Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

VĂN MINH tây âu THỜI TRUNG đại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (183.76 KB, 20 trang )

VĂN MINH TÂY ÂU THỜI TRUNG ĐẠI
I. Hoàn cảnh hình thành nền văn minh Tây Âu Trung đại
1.1. Sự hình thành các quốc gian phong kiến ở Tây Âu :
Việc kinh thành La Mã bị thất thủ vào năm 476 được coi là mốc đánh dấu sự sụp đổ của đế quốc Tây La
Mã. Trên đống hoang tàn của đế quốc La Mã, hàng loạt các quốc gia mới ra đời như vương quốc Tây Gốt,
Văngđan, Buôcgônhơ, Đông Gốt, Lômbad, Phrăng...
Trong các vương quốc mới ra đời đó, sự hình thành và phát triển của vương quốc Phrăng có ảnh hưởng tới
lịch sử Tây Âu lớn hơn cả. Lãnh thổ của vương quốc Phrăng lúc đầu chỉ tương đương miền bắc nước Pháp
ngày nay. Nhưng dưới thời của hoàng đế Saclơman, bằng những cuộc chiến tranh để mở rộng lãnh thổ, ông
đã làm cho đất đai của quốc gia Phrăng lớn gần tương đương vùng tây của đế quốc La Mã trước kia. Năm
814 Saclơman chết, con là Louis “mộ đạo” lên kế vị. Năm 840 Louis “mộ đạo” chết thì trong các con của
Louis xảy ra sự tranh giành ngôi báu tới mức nội chiến. Cuộc nội chiến đã dẫn tới một hoà ước kí ở
Vecđoong năm 843. Theo hoà ước Vecđoong, đế quốc Saclơman bị chia ra làm 3, đó là nước Pháp, Đức, Ý
ngày nay.
Còn ở nước Anh ngày nay, từ thế kỉ V đã hình thành nên nhiều tiểu quốc. Tới thế kỉ IX, Ecbe đã thống nhất
các nước nhỏ lập nên vương quốc Anh. Tây Ban Nha ra đời trên cơ sở hợp nhất Cxtila và Aragôn, Bồ Đào
Nha thì đã được ra đời trước đó. Các vương quốc mới không đi theo con đường chế độ nô lệ mà đi vào con
đường phong kiến hoá. Vua Phrăng từ thế kỉ V đã đem nhiều ruộng đất cướp được của các quí tộc La Mã cũ
phân chia cho các tướng lĩnh, bà con dòng họ và những người có công. Cùng với ruộng đất, những người
này còn được phong tước. Đất đai và tước hiệu được phân phong có quyền cha truyền con nối, điều này đã
tạo ra tầng lớp quí tộc lãnh chúa phong kiến với những lãnh địa rộng lớn. Những người lính và nô lệ có
công trong chiến tranh cũng được chia một ít ruộng và họ trở thành những người nông dân tự do. Nhưng
cùng với thời gian, số lượng nông dân tự do càng ít dần. Do nhiều nguyên nhân như thiên tai, mất mùa, bệnh
dịch...nhiều nông dân bị phá sản phải bán ruộng đất. Khi không còn ruộng đất thì đương nhiên họ phải xin
được nhận ruộng đất của lãnh chúa, cày cấy và nộp tô. Họ cũng ở nhờ trên đất của lãnh chúa và lệ thuộc vào
lãnh chúa. Đến đời con cháu của họ thì sự lệ thuộc càng nặng hơn, không được tuỳ tiện bỏ đi nơi khác nếu
không được lãnh chúa cho phép. Vậy là con cháu họ còn mất một phần tự do thân thể, một loại người nửa
nô lệ, nửa nông dân, người ta gọi họ là nông nô. Nông nô cũng có gia đình riêng, có một túp lều, và một ít
tài sản. Lãnh chúa không thể bán họ. Nhưng nông nô không được tự tiện bỏ trốn khỏi vùng đất của lãnh
chúa . Sau này, muốn bỏ đi ra thành thị làm ăn, họ phải chuộc một số tiền.
1.2. Sự ra đời của các thành thị trung đại :


Từ thế kỉ XI, kinh tế nông nghiệp ở Tây Âu phát triển hẳn lên. Nông nghiệp phát triển tạo điều kiện cho thủ
công nghiệp p.triển. Nhiều thợ thủ công khéo tay và các thương nhân đã tìm tới ngã ba đường, ngã ba sông
để mở quán làm ăn. Những nơi thuận lợi, các cửa hàng, công xưởng ngày càng phát triển, dần dần hình
thành nên các thành thị trung đại. Sự ra đời của các thành thị trung đại, là biểu hiện cụ thể của nền kinh tế
hàng hoá, nó báo nền kinh tế tự nhiên đang bị tấn công. Nền kinh tế hàng hoá ngày càng đòi hỏi một thị
trường rộng lớn, nó tạo ra sự giao lưu thường xuyên giữa các địa phương.
Chế độ phong kiến phân tán được tạo ra bởi nền kinh tế tự nhiên sắp bị thay thế bởi một chế độ trung ương
tập quyền do đòi hỏi của nền kinh tế hàng hoá.
1.3. Vai trò của giáo hội La Mã :
Đạo Kitô ra đời ở Giêrudalem vào khoảng đầu Công nguyên. Ban đầu đạo Kitô là một tôn giáo của những
người nghèo khổ. Sau này giới quí tộc ở đế quốc La Mã lợi dụng, đã công nhận đạo Kitô được truyền bá
Trang 1


công khai, và các hoàng đế La Mã còn ủng hộ đạo Kitô. Đến thế kỉ IV, ở đế quốc La Mã đã có 5 trung tâm
giáo hội. Do bất đồng trong sự giải thích thuyết “tam vị nhất thể” và cả việc đụng chạm nhau về khu vực
truyền đạo nên đến năm 1054, giáo hội Kitô ở La Mã đã bị chia làm hai : giáo hội Thiên chúa ( giáo hội ở
phương Tây, giáo hội La Mã) và giáo hội Chính thống ( giáo hội ở phương Đông, giáo hội Hy Lạp). Giáo
hội Thiên chúa có thế lực rất lớn về cả kinh tế, chính trị, văn hoá, tư tưởng ở Tây Âu trong thời kì trung đại.
II. Văn hoá Tây Âu từ thế kỷ V đến thế kỷ X
2.1. Tình hình chung về văn hoá, giáo dục, tư tưởng:
Từ thế kỉ V đến thế kỉ X, cùng với sự suy sụp của nền kinh tế, văn hoá Tây Âu một thời huy hoàng cũng bị
suy giảm, nghèo nàn theo. Những cuộc xâm nhập của các bộ tộc Giecman cũng đã làm huỷ hoại khá nhiều
những di sản của nền văn minh cổ đại ở Tây Âu. Chỉ có nhà thờ và các tu viện của đạo Kitô là không bị xâm
phạm.
Các vương quốc mới thành lập chưa có đủ điều kiện để chú trọng tới văn hoá, giáo dục. Hơn thế nữa, chế độ
phong kiến cát cứ, tản quyền, với nền kinh tế tự cung tự cấp cũng bất lợi cho sự giao lưu văn hoá. Nông nô
thì hầu hết là mù chữ. Quí tộc lãnh chúa thì nhiều kẻ cũng không thèm biết chữ.
Trong các vương quốc, chỉ có mỗi trung tâm văn hoá là các trường học thuộc hệ thống nhà thờ. Nội dung
giảng dạy ở các trường học tôn giáo này chủ yếu là thần học. Ngoài thần học, sinh viên còn được học “bảy

môn nghệ thuật tự do” gồm: âm nhạc, thiên văn học, ngữ pháp, tu từ học, logic học, số học, hình học. Việc
giảng dạy cũng bị giáo hội chi phối, quản lí chặt chẽ. Ngôn ngữ dạy trong các trường là chữ Latin. Môn
logic học được coi là “đầy tớ của thần học”, cùng với môn tu từ học, dạy người học cách hùng biện để sau
này đi truyền đạo. Môn thiên văn học thì lấy học thuyết của Ptôlêmê ( Ptolemy) để giảng dạy, thuyết này coi
Trái đất là trung tâm của vũ trụ. Chủ nghĩa khổ hạnh, cấm dục cũng được tuyên truyền rộng rãi.
2.2. Văn hoá phục hưng Carôlanhgiêng ( Carolingien ):
Phong trào này ra đời dưới thời Saclơman nhằm đào tạo quan lại, giáo sĩ để quản lí công việc của nhà nước
và truyền đạo ở những vùng mới chinh phục. Sáclơman rất chú trọng mở những trường học ở cung đình,
khuyến khích con em quí tộc vào học. Các trường này do được sự tài trợ của triều đình nên mời được nhiều
thầy giỏi ở Tây Âu, nhờ đó văn hoá có phần nào được tạo điều kiện phát triển. Thực chất phong trào này vẫn
lấy thần học làm nội dung giảng dạy chính, lấy việc phục vụ cung đình, nhà thờ làm mục đích trung tâm. Vì
vậy giai đoạn văn hoá phục hưng Carolingien tồn tại rất ngắn ngủi, sau cái chết của Saclơman không lâu nó
liền bị suy sụp.
III. Văn hoá Tây Âu từ thế kỷ XI đến thế kỷ XIV
Từ thế kỉ X, nông nghiệp ở Tây Âu đã bắt đầu phát triển. Nông nghiệp phát triển tạo điều kiện cho thủ công
nghiệp phát triển. Nhiều thợ thủ công, thương nhân tìm đến ngã ba đường, ngã ba sông để mở quán làm ăn.
Lâu ngày, những nơi này dần hình thành ra các thành thị trung đại. Ơ thành thị trung đại, các thị dân có điều
kiện kinh tế hơn các nông nô. Họ cũng thấy giá trị phi vật chất của văn hoá. Điều đó dẫn tới những trường
học xuất hiện, những biểu hiện mới về văn học, kiến trúc.
3.1. Sự ra đời của các trường đại học:
Nhu cầu tri thức của thị dân ngày càng cao, họ đã thấy giá trị của những tài sản vô hình là văn hoá. Trường
học của nhà thờ không đáp ứng được nhu cầu về văn hoá đa dạng, thiết thực của tầng lớp thị dân, điều đó đã
dẫn tới sự xuất hiện các trường đại học ở Tây Âu vào thế kỉ XII - XIII. Tiêu biểu cho các trường đại học
xuất hiện giai đoạn này là trường Xoocbon, Tuludo, Oocleang, ở Pháp ; Oxford, Cambridge, ở Anh ; Napoli,
Palecmơ, ở Ý... Đến cuối thế kỉ XIV, ở Tây Âu đã có tất cả khoảng 40 trường đại học. Ngôn ngữ sử dụng
trong các trường đại học vẫn là tiếng Latin. Phương pháp giảng dạy là giảng thuật. Sinh viên lên lớp nghe
Trang 2


giảng, ghi chép và thảo luận. Kết thúc khoá học, sinh viên cũng làm luận văn và bảo vệ luận văn tốt nghiệp.

Các học vị như cử nhân, tiến sĩ cũng được sử dụng trong các trường đại học. Về mặt tổ chức, các trường
thường gồm có hiệu trưởng, khoa trưởng của 4 khoa: Nghệ thuật ( gồm cả văn chương và khoa học ), Thần
học, Y học và Luật học. Ngoài thần học, sinh viên còn được học các môn học khác. Giáo sư là những người
thế tục chứ không phải chỉ là các giáo sĩ như trường học của nhà thờ. Như vậy, các trường đại học muốn tìm
cách thoát khỏi sự kiểm soát của giáo hội và hoạt động độc lập. Các trường đại học đã trở thành trung tâm
văn hoá, khoa học, nơi truyền bá những tư tưởng tiến bộ. Vì vậy sau này, giáo hội lại tìm mọi cách để kiểm
soát hoạt động của các trường đại học.
3.2. Văn học:
Văn học Tây Âu giai đoạn này cũng có những biểu hiện mới. Bên cạnh văn học dân gian và văn học Latin
của nhà thờ, thời kì này còn xuất hiện hai dòng văn học mới là: văn học kị sĩ và văn học thành thị.
Văn học kị sĩ thường bắt nguồn từ những câu chuyện lưu truyền trong nhân dân, mà nhân vật trung tâm
thường có những tính cách được ca ngợi như thượng võ, trọng danh dự, kính chúa, trung thành với chủ và
một tính cách không thể thiếu là tôn sùng người đẹp. Văn học kị sĩ gồm hai thể loại chủ yếu là anh hùng ca
và thơ trữ tình. Bản anh hùng ca tiêu biểu thời đó là Bài ca Roland, Bài ca Cid. Tác phẩm Tơrixtăng và Idơ
là một tác phẩm ca ngợi tình yêu lãng mạn kiểu kị sĩ.
Văn học thành thị cũng xuất hiện để đáp ứng nhu cầu của tầng lớp thị dân ngày càng đông đảo và đang lớn
mạnh. Từ thế kỉ XII đã xuất hiện nhiều tác phẩm thuộc văn học thành thị mang tính hài hước, đả kích chế độ
phong kiến, giáo sĩ, và ca ngợi những người bình dân. Tiêu biểu giai đoạn này là các tác phẩm: Di chúc của
con lừa, Thầy lang vườn...
3.3. Triết học kinh viện:
Triết học kinh viện ( scholasticism ) là một thuật ngữ bắt nguồn từ chữ schola trong chữ Latin để chỉ triết
học trong nhà trường. Đây là một môn học rất quan trọng trong nhà trường lúc bấy giờ. Triết học kinh viện
được coi là triết học chính thức của giai cấp thống trị lúc đó.
Đặc điểm nổi bật của triết học kinh viện là rất trọng lôgic hình thức, với những phương pháp biện luận cực
kì rắc rối. Nói chung, các nhà triết học kinh viện cho rằng, đối với các hiện tượng tự nhiên chỉ cần dùng
phương pháp tư duy trừu tượng cũng có thể đi tới chân lí, không cần đến những quan sát, thí nghiệm mất
công sức. Khi nghiên cứu những khái niệm chung, các nhà triết học kinh viện đã chia làm hai phái, duy thực
và duy danh. Phái duy danh cho rằng khái niệm chung hình thành trong tư duy con người có sau sự vật ; còn
phái duy thực thì cho rằng trước khi có một vật thể nào đó, thì khái niệm về sự vật đó đã có trong tư duy con
người. Như vậy phái duy thực thuộc trường phái duy tâm, còn phái duy danh mang nhân tố duy vật. Chính

vì vậy, tuy vẫn tin chúa nhưng các nhà duy danh vẫn thường bị nghi ngờ.
Các nhà triết học kinh viện tiêu biểu thời kì đó là Anxenme, Guyom de Sampo, Roger Bacon, Thomas
Aquinas. Tới thế kỉ XIV, triết học kinh viện bắt đầu suy thoái. Các nhà triết học kinh viện trở thành công cụ
của nhà thờ, chống lại những tư tưởng mới của giai cấp tư sản đang lên.
3.4. Nghệ thuật kiến trúc:
Nền kinh tế hàng hoá ở các thành thị đang lên còn làm thay đổi cả bộ mặt kiến trúc ở các thành thị. Khoảng
nửa sau thế kỉ XII đến thế kỉ XIII, phong cách kiến trúc Roman dần dần được thay thế bởi phong cách kiến
trúc Gôtích.
Kiến trúc Roman là kiến trúc chịu ảnh hưởng từ những công trình kiến trúc Roma. Kiến trúc Gôtích là kiến
trúc của người Gốt.
Buổi đầu thời trung đại, các công trinh kiến trúc Tây Âu đều bị suy giảm, nghèo nàn theo sự suy giảm chung
của văn hoá. Đến cuối thế kỉ VIII, kiểu kiến trúc Roman có được khôi phục, nhưng về nghệ thuật thì nó thô
kệch, nặng nề chứ không được đẹp như các công trình kiến trúc thời cổ đại. Kiến trúc Roman thời kì này
thường được xây bằng đá, cột thấp, tường dày, ít cửa sổ, mặt trước để phẳng, hầu như không có trang trí gì.
Trang 3


Bên trong các nhà thờ chỉ được trang trí một số bức tranh tô màu loè loẹt.
Đến nửa sau thế kỉ XII, ở miền Bắc nước Pháp xuất hiện một kiểu kiến trúc mới được gọi là kiến trúc
Gôtích.
Đặc điểm của kiến trúc Gôtích là vòm cửa nhọn, nóc nhà nhọn, cột cao, tường mỏng, nhiều cửa sổ và được
trang trí bằng nhiều loại kính màu. Mặt tiền của các công trình lại được trang trí bằng những bức phù điêu
rất sinh động. Lối kiến trúc này làm tăng thêm vẻ uy nghiêm của tôn giáo nên trước hết được áp dụng xây
các giáo đường, ngoài ra phong cách kiến trúc này còn được áp dụng để xây các công sở, dinh thự. Với
những tháp chuông cao vút xấp xỉ 100 mét, với tầm cỡ bề thế, lại tinh xảo của toàn bộ công trình, các công
trình mang phong cách Gôtích không những thể hiện sự giàu có của tầng lớp thị dân mà còn thể hiện bước
tiến của kĩ thuật xây dựng lúc bấy giờ. Do vậy, kiểu kiến trúc Gôtích nhanh chóng ảnh hưởng sang Anh,
Đức, Tây Ban Nha và cả Tiệp Khắc. Công trình tiêu biểu cho kiến trúc Gôtích thời đó là nhà thờ Buôcgiơ
được xây dựng vào cuối thế kỉ XII và nhà thờ Đức Bà Pari được xây dựng vào thế kỉ XIII ở miền Bắc nước
Pháp.

IV. Văn hoá Tây Âu thời phục hưng
4.1. Hoàn cảnh ra đời:
Văn hoá Tây Âu thế kỉ V - X dựa trên nền tảng nền kinh tế tự cung tự cấp, sự giao lưu trao đổi rất hạn chế,
văn hoá vì vậy cũng phát triển không đáng kể. Tới thế kỉ XIV, với sự phát triển kinh tế công thương ở các
thành thị, quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa dần dần hình thành và ngày càng lớn mạnh. Các nhà tư tưởng
của giai cấp tư sản không còn chịu chấp nhận những giáo lí phong kiến lỗi thời, họ vận động khôi phục lại
sự huy hoàng của văn hoá Tây Âu thời cổ đại. Họ tìm thấy trong nền văn hoá cổ đại những yếu tố phù hợp
với mình, có lợi cho mình để đấu tranh chống lại những trói buộc của nền văn hoá trung cổ . Phong trào Văn
hoá Phục hưng xuất hiện đầu tiên ở Ý, vì ở đây thế kỉ XIV đã xuất hiện các thành thị tự do như những quốc
gia nhỏ. Quan hệ sản xuất tư bản đã chiếm địa vị chi phối đời sống văn hoá. Ý lại là trung tâm của đế quốc
Rôma cổ đại, vì vậy ở đây còn giữ lại nhiều di sản văn hoá cổ đại của Hy Lạp - Rôma. Hơn ai hết, các nhà
văn hoá Ý có điều kiện khôi phục lại nền văn hoá trước tiên khi có điều kiện. Từ Ý, phong trào lan sang
Anh, Pháp, Tây Ban Nha, Đức... Tầng lớp giàu có ở các thành thị muốn thể hiện sự giàu sang của mình qua
các dinh thự và các tác phẩm nghệ thuật, điều đó cũng tạo điều kiện cho các nhà văn hoá thể hiện tài năng.
4.2. Những thành tựu tiêu biểu:
4.2.1. Về văn học:
Cả ba thể loại, thơ, kịch, tiểu thuyết trong nền văn học Phục hưng đều có những thành tựu quan trọng. Về
thơ, có hai đại biểu là Đantê ( 1265-1324 ) và Pêtracca ( 1304 - 1374 ). Đantê là người mở đầu phong trào
Văn hoá Phục hưng ở Ý. Ông xuất thân trong một gia đình kị sĩ suy tàn ở Plorencia. Ông đả kích các thầy tu
lúc đó và cổ vũ cho sự thống nhất của đất nước Ý. Tác phẩm tiêu biểu của ông la Thần khúc và Cuộc đời
mới. Pêtracca là một nhà thơ trữ tình Ý. Trong tác phẩm của mình, ông ca ngợi tình yêu lí tưởng, ca ngợi sắc
đẹp, ca ngợi sự tự do tư tưởng và chống lại sự gò bó kinh điển. Về tiểu thuyết, có hai nhà văn nổi bật là
Bôcaxiô ( Boccacio ), Rabơle ( F. Rabelais ) và Xecvantec (Cervantes). Boccacio là một nhà văn Ý, tác
phẩm nổi tiếng của ông là tập truyện Mười ngày. Qua tác phẩm Mười ngày, ông chế diễu thói đạo đức giả,
công kích cuộc sống khổ hạnh, cấm dục vì cho đó là trái tự nhiên. Ông cổ vũ cho cuộc sống vui vẻ, biết tận
hưởng mọi lạc thú của cuộc sống. F. Rabơle là một nhà văn Pháp, ông có hiểu biết rộng rãi cả về khoa học
tự nhiên, văn học, triết học và luật pháp. Tác phẩm trào phúng nổi tiếng của ông là cuộc đời không giá trị
của Gargantua và Pantagruen. Migel de Cervantes là một nhà văn lớn của Tây Ban Nha. Tác phẩm nổi tiếng
của ông là Don Quyjote. Thông qua hình ảnh chàng hiệp sĩ lỗi thời Don Quyjote, Cervantes ám chỉ tấng lớp
quí tộc Tây Ban Nha với những quan niệm danh dự cổ hủ và vẽ nên bức tranh một nước Tây Ban Nha quân

chủ đang bị chìm đắm trong vũng lầy phong kiến lạc hậu.
Trang 4


4.2.2. Về kịch:
Nhà viết kịch vĩ đại thời phục hưng là một người Anh có tên là W. Sếchpia. (William Shakespeare ). Ông đã
viết tới 36 vở bi, hài kịch. Những vở kịch nổi tiếng ảnh hưởng tới nhiều nước trên thế giới như Rômêô và
Giuyliet, Hamlet, Vua Lia, Ôtenlô...
4.2.3. Hội hoạ, điêu khắc:
Nhà danh hoạ khổng lồ thời Phục hưng là Lêôna đơ Vanhxi ( Leonardo da Vinci), ông là một người Ý. Ông
không những là một hoạ sĩ thiên tài mà còn là một con người thông thái trên nhiều lĩnh vực. Ông đã để lại
những bức hoạ nổi tiếng như Bữa tiệc cuối cùng , Nàng Giôcôngđơ ( La Joconde ), Đức mẹ đồng trinh trong
hang đá. Từ thế kỉ XV, ông đã đưa ra ý tưởng sử dụng cánh quạt đẩy nước cho thuyền thay mái chèo; vẽ ra
nguyên tắc hoạt động của máy bay trực thăng, dù thoát hiểm...nhưng những kĩ thuật hồi đó không cho phép
ông thực hiện những ý tưởng của mình.
Mikenlăngiơ (Michelangelo) ra đời ở Ý(1475-1564). Ông là một danh hoạ, một nhà điêu khắc nổi tiếng,
đồng thời còn là một kiến trúc sư, một thi sĩ. Tác phẩm tiêu biểu của ông là bức hoạ Sáng tạo thế giới vẽ
trên trần nhà thờ Xixtin gồm có 343 nhân vật. Còn bức Cuộc phán xét cuối cùng thì được vẽ trên tường nhà
thờ Xixtin. Về điêu khắc, ông để lại nhiều bức tượng tiêu biểu như pho tượng Môidơ, Ngưòi nô lệ bị trói,
đặc biệt là pho tượng Đavid. Pho tượng Đavid của Mikenlăngiơ được tạc trên đá cẩm thạch cao tới 5,3 mét.
Đavid ở đây không phải là một chú bé chăn cừu mà là một chàng thanh niên đang độ tuổi mười tám đôi
mươi, đang độ tuổi sung sức, với cơ bắp khoẻ mạnh, vầng trán thông minh, ánh mắt tự tin, sẵn sàng đương
đầu với mọi khó khăn thử thách. Mượn hình tượng Đavid, Mikenlăngiơ thể hiện sức sống đang lên của một
lớp người đại diện cho một thời đại mới, thời đại cần những con người khổng lồ và đã sản sinh ra những con
người khổng lồ .
Nghệ thuật thời Phục hưng còn có sự đóng góp của những nghệ sĩ nổi tiếng khác như Raphaen ( Raffaello ),
Giôtô (Giotto ), Bôtixeli ( Botticelli )...
4.2.4. Khoa học tự nhiên:
Thời Phục hưng còn có sự đóng góp của nhiều nhà khoa học dũng cảm, dám chống lại những suy nghĩ sai
lầm nghìn đời đã được giới quyền lực đảm bảo, thừa nhận.

N. Côpecnic ( Nikolai Kopernik - 1473 - 1543 ) là một giáo sĩ người Ba Lan. Qua nhiều năm nghiên cứu,
ông đã đi tới một kết luận đáng sợ hồi đó là: Trái đất quay xung quanh Mặt trời chứ không phải là Mặt trời
quay xung quanh Trái đất. Thuyết Mặt trời là trung tâm đó của ông vậy là trái hẳn với thuyết Trái đất là
trung tâm đã được nhà thờ công nhận hàng nghìn năm. Điều phát hiện này được ông trình bày trong tác
phẩm Bàn về sự vận hành của các thiên thể. Nhưng sợ bị kết tội, ông chưa dám công bố. Mãi tới khi cảm
thấy sắp từ giã cõi đời ông mới công bố.
Gioocđanô Brunô ( Giordano Bruno - 1548-1600 ), là một giáo sĩ trẻ người Ý. Ông tích cực hưởng ứng học
thuyết của Côpecnic khi giáo hội cấm lưu hành. Không những thế, ông còn phát triển thêm tư tưởng của
Côpecnic. Ông cho rằng Mặt trời không phải là trung tâm của vũ trụ mà chỉ là trung tâm của Thái dương hệ.
Trong vũ trụ, bên cạnh Mặt trời còn có nhiều hệ mặt trời khác. Đương nhiên thời đó, ông bị đưa ra toà án
tôn giáo. Toà án hồi đó buộc ông phải công bố lại là đã bị quỉ ám thì sẽ tha tội chết nhưng ông thà chết chứ
không chịu nói trái với niềm tin của mình. Cuối cùng, ông đã bị thiêu trên dàn lửa.
Một nhà thiên văn học người Ý khác là Galilê ( Gallileo Gallilei - 1564-1642 ) tiếp tục phát triển quan điểm
của Côpecnic và Brunô. Ông là người đầu tiên dùng kính viễn vọng phóng to gấp 30 lần để quan sát bầu
trời. Ông đã chững minh là Mặt trăng có bề mặt gồ ghề chứ không phải là nhẵn bóng; Thiên hà là do vô số
vì sao tạo thành. Ông đã giải thích hiện tượng sao chổi. Ông là cha đẻ của khoa học thực nghiêm, phát hiện
ra định luật rơi tự do và dao động con lắc.
Tiến xa hơn, nhà thiên văn học người Đức là Kêplơ ( Kepler - 1571-1630 ) đã phát minh ra ba qui luật quan
trọng về sự vận hành của các hành tinh xung quanh Mặt trời. Ông đã chứng minh rằng quĩ đạo chuyển động
Trang 5


của các hành tinh không phải là hình tròn mà là hình elíp, càng đến gần Mặt trời, vận tốc chuyển động càng
tăng lên và càng xa Mặt trời thì vận tốc chuyển động càng chậm lại.
Triết học cũng có những bước phát triển mới. Người mở đầu cho trường phái triết học duy vật thời Phục
hưng là một người Anh, F. Baicơn ( Francis Bacon - 1561- 1626 ). Ông đề cao triết học duy vật Hy Lạp cổ
đại, phê phán triết học duy tâm và triết học kinh viện.
4.3. Nội dung tư tưởng:
Phong trào Văn hoá Phục hưng tuy danh nghĩa là phục hưng lại sự huy hoàng của văn hoá Hy-La cổ đại, nó
có tiếp thu những yếu tố từ nền văn hoá Hy-La cổ đại, nhưng thực chất đây là một nền văn hoá hoàn toàn

mới, dựa trên nền tảng kinh tế-xã hội mới và hệ tư tưởng của giai cấp tư sản đang lên.
Qua các tác phẩm của mình, các nhà văn hoá thời Phục hưng đã thể hiện những tư tưởng chính sau:
• Phong trào văn hoá Phục hưng chống lại những quan niệm không hợp thời của giáo hội lúc bấy giờ cùng
tầng lớp quí tộc phong kiến. Nhiều tác phẩm văn hoá đã công khai đả kích, châm biếm thói đạo đức giả, dốt
nát của tầng lớp quí tộc, phong kiến. Các nhà văn hoá thời Phục hưng đấu tranh đòi văn hoá phải không bị
kiểm soát bởi nhà thờ.
• Nhiều tác phẩm công khai ca ngợi quyền được sống tự do phóng khoáng, quyền được hưởng thụ. Họ chủ
trương văn hoá phát triển phải lấy mục đích vì hạnh phúc con người; đối tượng ca ngợi phải là con người...
Có thể nói tư tưởng chủ đạo là chủ nghĩa nhân văn (humannisme).
• Phong trào Văn hoá Phục hưng còn ca ngợi tình yêu tổ quốc, tinh thần dân tộc và ý thức các tác phẩm văn
hoá phải hướng về phục vụ tầng lớp bình dân. Vì vậy các tác phẩm văn hoá giai đoạn này phần nhiều không
còn sử dụng chữ Latin mà sử dụng chữ viết riêng của mỗi dân tộc.
• Nhiều nhà văn hoá thời Phục hưng đã dũng cảm chống lại những quan điểm phản khoa học của những thế
lực cầm quyền đương thời, bất chấp sự đe doạ của những hình phạt, kể cả dàn thiêu. Các tác phẩm của họ đã
giáng những đòn quyết liệt vào triết học kinh viện và chủ nghĩa duy tâm đương thời, làm lung lay quyền uy
của các tăng lữ.
• Phong trào Văn hoá Phục hưng là tấm gương phản chiếu sức sống mãnh liệt của xã hội phương Tây lúc đó
và đã đạt được nhiều thành tựu rực rỡ.
4.4. Ý nghĩa:
Phong trào Văn hoá Phục hưng là một cuộc cách mạng trên mặt trận văn hoá, tư tưởng của giai cấp tư sản
đang lên chống lại xã hội phong kiến, để chuẩn bị mở đường cho một cuộc cách mạng xã hội. Phong trào
này đã đặt cơ sở, mở đường cho văn hoá Tây Âu phát triển trong những thế kỉ tiếp theo sau. Phong trào Văn
hoá Phục hưng còn có nhiều đóng góp quan trọng vào kho tàng văn hoá nhân loại.
V. Sự tiến bộ về kỹ thuật
Trải qua một quá trình tích luỹ kinh nghiệm lâu dài, tới thế kỉ XIV - XVI về mặt kĩ thuật ở Tây Âu đã có
những tiến bộ đáng kể, cụ thể trong lĩnh vực khai khoáng, luyện kim, hàng hải và chế tạo vũ khí.
Thời trung đại, hầu như mọi việc đều làm bằng tay, năng lượng con người sử dụng lúc đó chỉ có sức gió và
sức nước. Vì vậy, việc cải tiến nguồn nước thế kỉ XIV đóng một vai trò rất quan trọng. Lúc đầu, người ta đặt
guồng nước cạnh sông để lợi dụng sức nước chảy quay guồng. Đương nhiên nhà máy cũng phải xây kề mép
nước. Đến thế kỉ XIV, khi để quay guồng nước người ta đã biết làm những con kênh dẫn nước từ trên cao đổ

vào các máng đặt trên guồng nước. Điều đó tạo ra năng lượng lớn hơn và nhà máy không nhất thiết phải kề
các con sông tự nhiên và cũng sẽ an toàn hơn.
Trong nghề khai khoáng, người ta cũng đã biết dùng máy bơm chuyển động do các guồng nước để hút nước
từ các hầm lò lên. Các công đoạn rửa quặng, nghiền quặng cũng được cơ giới hoá.
Nghề luyện kim cũng bắt đầu được cơ giới hoá nhờ sức nước. Nhiều lò nấu quặng cao tới 2 mét, 3 mét được
thông gió nhờ quạt chạy bằng guồng nước, thay thế cho những lò nhỏ quạt tay hay lợi dụng gió tự nhiên
Trang 6


trước kia. Búa máy sử dụng sức nước cũng bắt đầu được sử dụng. Máy khoan, máy mài cũng lần lượt ra
đời.
Ngành dệt cũng có những cải tiến. Một số xa kéo sợi được cải tiến, đạp bằng chân chứ không quay bằng tay
như trước kia. Khung cửi nằm ngang cũng đã thay thế cho khung cửi đứng trước kia. Chủng loại, màu sắc
hàng dệt cũng phong phú hơn.
Kĩ thuật quân sự cũng có những bước tiến lớn nhờ kĩ thuật luyện kim. Nòng đại bác được đúc bằng thép dày
hơn, lớn hơn. Đạn bằng gang đã thay thế đạn bằng đồng, bằng đá trước kia và còn nổ lần nữa khi chạm mục
tiêu vì vậy có sức công phá lớn hơn. Tới thế kỉ XVI, súng bộ binh đã có qui lát thay thế cho dây dẫn lửa. Áo
giáp, mũ trụ của kị sĩ trở nên mất tác dụng trước những vũ khí mới này. Điều này tất yếu dẫn tới những thay
đổi trong chiến thuật quân sự.
Trong ngành hàng hải, người ta cũng đã đóng được những con tàu đáy nhọn có khả năng vượt đại dương,
mỗi tàu đều có trang bị la bàn, thước phương vị để xác định vị trí trên biển. Giai đoạn này nghề làm đồng hồ
cơ khí và nghề in cũng xuất hiện. Những tiến bộ về mặt kĩ thuật đã làm năng suất lao động tăng hẳn lên, tạo
điều kiện cho kinh tế tư bản phát triển.
VI. Sự ra đời của đạo Tin Lành
6.1. Hoàn cảnh lịch sử:
Thời kì trung đại, giáo hội Thiên chúa là một thế lực thống trị về mặt tư tưởng đầy quyền uy. Giáo hội còn
được sự ủng hộ của các lãnh chúa phong kiến. Sang thế kỉ XVI, giai cấp tư sản muốn loại bỏ những điều
trong giáo lí không phù hợp với cuộc sống kinh doanh của mình, họ muốn những giáo lí phải phù hợp với
trào lưu kinh doanh và lối sống của những người giàu có mới nổi lên. Đó là nguyên nhân sâu xa làm bùng
nổ ra phong trào cải cách tôn giáo ở Tây Âu thế kỉ XVI.

6.2. Phong trào cải cách tôn giáo và sự ra đời của đạo Tin lành:
Đầu thế kỉ XVI, phong trào cải cách tôn giáo diễn ra ở ba nơi: Đức, Thuỵ Sĩ và Anh.
6.2.1. Cải cách tôn giáo ở Đức:
Người khởi xướng ra phong trào cải cách tôn giáo ở Đức là Martin Luther ( 1483 - 1546 ), ông là con một
thợ mỏ nghèo ở Thirighen được học trở thành luật sư. Năm 1517, ông đã viết “Luận văn 95 điều” dán trước
cửa nhà thờ của trường đại học vitenbec tố cáo việc mua bán thẻ miễn tội hồi đó. Trong “Luận văn 95 điều”
ông cho rằng việc mua bán thẻ miễn tội là giả dối, chỉ làm lợi cho những người lợi dụng nó. Ông cho rằng
chỉ cần lòng tin vào Đức Chúa là sẽ được cứu vớt, ngay cả những nghi lễ phức tạp, tốn kém cũng không cần
thiết. Phong trào đòi cải cách tôn giáo ở Đức đã diễn ra rất quyết liệt. Rất nhiều người nông dân đã ủng hộ
những tư tưởng của Martin Luther và xảy ra xung đột với giáo hội. Đến năm 1555, những tư tưởng của
Luther đã được công nhận. Tôn giáo cải cách của Luther từ Đức đã lan sang nhiều nước Châu Âu khác.
6.2.2. Cải cách tôn giáo ở Thuỵ Sĩ:
Đại biểu cho phong trào cải cách tôn giáo ở Thuỵ Sĩ là Can Vanh ( Jean Calvin). Năm 1536 Calvin cho xuất
bản cuốn “Thiết chế Cơ Đốc”. Trong tác phẩm đó, ông thừa nhận thượng đế và thuyết tam vị nhất thể nhưng
chỉ chấp nhận có kinh Phúc âm. Ông phê phán việc tu hành khổ hạnh và cho rằng cái quan trọng nhất là
lòng tin. Ông cũng chủ trương khuyến khích việc làm giàu. Calvin chủ trương giảm bớt những nghi lễ phiền
phức, tốn kém. Điểm quan trọng của thuyết Calvin là thuyết định mệnh. Ông cho rằng số phận con người do
Chúa Trời đã định trước, việc bỏ ra một ít tiền mua thẻ miễn tội không giải quyết được gì. Như vậy là ông
chống lại việc bán thẻ miễn tội, cho đó chỉ là một trò lừa bịp. Cải cách tôn giáo ở Thuỵ Sĩ đã được đông đảo
mọi người ủng hộ. Giơnevơ ( Genève) trở thành trung tâm phong trào cải cách tôn giáo ở Tây Âu.

Trang 7


6.2.3. Cải cách tôn giáo ở Anh:
Từ đầu thế kỉ XVI, kinh tế tư bản đã phát triển khá mạnh ở Anh. Giai cấp tư sản lớn mạnh muốn có một tôn
giáo mới phù hợp với cuộc sống và công việc kinh doanh của họ. Lúc đó nhà thờ ở Anh còn chiếm khá
nhiều ruộng đất. Vua Anh cũng muốn lấy lại một phần ruộng đất của nhà thờ và loại bỏ ảnh hưởng của giáo
hội Rôma đối với vương quyền. Nhân việc Giáo hoàng phản đối việc bỏ vợ của vua Anh lúc đó là Henri
VIII, Henri VIII đã ban “Sắc luật về quyền tối cao” vào năm 1534, tuyên bố cắt đứt quan hệ với giáo hội

Rôma và thành lập một giáo hội riêng gọi là Anh giáo.
Anh giáo do vua Anh làm giáo chủ, nhưng mọi giáo lí, nghi lễ, phẩm hàm thì vẫn giống như đạo Thiên
Chúa. Các giáo phẩm thì do vua Anh bổ nhiệm, mọi ruộng đất của giáo hội Rôma bị chính quyền tịch thu.
Anh giáo như vậy chưa đáp ứng được yêu cầu của giai cấp tư sản. Tư sản Anh cần có cải cách triệt để hơn,
điều đó đã dẫn tới Thanh giáo ( tôn giáo trong sạch). Thanh giáo xoá bỏ hết tàn dư của đạo Thiên Chúa, đơn
giản hoá các nghi lễ, cắt đứt quan hệ với Anh giáo. Họ thành lập một hội đồng riêng, cầm đầu là các trưởng
lão do các tín đồ bầu ra.
Như vậy thế kỉ XVI ở Tây Âu có nhiều giáo phái mới đã ra đời. Các giáo phái này ở các nước khác nhau,
giáo lí cụ thể có điểm không giống nhau nhưng đều giống nhau một điểm là đơn giản hoá các nghi lễ, cắt
đứt quan hệ với Giáo hoàng và toà thánh Rôma. Họ chỉ tin vào kinh Phúc âm. Chữ Phúc âm có nghĩa là tin
mừng, tin lành, nên sau này người ta gọi tôn giáo mới là đạo Tin lành.
CÁC QUỐC GIA PHONG KIẾN TÂY ÂU THỜI TRUNG KỲ TRUNG ĐẠI (V-VII)
I. SỰ THÀNH LẬP CÁC VƯƠNG QUỐC MANTỘC CỦA NGƯƠI ÌGERMAN TRÊN LÃNH THỔ
ÐẾ QUỐC TÂY LA MÃ
Người German là những bộ tộc lớn, thuộc chủng tộc ARIAN ( hay Ấn-Âu ), đã đến sinh sống trên vùng biên
giới phiá Bắc và Ðông Bắc La mã từ nhiều thế kỷ trước.
Thế kỷ thứ I BC, người German còn sống trong tình trạng lang thang du mục, sống chủ yếu nhờ săn bắn và
chăn nuôi cùng với nông nghiệp đốt rẫy. Ruộng đất là của chung của thị tộc.
Sang thế kỷ I, người German sống định cư, lập thành thôn xóm, sống chủ yếu nhờ nông nghiệp.Thế kỷ IV ,
V họ bắt đầu tiến bộ. Về nông nghiệp, họ đã có cày bằng lưỡi sắt do súc vật kéo. Về thủ công, đã có các
ngành kim khí, dệt, đồ gốm. Sở hữu ruộng đất vẩn thuộc tập thể thị tộc, nhưng đã giao quyền sử dụng cho
từng gia đình cá thể, chứ không phải cộng đồng gia tộc lớn như trước.
Do sự phát triển kinh tế cùng với sự gia tăng dân số, người German có nhu cầu mở rộng đất đai để sinh
sống, nên từ thế kỷ thứ III , một số bộ lạc của người German đã di cư vào bên trong đế quốc La mã ( như bộ
lạc của người Wisigoths, Franc,....) và nhận làm đồng minh của người La mã.
Như vậy, lãnh thổ La mã không còn đóng kín đối với các bộ lạc của người German nữa.
Giữa thế kỷ IV, các bộ lạc du mục Hung nô ào ạt xông vào cườp phá Ðông và Nam Âu, làm cho các bộ lạc
thuộc tộc German vội vã di cư vàobên trong đề quốc La mã ( lịch sử gọi là cuộc di chuyển lớn của các tộc,
kéo dài suốt 2 thế kỷ IV - V ).
Lúc nầy đế quốc La mã bắt đầu suy yếu, giai cấp chủ nô La mã lại tăng cường áp bức bóc lột, làm cho

những người German ở bên kia biên giới nhiều lần liên kết với nô lệ và lệ nông khởi nghiã.
Kết qủa là hầu hết đất đai của La mã bị những người Man tộc chiếm đoạt, và họ lập ra những vương quốc
Man tộc : Wisigoths , Vandanes , Burgondes , France và Anglo - sachxon. ( tất cả các vương quốc nầy đều
thuộc tộc German )
Ðến năm 476, viên tướng Man tộc chỉ huy quân cấn vệ của hoàng đế La mã là Odoacre đã phế bỏ vị hoàng
đế cuối cùng của đế quốc Tây La mã là Romulus Augustulus và xóa bỏ bộ máy chính quyền tối cao của đế
quốc La mã. (sự kiện này đánh dấu sự diệt vong của đế quốc Tây La mã, đồng thời cũng thủ tiêu chế độ
chiếm hữu nô lệ ở Tây âu)
1- Tình hình tây âu sau khi đế quốc LA MÃ diệt vong
Trang 8


KINH TẾ :
Ruộng đất được đem chia cho các gia đình cá thể, các thành viên thị tộc không sống theo quan hệ huyết
thống nữa, mà sống theo quan hệ láng giềng và lập nên các công xã nông thôn Mác-cơ (Mark).
CHÍNH TRỊ
Ðể bảo vệ đất đai và thống trị đất nước, người German đã lập chính quyền và củng cố chính quyền. Thủ lĩnh
quân sự tối cao được gọi là vua, vua mang đất đai và lệ nông ban tặng cho các tùy tùng, một số quan chức
trước kia của chính quyền La mã cũng được sử dụng để gíup việc cho chính quyền. Tất cả trở thành qúi tộc
mới.
Ðất vua ban tặng cho qúi tộc gọi là Thái ấp, nên chế độ nầy gọi là chế độ Phong hầu kiến ấp, nhà nước đó
gọi là nhà nước Phong kiến tảo kỳ .
XÃ HỘI :
Sự phân hóa giai cấp và tài sản của người German khá rõ rệt ngay sau khi các vương quốc Man tộc mới
thành lập. Thời kỳ nầy xã hội có hai hình thái kinh tế :
- Kinh tế công xã nông thôn Mark [ là tổ chức hoá độ từ chế độ CXNT sang xã hội có giai cấp và nhà
nước .
- Kinh tế thái ấp của bọn qúi tộc German [ sử dụng sức lao động của lệ nông, là sự kế thừa mầm mống của
chủ nghiã PK đã có từ thời CHNL ].
Với hai hình thái trên, nó chưa đại diện cho phương thức sản xuất PK, mà chỉ là hình thái tiền PK đến khi

chủ nghĩa PK phát triển lên, nó được thay thế bằng PTSXPK điển hình, đó là chế độ Phong kiến - nông nô.
2 - Sự ra đời và phát triển của vương quốc FRANCE
a - Sự thành lập nhà nước :
Vào thế kỷ thứ III, bộ tộc France đã đến định cư ở vùng biên giới Ðông bắc đế quốc Tây La mã và hạ lưu
hữu ngạn sông Rinh. Ðến thế kỷ IV - V , họ vượt sông Rinh xâm nhập vào vùng Ðông Bắc xứ Gaule và
nhận làm đồng minh của đế quốc Tây La mã. ( khi vị hoàng đế La mã bị phế bỏ, thì tại Gaule chính quyền
La mã vẫn còn , do một thống đốc La mã là Syarius thống trị) . Ðến khi chính quyền La mã suy tàn, thì bọn
qúi tộc France liên kết với nhau bầu Clovis làm tổng chỉ huy, tiến hành chiến tranh xâm lược xứ Gaule.
Năm 486, Clovis đánh bại Syarius, chiếm Gaule và thành lập lên các công xã nông thôn Mark. (Clovis
chiếm đoạt riêng cho mình nhiều đất đai và đem ban tặng cho bọn qúi tộc France, nhiều chủ nô La mã đã
ngã theo Clovis cũng được ban tặng). Ðể bảo vệ đất đai, Clovis đã ban hành bộ luật Saliens. Ðây là bộ luật
củng cố sự bất bình đẳng trong xã hội. [ qua câu chuyện cái bình Sachxon].
Trong xã hội ngoài hai giai cấp chính : Ðịa chủ qúi tộc và nông dân công xã, còn tồn tại khá nhiều nô lệ và
lệ nông.
Xã hội vương quốc France bao gồm hai thành phần :
- Thống trị : Vua, qúi tộc quan tòa, Tăng lữ giáo hội, Quân đội vệ binh.
- Bị trị : Nông dân tự do, Nô lệ và lệ nông.
Sự phát triển quan hệ PK ở vương quốc FRANCE
Vương triều MÉROVINGIENS
đầu tiên của vương quốc France, đã sáng lập ra triều đại Mérovingiens. Ðể cũng cố triều đại, Clovis tăng
Trang 9


cường mở rộng lãnh thổ bằng cách xâm chiếm và chinh phục các bộ lạc chung quanh. Ðồng thời Clovis tiếp
thu tín ngưỡng Cơ đốc giáo và cưỡng bức tất cả những người France phải tin theo, dần dần tăng lữ của giáo
hội cơ đốc giáo trở thành đẳng cấp có đặc quyền và trở thành một bộ phận của giai cấp thống trị.
Cuối thế kỷ VII đầu thế kỷ VIII , quyền lực của nhà vua bắt đầu yếu ớt, trước tình hình đó, Charles Martel là
thừa tướng cuối triều Mérovingiens đã đề ra một cải cách gọi là cải cách BÉNEFICIUM ( nghiã là vật ban
cấp )
MỤC ÐÍCH CẢI CÁCH :

* Hạn chế quyền lực của bọn qúi tộc địa phương.
* Tập trung quyền lực vào tay nhà vua để đối phó với các bộ lạc và những quốc gia chung thường xuyên
đến cướp phá vương quốc ( nguy hiểm nhất là quân đội Hồi giáo ẢRập)
NỘI DUNG CẢI CÁCH :
Charles Martel thi hành hình thức ban cấp ruộng đất kèm theo điều kiện phục vụ quân sự gọi là Béneficium.
Theo hình thức nầy, người được hưởng ruộng đất phải ký một bản giao kèo là thề trung thành với Vua, theo
đó phải thực hiện nghiã vụ 40 ngày/năm, tham dự những buổi họp quan trọng. Ngược lại Vua phải bảo vệ
tính mạng và kinh tế cho người được phong.
HẬU QỦA :
- Hình thành đẳng cấp phong kiến quân sự, giữa các đẳng cấp có sự lệ thuộc lẫn nhau.
- Làm cho nông dân phá sản nhiều hơn.
- Làm cho nông dân phá sản nhiều hơn.
Tóm lại : Nhờ thi hành chính sách đất phong Béneficium, mà Charles Martel đã liên tiếp đánh thắng quân
thù, đặt biệt là đã đánh bại được quân đội ẢRập trong trận đại chiến ở Poitiers năm 732, chặn được bước
tiến của quân Aírập vào sâu nội địa Tây âu.
C- Vai trò của giáo hội Cơ đốc giáo :
Trong sự phát triển của vương quốc France, giáo hội cơ đốc giáo đã gớp phần quan trọng thúc đẩy quan hệ
PK. Giáo hội được Vua ban tặng nhiều ruộng đất và nông nô. Nhân dân lao động vì mê tín, nên cũng đã
mang tài sản của mình hiến cho nhà thờ để nhận sự bảo hộ của nhà thờ và trở thành nông nô.
Cơ cấu của giáo hội Cơ đốc giáo Tây âu được tổ chức như sau :
II - SỰ THÀNH LẬP VÀ TAN RÃ CỦA ÐẾ QUỐC CHARLEMAGNE SỰ RA ÐỜI CỦA 3 QUỐC
GIA PHÁP - ÐỨC - Ý
1 - Vương triều CAROLINGIEN & Ðế quốc CHARLEMAGNE :
Vào khoảng thế kỷ VIII, bọn qúi tộc France thấy rằng đất đai trong nội địa không đủ để chúng mở rộng, vì
vậy chúng muốn bành trướng ra bên ngoài để chiếm đoạt ruộng đất và nông nô, nên đã ủng hộ PEPIN lùn
( Pepin Le Bref ) lật đổ vương triều Mérovingien lập ra triều Carolingien.
Ðến năm 768, con của Papin là Charlemagne lên kế vị, đã đưa vương quốc France đến chổ cực thịnh. Chính
sách của Ông là dựa vào bọn qúi tộc PK và giáo hội Thiên Chúa giáo. Trong 46 năm cầm quyền,
Charlemagne đã tiến hành 55 cuộc viễn chinh lớn nhỏ chinh phục khắp nơi. Kết qủa là Ông đã thành lập
được một đế quốc Charlemagne rộng lớn, biên giới chạy dài từ sông Ebre ( Tây Ban Nha ) đến sông Elbe

( Ðức ) [ Bao gồm Ðức, Pháp, Bỉ, Hà lan , Aïo và một phần nước Ý ngày nay]. Ðến năm 800, Giáo hoàng
chính thức làm lễ lên ngôi Hoàng đế cho Charlemagne.

Trang 10


2 - Sự tan rã của đế quốc Charlemagne .
Sự ra đời của 3 quốc gia Pháp - Ðức - Ý :
- Nguyên nhân :
* Thiếu yếu tố kinh tế và yếu tố dân tộc thống nhất.
* Bọn qúi tộc địa phương luôn chống đối chính quyền trung ương.
* Người thừa kế Charlemagne bạc nhược không đủ khả năng cai trị đất nước .
- Diễn tiến :
Sau khi Charlemgne chết (814), con là Louis Mộ Ðạo lên thay thấy không đủ khả năng cai trị đất nuớc, nên
đã chia vương quốc ra làm 3 phần giao cho 3 người con cai trị. Thế nhưng do bọn lãnh chúc địa phương xúi
giục, nên 3 anh em liên tục đánh nhau , đến năm 843, ba anh em ký với nhau hiệp ước Verdun ( ngày nay
thuộc Pháp) chia đế quốc ra làm 3 phần.
- Anh cả LOTHAIRE, giữ phần Trung bộ của vương quốc , trong đó có hai kinh đô là Aix - La - Chappelle
& La mã , hình thành nên quốc gia PK Ý.
- Người thứ hai LOUIS LE GERMANIQUE ( Louis xứ Ðức ) , cai trị phần Ðông bộ của vương quốc [ đông
France ], lập nên quốc gia PK ÐỨC .
- Em út CHARLES LE CHAUVE ( Charles Ðấu Hói ) chiếm phần Tây bộ của vương quốc, lập nên quốc gia
PK PHÁP.
Ðây là 3 quốc gia phong kiền phân tán, nên quyền lực của nhà Vua bị thu hẹp lại trong lãnh địa của mình.
HẬU QỦA :
Chiến tranh thường xuyên xãy ra giữa các nước và giữa bọn qúi tộc lãnh chúa ở mỗi nước, tạo điều kiện cho
các bộ tộc và những quốc gia lận cận đến cướp phá.
Lãnh chuá địa phương lợi dụng tình hình , nên tăng cường xây dựng quyền lực tự trị , biến đất phong thành
cha truyền con nối , tăng cường cướp bóc dân chúng, buộc họ phụ thuộc vào mình và chẳng bao lâu những
người nông dân đã biến thành nông nô.

Qúa trình phong kiến hóa đến đây là hoàn thành.
III - TÌNH HÌNH KINH TẾ CHÍNH TRỊ XÃ HỘI CỦA CÁC QUỐC GIA PHONG KIẾN TÂY ÂU
THỜI SƠ KỲ TRUNG ÐẠI
1- Tình hình kinh tế và tổ chức lãnh địa phong kiến
a- Kinh tế:
Kinh tế tự nhiên chiến địa vị thống trị, nông nghiệp và chăn nuôi là những ngành sản xuất chủ yếu. Riộng
đất là tư liệu sản xuất chính, thủ công nghiệp phụ thuộc vào nông nghiệp. Hình thức sản xuất - tiêu thụ là tự
cung tự cấp, người sản xuất chính là nông nô.
b - Lãnh địa phong kiến :
Toàn bộ hoạt động kinh tế trong xã hội phong kiến sơ kỳ đều tập trung ở các lãnh địa phong kiến.
_ Lãnh địa phong kiến là một khu vực đất đai khá rộng lớn, bao gồm : ruộng đất , đồng cỏ, rừng rú, ao hồ,
sông đầm, bãi hoang,...
_ Quyền sở hữu lãnh địa thuộc về qúi tộc vũ sĩ ( Vua và qúi tộc chư hầu) hay qúi tộc tăng lữ ( giáo hoàng,
giám mục và tu sĩ) .
Trang 11


_ Chủ của lãnh địa là lãnh chúa, lãnh địa có quyền thừa kế, người sản xuất chính trong lãnh địa là nông nô,
nông nô phải nộp tô lao dịch và những cống vật cho lãnh chúa.
2 - Chính trị :
Thời kỳ nầy về cơ bản là chế độ phong kiến phân quyền, nên quyền lực của nhà Vua thật nhỏ bé, quyền lực
thực tế nằm trong tay lãnh chúa phong kiến. Ðặc biệt kề từ khi có luật Miễn trừ các lãnh chuá thật sự trở
thành các ông vua con. Quốc gia bị chia thành những công quốc, bá quốc ( thực chất những công quốc hay
bá quốc là những quốc gia thật sự ) . Tuy nhiên giữa các lãnh chuá lớn nhỏ có mối quan hệ nhất định. Lãnh
chúa nầy có thể là phong quân của lãnh chúa kia, đồng thời là chư hầu của lãnh chúa khác.
3 - Xã hội :
Xã hội phong kiến có hai gia cấp cơ bản : Lãnh chúa và nông nô .
Nông nô : người sản xuất chính trong xã hội, chiếm hữu tư liệu sản xuất, có kinh tế riêng nhưng bị gắn chặt
vào ruộng đất, nên hoàn toàn phụ thuộc vào lãnh chúa phong kiến về thân thể, tư pháp.
CÁC QUỐC GIA PHONG KIẾN TÂY ÂU THỜI TRUNG KỲ TRUNG ĐẠI ( XI - XV )


I -THÀNH THỊ VÀ CÔNG THƯƠNG NGHIỆP TÂY ÂU
1- Sự ra đời của thành thị
- Thế kỷ XI, kinh tế Tây âu có một bước phát triển đáng kể
* Trong nông nghiệp :
Rừng rậm được khai phá, đầm lầy được tát cạn, nên diện tích canh tác được mở rộng. Phương pháp canh tác
được cải tiến ( luân canh 3 khu, dùng cày nặng có bánh xe, sử dụng phân bón,...) nên thu hoạch tăng ( đạt 5,
6 lần thóc giống).
* Trong chăn nuôi :
Số lượng Bò, Ngựa tăng lên nhiều. Ðặc biệt nuôi cừu để lấy lông dệt dạ.
* Trong thủ công nghiệp :
• Nghề khai thác quặng, chế tạo đồ sắt ( công cụ sản xuất và vũ khí)
• Nghề làm đồ gốm cũng phát triển, làm xuất hiện những người làm nghề thủ công riêng biệt.
Như vậy, nhờ sự phát triển của nến kinh tế, thủ công nghiệp dần dần tách ra khỏi nông nghiệp, tuy nhiên
những người thợ thủ công vẫn là nông nô và sống trong lãnh địa, nên phải nộp tô thuế cho lãnh chúa.Vì thế
những người thợ thủ công bắt đầu rời khỏi lãnh địa bằng cách chuộc lại tự do thân thể hoặc bỏ trốn. Họ tìm
đến những nơi thuận lợi như ngã ba sông, ngã tư đường, những chân tường của nhà thờ, tu viện,... mở
xưởng thủ công để việc trao đổi mua bán được dễ dàng.
Những ngành thủ công sớm thoát khỏi nông thôn và lãnh địa là những ngành luyện kim, dệt dạ, làm đồ gốm,
thuộc da, xây dựng,...Những ngành nầy yêu cầu kỹ thuật cao, cần phân công chuyên môn hóa và cần đông
người , nên sớm tập trung lại.
Những nơi tập trung những người thợ thủ công dần dần lập thành thành thị.
Thành thị trung đại có 3 loại :
- Thành thị mới : Do những người thợ thủ công thoát ly khỏi nông thôn lập nên
- Thành thị cổ : Thành thị có từ thời cổ đại được phục hồi lại
- Thành thị do lãnh chuá qúi tộc phong kiến xây dựng lên cho thị dân thuê.
Các thành thị đều có thành lũy và tháp canh bao bọc chung quanh ( để ngăn ngừa chiến tranh và cướp bóc).
Trong thành thị được hcia thành nhiều khu phố, mỗi khu phố tập trung những người thợ thủ công cùng
Trang 12



ngành nghề. Nhà cửa trong thành thị thì nhỏ bé, lụp xụp, đường phố chật hẹp bẩn thỉu. Ngoài ra trong thành
thị còn có những khu chợ, nhà thờ, tòa thị chính....là những nơi tập trung công cộng.
2- Hoạt động của thành thị
Cư dân sống trong thành thị gọi là thị dân (gồm thợ thủ công tự do, thương nhân tự do) . Trong buổi đầu
hoạt động của thành thị gặp khó khăn do thành thị còn nằm dưới quyền thống trị của lãnh chúa PK.
Dần dần về sau hoạt động của thành thị ngày càng phồn thịnh, dân cư ở nông thôn kéo lên thành thị ngày
càng nhiều, làm cho đất đai trong thành thị chật hẹp, cư dân phải xây dựng nhà cửa bên ngoài thành lũy.
Như vậy thành thị ngày càng được mở rộng theo hình tròn đồng tâm.
Hoạt động thủ công nghiệp :
Thành thị là nơi sản xuất hàng hóa chủ yếu của xã hội phong kiến. Sản phẩm được chế tạo tại các xưởng thủ
công của thợ thủ công.
Xưởng thủ công có qui mô nhỏ, lao động hoàn toàn bằng tay với những công cụ thô sơ, đơn giãn.
Mỗi xưởng thủ công có 1 thợ Cả ( thợ chính ) và vài ba thợ học việc ( thợ bạn ). Họ phải tự cung cấp nguyên
vật liệu, dụng cụ và tự tiêu thụ hàng hóa. Quan hệ giữa thợ bạn và thợ cả là quan hệ hợp tác thầy trò hay gia
trưởng.
Những người thợ thủ công cùng sản xuát một loại hàng hóa ở trong cùng một thành thị thì tập hợp lại trong
một tổ chức gọi là phường hội.
Phường hội lập ra nhằm mục đích :
- Giữ độc quyền sản xuất và tiêu thụ sản phẩm
- Ðảm bảo quyền lợi giữa những người thợ thủ công cùng ngành nghề
- Ngăn cản những người thợ thủ công không có chân trong thành thị cùng làm nghề thủ công đó.
- Ðấu tranh chống lại sự sách nhiễu của lãnh chúa PK.
Mỗi phường hội có một qui chế riêng gọi là phường qui . Tức những điều khoản bắt buộc người thợ phải
thực hiện trong qúa trình sản xuất hàng hóa như :
- Qui định mỗi xưởng có mấy thợ.
- Mỗi ngày làm mấy giờ , dùng những công cụ sản xuất và nguyên vật liệu gì.
- Quy cách, chất lượng, giá cả sản phẩm,...
Phường hội ngoài là một tổ chức đoàn thể (có cờ hiệu) nó còn là một tổ chức quân sự (mỗi phường hội là
một dội tự vệ để bảo vệ thành thị)

Hoạt động thương mại :
Trong buổi đầu của thành thị, hàng hóa được bày bán ở cửa hàng (đồng thời cũng là nhà ở của thợ thủ
công), nên việc buôn bán chậm chạp,khó khăn.
Dần dần về sau xuất hiện tầng lớp thương nhân bao mua , họ đem hàng hó từ thành thị nầy đến thành thị
khác hoặc về nông thôn đề bán hay trao đổi những sản phẩm khác.
Ðến thế kỷ XIII, thương mại mới bắt đầu phát triển, xuất hiện con đường buôn bán giữa các nước, nhiều
đường bộ, đường sông chạy ngang dọc khắp Châu âu và từ Âu sang Á. Ðường biển cũng phát triển, xuất
hiện nhiều hải cảng sầm uất từ Ðịa trung hải đến Hắc hải.
Ðể thuận tiện trong việc buôn bán, thương nhân Tây âu lập ra một tổ chức gọi là Hanse (thương hội)
Mục đích của Hanse :
Giúp đở nhau vận chuyển, bảo vệ dọc đường đi.
Ðiều chỉnh chế độ tiền tệ, cân đo lường.
Nắm độc quyền thương mại ở những khu vực nhất định.
Trang 13


Ðể thuận tiện cho việc buôn bán quốc tế, thương nhân còn mở hội chợ (hay chợ phiên). Hội chợ mở tại một
địa điểm cố định, thương nhân các nước mang hàng đến bán , trao đổi, đặt hàng. Hội chợ còn xuất hiện
những quầy đổi tiền và nhận chuyển tiền
3 - Ðấu tranh của thành thị chống lãnh chúa phong kiến
Thành thị khi mới ra đời đều nằm trên lãnh thổ của lãnh chúa PK. Do đó thành thị bị lệ thuộc vào lãnh chúa
phong kiến và bị lãnh chúa sách nhiễu mọi thứ : đóng thuế thân, đi sưu dịch, binh dịch, bị xét sử bất công,...
Ðể hạn chế sự phụ thuộc vào lãnh chúa, thị dân đã lập nên những hội nghề nghiệp (Phường hội cúa thợ thủ
công, Hanse của thương nhân) nhưng không mấy kết qủa.
Vì vậy, trên lãnh thổ thành thị những mâu thuẫn giai cấp của chế độ phong kiến trở nên gay gắt cực độ :
- Thị dân giàu không chịu đựng nổi sự tùy tiện của bọn phong kiến.
- Dân nghèo chống lại nạn lao dịch và sưu thuế, chống cướp đoạt và hạch sách về tòa án.
Tất cả những điều đó dẫn đến chổ bùng nổ cuộc đấu tranh giai cấp. Từ cuối thế kỷ XI, gọi là những cuộc
cách mạng công xã và tiếp diễn trong các thế kỷ XII , XIII.
Hình thức đấu tranh :

Ôn hòa : Thành thị bỏ tiền ra nộp cho lãnh chúa để chuộc lại tự do cho thành thị
(hình thức nầy tránh cho thị dân khỏi đổ máu và thành thị khỏi bị tàn phá)
Vũ trang : Do thái độ tham lam của lãnh chúa, một số thành thị đã tiến hành
đấu tranh vũ trang (điển hình là thành thị Laon ở Bắc Pháp )
Kết qủa :
Qua đấu tranh lâu dài có hàng loạt thành thị được giải phóng khỏi quyền lực của lãnh chuá phong kiến , và
những công xã hay quốc gia thành thị ra đời. ( Các công xã nầy có toàn quyền về chính trị, được tự do về
kinh tế)
Chính quyền thành thị lúc đầu do toàn thể thị dân bầu ra, nhưng chẳng bao lâu, chính quyền đó trở thành
độc quyền của một số thị dân giàu có (thương nhân, bọn cho vay lãi, chủ nhà đất lón, chủ xưởng,..) , bọn
nầy có ưu thế về tiền bạc và có nhiều mánh lới về chính trị nên dễ dàng nắm được chính quyền và dần dần
trở thành Thị dân qúi tộc hay Qúi tộc thành thị , họ thi hành nhiều chính sách hẹp hòi, bất công, gây thiệt hại
cho thị dân lớp dưới.
4- Tác dụng của thành thị trong xã hội phong kiến TÂY ÂU
Thành thị không những đóng vai trò quan trọng về hoạt động công thương nghiệp, tham gia tích cực vào đời
sống chính trị của xã hội phong kiến, thúc đẩy sự phát triển của nền văn hóa giáo dục mà còn có tác động
lớn đến nông thôn phong kiến..
a- Thành thị thúc đẩy kinh tế phát triển .
b- Thành thị ra đời làm thay đổi tình trạng xã hội và tăng cường đấu tranh giai cấp.
c - Thành thị ra đời gớp phần chống phong kiến phân tán , giải phóng nông nô, thúc đẩy nhanh qúa trình
chuyển biến từ chế độ phong kiến phân quyền sang tập quyền.
d- Thành thị ra đời , thúc đẩy sự phát triển của văn hóa và giáo dục.
Như vậy, thành thị trung đại tuy còn nằm trong khuôn khổ của chế độ phong kiến, nhưng nó đã phát huy tác
dụng đối với chế độ phong kiến, thúc đẩy chế độ phong kiến phát triển lên.
II - GIÁO HỘI THIÊN CHÚA GIÁO & PHONG TRÀO VIỄN CHINH CHỮ THẬP
1- Tổ chức của thiên chúa giáo
Trang 14


- Ở thời sơ kỳ trung đại , giáo hội cơ đốc giáo ở Tây âu, đã trở thành lãnh chúa lãnh phong kiến lớn nhất Tây

âu. (Chiếm hữu 1/3 tổng số ruộng đất Tây âu,có hàng vạn nông nô phụ thuộc.)
- Từ năm 1054, giáo hội cơ đốc giáo phân hóa thành hai giáo phái riêng lẽ.
+ Giáo hội Thiên chúa giáo ở Tây âu do giáo hoàng La mã đứng đầu.
+ Giáo hội Cơ đốc giáo chính thống ở Ðông âu, đứng đầu là hoàng đế Bizantium.
2- Phong trào viễn chinh chữ thập
a- Nguyên nhân :
+ Sâu xa :
Do kinh tế ngày càng phát triển, nên nhu cầu của bọn qúi tộc ngày càng tăng lên. Họ có tham vọng về một
phương Ðông giàu có.
Thương nhân Tây âu vốn vấp phải đối thủ có thế lực, đó là thương nhân Ả rập và thương nhân thổ nhĩ kỳ.
Họ muốn có cuộc viễn chinh đông phương để tiêu diệt kể cạnh tranh của mình.
Nông dân Tây âu vốn bị qúi tộc PK áp bức bóc lột nặng nề, họ tham gia thập tự chinh với ý đồ tìm một nơi
sống tốt ở phương Ðông để thoát khỏi cảnh sống cơ cực.
+ Trực tiếp :
Vào nững năm đầu thế kỷ XI, quân đội Hồi giáo Turk-Seljuk đe dọa Bizantium và chiếm đóng kinh thành
Jerusalem, đồng thời ngược đãi những tín đồ Tây âu sang viếng mộ Chúa. Trước tình hhình đó, hoàng đế
Bizantium cầu cứu giáo hoàng La mã giúp đở để chống lại Turk- Seljuk .Ðáp lời kêu gọi của hoàng đế
Bizantium, tháng 11 năn 1095 giáo hoàng Urbain II triệu tập hội nghị ở Clermont (Pháp) , kêu gọi và đứng
ra tổ chức cuộc chiến tranh tôn giáo để giải phóng đát thánh Jerusalem.
b- Tính chất và thành phần tham gia :
Ðây là những cuộc xâm lược cướp bóc, nhưng được ngụy trang bởi cái võ tôn giáo.Thành phần tham gia
gồm giai cấp phong kiến, thị dân ,nông dân.
c - Diễn biến :
Phong trào Viễn chinh chữ thập diễn ra gần hai thế kỷ ( từ năm 1096 đến 1270) bao gồm 8 cuộc viễn chinh
lớn nhỏ .
- Ðợt 1 : ( 1096 - 1099 )
Do Pie Ẩn sĩ lãnh đạo, bao gồm đông đảo nông dân Ðông và Bắc Pháp (họ mang theo gia đình, tài sản với
hy vọng sẽ tìm được mãnh đất định cư ở phương đông) . Cuối cùng quân chữ thập cũng chiếm được Antiose
(xứ Xiry) và thành Jerusalem , lập nên vương quốc Jerusalem và các quốc gia latinh khác ở Phương Ðông.
Nhưng sau đó bị các quốc gia Hồi gíao xung quanh tấn công và thu hồi lại gần hết đất đai.

- Ðợt 2 : (1147-1149)
Gồm đạo quân của Vua Pháp Louis VII và hoàng đế Ðức Conrat III
- Ðợt 3 : ( 1147 - 1192 )
Gồm quân của hoàng đế Ðức Frederik I râu hung ; Vua Pháp Philippe II August ; Vua Anh Richard Tim sư
tử . Cả hai đợt nầy do các đạo quân không thống nhất, mỗi đạo hành động theo một hướng, nên cuối cùng
thất bại.
- Ðợt 4 : (1202-1204)
Do Giáo hoàng Innocento III (cầm đầu giáo hội từ năm 1198 đến 1216) đứng ra vận động và kêu gọi tổ
Trang 15


chức, nhờ có quyền thế, nên ông đã quy động được 3.5 vạn qúi tộc tham gia.
Năm 1204, quân chữ thập chiếm được kinh thành Constantinople ( vì lúc bấy giờ triều đình Bizanium đang
xung đột, nên không có lực lượng bảo vệ kinh thành) và lập ra đế quốc Latinh Constantinople .
Nhưng quân chữ thập không giữ được bao lâu, năm 1261 hoàng đế Hy lạp chiếm lại.
Sau khi chiếm được Constantinople, quân chữ thập không còn nghĩ gì đến đất thánh nữa, mà họ chỉ nghĩ đến
chuyện cướp bóc. Ðể lấy lại uy tín, năm 1212 giáo hoàng Innocento III lại tổ chức tiếp đợt viễn chinh chữ
thập trẻ em . Hàng vạn trẻ em châu âu được tập trung về bến Marseille (pháp) để đưa xuống tàu vượt biển.
Do phương tiện vận chuyển kém, thiếu thức ăn, nước uống, thiếu dưỡng khí để thở,...đã làm cho một số trẻ
em chết đi, số còn lại bị bọn chủ tàu chở sang Ai cập và Bắc Phi bán làm nô lệ.
Sau đợt 4, viễn chinh không còn thu hút sự chú ý của các tầng lớp xã hội, vì khả năng cướp bóc thuộc địa
không còn, tinh thần tôn giáo cũng nhạt đi.
- Ðợt 5 ( 1217-1221)
Chỉ một mình vua Hunggary mang quân đội của mình cùng một số kỵ sĩ Ðức sang Ai cập đánh nhau được
vài trận rồi rút về.
- Ðợt 6 ( 1228-1229)
Do hoàng đế Frederik II Hohenstaufen ( cháu Fredrrik râu hung) tổ chức. Vì có ác cảm với giáo hoàng, nên
khi sang Jerusalem đã liên kết với quân đội Hồi giáo để chuẩn bị chống giáo hoàng.
- Ðợt 7 ( 1248-1254) & Ðợt 8 (1264-1270)
Chỉ một mình Vua Louis IX đem quân sang Ai cập đánh nhau vaì trận thì bị bắt, phải mất một số tiền lớn

mới được chuộc về. Năm 1264, Ông lại đem quân sang Tuynidy, nhưng tại đây vua chết vì bệnh dịch tả.
d- Kết qủa :
Phong trào viễn chinh chữ thập hoàn toàn thất bại. Tất cả thuộc địa của quân chữ thập ở Trung cận đông,
phái đoàn truyền giáo của giáo hội Thiên chuá giáo cũng không thu được kết qủa gì đáng kể. Tuy nhiên , các
cuộc thập tự chinh đã có ít nhiều ảnh hưởng đến sự phát triển ở Tây âu.
_ Về kinh tế :
Thương nhân Tây âu đã phá vỡ được độc quyền thương mại của người Ả rập và Thổ nhĩ kỳ ở Trung cận
đông, chuyển giao dịch thương mại ở Ðiạ trung hải cho thương nhân tây âu, làm cho hàng hóa từ phương
Ðông chuyển đều đặn sang Phương Tây và nhiều hơn trước.
_ Về văn hóa , khoa học kỹ thuật :
Sau phong trào chữ thập, triết học, văn học , nghệ thuật, điêu khắc của người Hy lạp được du nhập vào Tây
âu thông qua những người A rập, làm cho tầm hiểu biết của người Tây âu được mở rộng.
Lối sống xa hoa của Phương Ðông cũng được du nhập vào triều đình và bọn qúi tộc phương Tây.
Trong công nghiệp, những kỹ thuật tiên tiến của phương Ðông như luyện kim, dệt vãi bông ,nhuộm đã bổ
sung cho kỹ thuật còn lạc hậu của Phương Tây.
Trong nông nghiệp, kỹ thuật làm thủy lợi, các giống cây trồng như lúa, bông,... được du nhập vào phương
Tây. Ðặc biệt 3 phát minh lớn của người Trung hoa là La bàn, nghề làm giấy, thuốc súng cũng được đưa vào
Tây âu thông qua các nước Trung cận Ðông.
_ Về chính trị xã hội :
Làm suy yếu quyền lực của chúa phong kiến, giúp cho việc tăng cường chính quyền quân chủ trung ương
tập quyền. Tạo điều kiện để thị dân và nông nô thoát khỏi thân phận lệ thuộc.
Tuy nhiên, phong trào viễn chinh chữ thập đã tàn phá nền văn minh, tàn phá nền kinh tế và gây đau khổ cho
hàng vạn người lớn và trẻ em,... làm kìm hãm sự phát triển của các nước Trung cận đông.

Trang 16


III. CÁC VƯƠNG QUỐC ANH - PHÁP XÂY DỰNG CHẾ ÐỘ CHÍNH TRỊ PHONG KIẾN TẬP
QUYỀN
1- Ở PHÁP

Có thể nói trong các thế kỷ XI - XII, Pháp là quốc gia phong kiến phân quyền điển hình (vương quốc chia
thành nhiều lãnh địa, trong đó có 14 đại lãnh địa - công quốc, bá quốc , giám mục khu...).
Trước tình hình đó năm 987, sau khi vua Louis V chết, vương triều Carolingiens ở Pháp kết thúc. Bọn bá
tước Paris liên kết kại với nhau và bầu Hugnes Capet lên làn vua, lập nên triều Capetiens (triều đại nầy kéo
dài đến cách mạng tư sản Pháp thì kết thúc).
Thế kỷ XII, thành thị Pháp ra đời và lực lượng thị dân ngày càng lớn mạnh, thị dân ra sức giúp vua đánh bại
các thế lực PK cát cứ, do đó quyền lực của nhà vua ngày càng được tăng cường.
Sang thế kỷ XIII, các vua Pháp bằng chinh phục quân sự hay do hôn nhân thừ kế, đã xác nhập nhiều lãnh
địa vào vương quôc. (lúc bấy giờ chỉ còn 4 đại lãnh địa là chưa xác nhập vào vương quốc là : FLANDER
[ đông bắc Pháp] , BOURGOGNE [miền đông], BRETAGNE [tây bắc] và GUYENNE [tây nam]
Ðồng thời với việc mở rộng lãnh thổ, các vua Pháp còn chú ý đến việc xây dựng chính quyền trung ương tập
quyền và tăng cường khống chế các chư hầu.
CHIẾN TRANH TRĂM NĂM GIỮA PHÁP VÀ ANH ( 1337 - 1453 )
- Nguyên cớ :
Là sự tranh chấp sứ Flander giàu có , một bá quốc chư hầu cuả Vua Pháp, nhưng lại có quan hệ kinh tế chặt
chẽ với Vua Anh ( sợi của Flander con thoi của Anh ).
- Nguyên nhân :
Vừa là cuộc xung đột lớn giữa hai quốc gia đang trên đường hoàn thành chế độ phong kiến tập quyền.
Vừa là cuộc đấu tranh quyết liệt để tiêu diệt thế lực cuối cùng của bọn phong kiến cát cứ.
- Diễn biến :
• Do có sự chuẩn bị trước về quân sự và ngoại giao, nên trong những trận giao tranh đầu quân đội Anh luôn
luôn thắng thế ( trận thủy chiến ở Eïcluse 1340 , trận Crésy 1346 , đặc biệt là trận đại chiến ở Poitiers 1356
vua Pháp là Jean le bon cùng một số qúi tộc bị bắt làm tù binh ) .
Sau trận poitiers, tình hình nước Pháp trở nên đen tối, kinh tế bị tàn phá nặng nề, nền chính trị trở nên thối
nát, đã dẫn đến cuộc khủng hoảng kinh tế - chính trị những năm 1356 - 1358 và cuộc nội chiến 1358.
Sau cuộc nội chiến 1358, nước Pháp bị tàn phá nặng nề, buộc phải xin ký hòa ước đình chiến với Anh.
Sau hòa ước , vua Pháp Charles V khôn ngoan (1364 - 1380) được qúi tộc đem toàn lực ủng hộ, nhờ vậy vua
tăng cường được quyền chuyên chế, trấn áp bọn phong kiến nổi loạn và đuổi được quân đội Anh ra khỏi
nước Pháp ( vua Anh chỉ còn giữ lại được vài căn cứ : Calais, Bayon ).
Năm 1380, Charles V chết, Charles VI lên ngôi vì vua còn trẻ ( mới 14 tuổi ) nên triều đình bị bọn phong

kiến nhũng loạn, đã tạo cơ hội cho chiến tranh trăm năm tái diễn, mãi đến năm 1453 mới kết thúc.
Nhìn chung , chiến tranh trăm năm đã làm cho kinh tế hai nước bị suy sụp, tuy nhiên sau chiến tranh, nhờ
vào hoàn cảnh thống nhất đất nước, kết hợp với tinh thần lao động cần cù của nhân dân, nên Pháp đã sớm
phục hồi kinh tế và phát triển nhanh chóng.
Hậu qủa lớn nhất do chiến tranh trăm năm để lại là làm cho bọn qúi tộc nghèo đi, nên một số đã chuyển
sang làm nghề thủ công, một số tình nghuyện phục vụ trong triều đình nhà vua và trở thành tầng lớp qúi tộc
quân sự và đình thần .
Sau khi kết thúc chiến tranh, Vua Pháp Louis IX bắt đầu xây dựng chính quyền trung ương tập quyền. Từ
thế kỷ XV trở đi, Pháp đã hoàn thành thống nhất vương quốc (Lúc nầy các lãnh địa đã được xáp nhập vào
Trang 17


vương quốc) , vương quốc được chia thành nhiều Tỉnh do vua chỉ định quan cai trị. Trong vương quốc thuế
khoá, pháp luật, quân đội được thống nhất.
Cùng với việc thống nhất chính quyền, chủ nghiã dân tộc tư sản được hình thành, ý thức dân tộc bắt đầu nãy
nở, ngoài tiếng địa phương, còn có tiếng Pháp chung và nền văn hóa chung.
2- Nước ANH chuyển từ chế độ phong kiến phân quyền sang chế độ phong kiến tập quyền
a - Chế độ phong kiến phân quyền ở Anh :
Vào nửa đầu thế kỷ XI (1066), Vương quốc Anglo-Sachxon nằm trên đảo Anh, bị William là công tước xứ
Normandy xâm chiếm. (lúc nầy tại vương quốc Anglo-sachxon qúa trình nông nô hóa đang diễn ra và chưa
hoàn thành). Vua Anh ( đồng thời là công tước xứ Normandy ) đã tịch thu rất nhiều ruộng đất và tài sản của
những người chống lại Ông và lập nên lãnh địa của mình ( bằng 1/7 đất đai toàn quốc) . Số ruộng đất còn
lại, vua đem ban cấp cho bọn đại qúi tộc ( Huân tước , bá tước) và đại tăng lữ. Bọn qúi tộc Anglo-sachxon
đầu hàng hoặc không phản đối cũng được bảo đảm quyền lợi kinh tế như cũ.
Như vậy chế độ phong kiến phân quyền ở Anh được thành lập, tuy nhiên không sâu sắc và triệt để như ở
Pháp và ở Ðức vì vua có quyền lực mạnh mẽ , khống chế cả bọn qúi tộc và tăng lữ địa phương.
Ðến thế kỷ XII, thành thị ở Anh pháp triển, Vua Anh đã nhận lấy tiền chuộc của thị dân và công nhận các
bản hiến chương thành thị. Do đó Vua được một lực lượng hùng mạnh ủng hộ đó là thị dân.
Ðể xóa bỏ quyền lực của lãnh chúa địa phương, Vua Anh đã lập ra tòa án tuần hồi đi hết các địa phương để
xét xử ( trừ nông nô vẫn bị xét xử trong tòa án của lãnh chúa).

Từ giữa thế kỷ XII trở đi, Họ Plantagenet lên cầm quyền ở Anh, đã đưa nước Anh hùng mạnh nhất Châu âu
thời bấy giờ.
b - Khởi nghiã nông dân Wat - Tyler :
+ Nguyên nhân :
- Từ thế kỷ XIV trở đi, nền kinh tế hàng hóa ở Anh phát triển, nhưng nông dân Anh vẫn điêu đứïng vì phải
nộp tô tiền.
- Do ảnh hưởng của nạn dịch đen làm cho nông dân đói khổ, mùa màng thất thu, nông dân lại phải cung cấp
chiến phí cho chiến tranh. Nên một cuộc khởi nghiã nông dân đã nổ ra.
+ Diễn biến :
Khởi nghiả nổ ra vào năm 1381, do một người thợ nề tên là Wat-Tyler và nhà truyền giáo John Ball lãnh
đạo.
- Ðịa điểm : Ban đầu nổ ra ở vùng Ðông Nam Anh, mạnh nhất là hai bá quốc Essex và Kent, sau đó lan ra
phần lớn nước Anh.
-Tính chất: Trước tiên là chống thuế ( gọi là thuế toàn dân hay thuế đầu người, đánh vào mọi người từ 15
tuổi trở lên, không phân biệt trai gái) , về sau phong trào phát triển mạnh lên, nông dân chuyển sang bạo
động chống áp bức bóc lột.
Thành phần tham gia : Gồm đại đa số nông dân ở hai bá quốc Essex & Kent, cùng một số thị dân nghèo ở
các thành thị.
Nông dân đã tập hợp thành đội ngũ tấn công vào bọn qúi tộc, phá hủy các tu viện của giáo hội và lâu đài của
lãnh chúa. Ðược sự ủng hộ của thị dân ( họ mở cửa kinh thành London), nghiã quân đả tấn công và chiếm
giữ kinh thành trong 3 ngày (13,14,15 / 06/ 1381), đốt phá nhà cửa của hoàng tộc , giết một số quan to và
đòi gặp Vua Richard II để đưa ra một số yêu sách.
Phái Essex đưa ra 4 yêu sách :

Trang 18


- Thủ tiêu chế độ nông nô.
- Ân xá những người khởi nghiã.
- Ðảm bảo tự do buôn bán trong cả nước.

- Qui định mức địa tô tiền cố định.
Phái Kent đưa ra 3 yêu sách :
- Chia ruộng đất của giáo hội cho nông dân.
- Nông dân được sử dụng mọi tài nguyên công xã.
-Thủ tiêu phân biệt đẳng cấp và pháp luật hà khắc.
- Kết qủa :
Cuộc đấu tranh của nông dân đã thu được một số kết qủa, nhưng do hai đạo quân không thống nhất hành
động với nhau, lãnh tụ Wat-Tyler mất cảnh giác nên bị qúi tộc ám hại. Quân đội nhà Vua bí mật được triệu
tập, đã kịp thời đàn áp, khởi nghiã thất bại. Tuy nhiên sau khởi nghiã, chế độ nông nô ở Anh không tồn tại
được nữa..
c - Sự thành lập chính quyền quân chủ chuyên chế Anh :
Cuối thế kỷ XIV đầu thế kỷ XV ở Anh xãy ra cuộc nội chiến giữa hai giòng họ , lịch sử gọi đó là chiến tranh
hai Hoa Hồng.
Nội chiến diễn ra trong 30 năm (1455 - 1585) , kết qủa cả hai phe đều bị tiêu diệt, quyền hành rơi rơi vào
tay Henri Tudo (con rễ của giòng York)
Henri lập ra triều đại Tudo ( tồn tại đến cách mạng tư sản Anh 1640), được qúi tộc mới ( bọn kinh doanh
theo phương thức TBCN : biến ruộng đất thành đồng cỏ chăn nuôi Cừu và thuê công nhân chăn nuôi) và thị
dân dồn toàn lực ủng hộ để bảo vệ nền mậu dịch, chế phục lãnh chúa phong kiến và đàn áp phong trào nông
dân.
Như vậy chế độ quân chủ chuyên chế Anh đã được thành lập vào cuối thế kỷ XIV .
IV- VĂN HÓA TÂY ÂU THỜI SƠ VÀ TRUNG KỲ TRUNG ÐẠI
Về mặt giáo dục :
Ở thời sơ kỳ, chỉ có một số trường học do nhà thờ và tu viện mở ra để đào tạo các tăng lữ
Sang thời trung kỳ, do nhu cầu về văn hoá giáo dục đòi hỏi được mở rộng, nhằm đào tạo trí thức chung cho
xã hội phong kiến (,nhu cầu quản lý trang trại, mua bán ở thành thị) do đó một số trường Trung học và Ðại
học được thành lập nhưng dạy với phương pháp giáo điều và hệ tư tưởng của chủ nghĩa kinh viện.
Về triết học :
Thời kỳ nầy trào lưu chính là triết học kinh viện, phái nầy chiếm địa vị thống trị, nó bênh vực cho quan
điểm của giáo hội.
Về văn học :

Văn học thời sơ kỳ bị giáo hội chi phối nên nội dung hết sức nghèo nàn, không đáp ứng được nhu cầu văn
hóa tinh thần trong xã hội nên phải nhường chổ cho nền văn hóa thế tục..
Về nghệ thuật :
Thời kỳ nầy có hai ngành nghệ thuật phát triển, đó là kiến trúc và hội họa.
Trang 19


Kiến trúc : phổ biến hai loại kiến trúc.
- Roman : Thịnh hành vào thế kỷ IX - XI, do bắt chước theo kiểu La mã, chủ yếu là dùng cổng vòm,
nhưngthô kệch và nặng nề, tường dày, cửa sổ thấp và nhỏ,... nhưng có ưu điểm là vững chắc, phù hợp với
yêu cầu phòng ngự trong chiến tranh.
- Gothique : Không chắc chắn bằng kiểu Roman, nhưngtrông vui và nhẹ nhàng hơn, có những cột cao và
duyên dáng, có cửa sổ lớn, lấp kính màu, có nhiều tranh sặc sở ( nhà thờ Saint Deni - gần Paris, là nhà thờ
đầu tiên xây dựng theo kiểu Gothique năm 1132).
- Hội họa : Hoàn toàn phục vụ giáo hội, nên nội dung khô khan, những bức họa thiếu chất sống vì dựa vào
kinh thánh, với màu sắc âm u.
Tuy nhiên từ thế kỷ XIII trở đi , khi tư tưởng nhân văn xuất hiện, thì các ngành nghệ thuật mới bắt đầu
chuyển biến, gần gũi với cuộc sống và con người hơn, gây được cảm xúc vui tươi sảng khoái cho người
xem.

Trang 20



×