Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

Phân tích và đánh giá ưu nhược điểm của việc thực thi chính sách lãi suất và chính sách tỷ giá của ngân hàng nhà nước (NHNN) việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (443.05 KB, 16 trang )

Bài tập: Tài chính ngân hàng và sự phát triển
Bài tập lớn: Phân tích và đánh giá ưu nhược điểm của việc thực thi chính sách lãi suất và
chính sách tỷ giá của Ngân hàng Nhà Nước (NHNN) Việt Nam trong giai đoạn 2007-2010.
Từ đó đưa ra khuyến nghị về chính sách đối với NHNN và Chính Phủ để ổn định thị trường
tài chính và hệ thống Ngân hàng thương mại (NHTM).
I. SÁCH LÃI SUẤT VÀ TỶ GIÁ CỦA CHÍNH PHỦ VÀ NHNN
Chính sách tiền tệ là một chính sách kinh tế vĩ mô có vai trò quan trọng trong việc ổn
định thị trường đảm bảo nền kinh tế quốc gia trước sự biến động lớn của thị trường thế
giới.Việc sử dụng Chính sách tiền tệ như thế nào và hướng mục tiêu của Chính sách tiền tệ
ra sao là một trong những vấn đề rất quan trọng mà NHNN Việt Nam cần hướng tới. Trong
Luật NHNN Việt Nam đã nêu rõ mục tiêu căn bản của Chính sách tiền tệ là tập trung vào
lạm phát bên cạnh đó còn quan tâm vào tăng trưởng, việc làm và sự ổn định của khu vực tài
chính.
Để đảm bảo thực hiện được các mục tiêu đã đề ra, NHNN sử dụng các công cụ điều tiết
của mình. Các công cụ có thể kể đến bao gồm: Nghiệp vụ thị trường mở, dự trữ bắt buộc,
quy định hạn mức tín dụng, cơ chế lãi suất và chế độ tỷ giá. Trong đó phải kể đến đặc biệt là
chính sách lãi suất và tỷ giá ở Việt Nam, đó là những công cụ thực sự đắc lực giúp NHNN
khôi phục nền kinh bước qua những khó khăn từ cuộc khủng hoảng 2007-2008 của thế giới
tế, từng bước ổn định thị trường tài chính.
1. Tổng quan về chính sách lãi suất và chính sách tỷ giá

a) Khái niệm chính sách lãi suất và chính sách tỷ giá
Chính sách lãi suất là một bộ phận của CSTT của Chính phủ, là cách thức quản lý và
điều tiết lãi suất thị trường nhằm kiểm soát lượng tiền cung ứng, kiểm soát lạm phát để thực
hiện các mục tiêu tăng trưởng kinh tế, ổn định giá cả, tạo nhiều việc làm và đảm bảo sự ổn
định của tỷ giá.
Chính sách tỷ giá là những hoạt động của Chính phủ (mà đại diện là NHTW) thông qua
chế độ tỷ giá nhất định (hay cơ chế điều hành tỷ giá) và hệ thống các công cụ can thiệp
nhằm duy trì một mức tỷ giá cố định hay tác động để tỷ giá biến động đến một mức cần
thiết phù hợp với mục tiêu chính sách kinh tế quốc gia.
b) Phân loại chính sách tỷ giá và chính sách lãi suất



Lê Thị Vinh – CH 19S

Page 1


Bài tập: Tài chính ngân hàng và sự phát triển
Căn cứ vào trình độ phát triển và cơ chế quản lý của nền kinh tế, NHTW sẽ xây dựng và
ban hành chính sách lãi suất thích hợp, để thi hành thống nhất trong toàn hệ thống ngân
hàng. Chính sách lãi suất của NHTW có thể thực hiện theo hai hướng: chính sách can thiệp
trực tiếp và chính sách tự do hóa lãi suất. Tuy nhiên, khi thực hiện chính sách tự do hóa
hoàn toàn thì NHTW vẫn tìm cách can thiệp nhưng sự can thiệp mang tính thị trường, nhằm
quản lý nền kinh tế theo mục tiêu của CSTT.
Chính sách can thiệp trực tiếp: là việc NHTW quy định lãi suất trần, lãi suất sàn, lãi suất
cơ bản, lãi suất tái chiết khấu vv…để áp dụng cho từng loại khách hàng, từng nghiệp vụ tín
dụng trên thị trường thông qua việc quy định biểu lãi suất áp dụng cho các hoạt động tín
dụng trên thị trường. Biểu lãi suất này được điều chỉnh một phần hay toàn bộ khi có sự thay
đổi mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội.
Chính sách tự do hóa lãi suất: là chính sách mà trong đó NHTW không đưa ra những
khống chế giới hạn biến động của lãi suất thị trường. Mức lãi suất được hình thành trên cơ
sở quan hệ cung cầu tín dụng.Chính sách này được phần lớn các nước có thị trường phát
triển áp dụng, mặc dù thị trường tự do quyết định lãi suất nhưng NHTW vẫn điều tiết gián
tiếp thông qua việc sử dụng công cụ lãi suất tái chiết khấu.
Cũng tương tự như chính sách lãi suất, chính sách tỷ giá được phân thành: chế độ tỷ giá
thả nổi hoàn toàn, chế độ tỷ giá thả nổi có điều tiết và chế độ tỷ giá cố định.
Chế độ tỷ giá thả nổi hoàn toàn: là chế độ trong đó tỷ giá được xác định hoàn toàn tự do
theo quy luật cung cầu trên thị trường ngoại hối mà không có bất cứ sự can thiệp nào từ
NHTW. NHTW chỉ tham gia vào thị trường với tư cách là thành viên mua bán một đồng
tiền nhất định phục vụ cho hoạt động của mình mà không nhằm mục đích can thiệp lên tỷ
giá. Do đó, trong chế độ tỷ giá thả nổi, sự biến động của tỷ giá không có giới hạn và phản

ánh chân thực những thay đổi trong quan hệ cung cầu trên thị trường ngoại hối
Chế độ tỷ giá thả nổi có điều tiết: là chế độ trong đó NHTW tiến hành can thiệp tích cực
trên thị trường ngoại hối nhằm duy trì tỷ giá biến động trong một vùng nhất định. Chế độ tỷ
giá thả nổi có điều tiết được xem là chế độ tỷ giá hỗn hợp giữa chế độ tỷ giá cố định và chế
độ tỷ giá thả nổi hoàn toàn

Lê Thị Vinh – CH 19S

Page 2


Bài tập: Tài chính ngân hàng và sự phát triển
Chế độ tỷ giá cố định: là chế độ tỷ giá trong đó NHTW công bố và cam kết can thiệp để
duy trì tỷ giá cố định trong một biên độ hẹp đã định trước, không phụ thuộc vào quan hệ
cung cầu trên thị trường ngoại hối. Trong chế độ tỷ giá cố định, NHTW buộc phải mua vào
hay bán ra đồng tiền nội tệ trên thị trường ngoại hối nhằm duy trì cố định tỷ giá trong một
biên độ hẹp đã định trước. Để làm được điều ngày buộc các NHTW cần phải có sẵn nguồn
dự trữ ngoại hối nhất định.
2. Tổng quan về tình hình kinh tế tài chính của Việt Nam giai đoạn 2007-2010

Có thể nói trong khoảng thời gian 2007 đến năm 2010, chúng ta đã trải qua nhiều cảm
xúc khác nhau của nền kinh tế, từ sự lo lắng, nhiều khi đến “sợ hãi” khi nền kinh tế đạt mức
lạm phát cao kỷ lục trong vòng gần 20 năm trở lại đây (năm 2008 là gần 24%) tới sự suy
giảm kinh tế trầm trọng từ cuộc khủng hoảng tài chính tại Mỹ và Châu Âu v “cho vay dưới
chuẩn”. Khủng hoảng cho vay dưới chuẩn đã đẩy các quốc gia phát triển rơi vào tình trạng
suy thoái trầm trọng nhất, hầu hết các nền kinh tế phát triển (Mỹ, Nhật, Euro zone... đều
tăng trưởng âm). Thậm chí có một số quốc gia còn rơi vào bờ vực phá sản như Iceland,
Ukraina, Pakistan, Hi Lạp...
Tăng trưởng của một số nước Châu Âu
10

8

7.5
6.5

6
4

4

%

2

1.9

0
-2

0
Kinh
?TG t

-1.3

-4

?
M


-2.8

-6

-0.4
Châu Âu

1.6

0.5
tB
?nNh

Năm 2010
Trung
?c
Qu

-4.2

Năm 2009

i?Mnvà
đang pt

-6.2

-8

Với những yếu tố bất lợi đó đã làm cho Việt Nam cũng không thoát khỏi vòng xoáy của

sự suy giảm kinh tế. Tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam suy giảm mạnh, từ mức
8,48% năm 2007 xuống còn 6,52% năm 2008 và chỉ còn 5,32% năm 2009 và 6,5% năm
2010. Đây là mức suy thoái tồi tệ nhất của Việt Nam trong hơn 10 năm trở lại đây. Ta có thể
thấy rõ điều này qua đồ thị sau:

Lê Thị Vinh – CH 19S

Page 3


Bài tập: Tài chính ngân hàng và sự phát triển

(Nguồn: Tổng cục thống kê)
3. Đánh giá nội dung chính sách lãi suất và tỷ giá của NHTW giai đoạn 2007-2010

Trước những diễn biến kinh tế phức tạp và hậu quả của cuộc khủng hoảng kinh tế,
NHNN đã có hàng loạt các biện pháp quyết liệt và đúng đắn để ngăn ngừa suy thoái kinh tế
và dần lấy lại đà phục hồi cho nền kinh tế Việt Nam. Điều này thể hiện rõ nét thông qua các
chính sách áp dụng qua từng năm trong giai đoạn 2007-2010.
3.1 Chính sách lãi suất
3.1.1 Nội dung chính sách lãi suất:
* Giai đoạn 2007- những tháng đầu năm 2009: Cơ chế điều hành bằng lãi suất cơ bản
Vào năm 2007, với mục tiêu là kiềm chế lạm phát thấp hơn tốc độ tăng trưởng kinh
tế, Chính phủ cùng NHNN đã quyết định giữ nguyên mức lãi suất cơ bản là 8,25%/năm của
năm 2006 và ban hành quy định Biên độ lãi suất không vượt quá 150% lãi suất cơ bản. Tuy
nhiên, biện pháp này tỏ ra không có hữu hiệu, đem lại hiệu quả ngược đẩy lãi suất lên đến
12,63%/năm cao nhất từ trước đến nay.
Bước sang năm 2008, vẫn sử dụng công cụ điều tiết bằng lãi suất cơ bản nhưng
NHNN kết hợp các biện pháp khác bằng việc ban hành quyết định số 187/QĐ-NHNN ngày
16/1/2008 quy định về tỷ lệ dự trữ bắt buộc và quyết định số 346/QĐ-NHNN ngày

13/2/2008 về việc phát hành tín phiếu bắt buộc để rút bớt tiền từ lưu thông về, việc này đã

Lê Thị Vinh – CH 19S

Page 4


Bài tập: Tài chính ngân hàng và sự phát triển
có hiệu quả rõ rệt, bước đầu đã làm giảm bớt một phần lượng tiền từ các NHTM nhưng lại
nẩy sinh tình trạng khó khăn thanh khoản cho các NHTM, nhất là những NHTM cổ phần
nhỏ. Từ đó, làn sóng tăng lãi suất trong huy động dấy lên, từ tháng 2/2008 lãi suất huy động
trên thị trường đã biến động mạnh lên mức 13-14%/năm và đã đẩy lãi suất cho vay lên đến
mức trên 20%/năm (đối với VNĐ). Điều đó làm cho lãi suất trên thị trường liên ngân hàng
bắt đầu nóng lên, đến giữa tháng 2/2008 đã lên đến 30%, có ngân hàng đặt thầu lên đến
40%/năm .Trong khi đó lãi suất cơ bản của NHNN chỉ tăng nhỏ giọt ở mức 8,75%/năm.
Trước tình hình đó, ngày 16/5/2008, NHNN đã ban hành quyết định số 16/2008/QĐ-NHNN
về cơ chế điều hành lãi suất cơ bản bằng đồng Việt Nam, theo đó qui định việc các TCTD
ấn định lãi suất huy động và cho vay bằng đồng Việt Nam đối với khách hàng không vượt
quá 150% của lãi suất cơ bản do NHNN công bố. và nâng mức lãi suất cơ bản bằng đồng
Việt Nam lên 12%/năm. Sau đó, NHNN tiếp tục tăng lãi suất cơ bản lên 14%/năm đẩy lãi
suất huy động lại đẩy mức 17-18%/năm. Đến hết tháng 06/2008, khi GDP tăng khoảng
6,8% thì nguồn huy động chỉ tăng 6% và mức độ tăng trưởng tín dụng chỉ ở mức 12%/năm,
nguy cơ thiếu thanh khoản của các NHTM đã được giải tỏa.
Đến quý 3/2008, Khi cuộc đua lãi suất bắt đầu có dấu hiệu chững lại sau một loạt
các quyết định của NHNN trong việc sử dụng các công cụ của CSTT, lãi suất cơ bản giảm
xuống từ 14% còn 8,5%; lãi suất trả cho dự trữ bắt buộc thì lần lượt tăng lên 3,5%/năm,
5%/năm, 10%/năm sau đó giảm nhưng với tốc độ giảm chậm; giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc từ
10% xuống đến 5% và các loại lãi suất chiết khấu, lãi suất tái cấp vốn cũng được hạ xuống.
Chỉ số lạm phát ở tháng 7/2008 được công bố ở mức 1,13% là mức thấp nhất so với các
tháng trước, đến tháng 12/2008 chỉ số giá cả vẫn tiếp tục giảm còn 0,68%, cả năm 2008

mức lạm phát là 19,98%. Tăng trưởng GDP đạt 6,23%, thấp hơn dự kiến khoảng 2%. Như
vậy, NHNN đã điều hành chính sách lãi suất kiềm chế lạm phát một cách hiệu quả.
Ta có thể thấy rõ điều đó qua biểu đồ sau:

Lê Thị Vinh – CH 19S

Page 5


Bài tập: Tài chính ngân hàng và sự phát triển

Hình 3.1: Lãi suất cơ bản và lạm phát năm 2008
(Nguồn: Thời báo kinh tế Việt Nam – Kinh tế 2008-2009)
Đến những tháng đầu năm 2009, để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp và dân cư
trong xã hội tiếp cận được với vốn vay của hệ thống ngân hàng theo tinh thần của các gói
giải pháp kích cầu của Chính phủ cũng như tạo điều kiện cho các NHTM hoạt động ổn định
và hiệu quả, NHNN đã hạ thấp lãi suất chỉ đạo từ 14% xuống 7%, hạ thấp tỷ lệ dự trữ bắt
buộc từ 11% xuống 5%, đồng thời thực hiện chính sách hỗ trợ lãi suất (4%/năm) cho các
doanh nghiệp đối với các khoản vay ngắn hạn để khuyến khích các doanh nghiệp sản xuất
kinh doanh nhằm khôi phục lại nền kinh tế sau cuộc khủng hoảng năm 2008.
Ta có thể thống kê lại biểu lãi suất chủ đạo xuyên suốt giai đoạn này thông qua biểu đồ sau:

Lê Thị Vinh – CH 19S

Page 6


Bài tập: Tài chính ngân hàng và sự phát triển

* Những tháng cuối năm 2009-2010 – cơ chế lãi suất thỏa thuận

Những tháng cuối năm 2009 và đầu năm 2010, NHNN đã chính thức hóa lãi suất cho
vay ở mức 16-20%/năm thông qua Thông tư 07/2010/TT-NHNN về áp dụng lãi suất thoả
thuận cho các khoản tín dụng trung và dài hạn. Trên thực tế, các NHTM đã áp dụng cho cả
các khoản vay ngắn hạn nên lãi suất cơ bản chỉ đóng vai trò tâm lý như tín dụng của NHNN
sẽ thắt chặt hay nới lỏng chính sách tín dụng nói riêng và chính sách tiền tệ nói chung. Đây
là bước đi đầu tiên mở màn cho định hướng tự do hóa lãi suất. Những tháng đầu năm 2010,
khi chính sách hỗ trợ lãi suất hết hiệu lực, làm lãi suất cho vay bằng VNĐ tăng cao lên mức
18-20%/năm nên nhiều doanh nghiệp chuyển sang vay bằng USD với lãi suất hấp dẫn hơn ở
mức 5,5-6%/năm (vay ngắn hạn) và 6-8%/năm (vay dài hạn).
Xu thế vận động của thị trường cho thấy, Chính phủ không thể đưa lãi suất huy động
xuống mức 10%/năm và lãi suất cho vay xuống 12%/năm nhất là khi lạm phát cả năm tiệm
cận 10% và kỳ vọng lạm phát không giảm trong năm 2011. Cho đến đầu tháng 7/2010,
NHNN đã phải áp dụng một số biện pháp hành chính là thoả thuận với các NHTM lớn để

Lê Thị Vinh – CH 19S

Page 7


Bài tập: Tài chính ngân hàng và sự phát triển
thực hiện mức lãi suất 12%/năm đối với tín dụng cho các doanh nghiệp thuộc lĩnh vực nông
nghiệp nông thôn, xuất khẩu và doanh nghiệp nhỏ và vừa. Tuy vậy, tới trên 90% các doanh
nghiệp Việt Nam là nhỏ và vừa nên tính khả thi của thoả thuận này ít được đảm bảo. Lãi
suất tín dụng ngân hàng vẫn phải vận động dựa trên các qui luật thị trường trong khi NHNN
chưa có chính sách tiền tệ nào để can thiệp mạnh vào thị trường.
Kể từ đầu tháng 11/2010, lãi suất đồng Việt Nam liên tục biến động theo chiều
hướng gia tăng, cả lãi suất huy động cũng như lãi suất cho vay. Lãi suất huy động VND đã
tăng vọt từ 11 - 11,5%/năm lên đến trên 17%/năm ở một số NHTM đối với một số kỳ hạn
ngắn, đồng thời lãi suất cho vay VND cũng “leo thang” từ 13-14%/năm lên tới 19 21%/năm tùy từng loại khoản vay. Một mặt, không ít NHTM đua nhau áp dụng các hình
thức hấp dẫn để thu hút tiền gửi tiết kiệm, mặt khác, một số không nhỏ NHTM lại dừng cho

vay ra trong bối cảnh thị trường liên ngân hàng lại “lặng sóng” với lãi suất giao dịch thấp và
hạn mức tín dụng của nhiều NHTM đã hết khi tổng tín dụng ngân hàng cho nền kinh tế có
thể đã tăng vượt mục tiêu 25% cho cả năm ngay từ tháng 11. Hơn nữa, tốc độ cho vay bằng
ngoại tệ đã lớn hơn rất nhiều tốc độ cho vay bằng VND. Phản ứng lại sự biến động đó,
NHNN phải tăng lãi suất cơ bản từ 8% lên 9%. Kết quả là tăng trưởng tế năm 2010 đạt
6,8% - cao hơn mục tiêu tăng GDP 6,5% - đồng thời CPI cả năm tăng 11,75% so với cuối
năm 2009.
Vậy, sau khi thực hiện cơ chế lãi suất thỏa thuận và cùng với các biện pháp điều hành
tiền tệ linh hoạt của NHNN, tính đến cuối năm 2010, lãi suất huy động và cho vay VND của
các NHTM đã giảm dần ở mức không vượt quá 14%/ năm; lãi suất cho vay bình quân
15,27%/năm, chênh lệch giữa lãi suất cho vay và lãi suất huy động bình quân VND chỉ còn
khoảng 2,5%/năm, thấp hơn so với mấy năm trước (con số này là 4,62%/năm năm 2008;
4,45%/năm trong năm 2007; 4,63%/năm trong năm 2006 và 3,42%/năm trong năm 2005) và
vẫn đảm bảo nguyên tắc lãi thực dương.

3.1.2 Đánh giá chính sách lãi suất trong giai đoạn 2007-2010

Lê Thị Vinh – CH 19S

Page 8


Bài tập: Tài chính ngân hàng và sự phát triển
Việc thực thi chính sách lãi suất trong giai đoạn này bên cạnh những mặt còn hạn chế cũng
đã đem lại những hiệu quả nhất định. Ta có thể thống kê lại một số những mặt đã đạt được
và còn tồn tại như sau:
* Những mặt đã đạt được:
 Thứ nhất, ngăn chặn nguy cơ xáo trộn thị trường tiền tệ và mất khả năng thanh toán
của các NHTM trong những tháng cuối năm 2008; an toàn hệ thống ngân hàng được
đảm bảo, củng cố lòng tin của các nhà đầu tư, doanh nghiệp và người dân đối với hệ

thống ngân hàng.
 Thứ hai, Khắc phục được tình trạng cạnh tranh không lành mạnh trong huy động vốn
giữa các Ngân hàng thương mại. Cùng với diễn biến lạm phát có xu hướng giảm, kinh
tế vĩ mô ổn định và hoạt động của các Ngân hàng thương mại đảm bảo khả năng thanh
toán, làm cho thị trường tiền tệ và lãi suất trong năm 2009 tương đối ổn định.
 Thứ ba, cơ chế truyền dẫn của các biện pháp điều hành lãi suất đã có hiệu lực và hiệu
quả đối với hoạt động kinh doanh của NHTM và lãi suất thị trường, thể hiện là lãi suất
thị trường liên ngân hàng đã biến động xoay quanh các mức lãi suất chủ đạo của
NHNN; lãi suất huy động và cho vay của các NHTM biến động theo cung – cầu vốn
và tăng, giảm theo sự thay đổi của các mức lãi suất điều hành của NHNN, đã tác động
làm cho thu hẹp hoặc mở rộng tín dụng. Năm 2008 và những tháng đầu năm 2009,
tăng trưởng tổng phương tiện thanh toán và tín dụng phù hợp với chủ trương thắt chặt
hoặc nới lỏng tiền tệ một cách thận trọng.
 Thứ tư, cơ chế điều hành lãi suất cơ bản phù hợp với quy định của Luật NHNN và Bộ
luật Dân sự, mục tiêu của chính sách tiền tệ hiện nay và các năm tới đây là kiểm soát
lạm phát, hỗ trợ tăng trưởng kinh tế ở mức cao và bền vững.
 Thứ năm, Với cơ chế lãi suất thỏa thuận, những bất hợp lý trong các quan hệ huy động
vốn, vay mượn trong nền kinh tế dần dần đã bị loại bỏ, tạo điều kiện cho các TCTD
mở rộng mạng lưới để huy động cho vay vốn với mức lãi suất phù hợp và thúc đẩy
việc cải cách hệ thống ngân hàng theo định hướng thị trường.

Lê Thị Vinh – CH 19S

Page 9


Bài tập: Tài chính ngân hàng và sự phát triển
* Những hạn chế còn tồn tại:
 Lãi suất cơ bản, lãi suất tái cấp vốn, lãi suất chiết khấu chưa thực sự phát huy được vai
trò định hướng thị trường, mối quan hệ giữa các lãi suất của NHNN và lãi suất thị

trường còn chưa thật gắn kết chặt chẽ.
 NHNN còn sử dụng nhiều biện pháp hành chính can thiệp trực tiếp vào điều hành
chính sách lãi suất. Thực tế đã chứng minh, mặc dù, NHNN đã thay dần các công cụ
CSTT mang tính hành chính như hạn mức tín dụng, kiểm soát trực tiếp lãi suất. Song
khi hệ thống thể chế hỗ trợ thị trường còn yếu kém và thiếu đồng bộ thì việc chuyển
sang sử dụng các công cụ kiểm soát gián tiếp đã làm cho NHNN bị “hụt tay”. Khi đó,
NHNN chỉ có một con đường là lại tìm về các công cụ hành chính. Quyết định số 306
về việc buộc các NHTM phải mua tín phiếu và phân bổ chỉ tiêu cho từng NHTM là
minh chứng rõ nét nhất. Tiếp đến, ngày 26/2/2008, NHNN đã có công điện gửi các chi
nhánh NHNN, NHTM trong đó yêu cầu các ngân hàng phải thực hiện việc huy động
vốn theo nguyên tắc lãi suất không âm và không được vượt quá 12%/năm.
 Trong thực thi chính sách lãi suất do chưa lường trước được phản ứng của thị trường,
nên các biện pháp CSTT gây sốc thị trường, góp phần tạo nên cuộc đua tăng lãi suất ở
những năm 2008 và cả những năm 2010.
3.2 Chính sách tỷ giá giai đoạn 2007-2010
3.2.1 Nội dung chính sách tỷ giá ở Việt Nam
Giai đoạn 2007-2010 là giai đoạn kinh tế thế giới cũng như kinh tế trong nước gặp
nhiều khó khăn bởi cuộc khủng hoảng tài chính – kinh tế toàn cầu, diễn biến trên thị trường
rất phức tạp và khó lường, vì thế tùy từng năm mà Chính phủ đặt ra những mục tiêu ưu tiên
khác nhau:
 Năm 2007, mục tiêu ưu tiên của Việt Nam là kiểm soát lạm phát. Trong bối cảnh kinh
tế và thị trường tài chính quốc tế có nhiều biến động khó lường, NHNN sẽ vẫn duy trì
chế độ tỷ giá gần như là cố định như trong giai đoạn trước đây để nhằm mục tiêu kiểm
soát lạm phát của mình.

Lê Thị Vinh – CH 19S

Page 10



Bài tập: Tài chính ngân hàng và sự phát triển
 Năm 2008, sáu tháng đầu năm vẫn là mục tiêu kiểm soát lạm phát. Trước hậu quả to
lớn của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu gây ra đối với nền kinh tế thế giới, cùng
những tác động bất lợi đến kinh tế trong nước, Chính phủ đã chuyển hướng mục tiêu
từ kiểm soát lạm phát sang ngăn ngừa suy giảm kinh tế vào 6 tháng cuối năm.
 Năm 2009 và 2010, vẫn tiếp tục mục tiêu phòng ngừa lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô,
duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế ở mức hợp lý, bền vững.
Trong các báo cáo của NHNN trong giai đoạn này, NHNN đều tuyên bố Việt Nam đang
theo đuổi chế độ tỷ giá hối đoái linh hoạt có điều tiết thông qua một loạt các công cụ điều
tiết như: tỷ lệ dự trữ bắt buộc, quy định biên độ xác định tỷ giá kinh doanh, công cụ lãi suất
và quỹ dự trữ ngoại hối.
Ta có thể tóm lược về cơ bản chế độ tỷ giá ở Việt Nam trong giai đoạn này như sau:
Bảng 3.2.1: Tóm lược chính sách tỷ giá của Việt Nam giai đoạn 2007 - 2010
Thời gian

Mục tiêu của
chính sách tỷ giá

Chế độ tỷ giá Việt Nam

Năm 2007

Kiểm soát lạm phát Chế độ tỷ
giá cố định thông thường,

Chế độ tỷ giá cố định thông
thường, biên độ giao dịch ± 0.25

• Kiểm soát lạm phát


• Chế độ tỷ giá cố định thông

Năm 2008
6 tháng đầu năm

thường, biên độ giao dịch ± 1 %
6 tháng cuối năm

• Ngăn chặn suy giảm kinh tế

• Chế độ tỷ giá cố định thông
thường với biên độ ± 2 %, sau đó
nâng lên ±3 %

Chế độ tỷ giá cố định thông
thường với biên độ dao động
và 2010
tế và kiểm soát lạm phát
±5%, sau đó giảm xuống ±3 %
3.2.2 Đánh giá chính sách tỷ giá ở Việt nam giai đoạn 2007-2010
Năm 2009

Ngăn chặn suy giảm kinh

* Những mặt đạt được
Thứ nhất, Với chính sách tỷ giá tự do linh hoạt có điều tiết ở Việt Nam đã góp phần làm cho
thị trường liên ngân hàng năng động và đa dạng hơn, cho phép các tổ chức tín dụng thực
hiện giao dịch hối đoái, mở rộng lĩnh vực và thị trường kinh doanh góp phần thúc đẩy
nhanh sự phát triển kinh tế.


Lê Thị Vinh – CH 19S

Page 11


Bài tập: Tài chính ngân hàng và sự phát triển
Thứ hai, Mở đầu cho chính sách mới, xóa bỏ sự áp đạt chủ quan, duy ý chí trong việc thiết
lập giá, sự bao cấp thông qua tỷ giá của Nhà Nước.
* Những mặt hạn chế
Thứ nhất, Với cơ chế điều tiết còn lỏng lẻo đã làm cho tỷ giá chưa phản ánh đúng quan hệ
cung cầu về ngoại tệ trong nền kinh tế, thị trường tồn tại dưới hình thức “chế độ 2 tỷ giá” :
tỷ giá chính thức và tỷ giá trên thị trường tự do (hay còn gọi là thị trường “chợ đen”) và có
sự khác biệt đáng kể giữa 2 tỷ giá trên 2 thị trường này.
Ta có thể thấy rõ qua biểu đồ dưới đây:

Chính sách “2 tỷ giá” này đã tạo lốc xoáy đột ngột về đầu cơ trên thị trường ngoại tệ, từ dư
thừa chuyển nhanh sang khan hiếm giả tạo đồng USD, khiến cả người dân và doanh nghiệp đều
chịu thiệt thòi trong khi một số ngân hàng và giới đầu tư thì có lợi. Từ đó xuất hiện một tình
huống thực tế đầy nghịch lý là lạm phát cao, trong khi các nhà đầu tư nước ngoài khan hiếm
VND dư thừa USD còn dự trữ ngoại tệ quốc gia lại chưa vững chắc. Cuộc săn lùng VND của
các ngân hàng và nhà đầu tư nước ngoài trở lên nóng hơn, gây lên tình trạng bán tháo USD,
làm nghẽn mạch lưu thông tiền tệ, gây tổn hại cho nền kinh tế.
Thứ hai, Cách điều hành tỷ giá còn bảo thủ, cứng nhắc dẫn đến việc định giá VNĐ cao hơn
so với giá trị thực của nó đã góp phần làm giảm năng lực cạnh tranh của hàng xuất khẩu
đồng thời lại khuyến khích nhập khẩu. Điều này được minh chứng bằng một thực tế nhập
siêu của Việt Nam tăng nhanh liên tục trong những năm trở lại đây từ 8,2 tỷ USD năm 2007

Lê Thị Vinh – CH 19S

Page 12



Bài tập: Tài chính ngân hàng và sự phát triển
lên 17,5 tỷ USD năm 2008 và 12 tỷ năm 2009. Nhập siêu tăng cộng thêm với việc các
nguồn thu ngoại tệ chính như xuất khẩu, đầu tư nước ngoài, kiều hối…lại giảm sút, cùng
với việc người dân chuyển sang nắm giữ USD làm cho cán cân thanh toán của Việt Nam
thâm hụt nặng, khiến dự trữ ngoại hối của Việt Nam giảm mạnh, từ 23 tỷ USD cuối năm
2008 xuống còn hơn 17 tỷ USD năm 2009. Điều này khiến cho thị trường ngoại hối luôn
căng thẳng hoạt động trở lên kém hiệu quả, tạo điều kiện cho thị trường ngầm hoạt động
càng sôi động.
II. GIẢI PHÁP ĐIỀU HÀNH CHÍNH SÁCH LÃI SUẤT VÀ TỶ GIÁ HIỆN NAY
Từ những phân tích ở trên, chúng ta có thể đi đến một vài khuyến nghị đối với việc ra quyết
định chính sách lãi suất và tỷ giá của Chính phủ và NHTW nhằm ổn định thị trường tài
chính và hệ thống NHTM như sau:
1. Giải pháp điều hành chính sách lãi suất
Thứ nhất, Giải pháp trước mặt là tiếp tục hoàn thiện cơ chế chế điều hành lãi suất, ổn
định mặt bằng lãi suất để kiểm soát lạm phát hướng tới ổn định kinh tế vĩ mô là nhiệm vụ
trước mắt và trọng tâm của ngành Ngân hàng trong những năm tới, Để thực hiện nhiệm vụ
đó, ngành Ngân hàng đang triển khai những giải pháp ứng phó kịp thời. Tuy nhiên, để hỗ
trợ cho các giải pháp ngắn hạn này có hiệu quả, có cơ sở đầy đủ cho việc xây dựng các giải
pháp điều hành trong dài hạn, bên cạnh sự nỗ lực của toàn ngành Ngân hàng, cũng rất cần
thiết phải có sự chỉ đạo sát sao của Chính phủ và sự phối hợp chặt chẽ của các bộ, ngành
hữu quan trong việc cơ cấu lại thị trường tài chính, giảm dần cho vay với lãi suất ưu đãi,
phát triển các thị trường nợ một cách có hiệu quả, từ đó sẽ giảm bớt gánh nặng cho khu vực
ngân hàng trong việc cung cấp vốn phục vụ cho các mục tiêu phát triển kinh tế của cả nước.
Thứ hai, Nhóm giải pháp về điều hành chính sách lãi suất ổn định và lâu dài. Để điều
hành lãi suất một cách ổn định và có tính dài hạn, trước tiên phải kiểm soát nhằm hạn chế
những biến động quá mức về cung tiền, sự thâm hụt ngân sách kéo dài dẫn đến lạm phát cao
cần thực hiện có hiệu quả các dự báo về tiền tệ, dự báo về cung cầu vốn trong nền kinh tế để
Một là, Phối hợp giữa kiểm soát dòng vốn vào với mục tiêu điều hành Chính sách tiền tệ

(CSTT)
Hai là, Phối hợp đồng bộ các chính sách tài khóa và CSTT để tăng cường hiệu quả thực thi
của từng chính sách. Tránh tình trạng CSTT thì thắt chặt trong khi chính sách tài khóa lại

Lê Thị Vinh – CH 19S

Page 13


Bài tập: Tài chính ngân hàng và sự phát triển
nới lỏng như đã từng xảy ra. Các giải pháp thực thi chính sách tài khóa nếu được cân nhắc
và phối hợp kịp thời với CSTT thì các mục tiêu chính sách tài khóa đạt được sẽ là bước đệm
tạo điều kiện hỗ trợ tích cực cho việc thực thi CSTT.
Ba là, Hoàn thiện những điều kiện cơ bản để hướng tới điều hành CSTT theo cơ chế mục
tiêu lạm phát thông qua thúc đẩy việc tính lạm phát cơ bản đảm bảo độ tin cậy. Đây sẽ là
một căn cứ quan trọng đối với NHNN để bổ sung vào quá trình điều hành CSTT. Để làm
được điều này cần:
 Từng bước xây dựng tính độc lập cho NHNN, đặc biệt là tính độc lập về mặt chức
năng. Đây là điều kiện tiên quyết cho sự thành công của sách mục tiêu lạm phát trong
tương lai vì như thế mới đảm bảo thực hiện một CSTT đơn mục tiêu và tính công khai
minh bạch trong mọi hoạt động
 Nâng cao độ tin cậy của NHNN đối với các chủ thể trong nền kinh tế
 Tập trung nghiên cứu cơ chế truyền dẫn CSTT ở Việt Nam để xác định rõ độ trễ về thời
gian, phương thức và mức độ tác động của các chính sách do NHNN thực hiện đến các
mục tiêu CSTT. Đây là vấn đề quan trọng và không thể thiếu khi Việt Nam chính thức
áp dụng chính sách lạm phát mục tiêu.
Bốn là, Phát triển thị trường liên ngân hàng, tạo kênh truyền tải tác động của chính sách lãi
suất. Vì thị trường liên ngân hàng có vai trò cực kỳ quan trọng trong việc truyền tải các tác
động CSTT đến nền kinh tế, được xem như là cơ sở hạ tầng cho luân chuyển tiền tệ. Nếu thị
trường liên ngân hàng hoạt động tốt sẽ tạo điều kiện cho các TCTD tăng tỷ lệ tài sản có

sinh lời, giảm dự trữ tiền mặt tại ngân hàng.
2. Giải pháp điều hành chính sách tỷ giá
Thứ nhất, Điều hành linh hoạt tỷ giá cơ bản do Nhà nước công bố. Cụ thể NHNN nên thay
đổi cách điều tiết tỷ giá theo hướng có tăng, có giảm với nhiều mức độ khác nhau, sao cho
tổng mức giảm giá VND tương xứng với tốc độ lạm phát trong kỳ (qúy, năm). Được như
vậy, hiện tượng găm giữ ngoại tệ của các doanh nghiệp giảm dần, các công cụ phòng chống
rủi ro tỷ giá có cơ hội phát huy hiệu qủa, hoạt động kinh doanh ngoại tệ mới được năng
động hoá.
Thứ hai, Cần có sự phối hợp hài hòa giữa chính sách tỷ giá và chính sách lãi suất. Vì tỷ giá
và lãi suất là hai yếu tố nhạy cảm trong nền kinh tế, là công cụ hữu hiệu của chính sách tiền

Lê Thị Vinh – CH 19S

Page 14


Bài tập: Tài chính ngân hàng và sự phát triển
tệ, chúng luôn có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, ảnh hưởng lẫn nhau và cùng tác động lên
các hoạt động của nền kinh tế. Sự khập khễnh giữa 2 chính sách có thể gây ra nhiều hậu quả
như: đồng nội tệ mất giá gây nguy cơ lạm phát cao, “chảy máu” ngoại tệ, đầu cơ tiền tệ…Vì
vậy, trong quản lý vĩ mô chính sách lãi suất và tỷ giá phải được xử lý một cách đồng bộ và
phù hợp với thực trạng của nền kinh tế trong từng thời kỳ nhất định.
Thứ ba, Phát triển thị trường ngoại tệ liên ngân hàng vì đây là nơi NHNN can thiệp một
cách hữu hiệu vào tỷ giá thông qua hoạt động đặt lệnh mua bán tiền tệ. Quan sát thị trường
ngoại tệ liên ngân hàng trong những năm gần nhận thấy, hoạt động của thị trường này vẫn
còn nhiều khiếm khuyết; đó là, sự mất cân xứng giữa lệnh mua và lệnh bán ngoại tệ; số giao
dịch vừa ít về lượng, vừa kém về doanh thu; nghiệp vụ kinh doanh quá đơn điệu.v.v.. Để tạo
một sức sống mới cho thị trường, NHNN cần quan tâm đến các vấn đề sau:
Một là, gia tăng quỹ dự trữ ngoại hối quốc gia bằng việc NHNN cần tiếp tục thực hiện
chính sách cung tiền kèm với mục tiêu tăng qũy dự trữ ngoại hối của quốc gia, phối hợp với

Bộ Tài chánh trong việc quản lý và sử dụng hiệu quả nguồn ngoại tệ từ hoạt động xuất khẩu
dầu thô- mặt hàng xuất khẩu chiến lược của quốc gia, tăng cường các biện pháp kinh tế
nhằm khuyến khích các tổ chức, cá nhân bán ngoại tệ cho hệ thống ngân hàng v.v..
Hai là, NHNN cần thực hiện đúng chức năng là người mua bán cuối cùng
Thứ tư, Kiểm soát và tiến tới loại bỏ thị trường “chợ đen”.
Sự tồn tại của thị trường ngoại tệ “chợ đen” trong thời gian qua là do sự thiếu đồng bộ, kém
hiệu quả của các chính sách quản lý kinh tế vĩ mô, sự phát triển của hoạt động kinh tế ngầm
ngày càng lớn cả về quy mô lẫn mức độ tinh vi. Do đó, một lượng lớn ngoại hối đã bị chảy
ra nước ngoài, Sự yếu kém của hệ thống ngân hàng cũng là một nhân tố thứ ba tác động đến
sự tồn tại của thị trường này. Ngoài ra, việc người dân được phép cất giữ, sử dụng ngoại tệ
một cách tự do cũng làm gia tăng quy mô và tần số giao dịch ngoại tệ trên thị trường tự do.
Việc tồn tại thị trường ngoại tệ “chợ đen” làm ảnh hưởng đến hoạt động kiểm soát ngoại hối
của NHNN, gây khó khăn trong việc xác định giá trị bản tệ và điều hành chính sách tiền tệ
quốc gia. Cách gỉai quyết tốt nhất cho vấn đề này là, trước mắt, Chính phủ tiếp tục khuyến
khích các doanh nghiệp bán ngoại tệ thu được cho NHTM. Bên cạnh đó, NHNN cần
nghiêm cấm việc niêm yết, quảng cáo, thanh toán hàng hóa dịch vụ trong nền kinh tế bằng

Lê Thị Vinh – CH 19S

Page 15


Bài tập: Tài chính ngân hàng và sự phát triển
ngoại tệ. NHNN cần giám sát chặt chẽ việc cấp phép, tổ chức và kinh doanh của các bàn
trao đổi tiền tệ.

Lê Thị Vinh – CH 19S

Page 16




×