo thay
đổi quy chế, cho phép giáo viên được lựa chọn một số bài nằm trong khung để
dạy mà không phải dạy hết tất cả các bài để có nhiều thời gian đầu tư hơn, hiệu
quả bài dạy cao hơn; thêm nữa đề thi mở cũng là một cách giảm tải cho GV và
HS; ngoài ra nếu được đầu tư hơn về cơ sở vật chất để HS được học hai buổi
với các trang thiết bị hiện đại chắc chắn hiệu quả dạy học sẽ cao hơn rất nhiều.
V. KẾT LUẬN
Tóm lại, để phát huy được chủ thể - trò và lồng ghép các KNS vào bài
học hiệu quả đòi hỏi người giáo viên Ngữ Văn phải linh hoạt trong việc vận
dụng các PP, bên cạnh đó cũng phải có một sự dụng cơng nhất định. PPDH
khơng phải là chìa khóa vạn năng, nhưng người làm nên cơng năng của PP
chính là GV chứ không phải ai khác. Không một phương pháp nào có tính tối
ưu và vận dụng một cách độc lập trong một bài học. Vì vậy vận dụng các
PPDH mới khơng có nghĩa là loại bỏ các PPDH truyền thống, vấn đề là ứng
dụng sao cho phù hợp. Đây chỉ là một vài kinh nghiệm mang tính chất cá nhân
mà bản thân tơi trong q trình áp dụng thấy có hiệu quả phù hợp với mục tiêu
giáo dục hiện nay, nhưng cũng có thể khơng phù hợp với quan điểm dạy học
của từng người. Vì vậy người viết rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến và
trao đổi chân thành của các đồng nghiệp về việc áp dụng các PPDH khác nhau
trong giáo dục KNS cho HS để tơi có một sự kết hợp phương pháp tối ưu hơn,
hiệu quả hơn trong quá trình giảng dạy!
Xin chân thành cảm ơn.
Long Bình Tân, ngày 14 tháng 04 năm
2012
Người viết


Nguyễn Quỳnh Anh


VI. TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Sách giáo khoa Ngữ Văn 10 - tập 2, Nhiều tác giả, Nxb Giáo dục, 2006.
2. Thiết kế bài giảng ngữ văn 10, Nguyễn Văn Đường (chủ biên), Nxb Hà Nội,
2006.
3. Giáo dục kĩ năng sống trong môn Ngữ Văn ở trường THPT, Nhiều tác giả,
Nxb Giáo dục Việt Nam, 2010.
4. Những giá trị sống cho Tuổi trẻ , Diane TillMan, Nxb TP.HCM, 2000.
5. Q trình dạy - tự học, Nguyễn Cảnh Tồn (chủ biên), Nxb Giáo dục, Hà
Nội, 1997.
6. Vận dụng dạy học theo dự án để dạy các học phần tài ngun khống sản,
Đậu Thị Hịa, Tạp chí Khoa học và Công nghệ Đại học Đà Nẵng, số
2/2011, tr.143-150.
7. Sổ tay phương pháp giảng dạy và đánh giá, TS.Lê Văn Hảo (chủ biên),
Trường Đại học Nha Trang, 2008.
8. Các Website:



o


MỤC LỤC
Trang
I. Lý do chọn đề tài.................................................................................. 1
II. Tổ chức thực hiện . ............................................................................. 4
1. Cơ sở lý luận ....................................................................................... 4
1.1. Quan niệm về kĩ năng sống .............................................................. 4
1.2. Đặc điểm của các phương pháp ........................................................ 5
1.2.1. Phương pháp dạy học nhóm ........................................................ 6
1.2.2. Phương pháp dạy học theo dự án ................................................ 6

1.2.3. Phương pháp trò chơi .................................................................. 7
2. Nội dung, biện pháp thực hiện . ........................................................... 8
2.1. Phương pháp dạy học nhóm ............................................................. 8
2.2. Phương pháp dạy học theo dự án .................................................... 11
2.3. Phương pháp trò chơi ..................................................................... 13
2.4. Thiết kế tiết dạy minh họa .............................................................. 16
III. Hiệu quả .......................................................................................... 19
IV. Đề xuất, khuyến nghị ...................................................................... 20
V. Kết luận ............................................................................................ 21
VI. Tài liệu tham khảo........................................................................... 22



×