Tải bản đầy đủ (.docx) (13 trang)

chức năng của ngân hàng nhà nước việt nam và một số quốc gia trên thê giới phạm hạnh khoa tài chính ngân hàng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (92.13 KB, 13 trang )

Đề tài : Phân tích chức năng của NHNN VN và một số NHTW của một số
nước trên thế giới
A : LỜI MỞ ĐẦU
Trong nền kinh tế thị trường, tiền trở thành một phương tiện đảm bảo cho mọi hoạt
động kinh tế diễn ra một cách bình thường. Hoạt động của tiền trong nền kinh tế
luôn gắn liền với các hiện tượng kinh tế như: lạm phát, chu kỳ kinh doanh, thâm
hụt ngân sách . Tiền liên quan đến các quyết định của các cá nhân và ảnh hưởng
đến tình trạng chung của nền kinh tế quốc gia.
Liên quan đến sự vận động của tiền trong nền kinh tế là hoạt động của các tổ
chức tài chính (các ngân hàng, công ty bảo hiểm, các quỹ tương trợ . ) và thị
trường tài chính (thị trường chứng khoán, thị trường cổ phiếu và hối đoái). Các thị
trường tài chính và các tổ chức tài chính không chỉ tác động đến đời sống hàng
ngày của mỗi cá nhân mà còn liên quan đến sự luân chuyển của những dòng vốn
lớn trong nền kinh tế, tác động đến hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp và
đến cả tình trạng kinh tế của một nước.
Như chúng ta đã biết, nếu vốn được coi là một trong những nguồn lực quan trọng
và đóng vai trò quyết định đối với sự phát triển kinh tế, nó có một tính chất khan
hiếm. Vậy vấn đề đặt ra làm thế nào để sử dụng một cách triệt để và có hiệu quả
nhất nguồn vốn trong nước và ngoài nước? Để đạt được điều này, trước hết cần
phải có một hệ thống Ngân hàng phát triển đồng bộ, có sự phối hợp nhịp nhàng
giữa Ngân hàng Nhà nước (NHNN) hay Ngân hàng Trung Ương (NHTW) với các
Ngân hàng thương mại (NHTM) trong việc thực hiện chính sách tiền tệ. Ở đó,
chức năng đặc biệt của NHTW là không thể thay thế được.
Chính vì vậy mà em chọn đề tài :
“chức năng của Ngân hàng trung ương trong nền kinh tế và một số ngân hang
trung ương trên thế giới “
Do thời gian nghiên cứu có hạn nên bài viết của em có thể còn nhiều sai sót. Em
rất mong có được sự góp ý của các thầy cô và các bạn sinh viên

B : NỘI DUNG
I. ĐẶC ĐIỂM CỦA NHNNVN VÀ MỘT SỐ NHTW TRÊN THẾ GIỚI




1.1

Khái niệm NHTW
Ngân hàng trung ương (có khi gọi là ngân hàng dự trữ, hoặc cơ quan hữu
trách về tiền tệ) là cơ quan đặc trách quản lý hệ thống tiền tệ của quốc gia/nhóm
quốc gia/vùng lãnh thổ và chịu trách nhiệm thi hành chính sách tiền tệ. Mục đích
hoạt động của ngân hàng trung ương là ổn định giá trị của tiền tệ, ổn định cung
tiền, kiểm soát lãi suất, cứu các ngân hàng thương mại có nguy cơ đổ vỡ. Hầu hết
các ngân hàng trung ương thuộc sở hữu của Nhà nước, nhưng vẫn có một mức độ
độc lập nhất định đối với Chính phủ. NHTW có thể được tổ chức theo mô hình trực
thuộc hay độc lập với chính phủ.
Mô hình NHTW trực thuộc chính phủ: là mô hình trong đó NHTW nằm
trong nội các chính phủ và chịu sự chi phối trực tiếp của chính phủ về nhân sự, về
tài chính và đặc biệt về các quyết định liên quan đến việc xây dựng và thực hiện
chính sách tiền tệ. Các nước áp dụng mô hình này phần lớn là các nước Đông Á
(Hàn quốc, Đài loan, Singapore, Indonesia, Việt nam ...) hoặc các nước thuộc khối
XHCN trước đây. Theo mô hình này, chính phủ có thể dễ dàng phối hợp chính sách
tiền tệ của NHTW đồng bộ với các chính sách kinh tế vĩ mô khác nhằm đảm bảo
mức độ và liều lượng tác động hiệu quả của tổng thể các chính sách đối với các
mục tiêu vĩ mô trong từng thời kỳ. Mô hình này được xem là phù hợp với yêu cầu
cần tập trung quyền lực để khai thác tiềm năng xây dựng kinh tế trong thời kỳ tiền
phát triển.
Mô hình NHTW độc lập với chính phủ: là mô hình trong đó NHTW không
chịu sự chỉ đạo của chính phủ mà là quốc hội. Quan hệ giữa NHTW và chính phủ
là quan hệ hợp tác. Các NHTW theo mô hình này là Ngân hàng dự trữ liên bang
Mỹ, NHTW Thụy sĩ, Anh, Pháp, Đức, Nhật bản và gần đây là NHTW châu Âu
(ECB). Xu hướng tổ chức ngân hàng trung ương theo mô hình này đang càng ngày



càng tăng lên ở các nước phát triển. Theo mô hình này, NHTW có toàn quyền
quyết định việc xây dựng và thực hiện chính sách tiền tệ mà không bị ảnh hưởng
bởi các áp lực chi tiêu của ngân sách hoặc các áp lực chính trị khác.
Không có một mô hình nào có thể được coi là thích hợp cho mọi quốc gia.
Việc lựa chọn mối quan hệ thích hợp giữa NHTW và chính phủ phải tuỳ thuộc vào
chế độ chính trị, yêu cầu phát triển kinh tế, đặc điểm lịch sử và sự phát triển của hệ
thống ngân hàng của từng nước. Tuy nhiên, trong một chừng mực nhất định nó
cũng bị ảnh hưởng bởi trào lưu của thế giới.

1.2. Sự ra đời và phát triển của NHTW
NHTW có nguồn gốc từ các ngân hàng phát hành. Cho đến đầu thế kỷ 20, các
ngân hàng phát hành vẫn thuộc sở hữu tư nhân. Từ sau Chiến tranh thế giới thứ
hai, do ảnh hưởng của những bài học kinh nghiệm từ cuộc Đại suy thoái năm 1929
- 1933 cũng như sự phát triển của các học thuyết kinh tế về sự cần thiết của vai trò
quản lý vĩ mô của nhà nước đối với nền kinh tế và ảnh hưởng của khối lượng tiền
cung ứng đối với các biến số kinh tế vĩ mô, các nước đã nhận thức được tầm quan
trọng phải thành lập một NHTW đóng vai trò quản lý lưu thông tiền tệ, tín dụng và
hoạt động của hệ thống ngân hàng trong một quốc gia. Các NHTW được thành lập
hoặc bằng cách quốc hữu hoá các ngân hàng phát hành hiện có hoặc thành lập mới
thuộc quyền sở hữu nhà nước.
Các nước tư bản phát triển có hệ thống ngân hàng phát triển lâu đời như Pháp,
Anh... thì thành lập NHTW bằng cách quốc hữu hoá ngân hàng phát hành thông
qua mua lại cổ phần của các ngân hàng này rồi bổ nhiệm người điều hành. Một số
nước tư bản khác thì Nhà nước chỉ nắm cổ phần khống chế hoặc vẫn để thuộc sở
hữu tư nhân nhưng Nhà nước bổ nhiệm người điều hành.


Ngân hàng trung ương đầu tiên là Ngân hàng Thụy Điển (Bank of Sweden)
năm 1668 với sự giúp đỡ của các doanh nhân Hà Lan. Ngân hàng Anh (Bank of

England) ra đời tiếp sau đó năm 1694 bởi doanh nhân người Scotland là William
Paterson tại London theo yêu cầu của chính phủ Anh với mục đích tài trợ cuộc nội
chiến lúc đó. Cục Dự trữ Liên bang của Mỹ được thành lập theo yêu cầu của Quốc
hội tại đạo luật mang tên hai nghị sĩ đệ trình là Glass và Owen (Glass-Owen Bill).
Tổng thống Woodrow Wilson ký đạo luật ngày 23 tháng 12 năm 1913.
Ngân hàng Trung ương Trung Quốc (Tiếng Anh là People’s Bank of China –
Ngân hàng Nhân dân Trung Hoa) bắt đầu các chức năng ngân hàng trung ương
năm 1979 cùng với chính sách cải cách kinh tế. Vai trò ngân hàng trung ương của
nó được đẩy mạnh năm 1989 khi đất nước này chuyển đổi sâu sắc hơn sang nền
kinh tế hướng xuất khẩu. Tới năm 2000, Ngân hàng Trung ương Trung Quốc đã là
một ngân hàng trung ương về mọi mặt, với cơ cấu và hoạt động có tham khảo
Ngân hàng Trương ương Châu Âu vốn là mô hình ngân hàng trung ương mới nhất,
chi phối ngân hàng trung ương của các quốc gia thành viên mà vẫn để quyền quản
lý kinh tế quốc gia cho các ngân hàng đó.
Ở Việt nam, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam được thành lập tháng 5/1951, lúc
đầu có tên là Ngân hàng Quốc gia Việt Nam, đến năm 1960 đổi tên thành Ngân
hàng Nhà nước Việt Nam. NHTW được thành lập thuộc sở hữu của nhà nước, gọi
là Ngân hàng nhà nước Việt nam. Là một định chế công cộng của Nhà nước, nhưng
mối quan hệ của NHTW với chính phủ không hoàn toàn giống với các định chế
công cộng khác của Nhà nước. Mối quan hệ này ở các nước khác nhau cũng không
giống nhau. Tuỳ thuộc vào đặc điểm ra đời của NHTW, thể chế chính trị, nhu cầu
của nền kinh tế cũng như truyền thống văn hoá của từng quốc gia mà NHTW có
thể được tổ chức theo mô hình trực thuộc hay độc lập với chính phủ.


Việt Nam
Ở Việt Nam, Ngân hàng Trung ương có chức năng quản lý nhà nước về tiền
tệ, hoạt động ngân hàng, quản lý nhà nước các dịch vụ công và thực hiện đại diện
chủ sở hữu phần vốn của Nhà nước tới doanh nghiệp có vốn Nhà nước trong lĩnh
vực ngân hàng. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hiện có hơn 10 vụ như : Vụ Chính

sách Tiền tệ, Vụ Chiến lược phát triển Ngân hàng, Vụ Hợp tác Quốc tế, Vụ Quản
lý Ngoại hối, vụ các Tổ chức tín dụng hợp tác

II: Chức năng của ngân hàng nhà nước Việt Nam
NHNN thực hiện các chức năng cơ bản là ngân hàng quốc gia và thực hiện
chức năng quản lý nhà nước của NHNN nhằm đảm bảo sự ổn định tiền tệ và an
toàn cho cả hệ thống NH ,qua đó mà thực hiện các mục tiêu kinh tế vĩ mô của nền
kinh tế .NHNN thực hiện chức năng này thông qua các nghiệp vụ mang tính chất
kinh doanh song mang tính chất kinh doanh chỉ là phương tiện nâng cao hiệu quả
hoạt động quản lý chứ không phải là mưu tìm doanh lợi mà là ổn định lưu thong
tiền tệ, tín dụng và hoạt động ngân hàng từ đó tạo tiền đề cho sự phát triển kinh tế .
2.1 Phát hành tiền và lưu thông tiền tệ:
Đó là chức năng cơ bản và quan trọng hàng đầu của Ngân hàng trung ương.
Thực hiện chức năng này sẽ ảnh hưởng đến tình hình lưu thông tiền tệ của quốc
gia, vì vậy nó ảnh hưởng đến mọi mặt hoạt động của đời sống kinh tế-xã hội, thậm
chí có thể ảnh hưởng đến tình hình tài chính tiền tệ thế giới . Việc phát hành tiền
được tập trung tuyệt đối vào NHNN. Giấy bạc ngân hàng và tiền kim loại NHNN
phát hành là phương tiện thanh toán hợp pháp duy nhất trong nước, nó có thể thực


hiện chức năng phương tiện lưu thông và phương tiện thanh toán không hạn chế.
Việc phát hành tiền có thể được tực hiện theo cách có đảm bảo như:
-Đảm bảo bằng vàng
-Đảm bảo bằng tín dụng hàng hóa
Mặt khác, việc phát hành tiền đi đôi với việc điều tiết lưu thông tiền tệ nhằm
bảo đảm cung ứng một khối lượng tiền phù hợp vói nhu cầu của kinh tế. Nói cách
khác, ngân hàng trung ương cần phải kiểm soát toàn bộ khối lượng tiền cung ứng
để vừa đảm bảo đủ phương tiện lưu thông vừa không gây lạm phát để giữ vững và
ổn định sức mua của đồng tiền. Việc điều tiết lưu thông tiền tệ để kiểm soát lượng
tiền cung ứng bằng hai cách:

-Trực tiếp xác định lượng tiền tăng thêm cần được thực hiện như: tăng thêm
cho tín dụng, tang thêm cho tăng trưởng kinh tế, tạm ứng cho ngân sách, tăng dự
trữ ngoại tệ, vàng.
-Kiểm soát quá trình “tạo tiền” của các ngân hàng thương mại.
Thực hiện chức năng này, ngân hàng trung ương trở thành trung tâm tiền tệ
của nền kinh tế.
*Những truờng hợp phát hành tiền của ngân hàng trung ương:
• Phát hành tiền qua ngõ chính phủ
khi ngân sách thâm hụt, hoạt động ngân sách sẽ tác động đên chính sách tiền
tệ. Bởi lẽ chính phủ với tư cách là chủ thể kinh tế, như mọi chủ thể kinh tế khác thì
thiếu tiền chi tiêu sẽ phải đi vay tiền để bù đắp thiếu hụt. Hoạt động vay của ngân
sách sẽ rơi vào một hoặc kết hợp hay đồng thời 3 phương thức sau:
Vay của công chúng thông qua việc phát hành tín phiếu, trái phiếu kho bạc,
công trái.
Vay của nước ngoài.
Vay của ngân hàng trung ương.


Phương thức thứ nhất không ảnh hưởng đến mức cung ứng tiền
NHNN.Phương thức thứ hai và thứ ba buộc ngân hàng trung ương phải phát hành
thêm tiền.
• Phát hành tiền qua ngõ ngân hàng trung gian:
Bản thân NHTG phải cho vay tới mức mà NHNN cho phép để tối đa hóa
doanh lợi, ngoài việc trang trãi các chi phí, tiểntả lãi…Tuy nhiên, không phải lúc
nào hoạt động của ngân hàng trung gian đều diễn ra một cách trôi chảy, thuận lợi.
Có những lúc, người gửi tiền đến đòi rút tền ra quá nhiều làm cho ngân hàng trung
gian lâm vào tình trạng kẹt vốn. Trong tình huống này ngân hàng trung ương có
khả năng vô biên, lúc nào ở hầm dự trữ của ngân hàng trung ương cũng có một
khối tiên in sẵn dự trữ. Do vậy việc cứu sống một hai ngân hàng trung gian thoát
khỏi tình hình mất khả năng chi trả là điều dễ dàng. Nếu không cứu chữakịp thời,

ngọn lửa này sẽ lan rộng ra cả hệ thống ngân hàng. Như vậy nhờ có ngân hàng
trung ương, khi bị kẹt vốn ngân hàng trung gian có thể đến vay ở ngân hàng trung
ương, ở đây được xem là chỗ dựa vững chắc của ngân hàng trung gian.
Ngân hàng trung ương cấp tín dụng cho các ngân hàng trung gian chủ yếu
dưới 2 hình thức:
Chiết khấu hoặc tái chiết khấu
Thế chấp hay ứng trước.
Trong cả hai trường hợp trên, ngân hàng trung ương đều thực hiện việc phát
hành tiền tệ. Kếtquả là làm cho số lượng tiền tệ trong lưu thông gia tăng. Theo các
nhà kinh tế học xem việc làm này là một nghiệp vụ thanh khiết, vì nó có khả năng
tự thanh toán và theo đúng nguyên tắc tín dụng.
• Phát hành tiền qua ngõ thị trường mở:
Thông qua việc mua bán các chứng khoán ngắn hạn trên thị trường mở, ngân
hàng trung ương điều chỉnh lưu lượng tiền mặt trong lưu thông.


Với nghiệp vụ bán ngân hàng trung ương thu hẹp lượng cung tiền mặt trong
lưu thông, lãi suất lại tăng lên.
Bằng nghiệp vụ mua, tức là bơm tiền vào lưu thông. Lúc này lượng tiền lưu
hành trên thị trường xã hội tăng lên tạo ra các động lực gây giảm lãi suất
• Phát hành tiền qua ngõ thị trường vàng và ngoại tệ:
Mỗi quốc gia trên thế giới đều có khả năng tạo lập cho mình một dự trữ vàng
và ngoại tệ nhất định. Dự trữ chính thức nằm trong kho bạc của chính phủ dưới
dạng dự trữ quốc gia. Dự trữ này không phải để đáp ứng nhu cầu chuyển đổi của
công chúng, mà chúng nhằm thực hiện 3 công dụng chính:
-Nó là một công cụ để chính phủ (cụ thể là ngân hàng trung ương) can thiệp
vào thị trường vàng, ngoại tệ
Nó là một công cụ để chống lại lạm phát
Nó là công cụ đo lường sức khỏe của nền kinh tế
Bằng việc tung ra một lượng tiền mặt nhất định vào thị trường để mua một số

ngoại tệ nào đó và vàng, ngân hàng trung ương một mặt làm tăng dự trữ quốc gia,
mặt khác nó làm tăng lưu lượng tiền mặt trong nền kinh tế, và đây chính là phương
thức phát hành tiền qua ngõ thị trường vàng và ngoại tệ.
2.2. Ngân hàng trung ương là ngân hàng của các ngân hàng.
a. NHNN là trung tâm thanh toán, chuyển nhượng, bù trừ của các ngân hàng
trung gian.
Các ngân hàng thương mại và tổ chức tài chính trong nước đều phải mở tài
khoản và kí gửi các khoản dự trữ bắt buộc và dự trữ vượt mức tại NHNN nên các
ngân hàng này có thể thực hiện thanh toán không dùng tiền mặt qua Ngân hàng
Trung ương. Thông qua dịch vụ thanh toán bù trừ, NHNN góp phần tiết kiệm chi
phí thanh toán cho các ngân hàng trung gian và cho toàn xã hội, thúc đẩy nhanh


quá trình luân chuyển vốn n các chủ thể trong kinh tế. Hơn nữa, thong qua hoạt
động này Ngân hàng NN có thể kiểm soát sự biến động vốn khả dụng của từng
ngân hang trung gian và có biện pháp điều chỉnh hợp lý.
b. NHNN là ngân hàng quản lý dự trữ bắt buộc của hệ thống ngân hàng trung gian.
Dự trữ bắt buộc là tiền mặt, và tỉ lệ dự trữ bắt buộc tối thiểu là tỉ lệ % tiền mặt
trên tổng số tiền mặt do nhân dân gửi vào mà các ngân hàng thành viên phải lưu lại
trong kho tiền mặt của ngân hàng hay kí gửi tại NHNN
Dự trữ bắt buộc là tiền mặt, và tỉ lệ dự trữ bắt buộc tối thiểu là tỉ lệ % tiền mặt trên
tổng số tiền mặt do nhân dân gửi vào mà các ngân hàng thành viên phải lưu lại
trong kho tiền mặt của ngân hàng hay kí gửi tại NHNN, không được cho vay hết.
Khi tỉ lệ dự trữ bắt buộc tăng lên, cung ứng tiền ngân hàng của hệ thống ngân
hàng thương mại và tổ chức tài chính cũng giảm ngay tức khắc và ngược lại. Bằng
việc quy định tỉ lệ dự trữ bắt buộc NHNN quản lý một cách chặt chẽ tốc độ và
cung ứng tiền ngân hàng của hệ thống ngân hàng trung gian.
c. NHNN cung cấp tín dụng cho các ngân hàng trung gian.
Thông qua nghiệp vụ tái chiết khấu các chứng từ có giá ngắn hạn. Mục đích của
nghiệp vụ này là:

+ Phát hành thêm tền trung ương theo kế hoạch
+ Bổ sung them vốn khả dụng cho các ngân hàng trung gian một cách thường
xuyên
+ Là cứu cánh cuối cùng khi các ngân hàng trung gian gặp những khó khăn bất khả
kháng và có nguy cơ lan tỏa, ảnh hưởng nghiêm trọng đến toàn hệ thống.
Các điều kiên chiết khấu thường là chặt chẽ và được giới hạn bởi mức tái chiết
khấu, các quy định về chất lượng và chủng loại chứng từ có giá được chấp nhận để


chiết khấu.

.

2.3. Là ngân hàng của chính phủ
NHTW có nghĩa vụ cung cấp các dịch vụ ngân hàng cho Chính phủ. Bao gồm:
* Làm thủ quỹ cho Kho bạc Nhà nước. Băng việc mở tài khoản của Kho bạc Nhà
nước để ghi chép các khoản tiền gửi của Chính phủ, các khoản thu của Nhà nước…
được gửi vào tài khoản này.
Tạm ứng cho Ngân sách
* Làm đại lý tư vấn cho Chính phủ:
+ Làm đại lý cho Chính phủ trong việc phát hành chứng khoán Chính phủ
+ Bảo quản dự trữ quốc gia về ngọa tệ, vàng bạc và tài sản quý khác
+ Đại diện chính phủ tại các tổ chức tài chính – tiền tệ quốc tế
+ Tham gia vào quá trình hoạch định chính sách phát triển kinh tế - xã hội

III: Một số NHTW trên thế giới
Ngân hàng trung ương (Central Bank) ở bất cứ quốc gia nào đều là một trong
những cơ quan có vị thế cực kỳ quan trọng, là ngân hàng đứng đầu trong hệ thống
ngân hàng. Đặc điểm nổi bật của ngân hàng trung ương là nó không giao dịch, làm
nghiệp vụ trực tiếp với các nhà kinh doanh và công chúng, khách hàng của nó là tất

cả các ngân hàng khác. Ngân hàng trung ương giữ vai trò là ngân hàng của các
ngân hàng; bảo quản quỹ dự trữ tiền tệ của các ngân hàng; cho các ngân hàng vay
vốn khi cần thiết, thực hiện chính sách tiền tệ tín dụng của nhà nước; cơ quan phát
hành tiền tệ trong nước; thanh toán và tín dụng quốc tế với ngân hàng trung ương


các nước khác; là cơ quan cung cấp tiền cho ngân sách khi cần và làm một số
nghiệp vụ của kho bạc nhà nước.
Mỹ
Hệ thống Dự trữ Liên bang (Federal Reserve System) có chức năng như một
ngân hàng trung ương, mặc dù chính thức nó không phải là một ngân hàng mà chỉ
chịu những ảnh hưởng hạn chế của nhánh hành pháp và lập pháp. Hệ thống này
được thành lập ngày 23 tháng 12 năm 1913, nhằm đưa ra trong nước một đồng tiền
linh hoạt, tạo điều kiện dễ dàng cho việc chiết khấu các thương phiếu và cải thiện
việc giám sát hoạt động ngân hàng, từ đó trách nhiệm của Hệ thống đã được mở
rộng. Qua nhiều năm, người ta đã nhận thấy rằng, sự ổn định và tăng trưởng nền
kinh tế, mức độ bảo đảm tình trạng có việc làm cao, sự ổn định về mãi lực đồng đô
la Mỹ và sự cân bằng hợp lý trong giao dịch với những nước khác, là những mục
tiêu đầu tiên trong đường lối kinh tế của Nhà nước.
Ngoài những chức năng này, Hội đồng còn giám sát ngân sách và hoạt động
của các ngân hàng dự trữ, thông qua chỉ định những Thống đốc các ngân hàng đó
và chỉ định 3 người trong Ban Giám đốc của mỗi ngân hàng khu vực, cả Chủ tịch
và Phó Chủ tịch của mỗi ngân hàng dự trữ. 12 ngân hàng dự trữ này và các văn
phòng chi nhánh hoạt động như những bộ phận phân quyền của Hệ thống, thực
hiện những công việc hàng ngày như lưu thông tiền tệ và cung cấp các chức năng
của cơ quan tài chính và những dịch vụ thuộc cơ chế chi trả. Chức năng chính của
Hệ thống là chủ trương chính sách tiền tệ được kiểm soát bằng 3 công cụ: nhu cầu
dự trữ, tỷ lệ chiết khấu và hoạt động của thị trường công khai. Những nhu cầu dự
trữ thống nhất do hội đồng đưa ra được áp dụng cho các tài khoản giao dịch và tiền
gửi có kỳ hạn của pháp nhân tại các tổ chức nhận tiền gửi. Trách nhiệm đưa ra tỷ lệ

chiết khấu (lãi suất mà các tổ chức tiền gửi có thể vay tiền tại các ngân hàng dự


trữ) được Hội đồng Thống đốc và các ngân hàng dự trữ cùng chia sẻ. Những thay
đổi về tỷ lệ chiết khấu do từng ban giám đốc của các ngân hàng dự trữ đưa ra và
phải được Hội đồng Thống đốc thông qua. Công cụ quan trọng nhất của chính sách
tiện tệ là những hoạt động thị trường công khai (mua và bán các trái khoán nhà
nước).
Đức
Ngân hàng trung ương là Bundesbank, đây là ngân hàng độc lập nhất với
chính phủ. Quyền hạn và nghĩa vụ của Bundesbank được quy định trong hiến pháp
liên bang, ưu tiên việc đảm bảo tiền tệ bằng cách chống lạm phát và trợ giúp chính
sách của Chính phủ. Bundesbank có một Chủ tịch do Hội đồng ngân hàng bổ
nhiệm theo ý kiến của Chính phủ. Hội đồng ngân hàng gồm 21 thành viên là đại
diện từ các ngân hàng vùng, Chính phủ và các quản trị viên ngân hàng. Hội đồng
họp thường xuyên 2 tuần một lần.
Trung Quốc
Ngân hàng trung ương có nhiều nhiệm vụ to lớn, trong đó đặc biệt quan trọng
là việc quản lý dự trữ ngoại hối. Tính đến cuối quý 1 năm 2007, dự trữ ngoại hối
của Trung Quốc đã lên tới hơn 1.200 tỉ USD, đưa Trung Quốc trở thành quốc gia
có lượng dự trữ ngoại hối lớn nhất thế giới. Số ngoại hối dự trữ của Trung Quốc
chủ yếu được đầu tư vào trái phiếu chính phủ nước ngoài, tập trung vào các trái
phiếu có mức độ tín nhiệm cao.
C : KẾT LUẬN
Đạt được những kết quả đó, một phần lớn là do vai tṛò điều tiết tiền tệ của
NHNN. Những đổi mới trong quá tŕnh điều tiết, kiểm soát tiền tệ trong , kiểm soát


thị trường những năm qua đă góp phần quan trọng trong việc xây dựng hệ thống tài
chính và phát triển thị trường tiền tệ.

Tuy nhiên việc sử dụng các công cụ chính sách tiền tệ để thực hiện vai tṛò
điều tiết tiền tệ của NHNN có những hạn chế. Những hạn chế này ở một chừng
mực nhất định sẽ có ảnh hưởng đến việc thực hiện vai tṛò kiểm soát và điều tiết
tiền tệ của NHNN
Việc nghiên cứu tìm hiểu chức năng NHNN trong việc kiểm soát thị trường
tiền tệ sẽ đi sâu vào những thực trạng, những mặt được và cần khắc phục để tăng
cường hơn nữa phạm vi, hiệu quả điều tiết tiền tệ NHNN, đáp ứng yêu cầu đđ̣i hỏi
thực tiễn và phù hợp thông lệ, nhằm xây dựng một thị trường tiền tệ lành mạnh,
hiệu quả và mở ra một vận hội lớn cho sự phát triển kinh tế đất nước với chương
tŕnh đẩy mạnh phát triển kinh tế trong nước và hội nhập kinh tế thế giới và khu
vực.



×