Tải bản đầy đủ (.pdf) (43 trang)

Tiểu luận lý thuyết tiền tệ sử dụng các công cụ điều hành chính sách tiền tệ trong điều kiện kinh tế nước ta hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (385.48 KB, 43 trang )

TiÓu luËn lý thuyÕt tiÒn tÖ

TIỂU LUẬN LÝ THUYẾT TIỀN TỆ

SỬ DỤNG CÁC CÔNG CỤ ĐIỀU
HÀNH CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ
TRONG ĐIỀU KIỆN KINH TẾ NƯỚC
TA HIỆN NAY

Tiểu luận Sử dụng các công cụ điều hành chính sách tiền tệ trong điều kiện kinh tế thị trường ở nước
ta hiện nay
tế thị trường ở nước ta hiện nay

SV: §oµn Anh TuÊn

1


Tiểu luận lý thuyết tiền tệ

Lời nói đầu

Kể từ khi thực hiện chính sách cải cách và mở cửa, chuyển nền kinh tế
kế hoạch hoá tập trung sang kền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ
nghĩa, toàn bộ hệ thống tổ chức và hoạt động của ngân hàng Nhà nước Việt
Nam đã được đổi mới sâu sắc và đạt được những kết quả bước đầu đáng khích
lệ. Tuy nhiên, trong quá trình hội nhập vào nền kinh tế thế giới với những
thuận lợi và khó khăn thử thác đan xen, chính sách tiền tệ cần không ngừng
được đổi mới, hoàn thiện từ công tác hoạch định đến chỉ đạo thực hiện. Đón
nhận những cơ hội do hội nhập mang lại, đồng thời dự đoán nắm bắt những
tác động của nó tới nền kinh tế, từ đó đưa ra các biện pháp điều chỉnh như thế


nào cho thích hợp là vấn đề mang tính nhạy cảm của các nhà điều hành chính
sách tiền tệ. Điều tiết lượng tiền cung ứng như thế nào để cho nền kinh tế phát
triển một cách nhịp nhàng luôn là vấn đề nan giải, thiếu hay thừa tiền đều có
tác động tiêu cực của nó. Để làm được điều này, Ngân hàng Trung ương phải
sử dụng hàng loạt các công cụ như: lãi suất, hạn mức tín dụng, phát hành trái
phiếu, dự trữ bắt buộc, tái cấp vốn, nghiệp vụ thị trường mở.
Việc hoàn thiện chính sách tiền tệ sẽ phụ thuộc nhiều vào khả năng tiếp
cận và vận dụng hệ thống các công cụ thực thi chính sách tiền tệ của Ngân
hàng Nhà nước. Các mục tiêu: Tăng trưởng kinh tế, kiểm soát lạm phát, tạo
công ăn việc làm có thực hiện được hay không là phụ thuộc vào việc sử dụng
các công cụ của chính sách tiền tệ. Muốn nâng cao hiệu quả sử dụng các công
cụ của chính sách tiền tệ chúng ta cần phải làm gì?
Xuất phát từ lý do trên, em đã chọn đề tài: "Sử dụng các công cụ điều
hành chính sách tiền tệ trong điều kiện kinh tế thị trường ở nước ta hiện
nay".
Trong bài viết, em xin được trình bày ba chương:
- Chương 1: Lý luận chung về các công cụ của chính sách tiền tệ.
- Chương 2: Tình hình sử dụng các công cụ của chính sách tiền tệ trong
điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay.

SV: Đoàn Anh Tuấn

2


Tiểu luận lý thuyết tiền tệ
- Chương 3: Định hướng và các giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng
các công cụ của chính sách tiền tệ.
Mặc dù có rất nhiều cố gắng, song do điều kiện thời gian trình độ kiến
thức và trình độ thực tế còn hạn chế. Cho nên bài tiểu luận này chắc chắn

không tránh khỏi những thiếu xót. Em kính mong nhận được những đánh giá
chỉ bảo góp ý của các thầy cô cũng như của các bạn để em có thể hoàn thiện
thêm kiến thức của mình.
Em xin chân thành cảm ơn!

SV: Đoàn Anh Tuấn

3


Tiểu luận lý thuyết tiền tệ
Chương 1
Lý luận chung về các công cụ của chính sách
tiền tệ
Nếu như người cho rằng ngân hàng trung ương (NHTW) là một trong
ba phát minh lớn của nhân loại: Lửa, cái bánh xe và NHTW, thì chính sách
tiền tệ (CSTT) cũng được coi là linh hồn là sợi chỉ đỏ xuyên suốt quá trình
hoạt động, và là lý do tồn tại của bất kỳ NHTW nước nào.
Quá trình lịch sử ra đời của NHTW ở các nước trên thế giới cho thấy ự
xuất hiện của tổ chức này trong nền kinh tế thị trường hoàn toàn không phải vì
mục tiêu tìm kiếm doanh nghiệp lợi cho bản thân nó hay cho Chính phủ. Sự
xuất hiện của NHTW chính xuất phát từ yêu cầu của quản lý và điều tiết lưu
thông tiền tệ, bảo đảm cho hệ thống ngân hàng (HTNH) hoạt động ổn định an
toàn và có hiệu quả, tạo điều kiện cho sự ổn định tăng trưởng và phát triển
kinh tế. Để thực hiện những mục tiêu hết sức quan trọng đó NHTW đã phải
thông qua quá trình hoạch định chính xác và tổ chức thực thi có hiệu quả
CSTT của mình.
Như vậy, NHTW và chính sách tiền tệ đều có một vị trí hết sức quan
trọng trong nền kinh tế. Dưới đây là những vấn đề lý luận cơ bản về chính
sách tiền tệ.

1.1. Mục tiêu của chính sách tiền tệ.
Chính sách tiền tệ của NHTW (NHTW) là một bộ phận quan trọng
trong hệ thống các chính sách kinh tế - tài chính vĩ mô của chính phủ.
Chính sách tiền tệ là một tổng hoà các phương thức, mà NHTW thông
qua các hoạt động của mình tác động đến khối lượng tiền trong lưu thông
nhằm phục vụ cho việc thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội của một đất
nước trong một thời kỳ nhất định.
1.1.1. Tăng trưởng kinh tế.
Tăng trưởng kinh tế là mục tiêu hàng đầu và quan trọng nhất trong 3
mục tiêu của chính sách tiền tệ. Do chính sách tiền tệ có thể ảnh hưởng tới của
cải và chi tiêu của xã hội nên có thể sử dụng nó làm đòn bẩy kích thích tăng
trưởng kinh tế. Tăng trưởng kinh tế phải được hiểu cả về khối lượng và chất
lượng. Chính sách tiền tệ phải đảm bảo sự tăng lên của GDP thực tế, tức là tỷ
lệ tăng trưởng có được sau khi trừ đi tỷ lệ tăng giá cùng thời kỳ. Chất lượng

SV: Đoàn Anh Tuấn

4


Tiểu luận lý thuyết tiền tệ
tăng trưởng được biểu hiện ở một cơ cấu kinh tế cân đối và khả năng cạnh
tranh quốc tế của hàng hoá trong nước tăng lên.
Muốn tăng trưởng kinh tế thì phải gia tăng đầu tư, thực hiện tái sản xuất
mở rộng. Để gia tăng đầu tư, bên cạnh việc sử dụng công cụ tài trợ của ngân
sách Nhà nước, người ta phải chủ yếu trông vao sự gia tăng đầu tư tín dụng
của hệ thống ngân hàng dưới tác động của NHTW. Như vậy, với tư cách là
trung tâm tiền tệ, tín dụng và thanh toán trong nền kinh tế quốc dân, NHTW
đóng vai trò quan trọng trong việc thực hiện mục tiêu này.
1.1.2. Kiểm soát lạm phát.

Kiểm soát lạm phát là một mục tiêu quan trọng của chính sách tiền tệ
trong điều kiện kinh tế thị trường hiện đại thường xuyên có lạm phát. ổn định
giá cả có tầm quan trọng đặc biệt để định hướng phát triển kinh tế của quốc
gia vì nó làm tăng khả năng dự đoán những biến động của môi trường quốc
gia vì nó làm tăng khả năng dự đoán những biến động của môi trường kinh tế
vĩ mô. Mức lạm phát thấp và ổn định tạo nên môi trường đầu tư ổn định, thúc
đẩy nhu cầu đầu tư và đảm bảo sự phân bổ nguồn lực xã hội một cách hiệu
quả. Đây là lợi ích có tầm quan trọng sống còn đối với sự thịnh vượng kinh tế
của quốc gia. Lạm phát cao hay thiểu phát liên tục là rất tốn kém cho xã hội,
thậm chí ngay cả trong trường hợp nền kinh tế phát triển khả quan nhất. Sự
biến động liên tục của các tỷ lệ lạm phát dự tính làm méo mó, sai lệch thông
tin và do đó làm cho các quyết định kinh tế trở nên không đáng tin cậy và
không có hiệu quả. Nguy hiểm hơn, sự bất ổn định giá cả làm dẫn đến sự phân
phối lại không dân chủ các nguồn lực kinh tế trong xã hội giữa các nhóm dân
cư.
1.1.3. Tạo việc làm.
Tạo công ăn việc làm là mục tiêu của tất cả các chính sách vĩ mô trong
đó có chính sách tiền tệ. Tạo việc làm luôn là một đòi hỏi bức xúc và thường
trực của xã hội. Vì vậy, nó đương nhiên phải là một mục tiêu quan trọng của
chính sách tiền tệ.
Việc làm nhiều hay ít, tăng hay giảm chủ yếu tuỳ thuộc vào tình hình
tăng trưởng kinh tế. Khi đầu tư tăng và các hoạt động kinh tế được mở rộng thì
người lao động càng có thêm cơ hội tìm kiếm việc làm. Tuy nhiên, khi tăng
trưởng kinh tế đạt được do kết quả của cải tiến kỹ thuật, thì việc làm có thể

SV: Đoàn Anh Tuấn

5



Tiểu luận lý thuyết tiền tệ
không tăng mà có thể giảm, dẫn đến thất nghiệp tăng. Tạo được nhiều việc
làm là một mục tiêu có giá trị vì hai lý do sau:
- Nếu thất nghiệp cao sẽ gây ra nhiều đau khổ cho con người, các gia
đình bị khốn cùng về tài chính mất đi lòng tự trọng cá nhân và gây ra nhiều tệ
nạn xã hội tiêu cực.
- Khi thất nghiệp tăng lên thì không những có thêm nhiều người lao
động không có việc làm mà còn có cả những nguồn tài nguyên để không
(không sử dụng hết các nguồn lực) dẫn đến tình trạng các xí nghiệp bị đóng
cửa, trang thiết bị không được sử dụng hết, sản xuất đình trệ, kết quả là sản
phẩm giảm đi.
Tình hình đó đặt ra cho NHTW trách nhiệm là phải vận dụng các công
cụ của mình góp phần tăng cường đầu tư mở rộng sản xuất - kinh doanh. Đồng
thời, phải tham gia tích cực vào việc tăng trưởng liên tục và ổn định, khống
chế tỷ lệ thất nghiệp không vượt quá mức thất nghiệp tự nhiên.
Sự phối hợp giữa 3 mục tiêu cuối cùng của chính sách tiền tệ là rất quan
trọng. Bởi vì, không phải cùng một lúc cả ba mục tiêu đó đều có thể thực hiện
được mà không có sự mâu thuẫn. Do vậy, khi xác định các mục tiêu này, phải
tuỳ lúc, tuỳ thời mà sắp xếp thứ tự ưu tiên. Điều quan trọng là phải luôn nắm
bắt được thực tế diễn biến của quá trình thực hiện các mục tiêu để kịp thoừi
điều chính chúng khi cần thiết với những giải pháp thích hợp. Để đạt được các
mục tiêu đề ra thì NHTW được coi là có nhiều khả năng thực hiện việc này vì
nó nắm trong tay các công cụ điều chỉnh lượng tiền cung ứng. Như vậy, mục
tiêu và nhiệm của chính sách tiền tệ chính là xuất phát điểm để đưa ra các
công cụ điều hành.
1.2. Các công cụ của chính sách tiền tệ.
Công cụ chính sách tiền tệ là hoạt động được thực hiện bởi NHTW
nhằm ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến khối lượng tiền trong lưu thông
và lãi suất thị trường, để từ đó đạt được các mục tiêu của chính sách tiền tệ.
1.2.1. Các công cụ trực tiếp.

Các công cụ trực tiếp là các công cụ mà thông qua chúng, NHTW có
thể tác động trực tiếp đến cung cầu tiền tệ, không phải thông qua một công cụ
khác.

SV: Đoàn Anh Tuấn

6


Tiểu luận lý thuyết tiền tệ
Tác động chính sách của các công cụ trực tiếp của CSTT
Các công cụ
trực tiếp

Mục tiêu
trung gian

Tác động

Hạn mức
tín dụng
giảm

ấn định lãi
suất tiền gửi
- cho vay

Lãi suất thị trường
vốn tăng


Tỷ giá
hối đoái
giảm

Mức cung tiền giảm

Tiết
kiệm
tăng

Xuất khẩu ròng giảm

Phát hành
tín phiếu
NHTW

Nhu cầu
tín dụng
giảm

Cung ứng
tín dụng
giảm

Chi tiêu đầu tư tiêu dùng giảm

Tổng cầu giảm

Mục tiêu
cuối cùng


Chỉ số
giá giảm

Sản
lượng
giảm

Công ăn
việc làm
giảm

1.2.1.1. ấn định khung lãi suất tiền gửi và cho vay.
NHTW có thể quy định khung lãi suất tiền gửi và buộc các ngân hàng
kinh doanh phải thi hành.
Nếu lãi suất quy định cao thu hút được nhiều tiền gửi làm gia tăng
nguồn vốn cho vay. Nếu lãi suất thấp, sẽ làm giảm tiền gửi, giảm khả năng mở
rộng kinh doanh tín dụng. Song biện pháp này sẽ làm cho các ngân hàng
thương mại (NHTM) mất tính chủ động, linh hoạt trong kinh doanh. Mặc
khác, nó dễ dẫn đến tình trạng ứ đọng vốn ở ngân hàng, nhưng lại thiếu vốn
đầu tư, hoặc khuyến khích dân cư dùng tiền vào dự trữ vàng, ngoại tệ, bất
động sản, trong khi ngân hàng bị hụt hẫng về tiền mặt, cũng như nguồn vốn
cho vay.

SV: Đoàn Anh Tuấn

7


Tiểu luận lý thuyết tiền tệ

NHTW có thể quy định khung lãi suất cho vay buộc các ngân hàng trung
ương giảm mức lãi suất cho vay buộc các ngân hàng kinh doanh chấp hành.
Biện pháp này có ưu điểm là giúp ngân hàng lựa chọn dự án kinh tế tối
ưu để cho vay, loại bỏ những dự án kinh tế kém hiệu quả.
Tuy nhiên, cũng như sự quy định khung lãi suất tiền gửi, biện pháp quy
định khung lãi suất tiền gửi, biện pháp quy định khung lãi suất cho vay cho
tính linh hoạt của thị trường tiền tệ bị suy giảm, các ngân hàng thương mại bị
động trong kinh doanh.
Việc ấn định các khung lãi suất tiền gửi và cho vay nhiền chung ngày
càng ít được áp dụng ở các nước theo cơ chế kinh tế thị trường. Bởi vì, trong
cơ chế kinh tế thị trường, lãi suất rất nhậy cam với đầu tư, nó phải được vận
động theo quan hệ cung cầu vốn trên thị trường.
1.2.1.2. ấn định hạn mức tín dụng.
Đây là biện pháp mạnh, có hiệu lực đáng kể. Thực chất, biện pháp này
cho phép NHTW ấn định trước khối lượng tín dụng phải cung cấp cho nền
kinh tế trong một thời gian nhất định và sau đó tìm con đường để đưa vào nền
kinh tế.
Công cụ này được áp dụng phổ biến ở các nước trong thời kỳ hoạt động
tài chính được điều tiết chặt chẽ. Ví dụ trong trường hợp lạm phát cao, hạn
mức tín dụng được sử dụng nhằm khống chế trực tiếp và ngay lập tức lượng tín
dụng cung ứng.
Trong trường hợp khi các công cụ gián tiếp không phát huy hiệu quả do
thị trường tiền tệ chưa phát triển hoặc do mức cầu tiền tệ không nhạy cảm với
sự biến động của lãi suất hay ngân hàng trung ương không có khả năng khống
chế và kiểm soát được sự biến động của lượng vốn khả dụng của hệ thống
ngân hàng trung gian thì công cụ hạn mức tín dụng là cứu cánh của NHTW
trong việc điều tiết lượng tiền cung ứng. Tuy nhiên, hiệu quả điều tiết của
công cụ này không cao bởi nó thiếu linh hoạt và đôi khi đi ngược lại chiều
hướng biến động của thị trường tín dụng, do đó đẩy lãi suất lên cao hợc làm
suy giảm khả năng cạnh tranh của các ngân hàng trung gian.

Trong nền kinh tế thị trường, cung cầu tín dụng biến động không ngừng,
biện pháp này chỉ được áp dụng một cách hạn chế khi tình huống yêu cầu.
1.2.1.3. Phát hành trái phiếu Nhà nước để làm giảm lượng tiền
trong lưu thông.

SV: Đoàn Anh Tuấn

8


Tiểu luận lý thuyết tiền tệ
Trong điều kiện không thể áp dụng các biện pháp khác, chính phủ có
thể phát hành một lượng trái phiếu nhất định để thu hút bớt lượng tiền trong
lưu thông. Việc phân bổ trái phiếu thường mang tính chất bắt buộc.
1.2.2. Các công cụ gián tiếp.
Đây là nhóm công cụ tác động trước hết vào mục tiêu hoạt động của
chính sách tiền tệ, thông qua cơ chế thị trường mà tác động này được truyền
đến các mục tiêu trung gian là khối lượng tiền cung ứng và lãi suất.
Tác động chính của các công cụ gián tiếp của CSTT
Các công
cụ gián tiếp

Lãi suất tái
cấp vốn
tăng

Chỉ tiêu
hoạt động

Lãi suất thị

trường tiền tệ
tăng

Mục tiêu
trung gian

Tác động

Nghiệp vụ thị
trường mở
nghiệp vụ bán

Cơ số tiền giảm

Lãi suất thị trường
vốn tăng

Tỷ giá
hối đoái
giảm

Lãi suất
tái cấp vốn
tăng

Dự trữ dư
thừa giảm

Mức cung tiền giảm


Tiết
kiệm
tăng

Xuất khẩu ròng giảm

Dự trữ
bắt buộc
tăng

Nhu cầu
tín dụng
giảm

Cung ứng
tín dụng
giảm

Chi tiêu đầu tư tiêu dùng giảm

Tổng cầu giảm

Mục tiêu
cuối cùng

SV: Đoàn Anh Tuấn

Chỉ số
giá giảm


Sản
lượng
giảm

Công ăn
việc làm
giảm

9


Tiểu luận lý thuyết tiền tệ
2.2.1. Dự trữ bắt buộc.
Dự trữ bắt buộc là số tiền mà các ngân hàng trung gian buộ phải duy trì
trên một tài khoản tiền gửi không hưởng lãi tại NHTW. Nó được xác định
bằng một tỷ lệ phần trăm nhất định trên tổng số dư tiền gửi tại một khoảng
thời gian nào đó. Mức dự trữ bắt buộv dịch vụ quy định khác nhau căn cứ vào
thời hạn tiền gửi, vào quy mô và tính chất hoạt động của ngân hàng trung
gian.
1.2.2.1. Cơ chế tác động.
Việc thay đổi tỷ lệ dữ trữ bắt buộc ảnh hưởng đến lượng tiền ứng theo
ba cách.
+ Thứ nhất, khi NHTW quyết định tăng tỷ lệ dữ trữ bắt buộc, bộ phận
dự trữ dư thừa trước đây của các ngân hàng chuyển thành dự trữ bắt buộc, làm
giảm khả năng cho vay của hệ thống ngân hàng.
+ Thứ hai, tỷ lệ dữ trữ bắt buộc là một thành phần trong mẫu số của hệ
số mở rộng tiền gửi. Viề thế sự tăng lên của tỷ lệ dự trữ bắt buộc sẽ làm giảm
hệ số mở rộng tiền gửi và do đó là khả năng mở rộng tiền gửi của hệ thống
ngân hàng.
+ Thứ ba, tỷ lệ dự trữ bắt buộc tăng lên làm giảm mức cung vốn NHTW

trên thị trường liên ngân hàng. Trong điều kiện nhu cầu vốn khả dụng không
thay đổi, sự giảm sút này làm tăng lãi suất dài hạn và giảm khối lượng tiền
cung ứng.
Quyết định giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc sẽ gây nên những ảnh hưởng
ngược lại.
1.2.2.1.2. Ưu nhược điểm của công cụ.
Ưu điểm:
+ Lợi thế chủ yếu của công cụ dự trữ bắt buộc trong việc kiểm soát
lượng tiền cung ứng là sự thay đổi tỷ lệ dự trữ bắt buộc sẽ ảnh hưởng một cách
bình đẳng đến tất cả các ngân hàng.
+ Ngoài ra, đây là công cụ có quyền lực ảnh hưởng rất mạnh đến lượng
tiền cung ứng. Chỉ cần một phần trăm thay đổi tỷ lệ dữ trữ bắt buộc cũng sẽ
dẫn đến sự thay đáng kể khối lượng tiền cung ứng.
Nhược điểm:
+ Công cụ này có ảnh hưởng mạnh đến lượng tiền cung ứng, bên cạnh
ưu điểm trên thì chính điều này đã làm cho công cụ dự trữ bắt buộc trở nên

SV: Đoàn Anh Tuấn

10


Tiểu luận lý thuyết tiền tệ
thiếu linh hoạt. NHTW rất khó có thể thực hiện được những thay đổi nhỏ
trong cung ứng tiền tệ bằng cách thay đổi dự trữ bắt buộc.
+ Một bất lợi khác là việc tăng dự trữ bắt buộc có thể gây nên vấn đề
"mất khả năng thanh toán ngay" đối với những hàng có dự trữ vượt mức quá
thấp.
+ Việc thay đổi liên tục dự trữ bắt buộc sẽ gây tình trạng không ổn định
cho hoạt động của các ngân hàng và làm cho việc quản lý khả năng thanh

khoản của các ngân hàng khó khăn và tốn kém hơn.
Để khắc phục nhược điểm này NHTW thường sử dụng kết hợp với một
vài công cụ khác nhằm giảm bớt mức độ ảnh hưởng của nó. Chẳng hạn, cùng
với việc nâng tỷ lệ dự trữ bắt buộc, NHTW tiến hành các nghiệp vụ mua vào
chứng khoán trên thị trường mở hoặc nới rộnt các điều kiện vay chiết khấu
nhằm giúp cho các ngân hàng có thể nhanh chóng nâng mức dự trữ bắt buộc
với chi phí thấp, tránh khỏi bị sốc.
1.2.2.2. Tái chiết khấu, tái cấp vốn.
Tái chiết khấu và tái cấp vốn là những cách thức cho vay của NHTW
đối với các NHTM.
1.2.2.2.1. Cơ chế tác động.
Với việc ấn định lãi suất tái chiết khấu, tái cấp vốn, NHTW có thể tác
động đến khả năng vay của các NHTM và do đó làm cho cung cầu tiền tệ tăng
lên hay giảm xuống.
Khi lãi duất tái chiết khấu, tái cấp vốn tăng lên, các ngân hàng kinh
doanh sẽ bất lợi nếu vay vốn của NHTW. Trong điều kiện đó, các ngân hàng
kinh doanh sẽ không có khả năng bành trướng tín dụng.
Ngược lại, khi lãi suất tái chiết khấu, tái cấp vốn giảm, các ngân hàng
kinh doanh sẽ có khả năng bành trướng tín dụng do được lợi trong việc vay
vốn của NHTW.
1.2.2.2.2. Ưu nhược điểm của công cụ.
Ưu điểm:
Việd vay mượn được thực hiện trên nền của các giấy tờ có giá, nên thời
hạn vay mượn tương đối rõ ràng, việc hoàn trả nợ tương đối chắc chắn, tiền
vay vận động phù hợp với sự vận động của quy luật cung cầu thị trường.
Nhược điểm:

SV: Đoàn Anh Tuấn

11



Tiểu luận lý thuyết tiền tệ
+ Trong nghiệp vụ này, NHTW ở vào thế bị động vì nghiệp vụ này chỉ
thể phát huy tác dụng khi các ngân hàng trung gian có nhu cầu vay từ NHTW.
Với sự phát triển của thị trường, các NHTM có thể tìm kiếm được các nguồn
vay khác ngoài NHTW làm cho sự phụ thuộc của chúng vào NHTW giảm đi,
do đó làm giảm mức độ phát huy hiệu quả của công cụ này.
+ NHTW khó kiểm soát được hoàn toàn những tác động của công cụ
này bởi NHTW chỉ có thể thay đổi mức lãi suất tái chiết khấu và các điều kiện
chiết khấu mà không thể bắt các NHTM vay từ mình.
1.2.2.3. Nghiệp vụ thị trường mở.
Công cụ thị trường mở là chỉ việc NHTW mua hoặc bán giấy tờ có giá
trên thị trường tài chính, nhằm đạt đến mục tiêu điều chỉnh lượng tiền trong
lưu thông.
1.2.2.3.1. Cơ chế tác động.
+ Nếu ý muốn gia tăng lượng tiền trong lưu thông, NHTW sẽ mua vào
một lượng giấy tờ có giá trị nhất định. Khi ngân hàng kinh doanh hoặc công
chúng bán giấy tờ có giá cho NHTW thì dự trữ của ngân hàng kinh doanh sẽ
thừa ra, do ngân hàng kinh doanh nhận được tiền của NHTW về việc mua giấy
tờ có giá, hoặc do dân chúng bán được giấy tờ có giá mà chuyển tiền vào tài
khoản tiền gửi của mình tại ngân hàng trung gian.
+ Khi NHTW muốn giảm lượng tiền trong lưu thông, thì bán các giấy
tờ có giá đang nắm giữ. Việc các ngân hàng trung gian mua giấy tờ có giá của
NHTW sẽ làm giảm dự trữ của mình, hoặc dân chúng chuyển tiền vào NHTW
để mua chứng khoán cũng làm giảm dự trữ của ngân hàng trung gian.
1.2.2.3.2. Đặc điểm của việc áp dụng công cụ.
+ Các chủ thể có liên quan đến công cụ này bao gồm: các ngân hàng,
các tổ chức tài chính, các Công ty và cả những người chuyên buôn bán chứng
khoán - những người này sau đó sẽ bán lại chúng cho các chủ thể trên.

+ Các chứng khoán mà NHTW sử dụng trong nghiệp vụ thị trường mở
thường là các chứng khoán chính phủ, mà chủ yếu là tín phiếu kho bạc. Lý do
là vì các chứng khoán này có tính lỏng cao, cho nên NHTW có thể thực hiện
nghiệp vụ thị trường mở một cách nhanh chóng và dễ dàng. Hơn nữa, thị
trường chứng khoán chính phủ có một lượng lớn nghiệp vụ của NHTW mà
không làm giá trên thị trường biến động quá mạnh, dẫn đến sụp đổi thị trường.

SV: Đoàn Anh Tuấn

12


Tiểu luận lý thuyết tiền tệ
1.2.2.3.3. Ưu điểm của công cụ.
Ưu điểm:
+ Nghiệp vụ thị trường mở được tiến hành theo sáng kiến của NHTW,
NHTW có thể kiểm soát hoàn toàn khối lượng của nghiệp vụ thị trường mở
mà không chịu ảnh hưởng của bất kỳ nhân tố nào khác.
+ Nghiệp vụ thị trường mở rất linh hoạt và chính xác. Điều này thể hiện
ở chỗ dù NHTW muốn thay đổi một mức rất nhỏ hay rất lớn của lượng cung
tiền, nghiệp vụ thị trường mở đầu có thể đáp ứng được. Hơn nữa, nghiệp vụ thị
trường mở có thể dễ dàng đảo ngược lại khi có một sai lầm xảy ra trong lúc
tiến hành nghiệp vụ. Chẳng hạn, NHTW nhận thấy rằng mình đã mua quá
nhiều chứng khoán trên thị trường mở khiến cho cung tiền tăng quá nhanh, nó
có thể ngay lập tức sửa chữa sai lầm bằng cách tiến hành nghiệp vụ bán trên
thị trường mở.
+ Nghiệp vụ thị trường mở được hoàn thành nhanh chóng mà không
vướng phải những chậm trễ về hành chính và do đó có thể gây tác động tức thì
đến lượng cung tiền tệ.
+ Nghiệp vụ thị trường mở tác động thông qua cơ chế thị trường nên các

đối tượng chịu sự tác động thường khó chống đỡ hoặc đảo ngược chiều hướng
điều chỉnh của NHTW. Mặc dù nghiệp vụ thị trường mở được thực hiện bắt
buộc mua hoặc bán theo mức giá do NTW ấn định nhưng NHTW có thể thực
hiện được yêu cầu của mình bằng việc điều chỉnh giá sao cho nó trở nên hấp
dẫn đối tác.
Nhờ những ưu điểm nêu trên mà nghiệp vụ thị trường mở được coi là
công cụ hữu hiệu nhất trong các công cụ của chính sách tiền tệ. Tuy nhiên,
việc thực hiện công cụ này đòi hỏi sự phát triển của thị trường tài chính thứ
cấp nói chung và thị trường tiền tệ nói riêng. Ngoài ra, NHTW phải có khả
năng dự đoán và kiểm soát sự biến động của lượng vốn khả dụng trong hệ
thống ngân hàng.

SV: Đoàn Anh Tuấn

13


Tiểu luận lý thuyết tiền tệ
Chương 2
Tình hình sử dụng các công cụ của chính sách tiền tệ
trong điều kiện nền kinh tế thị trường ở
Việt Nam hiện nay
2.1. Tình hình sử dụng các công cụ của chính sách tiền tệ ở Việt
Nam hiện nay.
2.1.1. Thực trạng của việc sử dụng các công cụ trực tiếp.
2.1.1.1. Tình hình sử dụng công cụ lãi suất.
Lãi suất do ngân hàng Nhà nước (NHNN) quy định có vai trò hết sức
hạn chế trong khoảng từ 1976 - 1985. Ngay từ 1986 - 1990, Việt Nam đã thực
hiện công cuộc đổi mới thì vai trò của lãi suất cũng còn rất lu mờ. Nét chung
nhất lúc này là cơ chế đa lãi suất, tách rời tín hiệu thị trường. Lãi suất và lạm

phát hầu như không có quan hệ gì với nhau trong nhiều năm.
Từ cuối năm 1995 có sự thay đổi trong chính sách lãi suất, bắt đầu từ
Quyết định số 318/QĐ - NH1 ngày 28/12/1995 của Thống đốc NHNN và một
loạt các quyết định điều chỉnh lãi suất được ban hành sau đó: lãi suất trần trở
thành công cụ điều hành chính sách tiền tệ, cơ chế đa lãi suất được thu hẹp.
Quyết định này cũng đưa ra một quy định gây nhiều tranh cãi và tỷ lệ chênh
lệch giữa lãi suất huy động vốn với lãi duất cho vay không quá 0,35%/tháng,
được cho là mang đậm dấu ấn của cơ chế quản lý tập trung bao cấp.
Từ năm 1996 - 1999, lãi suất được điều chỉnh giảm thấp hơn so với thời
kỳ trước nhưng vẫn còn nhiều vấn đề, trong đó có việc áp đặt khung lãi suất,
mức chênh lệch giữa tỷ lệ lãi suất cho vay và lãi suất huy động vốn.
Một điểm đáng chú ý khác là cơ chế lãi suất thiếu linh hoạt. Có lúc lãi
suất hầu như không đổi trong khoảng thời gian dài, mặc dù tình hình kinh tế
có nhiều yêu cầu phải thay đổi. Đến khi thay đổi, điều chỉnh liên tục như
trong các năm 1996 - 1999.
Trong năm 1996. NHNN ban hành 4 quyết định điều chỉnh lãi suất, các
ngân hàng thương mại cảm thấy hết sức lúng túng vì phải liên tục điều chỉnh
mà trên thực tế tác dụng không có là bao (vì biên độ của mỗi lần điều chỉnh
chỉ từ 0,1 - 0,2%).
Trần lãi suất trong năm 1999 được NHNN điều cỉnh liên tục, phù hợp
với chỉ số lạm phát, quan hệ cung càu vốn tín dụng tại từng thời điểm và góp

SV: Đoàn Anh Tuấn

14


Tiểu luận lý thuyết tiền tệ
phần thực hiện giải pháp kích cầu về đầu tư chính phủ thông qua cơ chế nới
lỏng lãi suất tín dụng. Có thể nói, đây là năm NHNN điều chỉnh lãi suất tín

dụng nhiều nhất từ trước đến nay, lãi suất năm 1999 luôn có xu hướng giảm
sau các lần điều chỉnh, cụ thể như sau:
+ Ngày 17/1/1999, thống đốc NHNN có Chỉ thị 01/1999/CT - NHNN 1
điều chỉnh giảm lãi suất cho vay bằng đồng Việt Nam của các NHTM quốc
doanh đối với khách hàng ở khu vực thành thị từ 1,2 - 1,25%/tháng xuống 1,1
- 1,15% ; các tổ chức tín dụng (TCTD) khác vẫn thực hiện theo mức trần
1,2%/tháng đối với cho vay ngắn hạn và 1,25%/tháng đối với cho vay trung
dài hạn.
+ Ngày 29/5/1999 do nền kinh tế đang có dấu hiệu thiểu phát, tăng
trưởng kinh tế chậm lại, sức mua giảm sút, thống đốc NHNN đã có quyết định
184/1999/QĐ - NHNN 1 về việc điều chỉnh giảm trần lãi suất cho vay bằng
đồng Việt Nam từ 1,2 - 1,25%/tháng xuống mức 1,15%/tháng áp dụng chung
cho các TCTD cho vay trên địa bàn thành thị và nông thông khác nhau đã
thống nhất một trần áp dụng chung cho các TCTD, không phân biệt quốc
doanh hay cổ phần. Đây là một bước tiến trong chính sách, tạo chủ động hơn
cho các TCTD trong việc ấn định lãi suất tiền gửi và cho vay phù hợp với điều
kiện về chi phí, cung cầu với trên từng vùng khác nhau và mức độ rủi ro của
từng khoản vay; tạo tiền đề cho việc áp dụng cơ chế điều hành chính sách lãi
suất của NHNN theo lãi suất cơ bản.
+ Đến đầu tháng 8/1999, lạm phát 7 tháng đầu năm ở mức thấp, từ
tháng 2 đến tháng 7 liên tục giảm phát, tình hình cung vượt quá cầu về vốn tín
dụng, NHNN tiếp tục điều chỉnh giảm trần lãi suất cho vay bằng đồng Việt
Nam từ 1,15%/tháng và Quỹ tín dụng nhân dân cơ sở cho vay thành viên là
1,5%/tháng.
+ Tháng 9/1999, Thống đốc NHNN có Chỉ thị 05/1999/Công ty NHNN1 điều chỉnh giảm lãi suất cho vay bằng đồng Việt Nam của các
NHTM quốc doanh đối với khách hàng ở khu vực thành thị từ 1,05%/tháng
xuống 0,95%/tháng. Đây là lần thứ 2 trong năm, NHNN tiếp tục chỉ đạo các
NHTM giảm lãi suất cho gay đối với khu vực thành thị 0,1%/tháng để thực
hiện giải pháp kích cầu về đầu tư của Chính phủ những tháng cuối năm 1999.
+ Tháng 10/1999, trước tình hình thiểu phát của các tháng đầu năm

1999, NHNN một lần nữa điều chỉnh giảm 0,2% trần lãi suất cho vay của các
TCTD đối với nền kinh tế. Như vậy, năm 1999, lãi suất tín dụng đã giảm

SV: Đoàn Anh Tuấn

15


Tiểu luận lý thuyết tiền tệ
0,35% - 0,4% so với đầu năm và đang ở mức thấp nhất trong vòng 10 năm trở
lại đây.
Sau một thời gian chuẩn bị xây dựng đề án với nhiều ý kiến, quan điểm
khác nhau, cuối cùng đến ngày 5/8/2000, theo quyết định 241/QĐ - NHNN1
của Thống đốc NHNN đã chính thức thay đổi cơ chế điều hành trần lãi suất
cho vay bằng cơ chế lãi suất cơ bản đối với cho vay bằng đồng Việt Nam và
cơ chế lãi suất thị trường có sự quản lý đối với cho vay bằng ngoại tệ.
Theo cơ chế này, các NHTM được chủ động quy định các mức lãi suất
cho vay cụ thể của mình theo biên độ xoay quanh mức lãi suất cơ bản, trên cơ
sở đó chủ động quy định các mức lãi suất tiền gửi. Trong đó, lãi suất cơ bản
được NHNN công bố trên cơ sở tham khảo mức lãi suất cho vay thương mại
đối với khách hàng tốt nhất của nhóm các TCTD được lựa chọn theo quyết
định của thống đốc NHNN trong từng thời kỳ, còn biên độ thì được công bố
hàng tháng trong trường hợp cần thiết, NHNN sẽ công bố điều chỉnh kịp thời.
Đối với lãi suất cho vay bằng USD: các TCTD sẽ ấn định mức lãi suất
cho vay theo nguyên tắc lãi suất cho vay không vượt quá lãi suất USD trên thị
trường tền tệ liên ngân hàng Singgapore (SIBOR) kỳ hạn 3 tháng đối với cho
vay ngắn hạn, kỳ hạn 6 tháng đối với cho vay trung dài hạn tại thời điểm cho
vay và biên độ do Thống đốc NHNN quy định trong từng thời kỳ.
Với cơ chế điều hành lãi suất mới này, về mặt bản chất cũng giống như
cơ chế lãi suất trần, bởi vì lãi suất nó mang tính cho vay bị khống chế bởi lãi

suất cơ bản cộng thành lãi suất hoạt động cho mình một cách dễ dàng hơn.
Tuy nhiên, trong điều kiện hiện nay khi mà Nhà nước chưa thể thả nổi lãi suất
thì việc quy định biên độ dao động là nhằm bảo đảm quản lý của Nhà nước
trước khi chuyển sang lãi suất thị trường, lúc đó việc điều hành chính sách tiền
tệ chủ yếu bằng công cụ lãi suất tái chiết khấu, nghiệp vụ thị trường mở, tỷ lệ
dự trữ bắt buộc.
Trong tất cả các tháng: 8,9,10,11 và 12/2000, lãi suất cơ bản đối với
tiền đồng Việt Nam (nội tệ) vẫn liên tục được giữ nguyên ở mức 0,75%/tháng;
các NHTM được quy định mức lãi suất cho vay cụ thể xoay quanh biên độ:
0,3% đối với cho vay ngắn hạn 0,5% đối với cho vay trung và dài hạn. Lãi
suất cho vay ngoại tệ được dựa trên cơ sở lãi suất trên thị trường ngoại tệ liên
ngân hàng Singapore kỳ hạn 3 tháng, cộng với biên độ: 1,0% đối với cho vay
ngắn hạn: 2,5% đối với cho vay trung và dài hạn.

SV: Đoàn Anh Tuấn

16


Tiểu luận lý thuyết tiền tệ
Trong các tháng cuối năm 2000, nhu cầu vốn tăng lên, sức ép tăng lãi
suất rất lớn, các NHTM cạnh tranh với nhau đồng loạt tăng lãi suất huy động
vốn lên một giới hạn nhất định, còn lãi suất cho vay thì hầu như không tăng,
mức lãi suất tiền gửi 12 tháng ở các NHTM cổ phần lên tới 0,6 0,65%/tháng, tương đương với 7,2% - 7,8%/năm, kỳ hạn 6 tháng: 0,4% 0,55%/tháng. Tiền gửi đô la Mỹ kỳ hạn 12 tháng phổ biến ở các ngân hàng là
5,5% - 6,0%/năm.
Biên độ lãi suất quá rộng, gây ra sự chênh lệch lãi suất quá lớn giữa các
đối tượng khách hàng. Các doanh nghiệp Nhà nước có quy mô lớn, được
hưởng nhiều ưu đãi, lại được Nhà nước bảo hộ, nên được các NHTM cạnh
tranh với nhau tìm mọi cách thu hút, đưa ra các mức lãi suất cho vay thấp,
thậm chí dưới 0,6%/tháng. Còn các loại hình doanh nghiệp, nhất là các doanh

nghiệp tư nhân phải vay với lãi suất cao, tới 0,75% , hoặc 0,85%/tháng. Đặc
biệt các hộ nông dân phải vay với lãi suất tới 1,0% - 1,25%/tháng, gấp 2 lần
lãi suất cho vay doanh nghiệp Nhà nước. Cơ chế lãi suất mà các NHTM thực
hiện không tạo ra sự cạnh tranh bình đẳng giữa các loại hình doanh nghiệp,
không thúc đẩy cải cách doanh nghiệp Nhà nước. Đồng thời mối quan hệ giữa
lãi suất nội tệ và ngoại tệ không hợp lý, nên tạo điều kiện cho sự chuyển dịch
từ đồng Việt Nam sang đô la Mỹ gây nên tình trạng đô la Mỹ hoá nền kinh tế.
Sang năm 2001, NHNN tiếp tục thực hiện cơ chế lãi suất cơ bản đối với
đồng nội tệ (VNĐ). Lãi suất cơ bản đã 3 lần giảm, từ 0,75%/tháng xuống
0,725%/tháng và xuống còn 0,65%/tháng, nhưng vẫn giữ nguyên biên độ
0,3%/tháng đối với cho vay ngắn hạn và 0,5% đối với cho vay trung, dài hạn,
tạo điều kiện cho các NHTM giảm lãi suất cho vay đối với khách hàng. Do đó,
trên thị trường lãi suất cho vay của NHTM thời gian qua và hiện nay phổ biến
đối với ngắn hạn là 0,6% - 0,75%/tháng, trung và dài hạn từ 0,65% 1,0%/tháng. Đồng thời, lãi suất tiền gửi và lãi suất huy động vốn cũng giảm từ
0,05% - 0,1%/tháng mỗi kỳ hạn. Mức lãi suất này phổ biến trong thời gian
qua và hiện nay đối với không kỳ hạn là 0,5%/tháng; kỳ hạn 3 tháng 0,35 0,4%; kỳ hạn 6 tháng: 0,4 - 0,5%/tháng vào 0,55 - 0,6%/tháng. Các mức lãi
suất cho vay, huy động vốn có sự chênh lệch nhỏ giữa các khối ngân hàng
nước ngoài và NHTM quốc doanh có thấp hơn, các NHTM cổ phần có mức
cao hơn.
Đối với lãi suất ngoại tệ: trong những tháng đầu năm 2001, NHNN tiếp
tục điều hành lãi suất cho vay bằng USD dựa trên cơ sở lãi suất SIBOR 3

SV: Đoàn Anh Tuấn

17


Tiểu luận lý thuyết tiền tệ
tháng cộng 1%/năm đối với cho vay trung dài hạn là lãi suất SIBOR 6 tháng
cộng 2,5%/năm. Ngày 29/5/2001, Thống đốc NHNN đã ra Quyết định số 718

về việc thay đổi cơ chế điều hành lãi suất cho vay bằng đô la Mỹ. Theo đó,
các TCTD được quyền chủ động ấn định lãi suất cho vay bằng đô la Mỹ trên
cơ sở lãi suất thị trường quốc tế và cung cầu vốn tín dụng bằng ngoại tệ trong
nước. Đây là một bước đi tự tin, táo bạo và sáng suốt, đặt tiền đề hết sức quan
trọng cho quá trình tự do hoá lãi suất ở Việt Nam.
Theo quyết định số: 546/2002/QĐ-NHNN, ngày 30/5/2002 của thống
đốc NHNN, kể từ ngày 1/6/2002 chính thức thực hiện cơ chế lãi suất thoả
thuận bằng đồng Việt Nam của các tổ chức tín dụng.
Theo quyết định này, các TCTD được quyền chủ động xác định lãi suất
cho vay nội tệ trên cơ sở cung cầu vốn và mức độ tín nhiệm đối với khách
hàng. Tuy nhiên, hàng tháng NHNN vẫn tiếp tục công bố mức lãi suất cơ bản
trên cơ sở tham khảo mức lãi suất cho vay thương mại đối với khách hàng tốt
nhất của nhóm các TCTD được lựa chọn, để các TCTD tham khảo và định
hướng lãi suất thị trường. Đồng thời NHNN chủ động áp dụng các biện pháp
để kiểm soát sự biến động lãi suất thị trường, đảm bảo yêu cầu và mục tiêu
của chính sách tiền tệ trong từng thời kỳ.
Ngay từ đầu năm 2002, lãi suất huy động vốn và lãi suất cho vay của
các TCTD đã liên tục tăng cao, bỏ xa lãi suất cơ bản của NHNN. Lãi suất cho
vay các khách hàng tốt nhất của nhóm các TCTD được lựa chọn đã tăng lên
tới ,62% và 0,65%/tháng. Lãi suất huy động vốn cao nhất cũng lên tới 0,60% 0,65%/tháng. Trong khi lãi suất cơ bản của NHNN từ tháng 11/2001 đến nay
vẫn giữ nguyên là 0,60%/tháng, nó trở nên không còn ý nghĩa với các tổ chức
tín dụng. Các NHTM, các TCTD khác, đông đảo các doanh nghiệp và khách
hàng của các NHTM rất phấn khởi đón chờ cơ chế lãi suất mới ban hàng.
Theo cơ chế lãi suất mới ban hành này thì các TCTD được quyền chủ động
hoàn toàn, linh hoạt đưa ra các mức lãi suất tiền gửi và lãi suất cho vay của
mình, cả nội tệ và ngoại tệ (lãi suất ngoại tệ đã được thực hiện theo cơ chế
thoả thuận từ tháng 6/2001, giờ đây NHNN chỉ quy định lãi suất tiền gửi USD
đối với các pháp nhân).
2.1.1.2. Tình hình sử dụng công cụ hạn mức tín dụng.
Ngânhàng Nhà nước Việt Nam bắt đầy sử dụng hạn mức tín dụng như

công cụ của chính sách tiền tệ từ tháng 6/1994. Đối tượng áp dụng ban đầu là

SV: Đoàn Anh Tuấn

18


Tiểu luận lý thuyết tiền tệ
4 ngân hàng trung thương mại quốc doanh, chiếm đến 90% tổng dư nợ cho
vay của cả hệ thống các tổ chức. Bước đầu hạn mức này đã khống chế được
mức tăng dư nợ ngắn hạn là 24% so với năm 1993. Tuy nhiên, đến năm 1995
hạn chế của công cụ này thể hiện rõ nét khi mức tăng nợ tín dụng thực tế vượt
hạn mức tín dụng cho phép tới 1,66 lần, năm 1996 vượt tới 2 lần. Sang đến
năm 1997 và 1998, tình hình lại biến chuyển ngược lại, hạn mức tín dụng thừa
ra so với khả năng hấp thụ vốn của nền kinh tế. Công cụ hạn mức tín dụng trở
nên không có hiệu quả một phần vì bản thân công cụ này đã mang tính chất
hành chính và thiếu linh hoạt, nhưng hạn chế chủ yếu của nó là xuất phát từ sự
thiếu căn cứ trong xác định hạn mức tín dụng và sự lỏng lẻo của các chế tài
trong việc quản lý hạn mức này.
Việc áp dụng công cụ hạn mức tín dụng từ năm 1994 đến 1997 đã góp
phần kiểm soát mức độ gia tăng tổng phương tiện thanh toán, góp phần kiềm
chế lạm phát. Tuy nhiên, hạn mức tín dụng là công cụ điều hành mang tính
trực tiếp, hạn mức tín dụng chỉ phân bổ đối với một số các NHTM nên phần
nào hạn chế tính công bằng trong cạnh tranh. Nhất là trong các năm từ 1998
đến nay, trong điều kiện nhu cầu vốn cho đầu tư phát triển ở Việt Nam rất lớn,
lạm phát có xu hướng giảm thấp, việc áp dụng công cụ này phần nào ảnh
hưởng đến việc đáp ứng vốn cho nền kinh tế. Do đó, từ Quý II năm 1998,
NHNN đã quyết định không sử dụng công cụ hạn mức tín dụng như một công
cụ thường xuyên trong điều hành chính sách tiền tệ mà chỉ dùng đến hạn mức
tín dụng khi cần phải hạn chế sự gia tăng tín dụng nhanh.

2.1.1.3. Tình hình sử dụng công cụ phát hành trái phiếu.
Năm 1991, trái phiếu Chính phủ ra đời để đáp ứng nhu cầu chi tiêu của
chính phủ (không thông qua kênh NHTW phát hành tiền nữa); đến 1994, khi
trái phiếu kho bạc, tín phiếu kho bạc và trái phiếu công trình được phép phát
hành rộng rãi thì thị trường trái phiếu Chính phủ mới tương đối được mở rộng.
Trước năm 1995, trái phiếu Chính phủ phát hành trực tiếp đến công chúng tại
các chi nhánh kho bạc nên khối lượng trái phiếu nhỏ: 17 tỷ đồng (trong cả giai
đoạn từ 1991 - 1995). Từ 6/1995, bắt đầu phát hành qua NHNN, lượng trái
phiếu đã dồi dào hơn: tuy nhiên, do lãi suất chỉ đạo không sát với thực tế,
đồng thời cũng không có thị trường thứ cấp cho công cụ này, nên số lượng trái
phiếu hiện đang lưu hành có giá trị không lớn như số lượng dự kiến phát hành.
Theo quy chế lưu hành trái phiếu Chính phủ được ban hành kèm theo Nghị

SV: Đoàn Anh Tuấn

19


Tiểu luận lý thuyết tiền tệ
định 01/2000/QĐ - CP ngày 13/01/2000 của Chính phủ được phát hành qua
các kênh như: đấu thầu qua NHNN (đối với tín phiếu kho bạc); phát hành
thông qua thị trường chứng khoán, bán lẻ qua hệ thống Kho bạc Nhà nước, đại
lý phát hành và bảo hành phát hành (đối với trái phiếu kho bạc và tín phiếu
đầu tư). Trái phiếu Chính phủ được nắm giữa chủ yếu bởi các NHTM quốc
doanh và một số ít NHTM cổ phần, chủ yếu là giải quyết lượng vốn tồn đọng:
do đó, khả năng phát triển thị trường thứ cấp là rất yếu. Hiện nay, khối lượng
trái phiếu Chính phủ đang còn giá trị lưu hành chỉ đạt khoảng 4000 tỷ đồng.
2.1.2. Thực trạng của việc sử dụng các công cụ gián tiếp ở Việt Nam.
2.1.2.1. Tình hình sử dụng công cụ dự trữ bắt buộc.
Khi hệ thống ngân hàng hai cấp được hình thành, Điều 45 Pháp lệnh

NHNN ghi. "NHNN quy định tỷ lệ dự trữ bắt buộc ít nhất ở mức 10% và
nhiều nhất ở mức 35% trên toàn bộ tiền gửi của các tổ chức tín dụng. Trong
trường hợp cần thiết, Hội đồng quản trị NHNN quyết định tăng tỷ lệ dự trữ
trên 35% và NHNN trả lãi cho mức tăng đó". Triển khai dự trữ bắt buộc theo
Pháp lệnh, năm 1991, NHNN ban hành Quyết định 22/QĐ ngày 2/3/1991, tiếp
theo là Quyết định số 108/QĐ NH5 ngày 9/6/1992 và đến năm 1995 trong sự
đổi mới của chính sách lãi suất theo hướng tự do hoá, NHNN ban hành Quyết
định 260/QĐ NH1 ngày 19/9/1995 nhằm nâng cao một bước hiệu quả sử dụng
công cụ dự trữ bắt buộc trong điều hành chính sách tiền tệ.
Những kinh nghiệm có được ở giai đoạn đầu về việc thực hiện dự trữ
bắt buộc theo Pháp lệnh là cơ sở chứng thực quan trọng để NHNN đổi mới
quy chế dự trữ bắt buộc theo Luật NHNN được Quốc hội ban hành ngày
12/12/1997. Nhìn chung, chế độ dự trữ bắt buộc kể từ khi có luật NHNN có
những đặc điểm sau (thể hiện ở các QĐ 396/1997 có hiệu lực từ 1/1/1998; QĐ
51 ngày 10/2/1999; QĐ5 ngày 16/2/1999...)
- Toàn bộ số tiền gửi dự trữ bắt buộc đều phải gửi vào NHNN. Tiền tính
dự trữ bắt buộc bao gồm cả tiền nội tệ và tiền gửi ngoại tệ.
- Tiền gửi có kỳ hạn trên 12 tháng áp dụng tỷ lệ dự trữ bắt buộc là 0%.
Tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn dưới 12 tháng cùng áp dụng thống nhất
chung một tỷ lệ dự trữ bắt buộc.
- Tỷ lệ dự trữ bắt buộc áp dụng có phân biệt cho các TCTD ở khu vực
thành thị và khu vực nông thôn thì ưu đãi hơn.
- So với trước, mức trần tỷ lệ dự trữ bắt buộc có hạn thấp hơn, tối đa là 20%.

SV: Đoàn Anh Tuấn

20


Tiểu luận lý thuyết tiền tệ

Nếu so sánh các lần tăng giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc với các mức lạm
phát và lãi suất qua các năm ta thấy, thời kỳ có lạm phát cao hay lãi suất cao
cũng là lúc tỷ lệ dự trữ bắt buộc được quy định ở mức cao, điều này cho thấy
đã có sự phối hợp vận dụng công cụ tỷ lệ dự trữ bắt buộc với các công cụ khác
của chính sách tiền tệ trong điều hành kinh tế vĩ mô của Nhà nước. Điều này
rất dễ thấy trong diễn biến của tỷ lệ dự trữ bắt buộc trong năm 1999, đây là
năm chính phủ thực hiện kích cầu bằng việc nới lỏng chính sách tiền tệ,
NHNN đã liên tục giảm dần tỷ lệ dữ trữ bắt buộc. Tỷ lệ dữ trữ bắt buộc áp
dụng từ 5/7/1999 đối với tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn dưới 12 tháng
các TCTD từ 7% xuống còn 5% (giảm 2% so với ngày 16/2/1999) và 1%
(giảm 4% so với ngày 16/2/1999) đối với Ngân hàng cổ phần nông thôn, Quỹ
tín dụng nhân dân, riêng ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn giảm
xuống mức 3%.
Hiện nay, các mức tỷ lệ dự trữ bắt buộc bằng nội tệ được điều hành
giảm phù hợp với diễn biến tiền tệ và mục tiêu điều hành chính sách tiền tệ,
quản lý ngoại hối của ngân hàng Nhà nước. Việc nâng cao tỷ lệ dự trữ bắt
buộc bằng ngoại tệ từ 8% lên 15%; đồng thời việc giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc
bằng VNĐ từ 5% xuống 3% (riêng ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông
thôn từ 3% xuống 2%) đã có tác động hỗ trợ rất lớn trong việc điều hành lãi
suất và tỷ giá trong thời gian qua, giúp cho lãi suất VNĐ có xu thế có lợi hơn
lãi suất USD, hạn chế được phần nào hiện tượng USD hoá trong tài sản có của
hệ thống ngân hàng, một tình trạng mà trong dư luận thời gian qua hết sức
quan tâm.
Tuy đã có nhiều đổi mới, cơ chế điều hành dự trữ bắt buộc hiện hành đã
bộc lộ những yếu điểm cần được hoàn thiện để góp phần nâng cao hiệu quả
chính sách tiền tệ.
- Theo thông lệ ở hầu hết các nước dự trữ bắt buộc gửi tại NHTW là
không được hưởng lãi, nhưng đối ứng đại bộ phận các khoản tiền không kỳ
hạn tại các TCTD đều không trải lãi, nên không gây áp lực làm tăng chi phí
của các TCTD. Còn ở Việt Nam, các TCTD vẫn áp dụng trả lãi cho các loại

tiền gửi không kỳ hạn huy động được; điều này dẫn đến thực trạng là không
những một phần vốn tín dụng của các TCTD bị đóng băng tại NHNN mà còn
làm cho chi phí kinh doanh của các tổ chức này tăng lên do phải gánh vác và
bù đắp cho khoản vốn kỳ gửi tại NHNN không phát sinh lợi nhuận.

SV: Đoàn Anh Tuấn

21


Tiểu luận lý thuyết tiền tệ
- Theo kinh nghiệm của các nước phát triển, quá trình vận dụng công cụ
dự trữ bắt buộc phải có sự gắn kết và hỗ trợ đắc lực của công cụ thị trường mở
thì mới đạt hiệu quả cao trong điều hành chính sách tiền tệ. Kể từ khi chưa có
công cụ thị trường mở cho đến khi thị trường mở ở nước ta ra đời (12/7/2000),
do mới đi vào hoạt động nên NHNN vẫn chưa phối hợp được hai công cụ này.
Do đó, NHNN phải thường xuyên thay đổi dự trữ bắt buộc để điều chỉnh cung
cầu tiền tệ và tín dụng trên thị trường (như sự điều chỉnh liên tục trong năm
1999 và những tháng cuối năm 2000 đối với đồng ngoại tệ, từ 5% lên 8%
tháng 10/2000 và 12% tháng 12/2000). Một khi có sự thay đổi dồn dập về dự
trữ bắt buộc, các TCTD không thể nào hoạch định một cách chắc chắn về nhu
cầu vốn khả dụng, từ đó gây ra những bất ổn định trong hoạt động kinh doanh
của các TCTD.
2.1.2.2. Tình hình sử dụng công cụ tái cấp vốn.
Công cụ tái cấp vốn đã được từng bước đổi mới theo hướng nâng cao
hiệu quả điều tiết tiền tệ của công cụ này, tỷ trọng tái cấp vốn theo hình thức
thế chấp các chứng từ có giá tăng dần, tỷ trọng tái cấp vốn theo mục tiêu chỉ
định ngày càng giảm dần. Trên thực tế, bên cạnh 2 hình thức tái cấp vốn chủ
yếu ban đầu từ cho vay thế chấp chứng từ và cho vay theo đối tượng chỉ định,
NHNN đã thực hiện cho vay thanh toán bù trừ, một hình thứ tái cấp vốn ngắn

hạn đối với các NHTM để bù đắp thiếu hụt thanh toán tạm thời. Riêng đối với
hình thức cho vay thế chấp chứng từ, chứng từ thế chấp cũng được từng bước
mở rộng theo quyết định số 285/QĐ - NH14 ngày 10/11/1994 của Thống đốc
Ngân hàng Nhà nước thì ban đầu chứng từ thế chấp bao gồm tín phiếu kho bạc
chưa đến hạn thanh toán, khế ước cho gay ngắn hạn. Đến năm 1997, để phù
hợp yêu cầu thực tế, NHNN bổ sung hình thức cho vay thế chấp bằng ngoại tệ
trên tài khoản tiền gửi của tổ chức tín dụng tại NHNN.
Có thể thấy rằng cùng với các công cụ khác của chính sách tiền tệ, công
cụ tái cấp vốn đã được sửa đổi bao gồm các hình thức tái cấp vốn theo quy
định của Luật ngân hàng Nhà nước như: cho gay lãi theo hồ sơ tín dụng, chiết
khấu, tái chiết khấu các giấy tờ có giá ngắn hạn khác, cho vay có bảo đảm
bằng cầm cố các giấy tờ có giá ngắn hạn khác.
Đặc biệt, quy định về lãi suất tái cấp vốn cũng được từng bước đổi mới
phù hợp với hoàn cảnh trực tiễn. Từ năm 1994 đến đầu năm 1997, lãi suất tái
cấp vốn được quy định theo tỷ lệ phần trăm trên lãi suất cho vay áp dụng đối

SV: Đoàn Anh Tuấn

22


Tiểu luận lý thuyết tiền tệ
với dự tán cho vay của tổ chức tín dụng (bằng 60% đến 100% lãi suất cho gay
ghi trên khế ước). Chính vì vậy mà lãi suất tái cấp vốn mang tính bị động, lãi
suất tái cấp vốn còn có sự phân biệt giữa các ngân hàng.
Kể từ 3/1997, cùng với việc hoàn thiện cơ chế lãi suất, lãi suất tái cấp
vốn đã được xác định mức cụ thể phù hợp với thông lệ quốc tế, đồng thời cung
cấp tín hiệu về mục tiêu chính sách tiền tệ (nới lỏng hay thắt chặt). Tái cấp
vốn đã thực sự trở thành công cụ tiền tệ được NHNN quan tâm trong việc điều
tiết cung ứng tiền. Cứ mỗi lần thay đổi lãi suất trần thì lập tức NHNN cũng

điều chỉnh lãi suất tái cấp vốn một cách tương ứng. Ngày 29/05/1999, Thống
đốc NHNN ban hành quyết định 190/1999/QĐ-NHNN về điều chỉnh trần lãi
suất tái cấp vốn của NHNN đối với các tổ chức tín dụng từ 1%/tháng xuống
thốc nhất một mức là 0,85%/tháng nhằm khuyến khích các NHTM vay vốn từ
NHNN để đầu tư mở rộng tín dụng góp phần tăng trưởng kinh tế. Kể từ năm
1999, lãi suất tái cấp vốn đã được điều chỉnh linh hoạt, phù hợp với diễn biến
cung cầu vốn trên thị trường và phù hợp với mục tiêu điều hành chính sách
tiền tệ.
Từ khi NHNN chính thức chuyển sang cơ chế điều hành lãi suất cơ bản,
lãi suất cho vay tái cấp vốn của NHNN được điều chỉnh từ 0,4%/tháng (từ
1/8/2000), lên 0,5%/tháng (từ 1/11/2000); và lãi suất tái chiết khấu tăng từ
0,40% lên 0,45%/tháng.
Để hỗ trợ cho các công cụ khác, và thực hiện việc nới lỏng chính sách
tiền tệ, trong thời gian qua NHNN đã liên tục hạ lãi suất tái chiết khấu và lãi
sút tái cấp vốn. Lãi suất tái cấp vốn giảm từ 0,5% xuống còn 0,4%/tháng; lãi
suất tái chiết khấu giảm từ 0,45%. Đây cũng là một giải pháp để thực hiện chủ
trương kích cầu của chính phủ và là tín hiệu của ngân hàng Nhà nước phát ra
nhằm tác động tới xu thế hình thức cho vay có đảm bảo bằng cầm cố tín phiếu
đảm bảo bằng cầm cố tín phiếu kho bạc, tín phiếu ngân hàng Nhà nước và các
giấy tờ có giá ngắn hạn khác, nhằm cung ứng thêm vốn ngắn hạn và phương
tiện thanh toán cho các NHTM, thay cho việc thế chấp chứng từ, thay cho việc
thế chấp chứng từ, thế chấp hồ sơ tín dụng và cho vay chỉ định trước đây. Song
trong thực tế, mới chỉ có các NHTM quốc doanh được vay, còn các NHTM cổ
phần và chi nhánh ngân hàng nước ngoài vẫn đứng ngoài cuộc.
Nhìn chung, công cụ này vẫn còn có một số hạn chế nhất định: tái cấp
vốn thực hiện chủ yếu đối với các ngân hàng thương mại quốc doanh theo
hình thức chỉ định, việc tiếp cận của các NHTM khác với kênh tái cấp vốn từ

SV: Đoàn Anh Tuấn


23


Tiểu luận lý thuyết tiền tệ
ngân hàng Nhà nước còn hạn chế vì các đơn vị này thường không đủ điều kiện
tham gia tái cấp vốn, lãi suất tái cấp vốn chưa thực sự phát huy hiệu quả điều
tiết thị trường, kích thích tăng hoặc giảm nhu cầu tiền tệ.
2.1.2.3. Tình hình sử dụng công cụ thị trường mở.
Thị trường mở ở nước ta chính thức hoạt động từ ngày 12/7/2000. Cho
đến nay, nghiệp vụ thị trường mở đã đi vào hoạt động ổn định, đạt được mục
tiêu đề ra của việc sử dụng một công cụ gián tiếp trong điều hành chính sách
tiền tệ theo thông lệ quốc tế. Các giao dịch trên thị trường mở đã có tác động
nhất định tới vốn khả năng của các TCTD và đã góp phần thực hiện mục tiêu
của chính sách tiền tệ, thúc đẩy chu chuyển vốn trong nền kinh tế, có tác động
nhất định đến thị trường chứng khoán. Tuy chưa có kinh nghiệm thực tiễn
nhưng các quy định về hoạt động thị trường đã ban hành trong thời gian qua là
phù hợp với các tổ chức tín dụng, với các tổ chức tín dụng, với điều kiện hiện
nay và sát với thông lệ quốc tế. Ban điều hành nghiệp vụ thị trường mở của
NHNN chỉ đạo bài bản và sát sao tới các hoạt động của thị trường.
Từ khi bắt đầu giao dịch đến 31/12/2000, cứ 10 ngày NHNN tiến hành
một phiên giao dịch trên thị trường mở. Trong tháng 8/2000, do khối lượng
vốn khả dụng của hệ thống ngân hàng là dư thừa nên NHNN bán ra một lượng
tín phiếu là 550 tỷ đồng (khối lượng chào bán trong tháng được mua hế toàn
bộ với mức lãi suất từ 4% đến 5,35%). Từ tháng 9 đến cuối tháng 12/2000, do
có sự hạn chế của NHNN ở cửa sổ chiết khấu (có thể đây là hình thức hỗ trợ
cho sự vận hành nghiệp vụ thị trường mở mới ra đời) và nhu cầu tín dụng
VNĐ tăng nhanh (vay ngoại tệ chịu sự rủi ro lớn vì tỷ giá chịu sức ép tăng
cao) trong khi huy động tiền ngoại tệ chịu sự rủi ro lớn vì tỷ giá chịu sức ép
tăng cao) trong khi huy động tiền gửi tăng chậm (có sự chuyển dịch cơ cấu
huy động giữa nội tệ và ngoại tệ do lãi suất huy động ngoại tệ tăng) dẫn đến

khan hiếm vốn khả dụng trong hệ thống ngân hàng, NHNN đã mua vào giấy
tờ có giá trong 14 phiên liên tục với doanh số 1353,5 tỷ.
Từ 1/1/2001, NHNN thực hiện giao dịch định kỳ 7 ngày/lần.
Từ đầu năm 2001 đến 15/2 lượng vốn khả dụng tiếp tục thiếu hụt do
nhu cầu tiền mặt tăng (trong đó có nguyên nhân đây là thời gian cuối năm âm
lịch), NHNN tiếp tục mua vào giấy tờ có giá, chủ yếu là mua kỳ hạn do tính
đến yếu tố lượng vốn khả dụng có thể tăng lên sau dịp tết nguyên đán.

SV: Đoàn Anh Tuấn

24


Tiểu luận lý thuyết tiền tệ
Từ 21/2 đến 14/3, lượng vốn khả năng có biểu hiện dư thừa; để rút bớt
phương tiện thanh toán khỏi hệ thống ngân hàng, NHNN thực hiện bán hẳn
lượng giấy tờ có giá với giá trị là 470 tỷ VNĐ.
Từ 21/3 đến cuối tháng 4, do nhu cầu vốn khả dụng tăng, NHNN tổ
chức các phiên giao dịch thị trường mở với mục tiêu cung ứng thêm cho hệ
thống (có phiên giao dịch ngày 11/4 do lỗi từ phía các TCTD bỏ thấy không
hợp lệ, nên không tổ chức nào trúng thầu, mặc dù vẫn có nhu cầu về vốn khả
dụng).
Hoạt động của nghiệp vụ thị trường mở đã bộ lộ một số tồn tại, hạn chế.
Khó khăn nhất về nghiệp vụ thị trường mở, theo ông Nguyễn Đồng Tiến, vụ
trưởng Vụ chính sách tiền tệ, là số lượng thành viên còn rất hạn chế. Số thành
viên tham gia chủ yếu là các ngân hàng thương mại quốc doanh. Tại các phiên
giao dịch, mới chỉ có 1-3 thành viên tham gia, chiếm 5-15% trong tổng số
thành viên và chiếm tỷ lệ rất nhỏ trong tổng số các TCTD. Trong số 20 thành
viên đó thì chủ yếu là 4 NHTM quốc doanh và trên thực tế, các NHTM quốc
doanh nắm giữ hơn 70% lượng tín phiếu kho bạc, tín phiếu NHNN (hai hàng

hoá chính thức được giao dịch trên thị trường mở hiện nay). Thậm chí các
ngân hàng liên doanh hoặc chi nhánh ngân hàng nước ngoài chưa tham gia,
Mức giao dịch bình quân khoảng 100 tỷ đồng chứng tỏ doanh số mua bán còn
hạn chế.
Về mặt khách quan do hàng hoá của thị trường mở là các loại tín phiếu
ngắn hạn chỉ tập trung một số các NHTM quốc doanh, cho nên chưa thu hút
được nhiều các tổ chức tín dụng tham gia nghiệp vụ thị trường mở. Vì vậy,
người ta cho rằng, đây chỉ là thị trường của NHTM quốc doanh.
Các phiên đấu thầu mua vào và bán ra các loại tín phiếu các loại còn
thời hạn ngắn có tính cạnh tranh cao cả trên thị trường sơ cấp và thị trường mở
nên các TCTD tham gia nghiệp vụ thị trường mở nên các TCTD nhỏ không đủ
điều kiện cạnh tranh với các TCTD có quy mô lớn; vì thế thị trường chưa thật
sôi động, nếu không nói là buôn lẻ.
Các thị trường khác của ngành ngân hàng như: thị trường liên ngân
hàng, thị trường mua bán lại tín phiếu giữa các TCTD với khách hàng chưa
phát triển, thị trường đấu thầu tín phiếu kho bạc hoạt động chưa ổn định và
chưa thu hút được đông đảo các TCTD tham gia, cho nên cũng ảnh hưởng tới
hoạt động thị trường mở.

SV: Đoàn Anh Tuấn

25


×