Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

Nội dung pháp luật điều chỉnh hoạt động đầu tư tài chính của các tổ chức tín dụng và ý kiến pháp lý đối với những vấn đề phát sinh từ 2012 trở lại đây

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (120.65 KB, 15 trang )

MỤC LỤC

LỜI MỞ ĐẦU...........................................................................................................1
NỘI DUNG...............................................................................................................1
1. Hoạt động đầu tư tài chính của các tổ chức tín dụng được hiểu là những
hoạt động gì?.........................................................................................................1
2. Vậy pháp luật quy định về hoạt động đầu tư tài chính của tổ chức tín
dụng ra sao?..........................................................................................................2
a. Những quy định chung:................................................................................2
b. Những quy định cụ thể về đầu tư ra bên ngoài TCTD:.............................3
3. Thực tiễn thực hiện hoạt động đầu tư của các tổ chức tín dụng trong năm
2012 trở lại đây......................................................................................................6
4. Ý kiến pháp lý giải quyết vấn đề này............................................................11
a.Từ phía nhà nước.........................................................................................11
b. Đối với TCTD:.............................................................................................12
KẾT LUẬN.............................................................................................................13
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO..............................................................14

0


LỜI MỞ ĐẦU
Hiện nay, hoạt động đầu tư tài chính có vai trò ngày càng quan trọng đối với các
tổ chức tín dụng nói chung và sự phát triển kinh tế nói riêng. Đối với mỗi loại hình
tổ chức tín dụng thì pháp luật lại có những quy định riêng cho những chủ thể này.
Sau đây em xin đi chi tiết đề tài: “Nội dung pháp luật điều chỉnh hoạt động đầu tư
tài chính của các tổ chức tín dụng và ý kiến pháp lý đối với những vấn đề phát sinh
từ 2012 trở lại đây” để làm rõ những nội dung của nó.
NỘI DUNG
1. Hoạt động đầu tư tài chính của các tổ chức tín dụng được hiểu là những
hoạt động gì?


Theo khái niệm trong Luật đầu tư năm 2005 (LĐT) thì đầu tư được hiểu là việc
nhà đầu tư bỏ vốn bằng các loại tài sản hữu hình hoặc vô hình để hình thành tài sản
tiến hành các hoạt động đầu tư theo quy định của Luật này và các quy định khác
của pháp luật có liên quan.(1)
Cũng trong LĐT, hoạt động đầu tư được giải thích là hoạt động của nhà đầu tư
trong quá trình đầu tư bao gồm các khâu chuẩn bị đầu tư, thực hiện và quản lý dự
án đầu tư.(2)
Như vậy, có thể hiểu rằng, hoạt động đầu tư tài chính trong các tổ chức tín dung
(TCTD) chính là việc TCTD dùng vốn của mình, vốn đó có thể bằng tài sản hữu
hình (vật, tiền, giấy tờ có giá) hay vô hình (quyền tài sản) để hình thành nên một
khối tài sản, và dùng khối tài sản đó để đầu tư vào các lĩnh vực mà Luật Ngân hàng
và các luật khác quy định, theo hình thức đầu tư trực tiếp hoặc đầu tư gián tiếp quy
định tại LĐT.
1
2

Khoản 1 Điều 3 LĐT.
Khoản 7 Điều 3 LĐT.

1


2. Vậy pháp luật quy định về hoạt động đầu tư tài chính của tổ chức tín
dụng ra sao?
a. Những quy định chung:
Hiện nay, các hoạt động đầu tư tài chính của TCTD được quy định cụ thể trong
các văn bản sau:
-

Luật Tổ chức tín dụng năm 2010;


-

Luật đầu tư năm 2005;

-

Luật chứng khoán 2010;

-

Các văn bản pháp luật và văn bản hướng dẫn khác có liên quan.

Theo LĐT, trong các hình thức đầu tư quy định khá nhiều loại hình đầu tư, tuy
nhiên, đối chiếu với quy định về hoạt động của các TCTD trong Luật TCTD, thì
hoạt động đầu tư tài chính của các TCTD được xem xét ở hai lĩnh vực, đó là hoạt
động đầu tư tài chính bên trong và hoạt động đầu tư tài chính ra bên ngoài. Đối
với mỗi hoạt động đầu tư thì pháp luật lại có những điều chỉnh cụ thể:
- Đầu tư tài chính bên trong của các TCTD có thể là đầu tư vào các tài sản cổ
định, loại tài sản này thường chiếm một tỉ lệ nhỏ trong tổng tài sản Có của TCTD.
Các loại tài sản cố định này thường bao gồm trụ sở làm việc, hệ thống vi tính và
thông tin, các trang thiết bị và các phương tiện đi lại. Đây là một trong những điều
kiện để thành lập TCTD, là cơ sở vật chất phục vụ trong suốt quá trình kinh doanh
của TCTD.
- Đối với hoạt động tư tài chính ra bên ngoài, trước đây pháp luật nước ta quy
định khá hạn chế, bởi nguồn vốn tín dụng được sử dụng trong trường hợp này sẽ
không đảm bảo an toàn, kết quả đầu tư phụ thuộc và kết quả kinh doanh của các
chủ thể khác và sự diễn biến của nền kinh tế. Tuy nhiên, theo luật TCTD hiện hành,
2



nhằm đảm bảo quyền tự do kinh doanh cho các TCTD thì pháp luật đã có những
quy định thông thoáng hơn trong lĩnh vực đầu tư tài chính ra bên ngoài của các
TCTD. Các TCTD được đầu tư ra bên ngoài dưới các hình thức như góp vốn, mua
cổ phần doanh nghiệp. Ngoài ra, khi các TCTD thỏa mãn điều kiện theo luật định
thì còn có thể tham gia vào thị trường tiền tệ, tham gia vào thị trường chứng khoán,
kinh doanh, cung ứng dịch vụ ngoại hối và sản phẩm phái sinh, tham gia các hoạt
động kinh doanh khác.
b. Những quy định cụ thể về đầu tư ra bên ngoài TCTD:
Sau đây em chỉ xin đi tìm hiểu chi tiết hoạt động đặc trưng là đầu tư ra bên ngoài
của các TCTD:
 Về việc góp vốn, mua cổ phần:
TCTD bao gồm bốn loại: Ngân hàng (bao gồm ngân hàng thương mại, ngân
hàng chính sách, ngân hàng hợp tác xã), tổ chức phi ngân hàng (bao gồm công ty
tài chính, công ty cho thuê tài chính và các tổ chức tín dụng phi ngân hàng khác), tổ
chức tài chính vi mô và quỹ tín dụng nhân dân (3).
Trong các tổ chức trên, căn cứ vào chương IV Luật TCTD, thì những tổ chức
được có hoạt động góp vốn, mua cổ phần bao gồm: Ngân hàng thương mại (Điều
103), công ty tài chính (Điều 110).
Đối với công ty cho thuê tài chính thì Luật TCTD quy định không được góp vốn,
mua cổ phần, thành lập công ty con, công ty liên kết dưới bất kỳ hình thức nào
(Điều 115).
Đối với mỗi loại tổ chức thì lại có quy định riêng về hoạt động góp vốn, mua cổ
phần. Nhưng nhìn chung, các quy định này đều mang tính chất vừa thể hiện quyền
tự do kinh doanh cho các chủ thể, khuyến khích mở rộng quy mô, loại hình kinh
3

Căn cứ Điều 4 Luật tổ chức tín dụng năm 2010.

3



doanh nhưng cũng vừa tạo ra khuôn khổ, giới hạn để các chủ thể trên vẫn được tự
do kinh doanh nhưng vẫn đảm bảo được sự an toàn cho toàn bộ hoạt động của tổ
chức đó và rộng hơn nữa là cho cả hệ thống TCTD. Ví dụ như đối với NHTM chỉ
được dùng vốn điều lệ và quỹ dự trữ để góp vốn, mua cổ phần theo quy định tại các
khoản 2, 3, 4 và 6 của Điều 103 (đó là để thành lập hoặc mua lại công ty con, công
ty liên kết …).
 Tham gia thị trường tiền tệ:
Thị trường tiền tệ là nơi giao dịch ngắn hạn về vốn (khoản 6 Điều 6 Luật ngân
hàng nhà nước năm 2010). Như vậy, thị trường tiền tệ là thị trường vốn ngắn hạn,
nơi diễn ra các hoạt động của cung và cầu về vốn ngắn hạn. Vốn ngắn hạn bao gồm
cả trái phiếu ngắn hạn, có kỳ hạn tức là mua bán những món nợ ngắn hạn rủi ro
thấp, tính thanh khoản cao. Thị trường tiền tệ diễn ra chủ yếu thông qua hoạt động
của hệ thống ngân hàng, vì các ngân hàng là chủ thể quan trọng nhất trong việc
cung cấp và sử dụng vốn ngắn hạn; Thị trường tiền tệ là thị trường phi tập trung tại
các phòng kinh doanh của các ngân hàng và các công cụ kinh doanh đầu tư chuyên
nghiệp thông qua mạng lưới điện thoại, internet rộng lớn. Các nghiệp vụ trên thị
trường tiền tệ là nghiệp vụ chuyển giao vốn có khả năng thanh toán cao, ít xảy ra
rủi ro đối với người đầu tư; Là nơi mua bán các loại chứng từ có giá ngắn hạn, nơi
đáp ứng nhu cầu vốn ngắn hạn của nền kinh tế.
Theo Điều 104 và khoản 2 Điều 111 luật TCTD thì NHTM và công ty tài chính
được tham gia thị trường tiền tệ, theo đó NHTM được tham gia đấu thầu tín phiếu
Kho bạc, mua, bán công cụ chuyển nhượng, trái phiếu Chính phủ, tín phiếu Kho
bạc, tín phiếu Ngân hàng Nhà nước và các giấy tờ có giá khác trên thị trường tiền
tệ.
 Hoạt động đầu tư tài chính trên thị trường chứng khoán:

4



Thị trường giao dịch chứng khoán là địa điểm hoặc hình thức trao đổi thông tin
để tập hợp lệnh mua, bán và giao dịch chứng khoán (khoản 18 Điều 5 luật chứng
khoán năm S2010). Thị trường chứng khoán (TTCK) là một thị trường mà ở nơi đó
người ta mua bán, chuyển nhượng, trao đổi chứng khoán nhằm mục đích kiếm lời.
Tuy nhiên, đó có thể là TTCK tập trung hoặc phi tập trung. Tính tập trung ở đây là
muốn nói đến việc các giao dịch được tổ chức tập trung theo một địa điểm vật chất.
Hình thái điển hình của TTCK tập trung là Sở giao dịch chứng khoán ( Stock
exchange). Tại Sở giao dịch chứng khoán , các giao dịch được tập trung tại một địa
điểm; các lệnh được chuyển tới sàn giao dịch và tham gia vào quá trình ghép lệnh
để hình thành nên giá giao dịch.
TTCK phi tập trung còn gọi là thị trường OTC (over the counter). Trên thị
trường OTC, các giao dịch được tiến hành qua mạng lưới các công ty chứng khoán
phân tán trên khắp quốc gia và được nối với nhau bằng mạng điện tử. Giá trên thị
trường này được hình thành theo phương thức thoả thuận.
Qua tìm hiểu một cách khái quát về TTCK như vậy, chiếu theo quy định của luật
TCTD thì hiện nay ngân hàng thương mại được phép lưu ký chứng khoán (Điều
107), và thông qua việc góp vốn, mua cổ phần thì NHTM được bảo lãnh phát hành
chứng khoán, môi giới chứng khoán; quản lý, phân phối chứng chỉ quỹ đầu tư
chứng khoán; quản lý danh mục đầu tư chứng khoán (Điều 103).
 Về kinh doanh, cung ứng dịch vụ ngoại hối, sản phẩm phái sinh
của ngân hàng thương mại (quy định tại Điều 107 Luật TCTD):
Sau khi được Ngân hàng Nhà nước (NHNN) chấp thuận, NHTM được kinh
doanh, cung ứng dịch vụ cho khách hàng ở trong nước và nước ngoài các sản phẩm
ngoại hối; phái sinh về tỷ giá, lãi suất, ngoại hối, tiền tệ và tài sản tài chính khác
theo quy định của pháp luật về ngoại hối. NHNN quy định cụ thể về phạm vi kinh
doanh, điều kiện, trình tự, thủ tục chấp thuận cho NHTM thực hiện cung ứng các
dịch vụ này.
5



Ngoài ra, các NHTM được trực tiếp thực hiện một số hoạt động kinh doanh khác
(Điều 107) như quản lý tiền mặt, tư vấn tài chính, quản lý, bảo quản tài sản, cho
thuê tủ, két an toàn, tư vấn tài chính doanh nghiệp, tư vấn mua, bán, hợp nhất, sáp
nhập doanh nghiệp, tư vấn đầu tư, mua, bán trái phiếu Chính phủ, trái phiếu doanh
nghiệp, môi giới tiền tệ. Đối với các nghiệp vụ như lưu ký chứng khoán, kinh
doanh vàng và các hoạt động kinh doanh khác liên quan đến hoạt động ngân hàng,
NHTM sẽ được thực hiện sau khi được NHNN cho phép.
 Tham gia các hoạt động kinh doanh khác:
Tùy theo đặc trưng riêng của mỗi loại hình TCTD mà luật TCTD quy định các
hoạt động kinh doanh khác cho mỗi loại TCTD một cách riêng biệt, để đảm bảo an
toàn cho hệ thống TCTD cũng như quyền tự do kinh doanh cho các TCTD: NHTM
(Điều 107), công ty tài chính (Điều 111), công ty cho thuê tài chính (Điềi 116), đối
với ngân hàng hợp tác xã thì được thực hiện một số hoạt động kinh doanh khác
theo quy định tại mục 2 Chương IV của Luật TCTD sau khi được Ngân hàng Nhà
nước chấp thuận bằng văn bản, quỹ tín dụng nhân dân (khoản 4 Điều 118), tổ chức
tài chính vi mô (Điều 122).
3. Thực tiễn thực hiện hoạt động đầu tư của các tổ chức tín dụng trong năm
2012 trở lại đây.
Đầu tư tài chính ngày càng chiếm một vị trí quan trọng trong hoạt động của các
tổ chức tín dụng, có ý nghĩa giảm thiểu tối đa rủi ro tín dụng có thể xảy ra, đồng
thời các ngân hàng cũng thu được nhiều lợi nhuận từ hoạt động đầu tư này. Hiện
nay các TCTD ở nước ta đang trong quá trình thực hiện chiến lược nâng cao khả
năng cạnh tranh trước yêu cầu mở cửa thị trường dịch vụ tài chính, hội nhập quốc
tế. do đó, nguồn vốn đầu tư tài chính của các TCTD vào tài sản cố định, máy móc,
phương tiện, công nghệ và đầu tư vào thị trường tài chính ngày càng chiếm tỉ lệ cao
trong cấu trúc danh mục đầu tư.

6



Bên cạnh đó, các hoạt động đầu tư tài chính đang diễn ra khá sôi nổi tuy nhiên
các TCTD cũng gặp không ít khó khăn, bất lợi trong các lĩnh vực đầu tư luôn có sự
thay đổi qua từng ngày, từng giờ như vậy. Cụ thể như sau:
 Thị trường tiền tệ (4):
Từ đầu năm 2012 trở lại đây, thị trường tiền tệ gặp khá nhiều biến động, và từ
sự biến động đó đã tạo nên một thị trường tiền tệ với nhiều điểm nổi bật. Cụ thể, đó
là: Tỷ giá ổn định (tỷ giá là giá của một đơn vị tiền tệ nước ngoài tính bằng đơn vị
tiền tệ của Việt Nam), tăng trưởng tín dụng thấp, nợ xấu tăng cao, phanh phui nhiều
vụ vi phạm về tài chính ngân hàng...
- Tỷ giá ổn định, niềm tin vào Việt Nam Đồng được củng cố:
Năm 2012, tỷ giá bình quân liên ngân hàng giữ vững ở 20.828 đồng/USD. Tỷ giá
tại các ngân hàng thương mại cũng hầu như ổn định và hầu hết thời gian giao dịch
thấp hơn giá trần 21.036 đồng/USD.
Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, giá USD ngân hàng có 6 tháng tăng và 6
tháng giảm. So với cuối năm 2011, chỉ số giá USD đã giảm 0,96%.

Nguồn: Tổng cục Thống kê

4

Tham khảo số liệu tại />
7


Tỷ giá ổn định đã góp phần tích cực đến việc kiềm chế lạm phát đồng thời góp
phần làm cho Ngân hàng Nhà nước mua được một lượng ngoại tệ lớn từ dân cư và
doanh nghiệp, giúp cải thiện cán cân thanh toán quốc tế, đẩy tăng dự trữ ngoại hối
của Việt Nam lên khoảng 24 tỷ USD, tương đương khoảng 12 tuần nhập khẩu tăng mạnh so với mức 9 tỷ USD cuối 2011.
+ Nợ xấu tăng mạnh:

Nhen nhóm từ năm 2011 khi Thống đốc Nguyễn Văn Bình lần đầu tiên đề cập
đến con số nợ xấu, thì sang 2012, chưa bao giờ vấn đề nợ xấu trong hệ thống ngân
hàng chưa bao giờ lại được quan tâm nhiều như vậy.
Theo báo cáo giải trình chất vấn của Thống đốc tại kỳ họp lần 4 Quốc hội khoá
XIII, tính từ tháng 1 đến tháng 5/2012, tốc độ tăng nợ xấu từ 6,59% - 9,35% và lần
cập nhật mới nhất là đến tháng 10/2012 theo công bố của ông Nguyễn Hữu Nghĩa,
Chánh thanh tra NHNN tại buổi họp báo ngày 27/12, tốc độ này là âm 0,95%. Nợ
xấu cũng liên tục tăng từ năm 2008 đến nay, đến tháng 10/2012, nợ xấu tăng
khoảng 66%.
Về tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ, dù con số các đơn vị đưa ra còn nhiều chênh
lệch nhưng 2012 được coi là năm đầu tiên Ngân hàng Nhà nước công bố một cách
cụ thể nhất về nợ xấu.
Cụ thể, NHNN dẫn báo cáo của các tổ chức tín dụng cho biết, tính đến tháng
9/2012, tỷ lệ nợ xấu trong tổng tín dụng đối với nền kinh tế là 4,93%.
- Tín dụng tăng trưởng thấp nhất trong lịch sử:
Theo công bố của NHNN, tăng trưởng tín dụng đến 20/12 ước 6,45%, cả năm
nước tăng 7% so cuối 2011, thấp hơn mức tăng 14,41% của năm 2011.
Năm 2011, khi công bố số liệu tăng trưởng tín dụng ước cả năm là hơn 10%,
Thống đốc Bình nhận xét đây là mức tăng thấp nhất từ trước đến nay của ngành
ngân hàng. Như vậy, tín dụng năm 2012 tiếp tục lập đáy mới.
Nguyên nhân của việc tín dụng tăng trưởng thấp là do sức cầu của nền kinh tế
yếu, tồn kho và nợ xấu tăng cao.
8


- Quốc hữu hoá quyền sản xuất vàng miếng:
Đối với thị trường vàng, năm 2012 ghi dấu ấn bằng Nghị định 24/NĐ-CP của
Chính phủ quy định về quản lý hoạt động kinh doanh vàng và thông tư hướng dẫn
thi hành nghị định này.
Theo Nghị định này, Nhà nước sẽ độc quyền sản xuất vàng miếng, xuất khẩu

vàng nguyên liệu và nhập khẩu vàng nguyên liệu để sản xuất vàng miếng. Hoạt
động mua, bán vàng miếng của các tổ chức, cá nhân sẽ chỉ được thực hiện tại các tổ
chức tín dụng và doanh nghiệp được NHNN cấp giấy phép kinh doanh mua, bán
vàng miếng.
Cùng với Nghị định 24, lãnh đạo NHNN cũng cho biết, sẽ xây dựng thương hiệu
vàng Quốc gia và có khả năng sẽ chọn SJC làm thương hiệu vàng Quốc gia do
thương hiệu này hiện đang chiếm thị phần chủ yếu trên thị trường vàng (khoảng
90% thị phần).
Việc Nhà nước độc quyền sản xuất vàng miếng và xây dựng thương hiệu vàng
Quốc gia có nhiều ưu điểm như vàng miếng sẽ có chung nguồn gốc xuất xứ, chung
quy định về chất lượng, giá cả..., tạo sự thuận lợi trong quản lý. Tuy nhiên, quy
định của Nghị định 24 cũng tạo nên nhiều bất cập.
Thứ nhất, với nhiều đơn vị đã được cấp phép sản xuất vàng miếng trước đây như
Bảo Tín Minh Châu, công ty vàng Agribank, SBJ-Sacombank..., tất cả máy móc
thiết bị được đầu tư hàng tỷ đồng có thể trở nên vô giá trị, lao động làm việc ở đây
không còn việc làm.
Thứ hai, Luật Doanh nghiệp 2005 quy định: Mọi loại hình doanh nghiệp đã quy
định trong Luật đều được Nhà nước công nhận và đảm bảo sự công bằng trước
pháp luật, không phân biết hình thức sở hữu, thành phần kinh tế.
Đặc thù của hoạt động kinh doanh vàng miếng là không có sự khác biệt giữa
doanh nghiệp lớn hoặc doanh nghiệp nhỏ. Vì vậy, dường như điều kiện doanh
nghiệp kinh doanh vàng phải có vốn điều lệ tối thiểu 100 tỷ đồng và một số điều

9


kiện khác được quy định trong Nghị định 24 đang gây mâu thuẫn với Luật Doanh
nghiệp.
Thứ ba, với thông tin về việc sẽ chọn SJC làm thương hiệu vàng Quốc gia đã
làm nảy sinh một số vấn đề trên thị trường thời gian qua như xuất hiện vàng nhái,

vàng giả SJC; sự độc quyền thương hiệu khiến giá vàng nhãn hiệu khác rẻ hơn SJC
từ 1 - 2 triệu đồng/lượng, thậm chí lên tới 3 triệu đồng/lượng và gây nên sự chuyển
đổi vàng nhãn hiệu khác về nhãn hiệu SJC. Trong giai đoạn chuyển đổi này, cơ
quan quản lý đã phát hiện việc không đủ tiêu chuẩn bốn số 9 ở vàng miếng của
nhiều nhãn hiệu khác.
- Biến cố gây chấn động thị trường tại ACB:
Năm 2012 là năm chứng kiến hàng loạt vụ vi phạm liên quan đến tài chính ngân
hàng bị phanh phui và gây chấn động nhất là vụ bắt giữ ông Nguyễn Đức Kiên nguyên Phó chủ tịch Hội đồng sáng lập của ngân hàng TMCP Á Châu (ACB) và
ông Lý Xuân Hải, nguyên Tổng giám đốc ACB.
Do liên quan đến vụ việc của ông Kiên, các ông Trần Xuân Giá, nguyên Chủ tịch
HĐQT ACB và 2 nguyên Phó chủ tịch của ngân hàng này là ông Phạm Trung
Cang, Lê Vũ Kỳ và Trịnh Kim Quang cũng đã bị khởi tố do đã làm trái quy định
của Nhà nước về quản lý kinh tế, gây hậu quả lớn, ảnh hưởng đến tình hình an ninh
tiền tệ, gây bất ổn chính sách tiền tệ của Chính phủ và trực tiếp gây thiệt hại cho
ACB là 718,908 tỷ đồng.
Biến cố này của ACB đã gây nên một cơn chấn động cả trên thị trường chứng
khoán và thị trường ngân hàng. Người dân ồ ạt đến rút tiền khỏi ACB. Trước tình
trạng rút tiền của người dân, ACB và Ngân hàng Nhà nước ngay lập tức đã phát đi
thông cáo trấn an khi cho biết, việc ông Kiên bị bắt không ảnh hưởng gì đến ACB
và NHNN sẵn sàng hỗ trợ thanh khoản cho ngân hàng này và các ngân hàng khác
nếu có bất kỳ việc gì xảy ra.

10


Tổng cộng Ngân hàng Nhà nước đã phải hỗ trợ 16.000 tỷ đồng cho ACB để giúp
ngân hàng ổn định, ông Tô Duy Lâm cho biết thêm tại ĐHCĐ mới đây của ngân
hàng.
Biến cố này thực sự đã tạo dấu ấn mạnh với hoạt động của ACB khi lượng tiền
gửi của khách hàng tại ngân hàng này đến 30/9 giảm gần 22.800 tỷ đồng, tương

đương 15,6% so với thời điểm 30/6 và giảm 13.620 tỷ đồng, tương đương 13,6% so
với cùng kỳ 2011.
4. Ý kiến pháp lý giải quyết vấn đề này.
a.Từ phía nhà nước
Đầu tư tài chính là một hoạt động rất quan trọng và ngày càng trở thành hoạt
động cơ bản của TCTD. Hiện nay các quy định về đầu tư tài chính đã được mở
rộng hơn nhiều, phù hợp với yêu cầu của nền kinh tế. Tầm quan trọng của đầu tư
tài chính là tạo lập cơ sở vật chất phục vụ cho hoạt động của TCTD nếu là đầu tư
tài chính bên trong hoặc là sự tìm kiếm lợi nhuận từ hoạt động đầu tư ra bên ngoài.
Thứ nhất, pháp luật nên đặt ra giới hạn tối thiểu cho các TCTD khi đầu tư vào
tài sản cố định, day chuyền máy móc, ứng dụng khoa học công nghệ …bởi sự hiện
đại của ngân hàng có vai trò quan trọng đối với hoạt động kinh doanh của ngân
hàng. Do đó, pháp luật không nên đặt ra giới hạn tối đa, điều này gây ra sự khó
khăn xử lý tài sản bảo đảm vượt qua giới hạn cho phép.
Việc pháp luật quy định giới hạn góp vốn, mua cổ phần chưa thực sự là một biện
pháp bảo đảm an toàn nguồn vốn đầu tư. Bởi hoạt động đầu tư này với mục đích là
đa dạng hóa danh mục đầu tư của TCTD, hạn chế những rủi ra có thể xảy ra nếu chỉ
tập trung vào hoạt động cấp tín dụng. Pháp luật về góp vốn mua cổ phần đã bộc lộ
sự mâu thuẫn và chưa thực sự phát huy tác dụng, đồng thời cản trở nguồn vốn tín
dụng của ngân hàng cung ứng cho sự phát triển kinh tế của đất nước.
Thứ hai, pháp luật cần tạo ra sự thông thoáng để thị trường tiền tệ và thị trường
chứng khoán Việt Nam phát triển đồng bộ, trở thành nơi luân chuyển nguồn vốn
phát triển kinh tế.
11


Để thị trường tiền tệ phát triển lành mạnh, sôi động và hoạt động hiệu quả, cần
phải sửa đổi, bổ sung pháp luật theo hướng: Mở rộng và phát triển đa dạng thành
viên của thị trường, nâng cao năng lực tài chính của các chủ thể thông qua chế định
cấp phép hoạt động (điều kiện gia nhập và rút khỏi thị trường), đa dạng hóa các

công cụ giao dịch trên thị trường, thành lập cơ quan giám sát thị trường tiền tệ và
các chế tài khi các thành viên của thị trường vi phạm pháp luật. Có như vậy nguồn
vốn đầu tư của TCTD vào thì trường này mới được đảm bảo an toàn và sinh lợi.
Thứ ba, đối với việc đầu tư vào thị trường chứng khoán, đây là một hoat động
kinh doanh rất phức tạp, có sự tác động rất lớn đối với nền kinh tế mỗi nước, phản
ánh lợi ích của nhà đầu tư, lợi ích của công chúng cũng như lợi ích của toàn thể xã
hội. Do đó, để đảm bảo lợi ích của các bên tham gia vào thị trường chứng khoán,
trong đó có sự tham gia của TCTD với tư cách là nhà đầu tư, cần phải có những
quy định phù hợp của pháp luật để đảm bảo cho thị trường chứng khóan vận hành
và phát triển một cách an toàn.
Vì vậy, pháp luật cần phải hoàn thiện hơn nữa các vấn đề như: Thành lập cơ
quan chức năng chuyên môn xếp hạng, đánh giá chất lượng các lọai chứng khoán,
các vấn đề quy định về phát hành chứng khoán, về chế độ thông tin, báo cáo tài
chính của doanh nghiệp, hình sự hóa các tội danh của thị trường chứng khoán như
mua bán nội gián, phạm vi giấy phép phát hành…và một số sửa đổi bổ sung mà
pháp luật về chứng khoán và thị trường chứng khóan phải hoàn thiện.
Thứ tư, nhằm giải quyết triệt để vấn nạn nợ xấu như xử lý các ngân hàng yếu
kém, thành lập công ty mua bán nợ xấu, bơm tiền giải quyết nợ xấu bất động sản,
yêu cầu TCTD trích lập đủ dự phòng, cơ cấu lại thời gian trả nợ cho doanh nghiệp,
xử lý tài sản đảm bảo....
b. Đối với TCTD:
Ngoài các biện páhp bắt buộc chung mà các TCTD đều phải thực hiện thì mỗi
TCTD căn cứ vào từng điều kiện cụ thể của mình mà đặt ra các biện pháp bảo đảm
an toàn riêng trong khuôn khổ pháp luật, cụ thể như sau:
12


Một là, thực hiện khâu phân loại, đánh giá thị trường, lĩnh vực chuẩn bị đầu tư
một cách kỹ càng, nhằm thực hiện đầu tư có lãi, tránh rủi ro.
Hai là, nâng cao chất lượng thẩm định : Cần học tập để nâng cao trình độ cán bộ,

nhân viên, áp dụng công nghệ để nâng cao chất lượng về trình độ, năng lực nhằm
đánh giá thị trường, tổ chức hoạt động đầu tư hiệu quả.
Ba là, xây dựng chính sách tín dụng an toàn hiệu quả, nâng cao năng lực tài
chính của công ty bằng cách tránh đầu tư dàn trản, cần phải có kế hoạch đầu tư
trọng tâm, trọng điểm về những lĩnh vực nhất định từ đó thu được nhiều lựoi
nhuận, tránh được những rủi ro không đáng có.
Bốn là, triển khai lại hoạt động cơ cấu lại tài chính. Qua nhiều biến động của thị
trường trong năm 2012 trở lại đây, các TCTD cần có có biện pháp cân đối lại tài
chính để hoạt động đầu tư tài chính cũng như các hoạt động khác đạt hiệu quả.
KẾT LUẬN
Trên đây là sự tìm hiểu của em về hoạt động đầu tư tài chính đang theo quy định
của pháp luật và thực tế đang diễn ra trên thị trường hiện nay. Qua tìm hiểu, em
thấy rằng pháp luật đã và đang thể hiện được các quy định về hoạt động đầu tư tài
chính khá đầy đủ, mặc dù bên cạnh đó vẫn còn nhiều quy định chưa rõ ràng. Vì
vậy, pháp luật cần có những quy định rõ ràng hơn để nhằm phát huy tối đa hiệu quả
của mình, đồng thời giúp cho hoạt động của các tổ chức tín dụng được thuận lợi
hơn nữa.

13


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật ngân hàng Việt Nam, Nxb.
CAND, Hà Nội, 2012;
2. Bộ luật dân sự năm 2005;
3. Luật thương mại năm 2005;
4. Luật doanh nghiệp năm 2005;
5. Luật ngân hàng nhà nước Việt Nam năm 2010
6. Luật Tổ chức tín dụng năm 2010;
7. Luật đầu tư năm 2005;

8. Luật chứng khoán 2010.

14



×