Tải bản đầy đủ (.doc) (55 trang)

Mở rộng cho vay tiêu dùng tại sở giao dịch 1 ngân hàng công thương việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (330.73 KB, 55 trang )

LỜI NÓĨ ĐÀU
Cho vay tiêu dùng là sản phẩm tín dụng xuất hiện từ lâu đời trên thế giới và hiện nay
đang phát triển rất mạnh nhất là ở các nước đang có tiềm lực về kinh tế và cạnh tranh ngân
hàng sôi động, nhưng mới phát triển 1 vài năm gần đây ở Việt Nam. Trong xu hướng hội
nhập quốc tế, các ngân hàng nước ngoài, ngân hàng liên doanh, ngân hàng thương mại
quốc doanh, ngân hàng thương mại cổ phần, công ty tài chính...đang cạnh tranh mạnh mẽ
các sản phẩm tín dụng tiêu dùng, thu hút khách hàng cá nhân. Năng động nhất chính là các
NHTM cổ phần, liên tục đưa ra các sản phẩm tiện ích, như: cho vay siêu tốc, đăng ký vay
qua mạng Internet, lãi suất cho vay hấp dẫn, kỳ hạn cho vay dài, cho vay tới 80% giá trị
ngôi nhà hay xe ô tô... Đồng thời các NHTM cổ phần chủ động tiếp thị qua nhiều kênh
khác nhau, thậm chí phối hợp với công đoàn, với doanh nghiệp tổ chức giới thiệu ngay tại
nơi công nhân làm việc, cùng với đại lý ô tô hay chủ dự án nhà ở đi làm thủ tục thay cho
khách hàng... Đối với khối NH liên doanh và chi nhánh NH nước ngoài thì tập trung vào
phân khúc thị trường, đó là nhắm đến những người có thu nhập khá trở lên. Đối tượng
khách hàng này bao gồm: chủ doanh nghiệp, những người làm việc cho các cơ quan nước
ngoài và dự án có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, các đối tượng khác có thu nhập cao,
có mua bảo nhân thọ tại các công ty bảo hiểm có uy tín. Sản phẩm được khối NH này tập
trung vào chủ yếu là khách hàng mua căn hộ tại các khu chung cư, mua nhà ở của các dự
án, mua ô tô mới tại các địa lý chính thức, vay tiền đi du học nước ngoài...
Với số dân hơn 80 triệu người, phần đông là dân số trẻ, năng động, thu nhập không
ngừng được cải thiện, nhu cầu tiêu dùng đang tăng cao, nên không chỉ các NH nước ngoài,
NH liên doanh, NH trong nước mà nhiều định chế tài chính cung ứng dịch vụ tiêu dùng
hàng đầu thế giới vẫn đang tiếp tục vào VN.
Trong bối cảnh đó, đứng trước thị trường đầy tiềm năng sinh lợi mà các ngân hàng
đang khai thác triệt để để tìm kiếm lợi nhuận, Sở giao dich 1 chi nhánh cấp 1 của Ngân
hàng công thương Việt Nam, là một trong những Ngân hàng thương mại quốc doanh hàng
đầu tại Việt Nam đã có thái độ như thế nào và đã thực hiện những biện pháp gì để có thể
cạnh tranh với các ngân hàng khác và mở rộng hoạt động cho vay này? Trong quá trình
thực tập tại phòng khách hàng cá nhân của Sở giao dịch 1- Ngân hàng công thương Việt
1



Nam em đã tìm hiểu vấn đề này và đã viết thành đề tài: “Mỏ’ rộng cho vay tiêu dùng tại
sỏ’ giao dịch 1 Ngân hàng Công thưong Việt Nam”.
Nội dung bài viết có 3 phần:
Chương ì: Khải quát chung về cho vay tiêu dỉtng của ngân hàng thương mại
Chương 2: Thực trạng cho vay tiêu dỉtng tại sở giao dịch 1 ngân hàng công thương
Việt Nam.
Chương 3: Ý kiến đề xuất nham đây mạnh hoạt động cho vay tiêu dùng tại sở giao dịch
1 ngân hàng Công Thương Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu của bài viết: Lý thuyết chung về cho vay tiêu dùng trong ngân
hàng thương mại, thực trạng cho vay tiêu dùng tại sở giao dịch 1 ngân hàng Công Thương
Việt Nam .
Phưtmg pháp nghiên cứu: lý luận chung của các học thuyết kinh tế về cho vay tiêu
dùng đồng thời sử dụng các phương pháp thống kê phân tích, tổng hợp và so sánh các tài
liệu thu thập được về thực trạng cho vay tiêu dùng tại sở giao dịch 1 ngân hàng Công
Thương Việt Nam, tù' đó đề xuất các giải pháp, kiến nghị nhằm góp phần mở rộng cho vay
tiêu dùng tại Sở Giao dịch 1.
CHƯƠNG 1
KHÁT QUÁT CHUNG VỀ CHO VAY TTÊƯ DÙNG CỦA NGÂN HÀNG
THƯƠNG MẠT
1.1.

Khái niệm, đặc điểm và phân loại cho vay tiêu dùng:

1.1.1.

Khái niệm

Trong nền kinh tế hội nhập như hiện nay, cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị
trường thì ngân hàng là một trong các tổ chức tài chính quan trọng nhất của nền kinh tế.

Với các chức năng chính như :
Thứ nhất’, là trung gian tài chính với hoạt động chủ yếu là chuyến tiết kiệm thành đầu
tư thông qua sự tiếp xúc với cá nhân và tố chức tạm thời thâm hụt chi tiêu và cá nhân và tổ
chức thặng dư trong chi tiêu.
Thứ hai: tạo phương tiện thanh toán thông qua việc in tiền của ngân hàng trung ương
2


và việc phát hành các giấy nhận nợ với khách hàng, các tài khoản thanh toán... làm cho
tổng phương tiện thanh toán trong nền kinh tế tăng lên gấp bội theo hệ số nhân tiền.
Thứ ba, Ngân hàng trở thành trung gian thanh toán lớn nhất hiện nay ở hầu hết các
quốc gia. Thay mặt khách hàng ngân hàng thực hiện thanh toán giá trị hàng hóa và dịch vụ.
Đe việc thanh toán nhanh chóng, thuận tiện và tiết kiệm chi phí ngân hàng đưa ra các hình
thức thanh toán khác nhau như séc. ủy nhiệm chi, nhờ thu, các loại thẻ... cung cấp mạng
lưới thanh toán điện tử, kết nối, các quỹ và cung cấp tiền giấy khi khách hàng cần...
Tóm lại, ngân hàng là một tổ chức cung cấp một danh mục lớn nhất các tiện ích về tài
chính của nền kinh tế. Sự hoạt động hiệu quả của nó là tiền đề cho việc phân bổ, luân
chuyển và sử dụng có hiệu quả các nguồn nhân lực tài chính, kích thích tăng trưởng kinh tế
một cách lâu dài, bền vững.

3


Nhắc đến hoạt động chủ yếu của ngân hàng thì không thể không nói đến hoạt động cho
vay. Đặc biệt là đối với các ngân hàng Việt Nam thì lợi nhuận đem lại từ hoạt động cho vay
chiếm một phần rất lớn trong tống lợi nhuận. Do đó có thể nói cho vay là hoạt động chủ
chốt của các ngân hàng thương mại.
Theo điều 3, khoản 1 quyết định 1627/2001/QĐ-NHNN ngày 31/12/2001 của Thống
đốc Ngân Hàng Nhà Nước Việt Nam về việc ban hành quy chế cho vay của tổ chức tín
dụng đối với khách hàng thì hoạt động cho vay được hiểu :

Cho vay là một hoạt động cấp tín dụng, theo đó tố chức tín dụng giao cho khách hàng
sử dụng một tài khoản tiền đế sử dụng vào mục đích và thời gian nhất định theo thỏa thuận
với nguyên tắc hoàn trả cả gốc và lãi.
Xét trên phương diện lý thuyết, hoạt động cho vay của ngân hàng có thể được phân loại
dựa vào nhiều tiêu chí khác nhau: như theo thời gian, theo tài sản đảm bảo, theo đối tượng
cho vay, theo phương thức cho vay...Neu dựa vào mục đích sử dụng vốn vay thì có cho vay
nhằm mục đích sản xuất kinh doanh, cho vay tiêu dùng...
-

Phân loại theo thời gian có :

+ Cho vay ngăn hạn
+ Cho vay trung và dài hạn
-

Phân loại cho vay dựa vào tích chất có đảm bảo của khoản vay

+ Cho vay có tài sản đảm bảo
+ Cho vay không có tài sản đảm bảo
-

Phân loại cho vay dựa vào mục đích sử dụng vốn:

+ Cho vay kinh doanh
+ Cho vay tiêu dùng
Cho vay tiêu dùng được bắt đàu từ các hãng bán lẻ do yêu cầu đẩy mạnh tiêu thụ hàng
hóa. Hình thức cho vay của các hãng là bán hàng trả góp.Cho vay tiêu dùng là nghiệp vụ
trong đó ngân hàng cho các cá nhân, hộ gia đình sử dụng số tiền nhất định trên nguyên tắc
hoàn trả gốc và lãi trong khoảng thời gian xác định, nhằm
4



giúp cho người tiêu dùng sử dụng có thể thỏa mãn nhu cầu sinh hoạt hay tiêu dùng như
mua sắm đồ gia dụng, mua sắm nhà cửa hoặc phương tiện đi lại, thậm chí bao gồm cả việc
sử dụng vốn vay vào mục đích học tập của sinh viên, học viên... trước khi họ có khả năng
chi trả, tạo điều kiện cho họ được hưởng thụ một mức sống cao hơn. Cho vay tiêu dùng
kích thích tiêu dùng trong xã hội, thúc đẩy quá trình chu chuyển hàng hoá và dịch vụ, thúc
đẩy tăng trưởng kinh tế, đa dạng hoá các dịch vụ ngân hàng, phân tán rủi ro trong cho vay.
Cơ sở cho vay tiêu dùng:
-

Nhu cầu vay tiêu dùng gia tăng mạnh mẽ gắn liền với nhu cầu về hàng tiêu dùng

lâu bền như nhà, xe, đồ gồ sang trọng...nhu cầu du lịch đối với lực lượng khách hàng rộng
lớn.
-

Tiềm năng sinh lợi từ các khách hàng cá nhân là vô hạn, chừng nào còn có con

người thì nhu cầu với tiêu dùng vẫn luôn tồn tại và không phải tất cả các cá nhân có thể có
nguồn thu nhập thoả mãn nhu cầu tiêu dùng đó.
-

Nhiều hãng lớn tự tài trợ chủ yếu bàng phát hành cố phiếu và trái phiếu, nhiều công

ty tài chính cạnh tranh với ngân hàng trong cho vay làm thị phần cho vay các doanh nghiệp
của ngân hàng bị giảm sút, buộc ngân hàng phải mở rộng thị trường cho vay sang cho vay
tiêu dùng để gia tăng thu nhập.
-


Người tiêu dùng có thu nhập đều đặn để trả nợ ngân hàng. Một số tầng lớp người

tiêu dùng có thu nhập khá cao, thu nhập tương đối ổn định. Vay tiêu dùng giúp họ nâng cao
mức sống , tăng khả năng được đào tạo...giúp họ có nhiều cơ hội tìm kiếm được công việc
có thu nhập cao hơn.
Vai trò của cho vay tiêu dùng
-

Đối với các ngân hàng thương mại

Trong môi trường cạnh tranh khốc liệt của nền kinh tế hội nhập, các ngân hàng thương
mại muốn hoạt động một cách có hiệu quả, có lợi nhuận, có thế tồn tại và phát triển đòi hỏi
mỗi ngân hàng phải có một chiến lược kinh doanh riêng, phải cạnh tranh với nhau đế giành
thị phần cho mình. Chính vì vậy, nếu ngân hàng nào
5
chỉ chú trọng đến nhóm khách hàng là doanh nghiệp mà không để ý đến những khách hàng


cá nhân thì đối tượng khách hàng sẽ rất hạn chế. Do đó hình thức cho vay tiêu dùng giúp
các ngân hàng mở rộng đối tượng khách hàng, quan hệ với nhiều khách hàng hơn, phát
triển khả năng huy động vốn các loại tiền gửi cho ngân hàng đồng thời đa dạng hóa sản
phẩm, giảm thiểu rủi ro... từ đó làm tăng khả năng cạnh tranh của các ngân hàng.
-

Đối với người tiêu dùng

Nhu cầu tiêu dùng đối với mỗi người là tất yếu, và đương nhiên không phải ai cũng có
thế tự đáp ứng được nhu cầu của mình bằng chính thu nhập của mình. Hoạt động cho vay
tiêu dùng của ngân hàng ra đời giúp cho người dân có thế kết hợp nhu cầu hiện đại và khả
năng thanh toán trong tương lai, thỏa mãn được nhiều hơn những nhu cầu của mình trước

khi có khả năng chi trả và đặc biệt quan trọng trong những trường hợp cấp bách, như chi
tiêu cho giáo dục hay y tế.. .Cho vay tiêu dùng làm cho chất lượng cuộc sống của người
dân được nâng cao.
-

Đối với nền kinh tế

Thứ nhất, hoạt động cho vay tiêu dùng của ngân hàng ra đời với thủ tục cho vay tương
đối đơn giản và ngày càng đơn giản hơn, nhanh gọn hơn do cạnh tranh giữa các ngân hàng,
nên góp phần quan trọng trong đẩy lùi nạn cho vay nặng lãi. Thứ hai, thông qua hoạt động
cho vay tiêu dùng, chất lượng cuộc sống của người dân được nâng cao, tạo tâm lí thoải
mái, nâng cao hiệu quả công việc, năng suất lao động, tạo viễn cảnh tốt cho nền kinh tế.
Thứ ba, cho vay tiêu dùng là đòn bẩy quan trọng kích thích tiêu dùng, kích thích nền sản
xuất phát triển, giải quyết công ăn việc làm cho người dân, nâng cao thu nhập, giảm các tệ
nạn xã hội, tạo ra cuộc sống lành mạnh và tạo điều kiện thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Đối tượng cho vay tiêu dùng
Tùy vào mỗi cách xác định, phân chia của từng ngân hàng thì đối tượng cho vay tiêu
dùng có rất nhiều dạng. Ta có thể chia đối tượng cho vay tiêu dùng theo mức độ tài chính
của họ.
-

Các đối tượng có thu nhập thấp: Những người có thu nhập thấp thì thường có nhu

càu vay để tiêu dùng không cao vì bị giới hạn bởi thu nhập hạn chế.
-

Các đối tượng có thu nhập trung bình: Đối với những người này nhu cầu vay vốn
6



có xu hướng tăng mạnh. Đối tượng này muốn vay đế tiêu dùng hơn là bỏ ra khoản tiết
kiệm tích lũy của mình để đáp ứng được mục đích đó.
-

Các đối tượng có thu nhập cao: nhu cầu vay tiêu dùng nảy sinh để tăng thêm khả

năng thanh toán và đó được coi như một khoản nợ linh hoạt để chi tiêu khi mà tiền vốn tích
lũy của họ đang được đầu tư trung và dài hạn. Hiểu theo cách khác thì khoản tiền vay tiêu
dùng này được coi là nguồn ứng trước của lợi nhuận do đầu tư mang lại. Những nhóm
người này thường có nhu cầu chi tiêu trong mục đích tiêu dùng với số tiền lớn. Vì vậy các
ngân hàng thương mại cần phải chú ý quan tâm và phát triển nhóm khách hàng này.
1.1.2.

Đặc điểm cho vay tiêu dùng

• về quy mô:
Do cho vay tiêu dùng là khoản cho vay cấp cho các cá nhân, hộ gia đình không phải sử
dụng cho mục đích kinh doanh nên nó thường là các khoản vay có giá trị không lớn thậm
chí còn rất nhỏ. Giá trị này được xác định trên cơ sở giá cả hàng hóa, dịch vụ mà khách
hàng đang có nhu cầu tiêu dùng trong khi giá trị những thứ này thường không quá lớn. Hơn
nữa, phần lớn khách hàng vay tiêu dùng đều đã có sự tích


lũy từ trước, ngân hàng chỉ

người hỗ trợ cho

việc mua sản phẩm được
dễ dàng hơn khi tích lũy là chưa đủ


vì thế quy mô đối với mỗi khoản vay thường là

nhỏ.
Tuy nhiên với số lượng khách hàng có nhu cầu vay tiêu dùng lớn và vì thế tổng quy mô
cho vay lớn. Đây cũng là xu thế phổ biến, trong hướng xã hội ngày càng phát triến thì nhu
cầu của con người ngày càng trở nên đa dạng dẫn đến số lượng cho vay tiêu dùng sẽ rất
lớn.

• về lãi suất
Các khoản cho vay tiêu dùng có lãi suất cao,”cứng nhắc”, và nhu cầu vay kém nhạy
cảm với lãi suất. Điều đó có nghĩa là nó đủ để bù đắp chi phí huy động vốn của ngân hàng,
không như hầu hết các khoản cho vay kinh doanh hiện nay với lãi suất thay đổi theo thị
trường, lãi suất cho vay tiêu dùng thường là ấn định.

7


Cho vay tiêu dùng có tính nhạy cảm theo chu kì. Nó tăng lên trong thời kì nền kinh tế
rộng mở, khi mà mọi người dân cảm thấy lạc quan về tương lai. Ngược lại khi nền kinh tế
rơi vào suy thoái, rất nhiều cá nhân và họ gia đình cảm thấy không tin tưởng nhất là khi họ
thấy tình trạng thất nghiệp tăng lên và họ sẽ hạn chế việc vay mượn từ ngân hàng. Khi vay
tiền, người tiêu dùng dường như kém nhạy cảm với lãi suất.
Người tiêu dùng thường quan tâm đến khoản tiền họ phải trả hàng tháng hơn là lãi suất
của khoản vay. Bên cạnh đó mức thu nhập và trình độ dân trí cũng tác động rất lớn đến
việc sử dụng các khoản cho vay tiêu dùng. Những người có thu nhập cao có xu hướng vay
nhiều hơn so với thu nhập hàng năm mà mình có được. Những gia đình mà người chủ gia
đình hay người tạo thu nhập chính có trình độ, có học vấn cao thì việc vay mượn là một
công cụ để đạt được mức sống như mong muốn.
Ngân hàng có thể sử dụng nhiều phương pháp khác nhau đế xác định mức lãi suất thực
tế đối với cho vay phục vụ nhu cầu tiêu dùng. Song phần lớn lãi suất được xác định dựa

trên lãi suất cơ bản cộng phần lợi nhuận cận biên và phàn bù đắp rủi ro, có thể đưa ra công
thức tính tổng quát như sau:
Lãi suất cho vay tiêu dùng= Chi phí huy động vốn + Rủi ro tổn thất d ự kiến + Phần bù
kỳ hạn với các khoản cho vay dài hạn+ Lợi nhuận cận biên
Hiện nay, mỗi ngân hàng thương mại có những phương pháp tính lãi riêng, song nhìn
chung, tập trung vào những phương pháp như: Phương pháp lãi đơn, phương pháp lãi gộp,
phương pháp tỷ lệ chiết khấu, phương pháp lãi suất biến đổi...

• về rủi ro : Các khoản cho vay tiêu dùng có chi phí lớn nhất và có độ rủi ro cao
nhất trong danh mục các khoản cho vay của ngân hàng thương mại.
Lãi suất cho vay tiêu dùng là cố định và được xác định dựa trên lãi suất cơ bản cộng
với mức lãi suất cận biên và phần bù rủi ro. Neu lãi suất trên thị trường vốn tăng mà lãi
suất của các khoản cho vay tiêu dùng là cố định và cứng nhắc sẽ khiến cho ngân hàng phải
bù đắp mức lãi suất huy động vốn mà không được thay đối lãi suất cho vay tiêu dùng. Đó
là rủi ro về lãi suất.
Bên cạnh đó là rủi ro về tín dụng. Nguồn tài chính để chi trả cho khoản vay tiêu dùng
8


không phải dựa vào lợi nhuận hay bắt nguồn từ khoản vay đó đem lại mà nó phụ thuộc vào
một nguồn khác độc lập hoàn toàn với nguồn vay, đó chính là thu nhập của người vay
mang lại. Điều đó sẽ mang lại những rủi ro mang tính khách quan và chủ quan như: tình
hình kinh tế vĩ mô bất ổn, thiên tai, tình trạng thất nghiệp gia tăng, tình trạng sức khỏe,
công việc, đạo đức của người vay.
Quản lí sau cho vay cũng là một vấn đề lớn mà ngân hàng gặp phải do quy mô món vay
nhỏ nhưng số lượng các món vay lại lớn vì thế việc kiểm soát về tình hình thu nhập và khả
năng tài chính của từng khách hàng đối với tất cả các món vay không phải là điều dễ dàng.
Nó phụ thuộc rất lớn vào đạo đức của người vay.

• về lọi nhuận:

Do cho vay tiêu dùng luôn tiềm ẩn rủi ro ở mức cao vì thế lợi nhuận kì vọng mang lại
từ nguồn cho vay tiêu dùng cũng lớn.
1.1.3.
-

Phân loại cho vay tiêu dùng

Căn cứ vào mục đích vay:

Có thế phân loại tín dụng tiêu dùng thành 2 loại:
> Cho vay tiêu dùng cư trú (residential morage loan) là các khoản cho vay nhằm phục
vụ cho nhu cầu xây dựng, mua sam hay cải tạo nhà ở của các cá nhân, hộ gia đình.
> Cho vay tiêu dùng không cư trú (nonresidential morage loan) đó là các khoản cho
vay phục vụ nhu cầu cải thiện đời sống như mua sắm phương tiện, đồ dùng, du lịch, học
hành hoặc giải trí...
-

Căn cứ vào hình thức

Có thể chia cho vay tiêu dùng thành 2 loại:
> Cho vay gián tiếp (indirect consumer loan) là hình thức cho vay trong đó ngân hàng
mua các khoản nợ phát sinh của các doanh nghiệp đã bán chịu hàng hoá hoặc đã cung cấp
các dịch vụ cho người tiêu dùng, hình thức này ngân hàng cho vay thông qua các doanh
nghiệp bán hàng hoặc làm các dịch vụ mà không trực tiếp tiếp xúc với khách hàng.
(1)
Ngân hàng
(4)
Công ty bán lẻ

9



(5)
(6)

(2) (3)

Người tiêu dùng
(1) Ngân hàng và công ty bán lẻ kí kết hợp đồng mua bán nợ
(2) Công ty bán lẻ và người tiêu dùng kí kết hợp đồng mua bán chịu hàng
(3) Công ty bán lẻ giao tài sản cho người tiêu dùng
(4) Công ty bán lẻ bán bộ chứng từ bán chịu hàng hóa cho ngân hàng
(5) Ngân hàng thanh toán tiền cho các công ty bán lẻ
(6)

Người tiêu dùng thanh toán tiền trả góp cho ngân hàng Với hình thức cho vay này

nó có những un điểm là:
o Các ngân hàng thương mại rễ ràng mở rộng và tăng doanh số cho vay,

10


o Các ngân hàng thương mại sẽ tiết kiệm và giảm được các chi phí khi cho vay
o Là cơ sở để mở rộng quan hệ với khách hàng và tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt
động khác của ngân hàng
o Neu ngân hàng thương mại quan hệ tốt với các doanh nghiệp bán lẻ, thì hình thức cho
vay tiêu dùng gián tiếp có mức độ rủi ro thấp hơn cho vay tiêu dùng trực tiếp.
Tuy nhiên, hình thức cho vay này có những hạn chế là o Khi cho vay, các ngân hàng
thương mại không tiếp xúc trực tiếp với khách hàng (người vay vốn) mà thông qua các

doanh nghiệp đã bán chịu hàng hoá, dịch vụ,
o Thiếu sự kiểm soát của ngân hàng (cả trước, trong và sau khi vay vốn) khi doanh
nghiệp thực hiện bán lẻ hàng hoá, dịch vụ, nhất là trong việc lựa chọn khách hàng,
o Kỹ thuật và quy trình nghiệp vụ với hình thức cho vay này rất phức
> Cho vay tiêu dùng trực tiếp (Direct consumer loan) là ngân hàng và khách hàng
trực tiếp gặp nhau đế tiến hành cho vay hoặc thu nợ.

(1) Ngân hàng và người tiêu dùng kí kết hợp đồng vay vốn
(2)

Người vay vốn trả trước một phần số tiền phải mua tài sản cho công ty

bán lẻ
(3) Ngân hàng thanh toán số tiền còn thiếu cho công ty bán lẻ.
(4) Công ty bán lẻ giao tài sản cho người tiêu dùng


(5)

Người tiêu dùng thanh toán nợ vay cho ngân hàng Hình thức này có những ưu điểm

sau:
o Ngân hàng có thể sử dụng triệt để trình độ, kiến thức, kinh nghiệm và kỹ năng của
cán bộ tín dụng, do đó các khoản cho vay này thường có chất lượng cao hơn so với cho vay
thông qua doanh nghiệp bán lẻ
o Cán bộ tín dụng khi cho vay đặc biệt coi trọng đến chất lượng các khoản vay, song
doanh nghiệp bán lẻ hàng hoá, dịch vụ thường coi trọng nhiều đến việc tăng doanh số bán
hàng hơn là chất lượng các khoản vay, hơn nữa các doanh nghiệp thường đưa ra quyết định
"tín dụng" một cách nhanh chóng, nên dẫn đến tình trạng có những khoản tín dụng cấp ra
không chính đáng, ngược lại có thế từ chối đối với những khách hàng tốt của mình

o Hình thức cho vay tiêu dùng trực tiếp linh hoạt hơn hình thức cho vay gián tiếp, vì
khi quan hệ trực tiếp giữa ngân hàng với khách hàng sẽ xử lý tốt các phát sinh, hơn nữa có
khả năng làm thoả mãn quyền lợi cho cả ngân hàng và khách hàng
o Do đối tượng khách hàng rất rộng do đó việc đưa ra các dịch vụ, tiện ích mới là rất
thuận lợi, đồng thời là hình thức để tăng cường quảng bá hình ảnh của ngân hàng đến với
khách hàng.
Căn cứ vào phương thức hoàn trả:
> Cho vay tiêu dùng trả góp:
Là hình thức cho vay mà theo đó ngân hàng cho phép khách hàng trả gốc làm nhiều lần
trong thời hạn tín dụng nhất định đã thỏa thuận. Cho vay trả góp thường được áp dụng đối
với các khoản vay trung và dài hạn, tài trợ cho tài sản cố định, có giá trị tương đối lớn
như : cho vay mua ô tô, mua nhà...và áp dụng cho những người có thu nhập trong một kỳ
không đủ để hoàn trả toàn bộ số vay. số tiền trả mỗi kì thường được tính toán sao cho phù
hợp với khả năng trả nợ của khách hàng. Ngân hàng thường cho vay trả góp đối với người
tiêu dùng qua hạn mức nhất định. Ngân hàng sẽ thanh toán ngay cho người bán lẻ về số
hàng hóa mà các
12
khách hàng đã mua trả góp. Các cửa hàng bán lẻ nhận ngay tiền sau khi bán hàng từ phía
ngân hàng và làm đại lý thu tiền cho cho ngân hàng hoặc khách hàng trả trực tiếp cho ngân


hàng. Đây là hình thức tín dụng tài trợ cho người mua thông qua đó khuyến khích tiêu thụ
hàng hóa. Hình thức này đem lại nhiều thuận lợi cho người vay hơn đối với việc cho vay
mà thu hồi lãi và gốc trong một lần và vì thế thường thì các khoản cho vay trả góp chiếm tỷ
trọng cao hơn trong cho vay tiêu dùng.
Cho vay trả góp có rủi ro cao do khách hàng thường thế chấp bằng hàng hóa mua trả
góp. Khả năng trả nợ phụ thuộc vào thu nhập đều đặn của người vay, và rủi ro xảy ra nếu
người vay mất việc, ốm đau, thu nhập giảm sút.. .Chính vì thế thường thì lãi suất cho vay
trả góp là cao nhất trong khung lãi suất cho vay của ngân hàng..
> Cho vay tiêu dùng phi trả góp:

Là hình thức cho vay mà tiền vay được khách hàng thanh toán cho ngân hàng chỉ một
lần khi đến hạn phải trả. Cho vay tiêu dùng phi trả góp thường được cấp cho các khoản vay
có giá trị nhỏ và với thời hạn không dài. Phần lớn thì các khoản vay này thường được dùng
để chi trả cho các chuyến đi nghỉ, tiền nằm viện hay để mua các vật dụng gia đình hoặc sửa
chữa ôtô, nhà ở.
> Cho vay tiêu dùng tuần hoàn
Là hình thức cho vay mà ngân hàng cho phép khách hàng sử dụng thẻ tín dụng hoặc
phát hành các loại sec thấu chi dựa trên tài khoản vãng lai để thanh toán tiền hàng hóa dịch
vụ. Trong thời gian tín dụng đã được thỏa thuận trước, căn cứ vào nhu cầu chi tiêu và thu
nhập kiếm được từng kỳ của khách hàng, khách hàng được ngân hàng cho phép vay và trả
nợ một cách tuần hoàn. Do những khoản vay này không được đảm bảo, đồng thời chi phí
để điều hành tín dụng tuần hoàn tương đối cao như: chi phí dự trữ quỹ, chi phí xử lý thẻ tín
dụng bao gồm kiểm tra tín dụng lừa đảo và những mất mát trong thu ngân... nên lãi suất
đối với tín dụng tuần hoàn là tương đối cao. Hình thức này tương đối thuận tiện cho các
khách hàng có nhu cầu vay thường xuyên, khách hàng chỉ cần làm thủ tục một lần cho
nhiều lần vay.
-

Căn cứ vào phương thức bảo đám tiền vay:

> Cho vay cầm đồ:
Là hình thức ngân hàng cho khách hàng vay để nhằm mục đích tiêu dùng nhưng ngân
13


hàng giữ tài sản của khách hàng để đảm bảo việc thực hiện các nghĩa vụ của khách hàng.
Danh mục các tài sản và điều kiện các tài sản được cầm cố cũng được ngân hàng quy định
cụ thể dựa trên cơ sở quy định của pháp luật và chính sách tín dụng của ngân hàng.
> Cho vay thế chấp lương
Thường áp dụng cho khách hàng có việc làm và thu nhập ổn định, ngoài việc chi cho

các khoản chi tiêu thường xuyên hàng tháng thì còn tích lũy đủ để trả nợ vay. Số tiền vay
sẽ căn cứ vào nhu cầu, thu nhập thường xuyên của khách hàng, giới hạn cho vay của ngân
hàng.
> Cho vay có tài sản đảm bảo hình thành từ tiền vay:
Là hình thức cho vay tiêu dùng áp dụng đối với khách hàng có nhu cầu vay để mua các
tài sản có giá trị lớn và thời gian sử dụng lâu dài. Tùy thuộc vào khả năng tài chính và khả
năng trả nợ của khách hàng, giá trị tài sản mua sắm và mức cho vay tối đa trên giá trị tài
sản mua sắm mà từ đó ngân hàng sê có mức vay thích hợp cho từng đối tượng khách hàng.
1.2.

Mở rộng cho vay tiêu dùng tại ngân hàng thương mại

1.2.1.

Khái niệm mở rộng cho vay tiêu dùng tại ngân hàng thương mại

Cho vay tiêu dùng tại các ngân hàng thương mại càng ngày càng chứng tỏ được vai trò
của mình và vì thế các ngân hàng càng ngày càng đi sâu vào lĩnh vực này để mở rộng và
cho vay một cách có hiệu quả các khoản cho vay tiêu dùng.
Mở rộng cho vay tiêu dùng là sự tăng lên cả về số lượng và chất lượng của các khoản
vay tiêu dùng tại các ngân hàng thương mại.
1.2.2.

Các chỉ tiêu đánh giá mức độ mở rộng cho vay tiêu dùng tại ngân hàng

thưong mại
-

Số lượng khách hàng cho vay tiêu dùng:


Số lượng khách hàng là một chỉ tiêu quan trọng trong việc đánh giá mức độ mở rộng
hoạt động cho vay tiêu dùng, số lượng khách hàng có thể tính theo một khoảng thời gian
nhất định (quý, năm), nếu số lượng khách hàng tìm đến ngân hàng để vay với mục đích
tiêu dùng lớn và ngày càng tăng thì chứng tỏ hoạt động cho vay tiêu dùng của ngân hàng
ngày càng được mở rộng, uy tín trong lĩnh vực cho vay tiêu dùng ngày càng được nâng cao
14


và ngân hàng đã tập trung nhiều hơn vào lĩnh vực này.
-

Doanh số cho vay tiêu dùng

Doanh số cho vay tiêu dùng là tổng số tiền mà ngân hàng đã cho khách hàng vay trong
một khoảng thời gian nhất định thường là một năm. Doanh số cho vay tiêu dùng ngày càng
lớn, tốc độ tăng ngày càng cao cho thấy khả năng mở rộng cho vay tiêu dùng của ngân
hàng thương mại.
Doanh số cho vay kỳ này Tốc độ tăng doanh số = (

-

1)

X

100

Doanh số cho vay kỳ trước
Ngoài ra cần phải xem xét tỷ trọng doanh số cho vay tiêu dùng trên tổng doanh số cho
vay của cả ngân hàng mới thấy được sự gia tăng tương đối của cho vay tiêu dùng so với

các loại cho vay khác.
-

Dư nợ cho vay tiêu dùng

Dư nợ cho vay tiêu dùng là số tiền mà khách hàng còn dư nợ ngân hàng tại một thời
điểm nhất định, cho thấy lượng tiền mà ngân hàng chưa thu hồi được. Tốc độ tăng trưởng
dư nợ cho vay qua các năm được xác định theo công thức:
Dư nợ cho vay TD kỳ này Tốc độ tăng dư nợ cho vay= (

-1) X 100

Dư nợ cho vay kỳ trước
Tốc độ tăng trưởng tuyệt đối = tổng dư nợ TD năm này- tổng dư nợ
TD năm trước
Các chỉ tiêu này tăng cho thấy mức độ mở rộng cho vay tiêu dùng tăng. Ngoài ra đế
đánh giá được tốc độ tăng dư nợ cho vay tiêu dùng cũng cần xem xét nó trong mối tương
quan với tổng dư nợ cho vay của cả ngân hàng tại một thời điểm nhất định.
-

Doanh số thu nợ trong từng thời kì: là tổng số vốn mà khách hàng đã hoàn trả

ngân hàng trong từng thời kì. Neu doanh số thu nợ tăng phản ánh khách hàng đã trả nợ
đúng hạn hoặc ngân hàng thu hồi nợ sớm do những biểu hiện không lành mạnh của khoản
vay.
-

Nợ quá hạn cho vay tiêu dùng

Nợ quá hạn là khoản nợ đến thời điếm hoàn trả của khách hàng mà ngân hàng vẫn chưa

15


thu hồi được.
Dư nợ quá hạn
Tỷ lệ nợ quá hạn =-----------------------X 100
Tổng dư nợ
Neu tỉ lệ nợ quá hạn vượt quá giới hạn cho phép phản ánh chất lượng tín dụng của ngân
hàng còn yếu kém, chứa đựng nhiều rủi ro và ngược lại tý lệ nợ quá hạn thấp và được kiểm
soát phản ánh chất lượng các khoản vay của ngân hàng được coi là tốt . Nguyên nhân của
các khoản nợ trong cho vay tiêu dùng có thế là do khách hàng gặp những trường hợp
không mong muốn, không đảm bảo được nguồn thu nhập đế trả nợ cho ngân hàng, hay
cũng có thể khách hàng chây ỳ trong việc trả nợ cho ngân hàng, hoặc do sự thay đổi chính
sách của Nhà nước,...gây nên tình trạng thất thoát vốn của ngân hàng, giảm hiệu quả hoạt
động, có thể mất khả năng thanh toán, ảnh hưởng đến uy tín của ngân hàng.
- T h u nhập từ hoạt động cho vay tiêu dùng:
Lợi nhuận cho vay tiêu dùng là chỉ tiêu tổng hợp nhất phản ánh sự mở rộng cho vay
tiêu dùng. Khi lợi nhuận cho vay tiêu dùng càng cao thì càng chứng tỏ sự mở rộng về cả số
lượng và chất lượng của hoạt động này. Chúng ta có thể sử dụng các chi tiêu như:
Lợi nhuận = doanh thu - chi phí
Thu nhập từ hoạt động CVTD
Tỷ trọng TN từ c VTD= ---------------------------------------------------------- X 100

Tống thu nhập của ngân hàng
Ngoài ra để đánh giá một cách chính xác mức độ mở rộng cho vay tiêu dùng cần đánh
giá tỷ trọng đóng góp từ hoạt động cho vay tiêu dùng vào lợi nhuận của cả ngân hàng. Tỷ
trọng này càng cao chứng tỏ được vai trò của hoạt động cho vay tiêu dùng với toàn ngân
hàng và có các biện pháp để mở rộng cho vay tiêu dùng.
1.3.


Các nhân tố ảnh hưởng tói mỏ’ rộng cho vay tiêu dùng

1.3.1.

Nhóm nhân to khách quan

Đây là nhóm nhân tố ảnh hưởng rất mạnh mẽ tới việc phát triển hoạt động cho vay tiêu
dùng mà bản thân ngân hàng không thể kiểm soát được.
-

Môi trường kinh tế:
16


Môi trường kinh tế như: tốc độ tăng trưởng kinh tế, mức độ ổn định của sự phát triển
kinh tế, thu nhập bình quân đầu người, các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng thu nhập, thanh
toán, chi tiêu, nhu cầu về vốn... ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động cho vay tiêu dùng của
ngân hàng thương mại. Khi nền kinh tế tăng trưởng cao và ổn định thì mức sống của người
dân sẽ được nâng cao, họ kỳ vọng các khoản thu nhập trong tương lai nên đi vay tiêu dùng
nhiều hơn để thỏa mãn cho các nhu cầu của mình về mặt vật chất, tinh thần...từ đó cho vay
tiêu dùng của ngân hàng thương mại sẽ được mở rộng. Ngược lại khi nền kinh tế bị hoặc
dự kiến là khủng hoảng, trì trệ thì thu nhập trong tương lai của người dân cũng có thể bị
giảm sút và

17


vì thế các nhu cầu chi tiêu chỉ dừng lại ở mức vừa đủ dẫn đến hoạt động cho vay tiêu
dùng của ngân hàng hạn chế hơn.
-


Môi trường văn hóa - xã hội

Các nhân tố văn hóa như tập quán sinh hoạt ăn uống, chi tiêu khác nhau, trình độ dân
trí, thói quen, lối sống của từng vùng tác động đến nhu cầu người tiêu dùng và vì thế ảnh
hưởng đến cho vay tiêu dùng của ngân hàng thương mại. Ngoài ra các yếu tố như thói quen
sử dụng các sản phẩm của ngân hàng hay thói quen thanh toán tiền mặt trong dân cư cũng
ảnh hưởng không ít tới hoạt động cho vay tiêu dùng của ngân hàng thương mại.
Quy mô và tốc độ tăng dân số cũng là một yếu tố ảnh hưởng lớn đến quy mô cho vay
tiêu dùng vì dân số càng đông thì nhu cầu tiêu dùng càng lớn, số người tìm đến ngân hàng
vay tiêu dùng để thoa mãn các nhu cầu của mình càng nhiều.
-

Môi trường pháp lý:

Kinh doanh trong ngân hàng là một lĩnh vực chịu sự giám sát chặt chẽ của các cơ quan
chức năng như Ngân hàng nhà nước. Khi hoạt động của ngân hàng chịu sự quản lý chặt chẽ
của pháp luật thì tính trật tự, ổn định được đảm bảo, hoạt động cho vay tiêu dùng có điều
kiện diễn ra thông suốt, hạn chế những thiệt hại của các bên tham gia quan hệ tín
dụng...Một môi trường pháp lý lành mạnh, văn bản pháp luật rõ ràng không chồng chéo,
thủ tục đơn giản... sẽ tạo điều kiện môi trường tốt để phát triển hoạt động cho vay tiêu
dùng. Tuy nhiên nếu luật quy định về hoạt động ngân hàng nói chung và cho vay tiêu dùng
nói riêng không rõ ràng, thiếu đồng bộ, còn nhiều khe hở, hay quá ngặt nghèo sẽ gây khó
khăn cho hoạt động của ngân hàng, không có cơ sở pháp lý để giải quyết các vấn đề phát
sinh hoặc làm cho người đi vay không đáp ứng điều kiện để được ngân hàng cấp tín dụng
dẫn đến ngân hàng bị hạn chế trong việc cho vay.
-

Các chỉnh sách của nhà nước


Các chính sách mang tầm vĩ mô cũng tác động lớn đến hoạt động cho vay tiêu dùng.
Những chính sách này thường đề ra các nhiệm vụ của từng năm hay thời
18


kỳ và mục đích là làm cho nền kinh tế tăng trưởng và phát triển một cách bền vững, nếu
thực hiện được đời sống của người dân sẽ tăng lên, kèm theo nhu cầu tiêu dùng cũng tăng lên và hoạt

động cho vay tiêu dùng của ngân hàng có cơ hội mở rộng.
1.3.2.
-

Nhóm nhân tố chủ quan

Quy mô vốn và uy tín của ngân hàng:

Quy mô của một ngân hàng là một nhân tố quan trọng quyết định cấu trúc danh mục
cho vay của ngân hàng. Đặc biệt là vốn tự có, vốn tự có lớn là biểu hiện của một ngân hàng
bền vững, nó quyết định mức cho vay tối đa trên một khách hàng. Vốn tự có lớn thì ngân
hàng càng có điều kiện hoạt động cho vay nói chung và hoạt động cho vay tiêu dùng nói
riêng. Ngoài ra khách hàng cũng thường tìm đến những ngân hàng có uy tín với chất lượng
dịch vụ, những tiện ích và sự an toàn mà những ngân hàng này mang lại.
-

Chỉnh sách tín dụng

Các yếu tố của chính sách tín dụng như : hạn mức tín dụng, lãi suất, kỳ hạn, mức phí,
phương thức cho vay, tài sản đảm bảo, hướng giải quyết nợ khó đòi,... đều tác động trụ’c
tiếp đến việc thực hiện các hoạt động của ngân hàng. Với chính sách hợp lý, đúng đắn, linh
hoạt, đa dạng... sẽ thu hút được nhiều khách hàng đến xin vay. Và ngược lại với chính sách

tín dụng cứng nhắc, kém linh hoạt, không đáp ứng được nhu cầu của khách hàng sẽ hạn
chế việc đi vay và giảm tính cạnh tranh trong hoạt động giữa các ngân hàng.
-

Thâm định khách hàng

Thẩm định là giai đoạn khởi đầu và có ý nghĩa quan trọng trong đảm
bảo an toàn vốn vay. Ngân hàng sẽ tiến hành thẩm định về tư cách pháp nhân hoặc thể
nhân, đánh giá tình hình tài chính, giá trị tài sản đảm bảo của người vay. Trên cơ sở thẩm
định đầy đủ các yếu tố ngân hàng sẽ quyết định có cho vay hay không, nếu cho vay thì
mức cho vay là bao nhiêu, điều này phụ thuộc vào vốn của ngân hàng có tại thời điểm vay
và giá trị tài sản đảm bảo. Quá trình thẩm định phải chặt chẽ mới giúp ngân hàng đảm bảo
an toàn cho khoản vay, tuy nhiên nếu nó quá
19
nhiều thủ tục phức tạp, rườm rà sẽ làm cho người vay mất quá nhiều thời gian và công sức
và họ sẽ thấy nản lòng. Đe hạn chế điều này việc thầm định phải dựa trên các thủ tục cơ sở


khoa học hợp lý và song song với nó thì việc thực hiện phải nghiêm chỉnh, nó là yếu tố
quyết định chất lượng thẩm định và chất lượng khoản tín dụng.
-

Chất lượng cản bộ tín dụng

Chất lượng cán bộ là một yếu tố vô cùng quan trọng trong hoạt động ngân hàng nói
chung và trong lĩnh vực cho vay tiêu dùng nói riêng. Chất lượng cán bộ được thể hiện ở:
trình độ nghiệp vụ chuyên môn, đạo đức nghề nghiệp, khả năng giao tiếp, nhạy bén, nắm
bắt tâm lý khách hàng, ...Chất lượng cán bộ có cao thì mới đáp ứng được yêu cầu công
việc, mới thực hiện được tốt việc thẩm định, giảm thiểu được rủi ro cho ngân hàng. Mặt
khác, cán bộ tín dụng phải có đạo đức nghề nghiệp tốt nếu không sẽ đưa lại những tốn hại

cho ngân hàng. Sự thân thiện và cởi mở của cán bộ tín dụng sẽ làm cho ngân hàng hài lòng
và tin tưởng hơn vào ngân hàng và từ đó dễ trở thành khách hàng quen thuộc của ngân
hàng.
-

Cơ sở vật chất kỹ thuật

Trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đang diễn ra hết sức mạnh mẽ thì việc
trang bị đầy đủ các công nghệ, thiết bị hiện đại phù hợp với nhu cầu xã hội, phục vụ kịp
thời nhu cầu của khách hàng là yếu tố để giúp ngân hàng có thể nâng cao khả năng cạnh
tranh, thu hút được nhiều khách hàng hơn. Với thiết bị hiện đại hoạt động của ngân hàng sẽ
diễn ra suôn sẻ, khả năng nắm bắt diễn biến thị trường sẽ nhanh hơn, quy trình cho vay sẽ
diễn ra một cách nhanh gọn, hiện đại giúp ngân hàng đưa ra được những chiến lược kinh
doanh phù hợp với nhu cầu của khách hàng nói chung và khách hàng vay tiêu dùng nói
riêng.

20


CHƯƠNG2
THỤC TRẠNG CHO VAY TIÊU DÙNG TẠI SỎ GIAO DỊCH 1 NGÂN HÀNG
CÔNG THƯƠNG
2.1.
2.1.1.

Khái quát về sở GDI ngân hàng Công Thương
Quá trình hình thành và phát triến

Sở giao dịch 1 ngân hàng công thương Việt Nam là một đơn vị thành viên của NHCT
VN nằm trên địa bàn Hà Nội. Tiền thân ban đầu là chi nhánh ngân hàng Công Thương

thành phố Hà Nội.Chi nhánh NHCT thành phố Hà Nội được thành lập theo quyết định số
198/NH - TCCB ngày 29/6/1988 của tổng giám đốc ngân hàng Nhà Nước Việt Nam . Đen
ngày 24/3/1993 tống giám đốc NHCT ra quyết định số 93/NHCT TCCB chuyển các hoạt
động tại hội sở chi nhánh NHCT thành phố Hà Nội thành hội sở chính NHCT Việt Nam.
Trụ sở chính đóng tại số 10 Lê Lai, quận Hoàn Kiếm,thành phố Hà Nội. Tên tiếng anh của
ngân hàng là Incombank (viết tắt là ICB). Kể từ ngày 1/4/1993 SGD NHCT Việt Nam đi
vào hoạt động, thực hiện chức năng kinh doanh tiền tệ phục vụ cho sự phát triển kinh tế xã
hội. Ngày 30/12/1998, chủ tịch hội đồng quản trị NHCT Việt Nam ký quyết định số 134/
QĐ-HĐQT-NHCT về việc sắp xếp tổ chức hoạt động SGD 1 NHCT Việt Nam theo điều lệ
tố chức hoạt động của NHCT Việt Nam. SGD1 được mang tên từ ngày 1/1/1999. Quá trình
hình thành và phát triến của SGD1 gắn liền với sự đổi mới của hệ thống ngân hàng Việt
Nam và những thành công của công cuộc phát triển kinh tế thủ đô và đất nước. Ngày
20/10/2003 chủ tịch hội đồng quản trị NHCT Việt Nam đã ban hành quyết định số 153/
QĐ-HĐQT-NHCT về mô hình tổ chức mới của SGD1 theo dự án hiện đại hóa ngân hàng
và công nghệ thanh toán do ngân hàng thế giới (WB) tài trợ.
2.1.2.

Khái quát tình hình kỉnh doanh của SGD 1 NHCT VN

Trong suôt quá trình xây dựng và phát triên, SGD1- NHCT VN đã không ngừng lớn
mạnh về mọi mặt, liên tục là đơn vị thi đua dẫn đầu hệ thống NHCT VN. Với sự nỗ lực
không ngừng đối mới toàn diện các mặt hoạt động, kinh doanh đa dạng và hiệu quả, lợi
nhuận hàng năm luôn vượt kế hoạch được giao và cao nhất trong toàn hệ thống. Với kết
quả đó, SGD1 không chỉ góp phần vào sự tăng trưởng của NHCT VN mà còn góp phần
21


đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế của Thủ đô Hà
Với lợi thế lớn nhất: là sở giao dịch 1 của NHCT VN - một trong bốn ngân hàng
thương mại nhà nước lớn nhất Việt Nam, với gần 20 năm hoạt động và thế mạnh truyền

thống là huy động vốn thì quy mô, chất lượng và uy tín của ngân hàng ngày càng được mở
rộng, khách hàng và doanh nghiệp đến gửi tiền nhiều hơn, nguồn vốn huy động được của
SGD 1 NHCT VN luôn duy trì ở mức cao. Năm 2003, SDG1 là một trong bốn đơn vị của
NHCT VN đi đầu trong hệ thống triến khai thành công dự án hiện đại hóa ngân hàng
(INCAS), đây là một bước đi đúng đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong việc nâng
cao chất lượng, hiệu quả công việc quản trị và phục vụ ngân hàng. Bên cạnh đó, đội ngũ
cán bộ giỏi năng động cũng là một thuận lợi lớn đối với Sở. Hiện nay sở có 1/3 đội ngũ cán
bộ là lực lượng trẻ, trên 80% cán bộ có trình độ đại học, 16 thạc sĩ kinh tế, 70% cán bộ có
trình độ ngoại ngữ, 90% cán bộ sử dụng thành thạo máy vi tính, 100% cán bộ lãnh đạo từ
cấp phòng trở lên được đào tạo kiến thức kinh tế thị trường, quản trị kinh doanh. Có được
điều này là do SGD đã có hướng đi phù hợp trong đào tạo và phát triển nguồn nhân lực.
Nguồn lực này là nhân tố thúc đẩy sự phát triển của SGD hiện nay và trong thời gian sắp
tới.
Ngoài ra, trụ sở của SGD1 đặt ở trung tâm của Hà Nội, rất thuân lợi cho hoạt động kinh
doanh của Sở.
Cùng với những thuận lợi nêu trên và phát huy tối đa năng lực đầu năm 2008, Sở đã
đón nhận huân chương lao động hạng 2 do Chủ tịch nước trao tặng, góp phần tăng thêm uy
tín và lòng tin của người dân đối với Sở.
22
Sau đây là những kết quả mà SGD 1 NHCT VN đã đạt được trong thời gian
qua:
Bảng 2.1.1: Kết quả hoạt động kinh doanh SGDI-NHCT VN
Đơn vị: tỷ đồng
Chỉ tiêu

2005

2006

2007


Lợi nhuận hạch toán nội bộ

347,5

343

331,5


{Nguồn: Bảo cáo tổng kêt hoạt động kinh doanh của S G D I - NHCT VNPhòng tông hợp tiếp thị)
Trong những năm qua, lợi nhuận mà Sở đạt được luôn vượt chi tiêu đề ra và cao nhất
trên toàn hệ thống. Năm 2007, lợi nhuận đạt được là 331,5 tỷ vượt kết hoạch đề ra 18,4%.
Tổng nguồn vốn SGD1 chiếm 5% thị phần huy động vốn của các ngân hàng trên địa
bàn Hà Nội, và chiếm 11% trên tống nguồn vốn toàn hệ thống. Cụ thể: Năm 200Ố đánh
dấu sự tăng trưởng, tống nguồn vốn đạt 17448 tăng 8,6 % so với năm 2005 (1.377 tỷ đồng),
năm 2007 tống nguồn vốn huy động đạt 16.718 tỷ đồng, giảm 4,2% (giảm 730 tỷ đồng) so
với năm 2006, sở dĩ có sự sụt giảm này là do trong thời gian này có nhiều ngân hàng được thành
lập, sự cạnh tranh dành giật nguồn vốn từ khách hàng diễn ra khốc liệt. Tuy nhiên đây vẫn là

một mức lớn so với các ngân hàng khác cùng quy mô.
Từ đó thông qua các mối quan hệ mà phát triến hoạt động tín dụng an toàn và chất
lượng. Tính đến 31/12/2007, dư nợ cho vay và đầu tư đạt 4.360 tỷ đồng. Với thế mạnh và
bề dày kinh nghiệm hoạt động, SDG1 đã cho vay nhiều dự án lớn của các tập đoàn kinh tế
như: Dự án Vinasat của tập đoàn BCVT Việt Nam, Các dự án về lưới điện của tập đoàn
Điện lực Việt Nam, Các dự án về đổi mới đầu tầu của Tống công ty đường sắt VN, Các dự
án khí điện đạm Cà Mau của Tập đoàn dầu khí Việt Nam. Đặc biệt, SGD1 đã hướng mạnh
vào cho vay phát triển đối với DNV&N, DN tư nhân, cá thể, hộ gia đình..., Khai thác được
thị trường đa dạng và đầy đủ tiềm năng, phù hợp với chủ trương phát triển kinh tế nhiều
thành phần của Đảng, Nhà nước và của Ngành. Đen nay đã có hàng ngìn khách hàng kinh

doanh từ vốn vay ngân hàng. Dư nợ cho vay DNV&N; DN tư nhân; hộ gia đình; cá
thế,...chiếm đến 25%. Có thể khẳng định rằng, chiến lược phát triển hoạt động tín dụng tại
SGD1 là đúng hướng, chất lượng và an toàn, chất lượng tín dụng được nâng lên rõ rệt, các
khoản cho vay đều được thẩm định chặt chẽ ,nợ quá hạn giảm cả về tỷ trọng và số tuyệt
đối, đến ngày 31/12/2007 SGD1 không có dư nợ quá hạn.
Ngoài ra, ngoài những sản phẩm dịch vụ truyền thống, SGD1 đã triển khai đa dạng các
sản phẩm như: dịch vụ cho thuê két sắt, kiều hối, Eden, dịch vụ du học trọn gói, dịch vụ
điện tử qua mạng(Internet Banking), dịch vụ thẻ ATM, thẻ tín dụng quốc tế, giải ngân các
23


dự án ODA...Trên cơ sở tận dụng mọi khả năng lợi thế, đặc biệt với nền tảng công nghệ
hiện đại, tiện ích của các sản phẩm không ngừng được gia tăng đã mang lại hiệu quả ứng
dụng cao. Cụ thể năm 2007 phí dịch vụ đạt 16.478 tỷ đồng trong đó: Doanh số hoạt động
thanh toán năm 2007 đạt 716 nghìn tỷ đồng, tăng gấp 2.5 lần so với năm 2002, bình quân
hàng năm tăng 19%. Doanh số thanh toán xuất nhập khẩu năm 2007 đạt 297 triệu USD,
tăng 3.2 lần so với năm 2002, bình quân hàng năm tăng 26%. Sự ra đời của thẻ E-Partner
với nhiều tiện ích khác nhau như : nhận kiều hối qua thẻ, Dịch vụ VNTopup (dịch vụ nạp
tiền cho thuê bao di động trả trước Vinaphone bằng tin nhắn SMS và thanh toán tự động
qua tài khoản thẻ E-partner của chủ thuê bao), chuyển tiền gửi từ thẻ E-partner sang tiền
gửi tiết kiệm có kỳ hạn... không những làm tăng thêm doanh thu mà còn làm tăng tiền gửi
cho sở giao dịch.
Tuy nhiên trong quá trình hoạt động SGD cũng không tránh khỏi những khó khăn còn
tồn tại. Trước hết, sau khi nước ta gia nhập WTO, sự xuất hiện của nhiều ngân hàng mới,
các tổ chức tín dụng tạo nên một sự cạnh tranh ngày càng gay gắt, nhất là các ngân hàng
nước ngoài, các ngân hàng thương mại cố phần năng động làm cho thị phần của SGD giảm
đi đáng kể. Mặc dù nguồn vốn huy động vẫn giữ được mức tăng trưởng, đáp ứng được đầy
đủ nhu cầu cho vay, nhưng lãi suất bình
24
quân huy động vốn ngày càng cao, nguồn tiền gửi thanh toán có lãi suất thấp lại giảm

mạnh. Các Tổng công ty, tập đoàn kinh tế gửi tiền vào ngân hàng với nhiều kỳ hạn theo
phương thức đấu thầu lãi suất cạnh tranh, chênh lệch lãi suất giữa đầu vào và đầu ra thấp,
ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả tài chính của Sở giao dịch I nói riêng và của cả hệ thống
NHCT Việt Nam. Thứ 2, dư nợ cho vay đối với DNNN còn chiếm tỷ trọng lớn, trong đó có
nhiều doanh nghiệp đang trong quá trình chuyển đổi nên gây khó khăn cho ngân hàng.
Trong đó việc thu hồi nợ tồn đọng còn gặp nhiều khó khăn do các đơn vị có nợ tồn đọng
chỉ hoạt động không hiệu quả, cầm chừng, không có lãi, không có nguồn thu đế trả nợ. Có
đơn vị đã cam kết trả nợ nhưng chây ỳ hoặc đố trách nhiệm cho người tiền nhiệm, không
chịu trả nợ. Bên cạnh đó, thực hiện theo cơ chế tín dụng mới của NHNN, NHCT Việt Nam,
nhiều doanh nghiệp không đủ điều kiện để cho vay. Các doanh nghiệp Nhà nước chuyển


đối sang Công ty cố phần, Nhà nước nắm giữ cố phần chi phối, tài sản thế chấp chưa đủ
điều kiện pháp lý nên rất khó khăn trong việc nhận tài sản đảm bảo tiền vay. Thứ 3, mức
phán quyết một món tín dụng, bảo lãnh theo tinh thần công văn số 1388/CV-NHCT5 ngày
7/5/2003 đối với sở giao dịch I là 1,5 triệu USD. Các khách hàng lớn là Tổng công ty với
mức trên là quá thấp, NHCT Việt Nam vẫn chưa nới rộng hạn mức này nên khách hàng
chuyển sang vay ngân hàng khác khi món vay vượt mức phán quyết của Sở giao dịch I.
Thứ 4, hoạt động dịch vụ tuy đã có tăng trưởng nhưng các nguồn thu chính vẫn trông chờ
vào dịch vụ truyền thống, chất lượng, tiện ích của dịch vụ mới không có sự khác biệt và
tính cạnh tranh không cao so với các NHTM trên cùng địa bàn, đặc biệt là đối với các
NHTM Cố phần. Thứ 5, công tác đào tạo bồi dưỡng cán bộ đã được chú trọng, trình độ đã
được nâng lên, tuy nhiên vẫn thiếu cán bộ giỏi ở những mảng nghiệp vụ chính, lĩnh vực
mới và khả năng tư duy, làm việc độc lập, trình độ ngoại ngữ, vi tính... chưa đáp ứng yêu
cầu của công việc.
2.2.
2.2.

Thực trạng cho vay tiêu dùng tại chi nhánh
1. Đối tượng và quy trình

Đối tưọng:
Cho vay tiêu dùng là cho vay để thanh toán các chi phí hợp pháp cho các mục đích tiêu

dùng cá nhân, bao gồm cho vay mua nhà, chuyến nhượng quyền sử dụng đất ở, sửa chữa
nhà, cho vay du học, cho vay mua xe gắn máy, ôtô, đồ nội thất đắt tiền...
Quy trình:
Quy trình cho vay và quản lý tín dụng tiêu dùng nằm trong quy trình cho vay và quản
lý tín dụng cá nhân được soạn thảo với mục đích giúp cho quá trình cho vay được diễn ra
thống nhất, khoa học, nhằm hạn chế, phòng ngừa rủi ro và nâng cao chất lượng tín dụng,
góp phần đáp ứng ngày một tốt hơn nhu cầu vay vốn của khách hàng cá nhân. Quy trình
này cũng xác định người được thực hiện công việc và trách nhiệm của các cán bộ liên quan
trong quá trình cho vay. Quy trình được soạn thảo dựa trên các văn bản pháp lý cập nhập
đến ngày 30-6-2004 liên quan tới quá trình cho vay và quản lý tín dụng cho ngân hàng nhà
nước Việt Nam, NHCT Việt Nam và các cấp có thẩm quyền khác ban hành. Trong quá
25


×