Tải bản đầy đủ (.docx) (84 trang)

Thực trạng sử dụng công cụ chính sách tiền tệ tại việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (641.6 KB, 84 trang )

Nhóm 3 – NHTW
[Công cụ chính sách tiền tệ 2000-2010]
______________________________________________________________________

Trường Đại học Kinh tế Quốc dân

Thực trạng sử dụng
CÔNG CỤ CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ
tại Việt Nam giai đoạn 2000-2010
Nhóm 3 – Nghiệp vụ NHTW

STT

STT
điểm danh

Họ và
tên

Ngày
sinh

Mã số
SV

[Type the author name]
[Pick the date]

NỘI DUNG CHÍNH
1



Nhóm 3 – NHTW
[Công cụ chính sách tiền tệ 2000-2010]
______________________________________________________________________

2


Nhóm 3 – NHTW
Tổng quan về công cụ CSTT
[Công cụ chính sách tiền tệ 2000-2010]
______________________________________________________________________

CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ CÔNG CỤ CỦA CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ.
Các công cụ của chính sách tiền tệ:
Công cụ chính sách tièn tệ là các biện pháp, hoạt động của Ngân hàng trung
ương nhằm thực hiện các chính sách kinh tế vĩ mô hướng tới các mục tiêu: ổn định giá
trị đồng tiền, tạo công ăn việc làm, tăng trưởng kinh tế, bao gồm các công cụ tác động
trực tiếp hoặc gián tiếp tới khối lượng tiền trong lưu thông và lãi suất thị trường.
1. Các công cụ gián tiếp:
Đây là nhóm công cụ tác động trước hết vào các mục tiêu hoạt động của chính
sách tiền tệ, thông qua cơ chế thị trường mà tác động này được truyền đến các mục tiêu
trung gian là khối lượng tiền cung ứng và lãi suất. Nhóm công cụ này gồm có:
1.1 Nghiệp vụ thị trường mở (Open market operations)
Nghiệp vụ thị trường mở là nghiệp vụ trong đó NHTW sử dụng các nghiệp vụ
mua, bán chứng khoán trên thị trường tiền tệ mở (là thị trường tiền tệ mà ngoài các
ngân hàng còn có sự tham gia của chính phủ, các tổ chức tài chính kinh tế phi ngân
hàng) để thay đổi cơ số tiền (MB), từ đó tác động tới lượng tiền cung ứng và mức lãi
suất trên thị trường.
 Cơ chế tác động: Các hoạt động của NHTW trên thị trường mở sẽ gây ra những tác


động gián tiếp tới lượng tiền cung ứng và lãi suất thị trường theo 3 cơ chế sau:
1.

Khi NHTW mua (hoặc bán) các chứng khoán, sẽ làm tăng (hoặc giảm)

ngay lập tức dự trữ của các ngân hàng trung gian (dù người bán là các ngân hàng trung
gian hay khách hàng của các ngân hàng này). Khả năng tạo tiền gửi thông qua cung ứng
tín dụng của hệ thống ngân hàng vì thế bị ảnh hưởng, dẫn đến làm tăng (hoặc giảm)
lượng tiền cung ứng.
2.

Khi vốn khả dụng của từng ngân hàng tăng (hoặc giảm) do tác động của

nghiệp vụ thị trường mở, mức cung vốn trên thị trường tiền tệ liên ngân hàng tăng lên
3


Nhóm 3 – NHTW
Tổng quan về công cụ CSTT
[Công cụ chính sách tiền tệ 2000-2010]
______________________________________________________________________
(hoặc giảm xuống). Trong điều kiện các yếu tố liên quan không thay đổi, lãi suất thị
trường liên ngân hàng sẽ giảm xuống (hoặc tăng lên).
Ví dụ: tổng dự trữ của các ngân hàng trung gian, lãi suất ngắn hạn trên thị
trường liên ngân hàng, hoặc lãi suất tín phiếu kho bạc. Nếu các khách hàng của ngân
hàng (tức là các chủ thể kinh tế phi ngân hàng có tài khoản thanh toán tại ngân hàng)
mua hoặc bán chứng khoán với chính phủ, các khoản tiền gửi của họ tại ngân hàng sẽ
giảm xuống hoặc tăng lên, do vậy tác động giảm hoặc tăng dự trữ của ngân hàng.
3.


Nghiệp vụ thị trường mở còn ảnh hưởng đến cung cầu và do đó đến giá

cả các chứng khoán mà NHTW sử dụng trong nghiệp vụ này. Những thay đổi về giá cả
này sẽ tạo ra những thay đổi về mức sinh lời của các chứng khoán (lãi suất của chúng sẽ
bị tăng lên hoặc giảm xuống), từ đó ảnh hưởng tới lãi suất thị trường.
Chẳng hạn, khi NHTW bán chứng khoán làm cung chứng khoán tăng, giá
cả của các chứng khoán giảm xuống làm mức sinh lời (hay lãi suất) tăng lên. Điều này
buộc các ngân hàng phải tăng lãi suất tiền gửi để hạn chế tình trạng “phi trung gian
hoá”. Đồng thời, lãi suất của các chứng khoán mới phát hành cũng bị kích thích tăng
tương ứng.
 Đặc điểm của việc áp dụng công cụ:
• Các chủ thể có liên quan đến công cụ này bao gồm: các ngân hàng, các tổ chức tài

chính, các công ty và cả những người chuyên buôn bán chứng khoán - những người này
sau đó sẽ bán lại chúng cho các chủ thể trên.
• Các chứng khoán mà NHTW sử dụng trong nghiệp vụ thị trường mở thường là các
chứng khoán chính phủ, chủ yếu là tín phiếu kho bạc. Lý do là vì các chứng khoán này
có tính lỏng cao, cho nên NHTW có thể thực hiện nghiệp vụ một cách nhanh chóng và
dễ dàng. Hơn nữa, thị trường chứng khoán chính phủ có khối lượng giao dịch lớn nên
có khả năng tiếp nhận một lượng lớn nghiệp vụ của NHTW mà không làm giá trên thị
trường biến động quá mạnh, dẫn đến sụp đổ thị trường.
Ở Việt Nam, do thị trường chứng khoán chính phủ chưa phát triển nên NHNN
phát hành tín phiếu NHNN để điều tiết việc cung ứng tiền tệ. Tuy nhiên do thị trường
4


Nhóm 3 – NHTW
Tổng quan về công cụ CSTT
[Công cụ chính sách tiền tệ 2000-2010]

______________________________________________________________________
loại tín phiếu này chỉ diễn ra giữa một bên là NHNN và một bên là các NHTM nên hiệu
quả điều tiết không cao, chỉ chủ yếu tác động vào dự trữ của các NHTM.
 Phân loại: Có hai loại nghiệp vụ thị trường mở:
• Nghiệp vụ thị trường mở năng động: là nghiệp vụ thị trường mở trong đó NHTW chủ

động tiến hành nghiệp vụ nhằm tác động tới khối lượng tiền trong lưu thông theo hướng
mà ngân hàng thấy cần thiết. Chẳng hạn, NHTW thấy hoạt động arbitrage lãi suất xuất
hiện khi tồn tại sự chênh lệch lãi suất giữa các công cụ đầu tư trên thị trường tài chính,
điều này dẫn đến việc các công cụ đầu tư có mức lãi suất cao được mua nhiều hơn, còn
các công cụ đầu tư có mức lãi suất thấp được mua ít hơn, kết quả là mức lãi suất của
các công cụ đầu tư sinh lời hơn giảm xuống còn mức lãi suất của các công cụ đầu tư ít
sinh lời hơn tăng lên. Kết quả của hoạt động arbitrage lãi suất là các mức lãi suất trên
thị trường có xu hướng biến động theo nhau.
Tình trạng “phi trung gian hoá” là tình trạng trong đó người gửi tiền sẽ rút tiền
gửi ở ngân hàng để mua chứng khoán, kết quả là các khoản tiền tiết kiệm sẽ chạy thẳng
đến những người cần vốn thông qua thị trường tài chính mà không thông qua các ngân
hàng nữa.
Tổng lượng tiền cung ứng vào lưu thông không đủ để kích thích nền kinh tế phát
triển nên quyết định thực hiện nghiệp vụ thị trường mở để tăng lượng tiền đưa vào lưu
thông.


Nghiệp vụ thị trường mở thụ động: là nghiệp vụ thị trường mở được tiến hành nhằm bù
lại những chuyển động của các nhân tố ảnh hưởng một cách không có lợi đối với tổng
lượng tiền trong lưu thông. Chẳng hạn, khi tiền gửi của kho bạc và của các ngân hàng
trung gian tại NHTW được dự đoán là giảm xuống, điều này đồng nghĩa với một sự
tăng lên của tổng lượng tiền trong lưu thông, NHTW sẽ phải tiến hành bán chứng khoán
trên thị trường mở.


 Ưu nhược điểm của công cụ:
• Tiến hành nghiệp vụ thị trường mở giúp NHTW có thể kiểm soát hoàn toàn khối lượng

của nghiệp vụ thị trường mở mà không chịu ảnh hưởng của bất kỳ nhân tố nào khác.
5


Nhóm 3 – NHTW
Tổng quan về công cụ CSTT
[Công cụ chính sách tiền tệ 2000-2010]
______________________________________________________________________


Nghiệp vụ thị trường mở rất linh hoạt và chính xác. Điều này thể hiện ở chỗ dù NHTW
muốn thay đổi một mức rất nhỏ hay rất lớn của lượng cung tiền, nghiệp vụ thị trường
mở đều có thể đáp ứng được. Hơn nữa, nghiệp vụ thị trường mở có thể dễ dàng đảo
ngược lại khi có một sai lầm xảy ra trong lúc tiến hành nghiệp vụ.
Chẳng hạn NHTW nhận thấy rằng lượng chứng khoán trên thị trường mở mua
vào quá nhiều khiến cho cung tiền tăng quá nhanh, nó có thể ngay lập tức sửa chữa sai
lầm bằng cách tiến hành nghiệp vụ bán trên thị trường mở.



Nghiệp vụ thị trường mở được hoàn thành nhanh chóng mà không vướng phải những

chậm trễ về hành chính và do đó có thể gây tác động tức thì đến lượng cung tiền tệ.
• Nghiệp vụ thị trường mở tác động thông qua cơ chế thị trường nên các đối tượng chịu
sự tác động thường khó chống đỡ hoặc đảo ngược chiều hướng điều chỉnh của NHTW.
Mặc dù nghiệp vụ thị trường mở được thực hiện theo nguyên tắc tự nguyện, những nhà
kinh doanh chứng khoán không bị bắt buộc mua hoặc bán theo mức giá do NHTW ấn

định nhưng NHTW có thể thực hiện được yêu cầu của mình bằng việc điều chỉnh giá
sao cho phù hợp.
Nhờ những ưu điểm nêu trên mà nghiệp vụ thị trường mở được coi là công
cụ CSTT hữu hiệu nhất. Tuy nhiên, việc thực hiện công cụ này đòi hỏi sự phát triển của
thị trường tài chính thứ cấp nói chung và thị trường tiền tệ nói riêng. Ngoài ra, NHTW
phải có khả năng dự đoán và kiểm soát sự biến động của lượng vốn khả dụng trong hệ
thống ngân hàng.
Tại Việt nam, nghiệp vụ thị trường mở chính thức được NHNN đưa vào sử dụng
từ tháng 7 năm 2000.

1.2. Chính sách tái chiết khấu:
Chính sách tái chiết khấu bao gồm các qui định về việc cho vay của NHTW đối
với các NHTM. NHTW thường cho các NHTM vay dưới hình thức chiết khấu lại các
giấy tờ có giá ngắn hạn (chủ yếu là tín phiếu kho bạc và thương phiếu) do các NHTM
đưa đến, bởi vậy chính sách cho vay của NHTW đối với các NHTM được gọi là chính
6


Nhóm 3 – NHTW
Tổng quan về công cụ CSTT
[Công cụ chính sách tiền tệ 2000-2010]
______________________________________________________________________
sách tái chiết khấu. Các NHTM vay từ NHTW chủ yếu là nhằm giải quyết vấn đề thiếu
hụt tiền mặt tạm thời để đáp ứng nhu cầu thanh toán hoặc để bù đắp thiếu hụt trong quỹ
dự trữ bắt buộc. Những thay đổi trong chính sách tái chiết khấu của NHTW sẽ tác động
đến khối lượng vay chiết khấu (DL) của các NHTM, từ đó ảnh hưởng tới lượng tiền
cung ứng.
 Cơ chế tác động:

NHTW thông qua việc thay đổi các qui định về hạn mức tái chiết khấu, lãi suất

tái chiết khấu và các điều kiện tái chiết khấu sẽ ảnh hưởng đến các hoạt động đi vay
chiết khấu từ NHTW của các NHTM trên hai phương diện: khối lượng và giá.
Khối lượng vốn khả dụng được bổ sung từ NHTW có thể bị giới hạn hoặc nới
rộng căn cứ vào hạn mức tái chiết khấu và các điều kiện tái chiết khấu, từ đó ảnh hưởng
đến khả năng tạo tiền của hệ thống NHTM, làm cho lượng tiền cung ứng bị thay đổi.
Mặt khác, khi lượng vốn khả dụng thay đổi, nó làm cho quan hệ cung cầu vốn và do đó
lãi suất trên thị trường liên ngân hàng thay đổi.
Sự thay đổi mức lãi suất tái chiết khấu tác động trước hết vào chi phí đầu vào
của các NHTM, vì thế các ngân hàng này dần dần tăng (hoặc giảm) lãi suất cho vay, từ
đó làm giảm (hoặc tăng) nhu cầu tín dụng. Bên cạnh đó, khi lãi suất chiết khấu tăng lên
(hoặc giảm), các NHTM không thể vay NHTW một cách dễ dàng (hoặc là có thể mở
rộng khả năng vay). Điều này buộc các NHTM phải giảm bớt khả năng cung ứng tín
dụng để hồi phục dự trữ (hoặc mở rộng cho vay trong trường hợp ngược lại).
 Chức năng: chính sách chiết khấu còn được các NHTW sử dụng với hai chức năng sau:


Chức năng người cho vay cuối cùng: Trong chức năng này, chính sách chiết khấu được
NHTW sử dụng để thực hiện vai trò người cho vay cuối cùng của mình.
Thông qua công cụ này, NHTW cung cấp thêm dự trữ cho các ngân hàng đang
có nguy cơ phá sản do không có khả năng chi trả, từ đó tránh được một cuộc sụp đổ dây
chuyền trong toàn hệ thống ngân hàng. Ngoài ra, nó còn được các NHTW sử dụng để
chống lại sự sụp đổ của thị trường tài chính. Sử dụng chính sách chiết khấu để tránh các
vụ sụp đổ hệ thống ngân hàng hoặc thị trường tài chính là yêu cầu rất quan trọng để
7


Nhóm 3 – NHTW
Tổng quan về công cụ CSTT
[Công cụ chính sách tiền tệ 2000-2010]
______________________________________________________________________

thực hiện chính sách tiền tệ thành công. Bởi vì nếu để các vụ sụp đổ ngân hàng xảy ra
sẽ gây tổn hại nghiêm trọng đến nền kinh tế do nó làm giảm sút nghiêm trọng cung ứng
tiền, đồng thời cản trở khả năng các thị trường tài chính chuyển vốn tới những nơi có cơ
hội đầu tư sinh lời. Tuy nhiên điểm bất lợi của chức năng này là các ngân hàng lớn có
thể vì thế mà chấp nhận nhiều rủi ro hơn trong kinh doanh với suy nghĩ đã có NHTW
đứng đằng sau. Điều này khiến cho các NHTW phải rất thận trọng không sử dụng quá
thường xuyên chức năng này.


Chức năng thông báo: Chính sách chiết khấu còn có một chức năng khác nữa đối với
NHTW, đó là nó có thể được sử dụng để thông báo cho thị trường về ý định của NHTW
về CSTT trong tương lai.
Ví dụ: khi NHTW muốn ngăn ngừa nguy cơ lạm phát bằng một chính sách lãi
suất cao, nó sẽ nâng mức lãi suất tái chiết khấulên. Điều này cung cấp dấu hiệu về một
CSTT thắt chặt trong tương lai. Điểm bất lợi của chức năng này là nó có thể bị thị
trường giải thích sai lệch đi.
Chẳng hạn, nếu NHTW nhận thấy rằng lãi suất tái chiết khấu đang được áp dụng
quá thấp so với mức lãi suất thị trường, có thể dẫn đến việc các NHTM lạm dụng các
khoản vay từ NHTW để tăng cung tín dụng làm lượng tiền cung ứng tăng mạnh không
có lợi cho nền kinh tế, nên đã quyết định nâng lãi suất tái chiết khấu lên. Như vậy, mục
đích của việc tăng lãi suất tái chiết khấu ở đây là giảm bớt các khoản vay từ NHTW
nhằm tránh nguy cơ tăng trưởng quá nhanh của lượng tiền cung ứng. Thế nhưng, việc
tăng lãi suất tái chiết khấu của NHTW có thể bị thị trường hiểu lầm là dấu hiệu của sự
thay đổi trong CSTT của NHTW, và do vậy gây ra những phản ứng sai lệch, trái với ý
định của NHTW. Để khắc phục nhược điểm này, cách tốt nhất là NHTW đồng thời với
việc tăng hoặc giảm lãi suất tái chiết khấu, công bố công khai mục đích của mình.

 Ưu nhược điểm của công cụ:
• Các khoản cho vay của NHTW đều được đảm bảo bằng các giấy tờ có giá. Do đó các


khoản cho vay sẽ chắc chắn được thu hồi khi đến hạn.

8


Nhóm 3 – NHTW
Tổng quan về công cụ CSTT
[Công cụ chính sách tiền tệ 2000-2010]
______________________________________________________________________
Nhược điểm: tác dụng của chính sách chỉ có thể phát huy khi các NHTM có nhu
cầu vay từ NHTW. Với sự phát triển của thị trường tài chính, các NHTM có thể tìm
kiếm được các nguồn vay khác ngoài NHTW làm cho sự phụ thuộc của chúng vào
NHTW giảm đi, do đó làm giảm mức độ phát huy hiệu quả của công cụ này.


NHTW khó kiểm soát được hoàn toàn những tác động của công cụ này bởi NHTW chỉ
có thể thay đổi mức lãi suất tái chiết khấu và các điều kiện chiết khấu mà không thể bắt

các NHTM vay từ mình.
• Công cụ này cũng không dễ đảo ngược như nghiệp vụ thị trường mở.

1.3 Dự trữ bắt buộc:
Dự trữ bắt buộc là số tiền mà các NHTM buộc phải duy trì trên một tài khoản
tiền gửi tại NHTW. Nó được xác định bằng một tỷ lệ phần trăm nhất định trên tổng số
dư tiền gửi trong một khoảng thời gian nào đó. Mức dự trữ bắt buộc được qui định khác
nhau căn cứ vào thời hạn tiền gửi, vào quy mô và tính chất hoạt động của NHTM.
 Cơ chế tác động: Việc thay đổi tỷ lệ dự trữ bắt buộc và do đó mức dự trữ bắt buộc ảnh

hưởng đến lượng tiền cung ứng theo ba cách:
1- Khi NHTW quyết định tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc, bộ phận dự trữ dư thừa

trước đây của các ngân hàng chuyển thành dự trữ bắt buộc, làm giảm khả năng cho vay
của hệ thống ngân hàng.
2- Tỷ lệ dự trữ bắt buộc là một thành phần trong mẫu số của hệ số mở rộng tiền
gửi. Vì thế sự tăng lên của tỷ lệ dự trữ bắt buộc sẽ làm giảm hệ số mở rộng tiền gửi và
do đó là khả năng mở rộng tiền gửi của hệ thống ngân hàng.
3- Tỷ lệ dự trữ bắt buộc tăng lên làm giảm mức cung vốn của các NHTM trên thị
trường liên ngân hàng. Trong điều kiện nhu cầu vốn khả dụng không thay đổi, sự giảm
sút này làm tăng lãi suất liên ngân hàng, từ đó dẫn đến tăng các mức lãi suất dài hạn và
giảm khối lượng tiền cung ứng.
Quyết định giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc sẽ gây nên những ảnh hưởng ngược lại.
 Ưu nhược điểm của công cụ:
9


Nhóm 3 – NHTW
Tổng quan về công cụ CSTT
[Công cụ chính sách tiền tệ 2000-2010]
______________________________________________________________________


Lợi thế chủ yếu của công cụ dự trữ bắt buộc trong việc kiểm soát lượng tiền cung ứng
là sự thay đổi tỷ lệ dự trữ bắt buộc sẽ ảnh hưởng một cách bình đẳng đến tất cả các



ngân hàng.
Ngoài ra đây là công cụ có quyền lực ảnh hưởng rất mạnh đến lượng tiền cung ứng. Chỉ
cần một thay đổi nhỏ tỷ lệ dự trữ bắt buộc cũng sẽ dẫn đến sự thay đổi đáng kể khối




lượng tiền cung ứng.
Tuy nhiên, đây cũng chính là điều làm cho công cụ dự trữ bắt buộc thiếu linh hoạt.
NHTW rất khó có thể thực hiện được những thay đổi nhỏ trong cung ứng tiền tệ bằng



cách thay đổi dự trữ bắt buộc.
Một bất lợi khác là việc tăng dự trữ bắt buộc có thể gây nên vấn đề mất “khả năng
thanh toán ngay” đối với những ngân hàng có dự trữ vượt mức quá thấp.
Hiện nay dự trữ bắt buộc được quản lý theo nguyên tắc bình quân. Có nghĩa là
mức dự trữ yêu cầu cho một thời kỳ nào đó (thời kỳ duy trì) được xác định căn cứ vào
tỷ lệ phần trăm qui định trên số dư tiền gửi bình quân ngày trong thời kỳ trước (gọi là
thời kỳ xác định). Thời kỳ xác định và thời kỳ duy trì có thể nối tiếp nhau (Việt nam áp
dụng cách quản lý này với độ dài thời gian là một tháng), có thể trùng nhau một giai
đoạn nào đó hoặc có thể gần như trùng khớp nhau. Cách quản lý khác nhau có thể ảnh
hưởng đến hiệu quả của công cụ dự trữ bắt buộc trong một chừng mực nào đó.



Việc thay đổi liên tục dự trữ bắt buộc sẽ gây ra tình trạng không ổn định cho hoạt động
của các ngân hàng và làm cho việc quản lý khả năng thanh khoản của các ngân hàng
khó khăn và tốn kém hơn.
Chính do những nhược điểm này mà ngày nay công cụ này ít được NHTW các
nước sử dụng. Nếu sử dụng thì thường kết hợp với một vài công cụ khác để làm giảm
bớt mức độ ảnh hưởng của nó. Chẳng hạn, cùng với việc nâng tỷ lệ dự trữ bắt buộc,
NHTW tiến hành các nghiệp vụ mua vào chứng khoán trên thị trường mở hoặc nới rộng
các điều kiện vay chiết khấu nhằm giúp cho các ngân hàng có thể nhanh chóng nâng
mức dự trữ bắt buộc với chi phí thấp, tránh khỏi bị sốc.


10


Nhóm 3 – NHTW
Tổng quan về công cụ CSTT
[Công cụ chính sách tiền tệ 2000-2010]
______________________________________________________________________
1.4. Chính sách tỷ giá hối đoái:
Trong điều kiện mở cửa kinh tế, các hoạt động kinh tế đối ngoại với những luồng
hàng hoá và vốn vào ra một quốc gia có ảnh hưởng to lớn tới các biến số kinh tế vĩ mô
của quốc gia đó. Sự di chuyển của các luồng hàng hoá và vốn này luôn gắn liền với sự
di chuyển của các luồng tiền tệ của các nước khác nhau.
Với ý nghĩa là tỷ lệ trao đổi giữa đồng tiền quốc gia này với đồng tiền quốc gia
khác, tỷ giá hối đoái có ảnh hưởng quan trọng, có thể kìm hãm hoặc thúc đẩy sự di
chuyển của các luồng tiền nói trên. Chính vì vậy, việc xác lập một tỷ giá hối đoái hợp lý
nhằm khuyến khích các hoạt động kinh tế đối ngoại phát triển phục vụ cho nền kinh
tế quốc gia là một nhiệm vụ quan trọng của CSTT.
Sự can thiệp nhằm tác động tới tỷ giá hối đoái được thực hiện thông qua các hoạt
động mua vào hoặc bán ra ngoại tệ của NHTW trên thị trường ngoại hối. Mức độ can
thiệp của NHTW vào sự hình thành tỷ giá hối đoái trên thị trường phụ thuộc vào chế độ
tỷ giá hối đoái (Exchange rate regime) mà quốc gia đó áp dụng.
Có ba chế độ tỷ giá hối đoái mà các nước đã và đang áp dụng:
1-Chế độ tỷ giá cố định - A fixed (hay pegged) exchange rate regime: là chế độ
tỷ giá hối đoái, trong đó NHTW buộc phải can thiệp trên thị trường ngoại hối để duy trì
tỷ giá biến động xung quanh một mức tỷ giá cố định (gọi là tỷ giá trung tâm) trong một
biên độ hẹp đã được định trước. Như vậy, trong chế độ tỷ giá cố định, NHTW buộc phải
mua vào hay bán ra đồng nội tệ nhằm giới hạn sự biến động của tỷ giá trong biên độ đã
định.
Chế độ tỷ giá này giảm bớt rủi ro của việc chuyển đổi từ đồng tiền này sang
đồng tiền khác do tỷ giá được cố định. Tuy nhiên ngày nay nó ít được các nước sử dụng

do gây ra vấn đề phụ thuộc của CSTT vào các biến động của bên ngoài và cán cân
thanh toán không thể tự động cân bằng. Hơn nữa, để tiến hành can thiệp trên thị trường
ngoại hối đòi hỏi NHTW phải có sẵn nguồn dự trữ ngoại hối dồi dào.
2-Chế độ tỷ giá thả nổi hoàn toàn - A freely flexible (hay freely floating)
exchange rate regime: là chế độ tỷ giá hối đoái, trong đó tỷ giá được xác định hoàn toàn
11


Nhóm 3 – NHTW
Tổng quan về công cụ CSTT
[Công cụ chính sách tiền tệ 2000-2010]
______________________________________________________________________
tự do theo quy luật cung cầu trên thị trường ngoại hối mà không có bất cứ sự can thiệp
nào của NHTW. Chế độ tỷ giá này được đánh giá là giúp cho CSTT quốc gia được độc
lập, ít chịu ảnh hưởng của những biến động từ bên ngoài và cán cân thanh toán quốc
tế được tự động điều chỉnh để cân bằng. Tuy vậy, chế độ tỷ giá này lại gây ra sự biến
động thường xuyên của tỷ giá hối đoái, khiến cho các hoạt động chuyển đổi từ đồng
tiền này sang đồng tiền khác luôn hàm chứa rủi ro.
Những hạn chế của cả hai chế độ tỷ giá nêu trên đã dẫn các quốc gia tới một
chế độ tỷ giá dung hoà cả hai:
3-Chế độ tỷ giá thả nổi có điều tiết - A managed (hay contronlled) floating
exchange rate regime: là chế độ tỷ giá hối đoái, trong đó NHTW tiến hành can thiệp
trên thị trường ngoại hối nhằm ảnh hưởng lên tỷ giá, nhưng NHTW không cam kết duy
trì một tỷ giá cố định hay biên độ dao động nào xung quanh tỷ giá trung tâm. Nói cách
khác, NHTW thực hiện các nghiệp vụ mua bán ngoại tệ để điều tiết thị trường ngoại
hối, song can thiệp của NHTW không nhằm mục đích để cố định tỷ giá như đối với
chế độ tỷ giá cố định.

2. Các công cụ trực tiếp:
Công cụ trực tiếp là các công cụ tác động thẳng vào mục tiêu trung gian của

chính sách tiền tệ (hay tác dụng thẳng vào khối lượng tiền cung ứng và lãi suất). Các
công cụ này bao gồm:
2.1. Hạn mức tín dụng:
Hạn mức tín dụng là mức dư nợ tối đa mà NHTW buộc các tổ chức tín dụng phải
tuân thủ khi cấp tín dụng cho nền kinh tế. Mức dư nợ được qui định cho từng ngân hàng
căn cứ vào đặc điểm kinh doanh của từng ngân hàng (cơ cấu khách hàng, mức rủi ro),
định hướng cơ cấu kinh tế tổng thể, nhu cầu tài trợ các đối tượng chính sách và nó phải
nằm trong giới hạn của tổng dư nợ tín dụng dự tính của toàn bộ nền kinh tế trong một
khoảng thời gian nhất định.
12


Nhóm 3 – NHTW
Tổng quan về công cụ CSTT
[Công cụ chính sách tiền tệ 2000-2010]
______________________________________________________________________
Công cụ này được áp dụng phổ biến ở các nước trong thời kỳ hoạt động tài chính
được điều tiết chặt chẽ. Ví dụ trong trường hợp lạm phát cao, hạn mức tín dụng được sử
dụng nhằm khống chế trực tiếp và ngay lập tức lượng tín dụng cung ứng.
Trong điều kiện chưa áp dụng được các công cụ gián tiếp, NHNN Việt nam bắt
đầu sử dụng hạn mức tín dụng như công cụ của chính sách tiền tệ từ tháng 6/1994. Đối
tượng áp dụng ban đầu là 4 ngân hàng thương mại quốc doanh, chiếm đến 90% tổng dư
nợ cho vay của cả hệ thống các tổ chức tín dụng. Bước đầu hạn mức này đã khống
chế được mức tăng dư nợ ngắn hạn là 24% so với năm 1993. Tuy nhiên, đến năm 1995
hạn chế của công cụ này thể hiện rõ nét khi mức tăng dư nợ tín dụng thực tế vượt hạn
mức tín dụng cho phép tới 1,66 lần, năm 1996 vượt tới 2 lần. Sang đến năm 1997 và
1998, tình hình lại biến chuyển ngược lại, hạn mức tín dụng thừa ra so với khả năng hấp
thụ vốn của nền kinh tế. Công cụ hạn mức tín dụng trở nên không có hiệu quả một phần
vì bản thân công cụ này đã mang tính chất hành chính và thiếu linh hoạt, nhưng hạn
chế chủ yếu của nó là xuất phát từ sự thiếu căn cứ trong xác định hạn mức tín dụng và

sự lỏng lẻo của các chế tài trong việc quản lý hạn mức này.

2.2. Khung lãi suất:
Với những nước mà tín dụng ngân hàng là nguồn tín dụng chủ yếu của đất nước,
việc qui định giới hạn dao động của các mức lãi suất của ngân hàng bằng cách định ra
một khung lãi suất sẽ có ảnh hưởng trực tiếp tới mức lãi suất thị trường. Khung lãi suất
bao gồm mức lãi suất trần (là mức lãi suất tối đa mà các ngân hàng được phép ấn định
khi đi vay hoặc cho vay) và lãi suất sàn (là mức lãi suất tối thiểu mà các ngân hàng
được phép ấn định khi cho vay hoặc đi vay). Thông thường NHTW sẽ qui định mức lãi
suất trần đối với lãi suất cho vay và mức lãi suất sàn với lãi suất đi vay của các ngân
hàng.
Thực tế áp dụng ở hầu hết các nước đều cho thấy đây là một công cụ cứng nhắc,
dễ gây tác động xấu tới hoạt động tiết kiệm và đầu tư. Vì vậy, nó thường chỉ được sử
13


Nhóm 3 – NHTW
Tổng quan về công cụ CSTT
[Công cụ chính sách tiền tệ 2000-2010]
______________________________________________________________________
dụng trong điều kiện sự ổn định kinh tế vĩ mô chưa được thiết lập, hay các yếu tố thị
trường chưa phát triển hoàn chỉnh.

2.3. Biên độ dao động của tỷ giá mua bán ngoại tệ:
Đây cũng là một công cụ mang tính chất hành chính, qui định mức tỷ giá tối đa
và tối thiểu mà các ngân hàng được phép áp dụng khi kinh doanh ngoại hối. Do tính
chất cứng nhắc của công cụ nên bên cạnh khả năng tác động trực tiếp tới mức tỷ giá
trên thị trường nó cũng gây ra nhiều phản ứng tiêu cực của thị trường, có thể dẫn tới
những biến động không mong muốn về tỷ giá hối đoái.
Công cụ này chỉ nên dùng trong những trường hợp khẩn cấp và trong ngắn hạn,

khi mà NHTW không thể sử dụng các biện pháp mang tính thị trường như mua bán
ngoại tệ do dự trữ quốc gia về ngoại hối không đủ để can thiệp.

14


Nhóm 3 – NHTW
Giai đoạn 2000-2004
[Công cụ chính sách tiền tệ 2000-2010]
______________________________________________________________________

2.4. Chính sách quản lý ngoại hối:
Ngoại hối là khái niệm dùng để chỉ các phương tiện có giá trị được dùng để cất
trữ hoặc thanh toán giữa các quốc gia như: ngoại tệ, các phương tiện thanh toán quốc
tế ghi bằng ngoại tệ (hối phiếu, lệnh phiếu, séc v.v...), các chứng khoán ghi bằng ngoại
tệ (cổ phiếu, trái phiếu do nước ngoài phát hành), vàng, bạc, kim cương, đá quí ....
Mục đích của chính sách quản lý ngoại hối là nhằm kiểm soát chặt chẽ việc
chuyển ngoại hối ra bên ngoài nước, thu hút nhiều ngoại hối vào trong nước, quản lý
nghiêm ngặt các loại ngoại hối dự trữ như vàng, các ngoại tệ mạnh.
Tuỳ từng quốc gia mà cơ chế quản lý ngoại hối thay đổi khác nhau. Những nước
có nguồn ngoại hối dồi dào như Mỹ, Nhật, Anh, Đức... thực hiện chính sách tự do ngoại
hối, cho phép các luồng ngoại hối được tự do vào ra quốc gia với số lượng không hạn
chế, trong khi hầu hết các nước đang phát triển, do dự trữ ngoại hối có hạn, để đảm bảo
nguồn cung ngoại hối nên áp dụng chính sách quản chế ngoại hối nghiêm ngặt.
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG SỬ DỤNG CÁC CÔNG CỤ CỦA CHÍNH
SÁCH TIỀN TỆ GIAI ĐOẠN 2000- 2010.
1. Giai đoạn 2000-2004
1.1. Bối cảnh kinh tế Việt Nam giai đoạn 2000-2004
Sự ảnh hưởng của cuộc khủng khoảng tài chính năm 1997 đã gây ra những tác
động tiêu cực đến nền kinh tế Việt Nam.Tổng sản phẩm trong nước giai đoạn 19921997 thường đạt mức tăng trưởng hàng năm 8-9% đã đột ngột giảm xuống chỉ còn tăng

5,8% vào năm 1998 và tăng 4,8% vào năm 1999. Sau 3 năm, nền kinh tế Việt Nam mới
lấy lại được đà tăng trưởng với tốc độ tăng năm sau luôn luôn cao hơn năm trước (Năm
2000 tăng 6,79%; năm 2001 tăng 6,89%; năm 2002 tăng 7,08%; năm 2003 tăng 7,34%;
năm 2004 tăng 7,79% và năm 2005 ước tính tăng 8,43%). Tính ra trong 5 năm 20012005, bình quân mỗi năm tổng sản phẩm trong nước tăng 7,51%, đưa quy mô nền kinh
tế năm 2005 gấp 1,44 lần năm 2000.
15


Nhóm 3 – NHTW
Giai đoạn 2000-2004
[Công cụ chính sách tiền tệ 2000-2010]
______________________________________________________________________
Nền kinh tế Việt Nam đã trải qua hầu hết các loại lạm phát như lạm phát phi mã
trong thời kỳ 1986 - 1988 với tỷ lệ lạm phát trung bình năm đạt 463,9%/năm; lạm phát
cao trong thời kỳ 1989 - 1992, với tỷ lệ lạm phát bình quân năm tương ứng là
46,7%/năm; lạm phát thấp trong thời kỳ 1996 - 1999 và 2001 - 2003 với tỷ lệ lạm phát
tương ứng là 4,4%/năm và 4,3%/năm; thậm chí là giảm phát trong năm 2000 (-0,6%).
Tuy nhiên, trong hai năm 2004 - 2005 khi tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt khá cao 7,79%
(năm 2004) và 8,5% (năm 2005) thì lạm phát của Việt Nam cũng tăng lên ở mức 9,5%
(năm 2004) và 8,4% (năm 2005), cao hơn cả tốc độ tăng trưởng kinh tế.
Bảng 1 - Tốc độ tăng tổng sản phẩm trong nước
5 năm 2001-2005 (%)
2001
Tổng số
6,89
- Nông lâm nghiệp và thuỷ sản
2,98
- Công nghiệp và xây dựng
10,39
- Dịch vụ

6,10
Nguồn: Tổng Cục Thống Kê

2002
7,08
4,17
9,48
6,54

2003
7,34
3,62
10,48
6,45

2004
7,79
4,36
10,22
7,26

Ước tính
2005
8,43
4,04
10,65
8,48

BQ mỗi năm
2001-2005

7,51
3,83
10,24
6,96

1.2. Các công cụ chính sách tiền tệ đã được sử dụng giai đoạn 2000-2004
1.2.1. Nghiệp vụ thị trường mở
Nghiệp vụ thị trường mở (khai trương tháng 7/2000), đã góp phần điều chỉnh vốn khả
dụng của các tổ chức tín dụng. Từ năm 2004, Nghiệp vụ thị trường mở được tăng
cường sử dụng như một công cụ chủ yếu điều tiết tiền tệ, không chỉ khắc phục hiện
tượng mất cân đối cung cầu ngoại tệ, mà còn tạo điều kiện cho NHNN tăng dự trữ
ngoại hối. Các giao dịch nghiệp vụ thị trường mở được thực hiện hàng ngày, chủ yếu
được thực hiện theo phương thức đấu thầu khối lượng, công bố lãi suất. Tổng doanh số
giao dịch trên thị trường này tăng nhanh và liên tục qua các năm, năm 2004 đạt 61.936
tỷ đồng, bằng khoảng 3 lần năm 2003, năm 2005 tăng 65,5% so với năm 2004.

16


Nhóm 3 – NHTW
Giai đoạn 2000-2004
[Công cụ chính sách tiền tệ 2000-2010]
______________________________________________________________________
Hoạt động từ năm 2000, đến nay nghiệp vụ thị trường mở đã trở thành một công cụ
gián tiếp quan trọng của chính sách tiền tệ, nghiệp vụ thị trường mở đã góp phần đảm
bảo an toàn vốn thanh toán, ổn định lãi suất nhằm thực hiện mục tiêu CSTT. Bằng
chứng cho thấy 10 “điểm nhấn” quan trọng của nghiệp vụ thị trường mở năm 2004 như
sau:
1.


Khối lượng giao dịch nghiệp vụ thị trường mở tăng mạnh, qua đó

tăng khả năng điều tiết của công cụ này đến vốn khả dụng của các TCTD cũng
như đến các điều kiện của thị trường tiền tệ. Tổng doanh số giao dịch năm 2004
là 61,936 tỷ đồng, bằng 292% so với năm trước, tăng cao hơn nhiều so với
những năm trước đây (năm 2003 là 136%, năm 2002 là 127%). Khối lượng giao
dịch bình quân mỗi phiên tăng mạnh: năm 2004 là 500 tỷ đồng/phiên, trong khi
năm 2003 là 197 tỷ đồng/phiên, 2002 là 105 tỷ đồng/ phiên, năm 2001 là 82 tỷ
đồng/ phiên.
2.

Tỷ trọng doanh số mua giấy tờ có giá qua nghiệp vụ thị trường mở

trên tổng doanh số cho vay của NHNN (bao gồm cầm cố chiết khấu giấy tờ có
giá, hoán đổi ngoại tệ và nghiệp vụ thị trường mở) năm 2004 tiếp tục tăng lên
khoảng 81% so với các năm trước (năm 2003 là 75%, năm 2002 là 39% và năm
2001 là 37%). Điều này cho thấy nghiệp vụ thị trường mở trở thành kênh hỗ trợ
vốn chủ yếu và ngày càng quan trọng của NHNN.
3.

Định kỳ giao dịch được tăng cường để đáp ứng kịp thời vốn khả

dụng, đảm bảo ổn định thị trường tiền tệ. Từ tháng 11/2004, NHNN đã tăng định
kỳ giao dịch lên 3 phiên/ tuần (năm 2002 là 2 phiên/tuần, 2001 là 1 phiên/ tuần
và năm 2000 là 1 phiên/10 ngày). Bên cạnh đó, NHNN còn mở các phiên giao
dịch đột xuất hoặc các phiên giao dịch hàng ngày vào những dịp giáp Tết để đáp
ứng kịp thời nhu cầu thanh toán, không để xảy ra tình trạng mất khả năng thanh
toán cũng như chậm trả đối với khách hàng. Nhờ đó, hoạt động ngân hàng được
diễn ra bình ổn, củng cố uy tín của hệ thống ngân hàng.
17



Nhóm 3 – NHTW
Giai đoạn 2000-2004
[Công cụ chính sách tiền tệ 2000-2010]
______________________________________________________________________
4.

Kỳ hạn giao dịch được điều chỉnh linh hoạt phù hợp với nhu cầu

điều tiết linh hoạt vốn khả dụng của các TCTD theo mục tiêu CSTT. Ngoài kỳ
hạn chủ yếu từ 15-30 ngày, trong một số phiên NHNN còn chào mua với thời
hạn ngắn 7 ngày để đáp ứng khả năng thanh toán.
5.

Các thủ tục giao dịch nghiệp vụ thị trường mở tiếp tục được cải

tiến, cơ chế hoạt động tiếp tục được hoàn thiện. Năm 2004, NHNN đã ban hành
Quy chế lưu ký giấy tờ có giá tại NHNN ban hành kèm theo Quyết định số
1022/2004/QĐ-NHNN ngày 17/8/2004. Đây là cơ sở pháp lý tạo điều kiện cho
các TCTD thực hiện thống nhất việc lưu ký các giấy tờ có giá phục vụ cho các
giao dịch trên thị trường tiền tệ. Ngoài ra, NHNN đã mở tài khoản lưu ký giấy tờ
có giá tại Trung tâm giao dịch chứng khoán để tạo điều kiện cho việc lưu ký các
giấy tờ có giá phát hành trên thi trường chứng khoán được thuận lợi, đơn giản
hơn.
6.

Chủng loại giấy tờ có giá được giao dịch trên nghiệp vụ thị trường

mở được mở rộng. Trong năm 2004, NHNN đã cho phép cả trái phiếu công trình

trung ương được sử dụng trong các giao dịch nghiệp vụ thị trường mở, qua đó
tạo thuận lợi thu hút thêm các thành viên tham gia thị trường, nâng cao khả năng
điều tiết tiền tệ của NHNN. Ngoài ra, trong năm 2004, toàn bộ công cụ được
NHNN bán trên nghiệp vụ thị trường mở là tín phiếu Kho bạc do NHNN mua
trong các phiên đầu thầu. Việc sử dụng tín phiếu Kho bạc làm công cụ nghiệp vụ
thị trường mở thay cho việc sử dụng tín phiếu NHNN trước đây đã góp phần
thúc đẩy thị trường sơ cấp phát triển.
7.

Thành viên tham gia thị trường mở đa dạng làm cho hoạt động thị

trường mở sôi động hơn.Trong năm 2004, không chỉ 4 NHTM nhà nước thường
xuyên tham gia nghiệp vụ thị trường mở như những năm trước, mà các
NHTMCP, NH liên doanh và chi nhánh NH nước ngoài tham gia. Tuy lượng
18


Nhóm 3 – NHTW
Giai đoạn 2000-2004
[Công cụ chính sách tiền tệ 2000-2010]
______________________________________________________________________
thành viên tham gia chưa nhiều (8 thành viên), nhưng cũng làm cho thị trường
mở bớt đơn điệu hơn trước, mang tính cạnh tranh hơn. Điều này được thể hiện ở
độ chênh lệch giữa mức lãi suất đặt thầu cao nhất và thấp nhất, trước đây chỉ
khoảng 0,3%/năm thì những phiên trong năm 2004 tăng lên 1,85%/năm. Các
thành viên ngoài các NHTM Nhà nước mặc dù bị hạn chế về vốn hoặc khả năng
cạnh tranh huy động vốn VND, nhưng vẫn trúng thầu trên thị trường. Bên cạnh
đó, số phiên đấu thầu không có thành viên tham gia năm 2004 là 16% trên tổng
số phiên, giảm mạnh so với những năm trước (2003 là 22%, năm 2002 là
49,4%).

8.

Nghiệp vụ thị trường mở góp phần phát triển các hoạt động của thị

trường tiền tệ: Thông qua hoạt động nghiệp vụ thị trường mở, là hoạt động mua
bán thứ cấp giấy tờ có giá, đã làm tăng mức độ thanh khoản của các giấy tờ có
giá do các TCTD hiện đang nắm giữ. Điều này đã góp phần thúc đẩy hoạt động
của thị trường sơ cấp. Cụ thể, riêng đối với thị trường đấu thầu tín phiếu kho bạc
năm 2004, khối lượng bán ra là trên 19.465 tỷ đồng, tăng hơn 3.563 tỷ đồng so
với năm 2002. Thành viên tham gia thị trường đấu thầu tín phiếu kho bạc cũng
tăng lên 14 thành viên, so với 10 thành viên năm 2003.
9.

Việc điều hành nghiệp vụ thị trường mở được kết hợp chặt chẽ với

các công cụ chính sách tiền tệ khác để đạt hiệu quả cao.Trong năm 2004, mục
tiêu điều hành CSTT vừa phải góp phần phục vụ tăng trưởng kinh tế 7,7%, vừa
phải kiểm soát lạm phát ở mức một con số. Việc thực hiện đồng thời cả 2 mục
tiêu trên đặt ra cho NHNN không ít thách thức, đòi hỏi NHNN phải điều hành
thận trọng linh hoạt.Vì vậy, công cụ nghiệp vụ thị trường mở được kết hợp chặt
chẽ với các công cụ CSTT khác nhằm điều tiết linh hoạt vốn khả dụng.
1.2.2. Chính sách lãi suất tái cấp vỗn, tái chiết khấu và quản lý lãi suất.
Tháng 8/2000, cơ chế điều hành lãi suất cho vay bằng VND được chuyển từ cơ
chế trần lãi suất sang lãi suất cơ bản; Lãi suất tái cấp vốn và lãi suất tái chiết khấu cũng
19


Nhóm 3 – NHTW
Giai đoạn 2000-2004
[Công cụ chính sách tiền tệ 2000-2010]

______________________________________________________________________
được điều chỉnh tăng, giảm phù hợp mục tiêu điều tiết lượng vốn huy động và cho vay
tín dụng hàng năm. Năm 2001, lãi suất từng bước được điều hành theo hướng tự do hóa
và phù hợp với mục tiêu CSTT. Từ năm 2003, việc điều hành CSTT chuyển biến theo
hướng nới lỏng một cách thận trọng. Lãi suất tái cấp vốn được điều chỉnh dần là lãi suất
trần; lãi suất chiết khấu được điều chỉnh là lãi suất sàn của thị trường; lãi suất nghiệp vụ
thị trường mở được điều chỉnh linh hoạt trong khoảng giữa lãi suất tái cấp vốn với lãi
suất chiết khấu.Theo quyết định được công bố, kể từ 1/7/2004, NHNN vẫn giữ nguyên
mức lãi suất cơ bản (7,5%/năm), lãi suất tái cấp vốn (5%/năm), lãi suất tái chiết khấu
(3%/năm) của tháng 7.Từ tháng 1/2005- 8/ 2008, NHNN đã tăng lãi suất cơ bản, lãi
suất tái cấp vốn và lãi suất tái chiết khấu nhằm thắt chặt hơn tiền tệ, qua đó kiểm soát
lạm phát đang có xu hướng gia tăng.

1.2.3. Dự trữ bắt buộc.
Dự trữ bắt buộc được điều chỉnh hàng năm tăng hoặc giảm cả về khối
lượng, diện phải DTBB và lãi suất tiền gửi nhằm khống chế mức vốn khả dụng của các
NHTM. Tháng 5/2001 tăng tỷ lệ DTBB bằng ngoại tệ lên 15%, giảm tỷ lệ DTBB bằng
VND xuống 3%; tháng 11/2001 giảm tỷ lệ DTBB bằng ngoại tệ xuống còn 10%. Từ
năm 2003, các TCTD được tính cả tiền gửi DTBB tại các chi nhánh NHNN, đây là
bước khởi đầu cho việc thực hiện mục tiêu tăng cường khả năng điều tiết tiền tệ của
công cụ này. . Theo quyết định được công bố, kể từ 1/7/2004, dự trữ bắt buộc VND của
các tổ chức tín dụng đối với tiền gửi VND dưới 12 tháng tăng từ 2% lên 5%; đối với
Ngân hàng Nông nghiệp tỷ lệ này tăng từ 1,5% lên 4,5%. Tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với
tiền gửi VND kỳ hạn từ 12 đến dưới 24 tháng là 2% (trước là 1%). Tỷ lệ dự trữ bắt
buộc đối với tiền gửi ngoại tệ dưới 12 tháng được nâng lên mức 8% (mức cũ là 4%),
đối với tiền gửi ngoại tệ từ 12 đến dưới 24 tháng là 2% (trước là 1%).
1.2.4. Chính sách tỷ giá hối đoái
Ngân hàng Nhà nước đang áp dụng cơ chế tỷ giá thả nổi có sự điều tiết của
Chính phủ để điều hành chính sách tiền tệ. Theo đó, tỷ giá chính thức do Ngân hàng
20



Nhóm 3 – NHTW
Giai đoạn 2000-2004
[Công cụ chính sách tiền tệ 2000-2010]
______________________________________________________________________
Nhà nước được thiết lập trên cơ sở tỷ giá bình quân của thị trường ngoại tệ liên ngân
hàng và tỷ giá kinh doanh ngoại tệ của các ngân hàng thương mại không được lớn hơn
+/- 0,25% so với tỷ giá chính thức. Với cách tính này, Ngân hàng Nhà nước khống chế
được sự biến động thất thường của tỷ giá.Tuy nhiên, hạn chế của nó là tỷ giá không
phản ảnh đúng cung - cầu tiền tệ trên thị trường, làm cho hoạt động kinh doanh tiền tệ
của các ngân hàng gượng ép, giả tạo.Tỷ giá phải được thả nổi và hoàn toàn được xác
định dựa trên cung cầu tiền tệ, SBV không nên áp đặt trực tiếp lên tỷ giá mà chỉ được
quyền tác động gián tiếp đến tỷ giá thông qua hoạt động mua bán ngoại tệ trên thị
trường ngoại hối. Trong 6 tháng đầu năm 2004, tỷ giá bình quân thị trường ngoại tệ
liên ngân hàng tăng 0,45% so với cuối năm 2003, thấp hơn mức tăng 6 tháng đầu năm
2003 (0,62%). Tỷ giá trên thị trường tự do tăng 0,2%. Đồng thời, lượng vốn ngân hàng
huy động và cho vay đều tăng so với thời điểm cuối năm 2003. Lượng vốn huy động
nội tệ tăng gần 8,3%, ngoại tệ tăng trên 12%, lượng cho vay bằng ngoại tệ cũng tăng
cao hơn so với mức tăng cho vay nội tệ.Ngân hàng Nhà nước hiện đang hoàn thiện các
công cụ phòng ngừa rủi ro tỷ giá như chỉnh sửa các quy định về tỷ giá kỳ hạn theo
hướng ngày càng tự do hoá, để chu chuyển ngoại tệ đạt đến trạng thái cân bằng; đồng
thời tiếp tục điều kiện thông thoáng về giao dịch hoán đổi để cơ chế tự do hoá lãi suất
phát huy tác dụng, tạo cung ngoại tệ trên thị trường ngoại hối.
1.2.5. Chính sách hạn mức tín dụng
Năm 2004, tốc độ tăng trưởng tín dụng của toàn hệ thống ngân hàng là
25,1% so với năm 2003. Trong đó, dư nợ nội tệ tăng 24,1% và dư nợ ngoại tệ tăng
28,3%.Đặc biệt, tốc độ tăng số dư tiền gửi của các ngân hàng đã đáp ứng được nhu cầu
tăng trưởng tín dụng có kiểm soát. Do vậy, tốc độ tăng dư nợ cho vay nền kinh tế trong
năm 2004 đã được duy trì ở mức dưới 25%. Ngân hàng Nhà nước đã thực hiện một số

biện pháp trong điều hành chính sách tiền tệ như tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với cả
tiền gửi VNĐ và ngoại tệ; can thiệp vào thị trường tiền tệ liên ngân hàng theo hướng
thu hút ngoại tệ vào và kiểm soát chặt chẽ lượng tiền cung ứng qua các kênh tái cấp
vốn, tái chiết khấu; đồng thời chỉ đạo các ngân hàng thương mại siết chặt kỷ cương cho
21


Nhóm 3 – NHTW
Giai đoạn 2000-2004
[Công cụ chính sách tiền tệ 2000-2010]
______________________________________________________________________
vay, thu nợ, xử lý nợ xấu và thẩm định dự án đầu tư đảm bảo có hiệu quả. Tổng phương
tiện thanh toán và tốc độ trăng trưởng tín dụng hàng năm tăng liên tục với tốc độ khá
cao (so năm trước thì năm 2001 tổng phương tiện thanh toán và tốc độ trăng trưởng tín
dụng tăng 25,53% và 21,44%. Năm 2002, tổng phương tiện thanh toán tăng 17,7%; tốc
độ huy động vốn tăng 19,4%. Năm 2004 tổng phương tiện thanh toán tăng 30,39%.
1.2.6. Khung lãi suất
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (SBV) thông báo, từ ngày 1/4/2003, lãi suất huy
động bằng đồng Việt Nam sẽ tăng 0,005%, từ 0,62%/tháng lên 0,625%/tháng. Đây là
lần điều chỉnh lãi suất cơ bản đầu tiên sau 8 tháng thực hiện tự do hoá lãi suất. Trước
sức ép tăng lãi suất huy động vốn có thể ảnh hưởng đến lợi ích của chính các ngân
hàng, đầu tháng 7/2004 vừa qua, các ngân hàng thương mại Nhà nước, dưới sự chủ trì
của Hiệp hội ngân hàng, đã ngồi lại với nhau bàn biện pháp cạnh tranh lành mạnh về
huy động vốn.Theo đó, các ngân hàng thương mại Nhà nước, hiện đang chiếm khoảng
75% thị phần huy động vốn của toàn hệ thống ngân hàng, đã thống nhất giới hạn tối đa
mức trần lãi suất các kỳ hạn tiền gửi. Cụ thể, lãi suất tiền gửi nội tệ không kỳ hạn là
0,20%/tháng, kỳ hạn 6 tháng 0,58% và 12 tháng là 0,63%/tháng. Mức lãi suất này đang
thấp hơn từ 0,02% - 0,04% so với lãi suất phát hành kỳ phiếu của hệ thống Ngân hàng
Nông nghiệp Việt Nam và lãi suất phát hành chứng chỉ tiền gửi của hệ thống Ngân hàng
Đầu tư phát triển Việt Nam. Mức lãi suất của các ngân hàng thương mại Nhà nước cũng

thấp hơn nhiều, vào khoảng 0,04% - 0,06%/tháng, so với mức lãi suất huy động vốn
VND cùng kỳ hạn của các ngân hàng thương mại cổ phần.
1.2.7. Biên độ giao động tỷ giá mua bán ngoại tệ
Tỷ giá VND/USD biến động thường xuyên qua các năm theo chiều hướng đồng
Việt Nam có giá trị sụt giảm so với các đồng tiền nước ngoài. Qua theo dõi cho thấy:
Trong suốt một quãng thời gian khá dài, tỷ giá VND/USD chỉ biến động tăng một chiều
với một biên độ hẹp, thêm vào đó thị trường ngoại hối Việt Nam luôn rơi vào tình trạng
khan hiếm ngoại tệ. Các doanh nghiệp nhập khẩu chỉ muốn tìm mọi cách kí hợp đồng kì
22


Nhóm 3 – NHTW
Giai đoạn 2000-2004
[Công cụ chính sách tiền tệ 2000-2010]
______________________________________________________________________
hạn mua ngoại tệ để đảm bảo thanh toán hợp đồng xuất nhập khẩu. Sự biến động tỷ giá
trong giai đoạn 2000-2004 được thể hiện như sau: mức dao động năm 2000 biến động +
490 đồng (3,5%), năm 2001 biến động + 550 đồng (3,8%), năm 2002 biến động +321
đồng (2,13%), năm 2003 biến động +265 đồng (1,72%), năm 2004 là năm Ngân hàng
Nhà nước điều chỉnh tỷ giá biến động liên tục nhằm hạn chế tình trạng găm giữ ngoại tệ
của các NH nhưng mức độ biến động cũng không vượt quá 140 đồng (+ 0,89%). Như
vậy, tỷ giá VND/USD có biến động nhưng không nhiều trong giai đoạn 2000-2004 và
mức biến động cao nhất đạt ở mức 3,8%. Nguyên nhân chủ yếu do cán cân vốn thặng
dư, lượng kiều hối khá dồi dào hơn nữa do USD mất giá so với EURO và một số đồng
tiền khác, lãi suất USD vẫn duy trì ở mức thấp đáng kể so với lãi suất VND dẫn đến
nhu cầu USD không tăng. Những biến động này đã gây rủi ro cho các NHTMVN.Rủi
ro ở đây phụ thuộc vào trạng thái ngoại tệ mà NH đang duy trì.Rủi ro tỷ giá là rủi ro
tiềm tàng đối với các NHTMVN. Rủi ro này thể hiện qua:
- Trong hai năm 2003, 2004, 4 NHTM Nhà nước hàng đầu đều có trạng thái
ngoại hối mở tuy nhiên về cơ bản vẫn nằm trong giới hạn quy định của NHNN (không

vượt quá 30% vốn tự có). Tuy nhiên, vị thế của các NH không hề giống nhau, một số
NH có vị thế trường về ngoại tệ và một số NH có vị thế đoản về ngoại tệ. Điều đó có
nghĩa là dù tỷ giá có biến động theo chiều hướng nào đều gây bất lợi cho các ngân
hàng. Nếu tỷ giá tăng thì những NH có vị thế đoản ngoại tệ bị thiệt hại và ngược lại nếu
tỷ giá giảm thì những NH có vị thế trường về ngoại tệ sẽ bị thiệt hại.
-

Hầu như doanh số mua vào thấp hơn doanh số bán ra cũng do các NHTM

thường duy trì trạng thái ngoại tệ tạm thời là đoản, do đó, phải đối mặt với rủi ro khi tỷ
giá tăng. Điều này cũng cho thấy thị trường ngoại hối Việt Nam phát triển theo hướng
một chiều, luôn ở tình trạng cầu lớn hơn cung. Thực tế Việt Nam cho thấy sự thay đổi
mặt bằng lãi suất có ảnh hưởng rất lớn đến tỷ giá giữa VND và USD.Từ năm 2000 trở
đi, đồng USD liên tục tăng giá so với VND, điều này thúc đẩy tâm lý muốn găm giữ
ngoại tệ, các NHTM sẽ có nhận định là duy trì trạng thái ngoại hối trường ròng sẽ có
lợi. Tuy nhiên do chênh lệch lãi suất VND và USD quá lớn dẫn đến người nắm giữ
23


Nhóm 3 – NHTW
Giai đoạn 2000-2004
[Công cụ chính sách tiền tệ 2000-2010]
______________________________________________________________________
USD lại có thu nhập thấp hơn người nắm giữ VND. Điều đó có nghĩa là nếu ngân hàng
huy động USD với lãi suất thấp và bán ngoại tệ trên thị trường để cho vay với lãi suất
cao, duy trì vị thế đoản ngoại tệ không những bị thiệt hại mà còn có lợi mặc dù USD có
tăng giá.
1.2.8. Chính sách quản lý ngoại hối và vàng.
 Thị trường ngoại hối quốc tế và thị trường ngoại hối trong nước diễn biến phức


tạp, đồng Đôla Mỹ mất giá kỷ lục so với các loại ngoại tệ chủ đạo khác, nhưng tỷ
giá VND/USD khá ổn định.Tính từ thời điểm đầu tháng l/2004 đến giữa tháng
12/2004, Đồng Việt Nam đã mất giá 0,4% so với USD; 5,51% so với JPY; 10,69% so
với GBP và 8,98% so với Euro... Hay nói cách khác, trong năm 2004, tỷ giá VND/USD
khá ổn định, một mặt do USD mất giá trên thị trường thế giới, mặt khác do nguồn cung
USD trong nước dồi dào; đồng thời chính sách quản lý ngoại hối và điều hành tỷ giá
được đổi mới, linh hoạt, tôn trọng tính thị trường. Sự ổn định đó có lợi cho cả xuất khẩu
và nhập khẩu nhất là vay nợ nước ngoài của Việt Nam.Không những thế, dự trữ ngoại
hối của Nhà nước, dự trữ ngoại hối để bình ổn tỷ giá của NHTW được tăng cường.
 Giá vàng trên thị trường thế giới tăng kỷ lục, làm cho giá vàng trong nước cũng

tăng lên mức cao nhất trong lịch sử nền kinh tế nước ta.Giá vàng trên thị trường thế
giới đầu tháng 12/2004 tăng lên tới 456 USD/ounce, cao nhất trong 16 năm qua. Sau đó
diễn biến phức tạp, cho đến cuối tháng 12/2004 dao động quanh mức 444 USD/ounce.
Việt Nam phải nhập khẩu 95% nhu cầu vàng tiêu thụ trong nước, nên giá vàng ở nước
ta theo sát giá vàng thị trường thế giới. Do đó, giá vàng trong nước cũng tăng cao kỷ
lục, đến đầu tháng 12/2004, giá bán lẻ vàng thị trường trong nước lên tới mức đỉnh
điểm. Giá vàng SJC bán ra ở Hà Nội và Tp.HCM đã lên tới 873.000 đồng – 876.000
đồng/chỉ, tính ra đã tăng trên 12% so với đầu năm 2004. Tính chung trong năm 2004,
giá vàng trong nước tăng khoảng 11,7%, mức cao nhất trong nhiều năm qua.
Kết luận: Từ năm 2004, Nghiệp vụ thị trường mở được tăng cường sử dụng
như một công cụ chủ yếu điều tiết tiền tệ, không chỉ khắc phục hiện tượng mất cân đối
24


Nhóm 3 – NHTW
Giai đoạn 2000-2004
[Công cụ chính sách tiền tệ 2000-2010]
______________________________________________________________________
cung cầu ngoại tệ, mà còn tạo điều kiện cho NHNN tăng dự trữ ngoại hối. Tổng doanh

số giao dịch trên thị trường này tăng nhanh và liên tục qua các năm, năm 2004 đạt
61.936 tỷ đồng, bằng khoảng 3 lần năm 2003, năm 2005 tăng 65,5% so với năm 2004.
Hoạt động từ năm 2000, đến nay nghiệp vụ thị trường mở đã trở thành một công cụ
gián tiếp quan trọng của chính sách tiền tệ, nghiệp vụ thị trường mở đã góp phần đảm
bảo an toàn vốn thanh toán, ổn định lãi suất nhằm thực hiện mục tiêu CSTT.
Tháng 8/2000, cơ chế điều hành lãi suất cho vay bằng VND được chuyển từ cơ
chế trần lãi suất sang lãi suất cơ bản; Lãi suất tái cấp vốn và lãi suất tái chiết khấu cũng
được điều chỉnh tăng, giảm phù hợp mục tiêu điều tiết lượng vốn huy động và cho vay
tín dụng hàng năm. Năm 2001, lãi suất từng bước được điều hành theo hướng tự do hóa
và phù hợp với mục tiêu CSTT. Từ năm 2003, việc điều hành CSTT chuyển biến theo
hướng nới lỏng một cách thận trọng. Lãi suất tái cấp vốn được điều chỉnh dần là lãi suất
trần; lãi suất chiết khấu được điều chỉnh là lãi suất sàn của thị trường; lãi suất nghiệp vụ
thị trường mở được điều chỉnh linh hoạt trong khoảng giữa lãi suất tái cấp vốn với lãi
suất chiết khấu.Theo quyết định được công bố, kể từ 1/7/2004, NHNN vẫn giữ nguyên
mức lãi suất cơ bản (7,5%/năm), lãi suất tái cấp vốn (5%/năm), lãi suất tái chiết khấu
(3%/năm) của tháng 7.
Dự trữ bắt buộc được điều chỉnh hàng năm tăng hoặc giảm cả về khối lượng,
diện phải DTBB và lãi suất tiền gửi nhằm khống chế mức vốn khả dụng của các
NHTM. Tháng 5/2001 tăng tỷ lệ DTBB bằng ngoại tệ lên 15%, giảm tỷ lệ DTBB
bằng. VND xuống 3%; tháng 11/2001 giảm tỷ lệ DTBB bằng ngoại tệ xuống còn 10%.
Từ năm 2003, các TCTD được tính cả tiền gửi DTBB tại các chi nhánh NHNN, đây là
bước khởi đầu cho việc thực hiện mục tiêu tăng cường khả năng điều tiết tiền tệ của
công cụ này. . Theo quyết định được công bố, kể từ 1/7/2004, dự trữ bắt buộc VND của
các tổ chức tín dụng đối với tiền gửi VND dưới 12 tháng tăng từ 2% lên 5%; đối với
Ngân hàng Nông nghiệp tỷ lệ này tăng từ 1,5% lên 4,5%. Tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với
tiền gửi VND kỳ hạn từ 12 đến dưới 24 tháng là 2% (trước là 1%). Tỷ lệ dự trữ bắt
25



×