Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

Nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn và sự vận dụng quan điểm đó vào quá trình đổi mới ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (180.31 KB, 23 trang )

MỤC LỤC
CHƯƠNG 1............................................................................2
NGUYÊN TẮC THỐNG NHẤT GIỮA LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN....2
CỦA TRIẾT HỌC MÁC- LÊNIN..................................................2
1.1. KHÁI NIỆM THỰC TIỄN VÀ LÝ LUẬN.................................2
1.1.1. Phạm trù thực tiễn......................................................2
a) Các quan điểm về thực tiễn..............................................2
Chính vì vậy, bài học kinh nghiệm được rút ra trong “Văn
kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI về phát triển kinh
tế phải xuất phát từ thực tiễn, tôn trọng và hoạt động theo
quy luật khách quan là hoàn toàn đúng đắn. Chính từ những
khó khăn trên đòi hỏi phải đổi mới nền kinh tế, xã hội. Đại
hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đã đánh dấu một mốc phát
triển quan trọng trong quá trình phát triển của đất nước...10
2.1.5. Biện pháp giải quyết tình hình để phát triển kinh tế 10


LỜI MỞ ĐẦU
Trong công cuộc xây dựng và phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành
theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa
ở nước ta hiện nay, lý luận nhận thức, vấn đề cải tạo thực tiễn nền kinh tế luôn thu hút
sự quan tâm của nhiều đối tượng.
Ngày nay, triết học là một bộ phận không thể tách rời với sự phát triển của bất
cứ hình thái kinh tế nào. Những vấn đề triết học về lý luận nhận thức và thực tiễn,
phương pháp biện chứng... luôn là cơ sở, là phương hướng, là tôn chỉ cho hoạt động
thực tiễn, xây dựng và phát triển xã hội. Nếu xuất phát từ một lập trường triết học
đúng đắn, con người có thể có được những cách giải quyết phù hợp với các vấn dề do
cuộc sống đặt ra. Việc chấp nhận hay không chấp nhận một lập trường triết học nào đó
sẽ không chỉ đơn thuần là sự chấp nhận một thế giới quan nhất định, một cách lý giải
nhất định về thế giới, mà còn là sự chấp nhận một cơ sở phương pháp luận nhất định
chỉ đạo cho hoạt động.


Chúng ta biết rằng, triết học là một trong ba bộ phận cấu thành của chủ nghĩa
Mác. Lênin đã chỉ rõ rằng chủ nghĩa duy vật biện chứng đó chính là triết học của chủ
nghĩa Mác. Cho đến nay, chỉ có triết học Mác là mang tính ưu việt hơn cả. Trên cơ sở
nền tảng triết học Mác - Lênin, Đảng và Nhà nước ta đã học tập và tiếp thu tư tưởng
tiến bộ, đề ra những mục tiêu, phương hướng chỉ đạo chính xác, đúng đắn để xây
dựng và phát triển xã hội, phù hợp với hoàn cảnh đất nước. Mặc dù có những khiếm
khuyết không thể tránh khỏi song chúng ta luôn đi đúng hướng trong cải tạo thực
tiễn, phát triển kinh tế, từng bước đưa đất nước ta tiến kịp trình độ các nước trong
khu vực và thế giới về mọi mặt. Chính những thành tựu của xây dựng chủ nghĩa xã
hội và qua mười năm đổi mới là minh chứng xác đáng cho vấn đề nêu trên. Hoạt
động nhận thức và cải tạo thực tiễn cùng với sự nắm bắt các quy luật khách quan
trong vận hành nền kinh tế ở nước ta là một vấn đề còn nhiều xem xét và tranh cãi,
nhất là trong quá trình đổi mới hiện nay.Vì vậy, nhóm quyết định chọn đề tài
“Nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn và sự vận dụng quan điểm đó
vào quá trình đổi mới ở Việt Nam”.

1


CHƯƠNG 1
NGUYÊN TẮC THỐNG NHẤT GIỮA LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
CỦA TRIẾT HỌC MÁC- LÊNIN
1.1. KHÁI NIỆM THỰC TIỄN VÀ LÝ LUẬN
1.1.1. Phạm trù thực tiễn
a) Các quan điểm về thực tiễn
Một trong những khuyết điểm chủ yếu của lý luận nhận thức duy vật trước Mác
là chưa thấy hết vai trò của thực tiễn đối với nhận thức.
Một số nhà triết học như Ph. Bêcơn, Đ. Diđơrô …đề cao vai trò của thực
nghiệm khoa học, chưa đề cập đến vai trò của các hình thức khác của thực tiễn đối với
nhận thức.

G. Hêghen tuy có đề cập đến thực tiễn, nhưng ông không coi thực tiễn là hoạt
động vật chất mà là hoạt động tinh thần.
L. Phoiơbăc chỉ coi lý luận mới là hoạt động đích thực, còn thực tiễn chỉ được
ông xem xét ở khía cạnh biểu hiện bẩn thỉu mà thôi.
C. Mác và Ph. Ăngghen đã thực hiện một bước chuyển biến cách mạng trong lý
luận nhận thức bằng cách đưa phạm trù thực tiễn vào trong lý luận nhận thức.
Lênin nhấn mạnh: “Quan điểm về đời sống, về thực tiễn, phải là quan điểm thứ
nhất và cơ bản của lý luận về nhận thức” (Toàn tập, tập 18, tr. 167)
b) Thực tiễn là gì
Thực tiễn là toàn bộ những hoạt động vật chất có tính xã hội - lịch sử của con
người nhằm biến đổi tự nhiên, xã hội và bản thân con người.
c) Các hình thức cơ bản của thực tiễn
Hoạt động thực tiễn có 3 hình thức cơ bản:
- Lao động sản xuất vật chất là hình thức thực tiễn cơ bản nhất, là hoạt động
trực tiếp tác động vào tự nhiên nhằm tạo ra của cải vật chất cho sự tồn tại và phát triển
của xã hội.
- Hoạt động biến đổi xã hội là hình thức thực tiễn cao nhất, Là hoạt dộng của
con người trong các lĩnh vực chính trị xã hội nhằm phát triển và hoàn thiện các thiết
chế xã hội, các quan hệ xã hội làm địa bàn rộng rãi cho hoạt động sản xuất và tạo ra
những môi trường xã hội xứng đáng với bản chất con người bằng cách đấu tranh giai
cấp và cách mạng xã hội.
2


- Thực nghiệm khoa học là hình thức thực tiễn đặc biệt, nhằm mục đích phục vụ
nghiên cứu khoa học và kiểm tra lý thuyết khoa học.
1.1.2. Phạm trù lý luận
+ Lý luận là gì
Lý luận là hệ thống những tri thức được khái quát từ thực tiễn phản ánh những
mối liên hệ bản chất, những quy luật của sự vật, hiện tượng.

Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Lý luận là sự tổng kết những kinh nghiệm của loài người,
là tổng hợp những tri thức về tụ nhiên và xã hội tích trữ lại trong quá trình lịch sử”.
Để hình thành lí luận, con người phải thông qua quá trình nhận thức kinh
nghiệm. Nhận thức kinh nghiệm là quá trình quan sát sự lặp đi lặp lại diễn biến của các
sự vật hiện tượng. Kết quả của nhận thức kinh nghiệm là tri thức kinh nghiệm. Tri thức
kinh nghiệm bao gồm tri thức kinh nghiệm thong thường và tri thức kinh nghiệm khoa
học.Tri thức kinh nghiệm tuy là thành tố của tri thức ở trình độ thấp nhưng nó là cơ sở
để hình thành lý luận.
Lý luận có nghững cấp độ khác nhau tùy phạm vi phản ánh và vai trò của nó,
cps thể phân chia lý luận thành lí luận ngành và lí luận triết học.
Lý luận ngành là ly luận khái quát những quy luật hình thành và phát triển của
một ngành. Nó là cơ sở để sáng tạo tri thức cũng như phương pháp luận hoạt động của
ngành đó, như lý luận văn học, lý luận nghệ thuật…
Lý luận triết học là hệ thống những quan niệm chung nhất về thế giới và con
người, là thế giới quan và phương pháp luận nhận thức và hoạt động của con người.
1.2. NHỮNG YÊU CẦU CƠ BẢN CỦA NGUYÊN TẮC THỐNG NHẤT
GIỮA LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1.2.1. Thực tiễn là cơ sở, là động lực, là mục đích và tiêu chuẩn của lý luận,
lý luận hình thành, phát triển sản xuất từ thực tiễn, đáp ứng yêu cầu thực tiễn
1.2.1.1. Thực tiễn là cơ sở cuả lý luận
Xét một cách trực tiếp những tri thức được khái quát thành lý luận là kết quả
của quá trình hoạt động thực tiễn cuả con người. Thông qua kết quả của hoạt động
thực tiễn, kể cả thành công cũng như thất bại, con người phân tích cấu trúc, tích chất
và các mối quan hệ của các yếu tố, các điều kiện trong các hình thức thực tiễn để hình
thành lý luận. Quá trình hoạt động thực tiễn là cơ sở để bổ sung và điều chỉnh các lý
3


luận đã được khái quát. Mặt khác, hoạt động thực tiễn của con người làm nảy sinh
những vấn đề mơi đòi hỏi quá trình nhận thức phải tiếp tục giải quyết. Thông qua đó,

lý luận được bổ sung mở rộng. Chính vì vậy, V.I.Lênin nói: “Nhận thức lý luận phải
trình bày khách thể trong tính tất yếu của nó, trong những quan hệ toàn diện cuả nó,
trong sự vận động mâu thuẫn cuả nó tự nó và vì nó”
1.2.1.2. Thực tiễn là động lực của lý luận
Hoạt động của con người không chỉ là nguông gốc để hoàn thiện các cá nhân
mà còn góp phần hoàn thiện các mối quan hệ của con người với tự nhiên, với xã hội.
Lý luận được vận dụng làm phương pháp cho hoạt động thực tiễn,mang lại lợi ích cho
con người càng kích thích cho con người bám sát thực tiễn khái quát lý luận. Quá trình
đó diễn ra không ngừng trong sự tồn tại của con người, làm cho lý luận ngày càng đầy
đủ, phong phú và sâu sắc hơn. Nhờ vậy hoạt động của con người không bị hạn chế
trong không gian và thời gian. Thông qua đó, thực tiễn đã thúc đẩy một ngành khoa
học mới ra đời – khoa học lý luận
1.2.1.3. Thực tiễn là mục đích của lý luận
Mặc dù lý luận cung cấp những tri thức khái quát về thế giới để làm thỏa mãn
những nhu cầu hiểu biết của con người nhưng mục đích chủ yếu của lý luận là nâng
cao những hoạt động của con người trước hiện thực khách quan để đưa lại lợi ích cao
hơn, thỏa mãn nhu cầu ngày càng tăng của cá nhân và xã hội. Tự thân lý luận không
thể tạo lên những sản phẩm đáp ứng nhu cầu của con người. Nhu cầu đó chỉ được thực
hiện trong hoạt động thực tiễn. Hoạt động thực tiễn sẽ biến đổi tự nhiên và xã hội theo
mục đích của con người. Đó thực chất là mục đích của lý luận. Tức lý luận phải đáp
ứng nhu cầu hoạt động thực tiễn của con người
1.2.1.4. Thực tiễn là tiêu chuẩn chân lý của lý luận
Tính chân lý của lý luận chính là sự phù hợp của lý luận với thực tiễn khách
quan và được thực tiễn kiểm nghiệm, là giá trị phương pháp của lý luận với hoạt động
thực tiễn của con người. Do đó mọi lý luận phải thông qua thực tiễn để kiểm nghiệm.
Chính vì thế mà C. Mác nói: “vấn đề đẻ tìm hiểu xem tư duy của con người có thể đạt
đến chân lý của khách quan không, hoàn toàn không phỉa vẫn đề lý luận mà là vấn đề
thực tiễn. Chính trong thực tiễn mà con người phải chứng minh chân lý”. Thông qua lý
luận những lý luận đạt đến chân lý sẽ được bổ sung vào khp tàng chi thức nhân loại,
4



những kết luận chưa phù hợp thực tiễn thì tiếp tục điều chỉnh, bổ sung hoặc nhận thức
lại. Giá trị của lý luận nhất thiết phải được chứng minh trong hoạt động thực tiễn.
Tuy thực tiễn là tiêu chuẩn chân lý của lý luận, nhưng không phải mọi thực tiễn
đều là tiêu chuẩn của chân lý. Thực tiễn là tiêu chuẩn chấn lý của lý luận khi thực tiễn
đạt đến mức toàn vẹn của nó. Tính toàn vẹn của thực tiễn là thực tiễn đã trải qua quá
trình tồn tại, hoạt động, phát triển và chuyển hóa. Đó là chu kỳ tất yếu của thực tiễn.
Thực tiễn có nhiều giai cấp phát triển khác nhau. Nếu lý luận chỉ khái quát một giai
đoạn nào đó của thực tiễn thì lý luận có thể xa rời thực tiễn. Do đó chỉ những lý luận
nào phản ánh được tính toàn vẹn của thực tiễn thì mới đạt đến chân lý. Chính vì vậy
mà V.I.Lênin cho rằng:“Thực tiễn của con người lặp đi lặp lại hàng nghìn triệu lần
được in vào ý thức của con người bằng những hình tượng logic. Những hình tượng này
có tính vững chắc của một thiên khiến, có một tính chất công lý, chính vì sự lặp đi lặp
lại hàng nghìn triệu lần ấy”
1.2.2. Thực tiễn phải được chỉ đạo bởi lý luận; ngược lại, lý luận phải được
vân dụng vào thực tiễn, tiếp tục bổ sung và phát triển trong thực tiễn
Lý luận đóng vai trò soi đường cho thực tiễn vì lý luận có khả năng định hướng
mục tiêu, xác định lực lượng, phương pháp, biện pháp thực hiện. Lý luận còn dự báo
được khả năng phát triển cũng như các mối quan hệ của thực tiễn, dự báo được những
rủi ro đã xảy ra, những hạn chế những thất bại có thể có trong quá trình hoạt động.
Như vậy lý luận không chỉ giúp con người hoạt động hiện quả mà còn là cơ sở để khắc
phục những hạn chế và tăng năng lực hoạt động của con người. Mặt khác, lý luận còn
có vai trò giác ngộ mục tiêu, lý tưởng liên kết các cá nhân thành cộng đồng tạo thành
sức mạnh vô cùng to lớn của quần chúng trong cải tạo tự nhiên và cải tạo xã hội.
Chính vì vậy, C. Mác đã cho rằng: “Vũ khí của sự phê phán cố nhiên không thể thay
thế được sự phê phán của vũ khí, lực lượng vật chất chỉ có thể bị đánh đổ bằng lực
lượng vật chất, một khi nó thâm nhập vào quần chúng”
Mặc dù lý luận mang tính khái quát cao, song nó còn mang tính lịch sử, cụ thể.
Do đó, khi vận dụng lý luận chúng ta còn phân tích cụ thể mỗi tính hình cụ thể. Nếu

vân dụng lý luận máy móc, giáo điều, kinh viện thì chẳng những hiều sai giá trị của lý
luận mà còn làm phương hại đến thực tiễn, làm sai lệch sự thồng nhất tất yếu giữa lý
luận và thực tiễn
5


Lý luận hình thành là kết quả của quá trình nhận thức lâu dài và khó khăn của
con người trên cơ sở hoạt động thực tiễn. Hoạt động thực tiễn tuy phong phú, đa dạng
nhưng không phải khôn g có tính quy luật. Tính quy luật của thực tiễn được khái quát
dưới hình thức lý luận. Mục đích của lý luận không chỉ là phương pháp mà còn định
hướng cho hoạt động thực tiễn. Đó là định hướng mục tiêu, biện pháp sử dụng lực
lượng, định hướng giải quyết các mối quan hệ trong hoạt động thực tiễn. Không những
thế lý luận còn định hướng mô hình của hoạt động thực tiễn. Vận dụng lý luận vào
hoạt động thực tiễn, trước hết từ lý luận để xây dựng mô hình thực tiễn theo những
mục đích khác nhau của quá trình hoạt động, dự báo các diễn biến các mối quan hệ,
lực lượng tiến hành và những phát sinh của nó trong quá trình phát triển đẻ phát huy
các nhân tố tích cực, hạn chế những yếu tố tiêu cực nhằm đạt kết quả cao.
Lý luận tuy là logic của thực tiễn, song lý luận có thể lạc hậu với thực tiễn. Vận
dụng lý luận vào thực tiễn đòi hỏi chúng ta phải bám sát diễn biến của thực tiễn để kịp
thời điều chỉnh, bổ sung những khiếm khuyết của lý luận, hoặc có thể thay đổi lý luận
cho phù hợp với thực tiễn. Khi vận dụng lý luận vào thực tiễn, chúng có thể mang lại
hiệu quả có thể không, hoặc kết quả chưa rõ ràng. Trong trường hợp đó, giá trị của lý
luân phải do thực tiễn quy định. Tính năng động của lý luận chính là điều chỉnh cho
phù hợp với thực tiễn. Lênin nhận xét rằng: “Thực tiễn cao hơn lý luận, vì nó có ưu
điểm không những của tính phổ biến, mà cả của tính hiện thực trực tiếp”

6


CHƯƠNG 2

ÁP DỤNG LÝ LUẬN THỰC TIỄN TRONG QUÁ TRÌNH
ĐỔI MỚI KINH TẾ VIỆT NAM
2.1. HOÀN CẢNH THỰC TIỄN VIỆT NAM SAU CHIẾN TRANH ĐẶT
RA YÊU CẦU MỚI
2.1.1. Tình hình
- Sau kháng chiến chống Pháp thắng lợi, dựa vào kinh nghiệm của các nước xã
hội chủ nghĩa lúc đó, nước ta bắt đầu xây dựng một mô hình kinh tế kế hoạch hoá tập
trung dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất. Các hình thức tổ chức sản xuất và
dịch vụ quốc doanh được phát triển. Cùng với quốc doanh, hợp tác xã được tổ chức
rộng rãi ở nông thôn và thành thị. Với hai hình thức sở hữu toàn dân và tập thể, sở
hữu tư nhân bị thu hẹp lại, không còn cơ sở cho tư nhân phát triển. Cùng với quốc
doanh, hợp tác xã được tổ chức rộng rãi vì ta đã học tập được mô hình tổ chức kinh tế
của Liên Xô cũ. Với sự nỗ lực cao độ của nhân dân ta, cùng với sự giúp đỡ tận tình của
các nước xã hội chủ nghĩa lúc đó, mô hình kế hoạch hoá tập trung đã phát huy được
những tính ưu việt đó.
- Từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, phân tán và manh mún, bằng công cụ
kế hoạch hóa, ta đã tập trung được vào trong tay một lực lượng vật chất quan trọng về
cơ sở vật chất kỹ thuật, cơ sở hạ tầng thành thị và nông thôn, đất đai, máy móc, tiền
vốn để ổn định và phát triển kinh tế.
Vào những năm sau của thập niên 60, ở Miền Bắc đã có những chuyền biến về
kinh tế, xã hội. Trong thời kỳ đầu, nền kinh tế tập trung bao cấp đã tỏ ra phù hợp với
nền kinh tế tự cung, tự cấp, phù hợp với điều kiện hai nhiệm vụ sản xuất và chiến đấu
trong chiến tranh lúc đó.
- Năm 1975, sau ngày giải phóng miền Nam, một bức tranh mới về hiện trạng
kinh tế Việt Nam đã thay đổi. Đó là sự duy trì một nền kinh tế tồn tại cả ba loại hình:
+ Kinh tế cổ truyền (tự cung tự cấp)
+ Kinh tế kế hoạch hoá tập trung bao cấp (ở miền Bắc)
+ Kinh tế thị trường (đặc trưng ở miền Nam).
Mặc dù đây là một tồn tại khách quan sau năm 1975 nhưng chúng ta vẫn tiếp
tục xây dựng nền kinh tế tập trung theo cơ chế kế hoạch hoá trên phạm vi cả nước. Đó

là sự áp đặt rất bất lợi.
7


2.1.2. Hậu quả
Do chủ quan nóng vội, cứng nhắc, chúng ta đã không quản lý được hiệu quả các
nguồn lực dẫn tới việc sử dụng lãng phí nghiêm trọng các nguồn lực của đất nước.
- Tài nguyên bị phá hoại, sử dụng khai thác không hợp lý, môi trường bị ô nhiễm.
- Nhà nước bao cấp và tiến hành bù lỗ phổ biến gây hậu quả nghiệm trọng cho
nền kinh tế.
+ Sự tăng trưởng kinh tế chậm lại, tăng trưởng kinh tế trên lý thuyết, giấy tờ.
+ Hàng hoá, sản phẩm trở nên khan hiếm, không đáp ứng được nhu cầu trong nước.
+ Ngân sách thâm hụt nặng nề. Vốn nợ đọng nước ngoài ngày càng tăng và
không có khả năng cho chi trả.
+ Thu nhập từ nền kinh tế quốc dân không đủ chi dùng, tích luỹ hầu như không có.
+ Vốn đầu tư cho sản xuất và xây dựng chủ yếu là dựa vào vay và viện trợ
nước ngoài.
- Cùng với đó là sự thoái hoá về mặt con người và xã hội.
- Đến năm 1979, nền kinh tế rất suy yếu, sản xuất trì trệ, đời sống nhân dân khó
khăn, nguồn trợ giúp từ bên ngoài giảm mạnh.
- Từ năm 1975 đến năm 1985, các thành phần kinh tế tư bản tư nhân, cá thể bị
tiêu diệt hoặc không còn điều kiện phát triển dẫn đến thực trạng tiềm năng to lớn của
các thành phần kinh tế này không được khai thác và phục vụ cho mục tiêu chung của
nền kinh tế. Ngược lại, thành phần kinh tế quốc doanh đã phát triển ồ ạt, tràn lan trên
mọi lĩnh vực trở thành địa vị đọc tôn trong hầu hết các ngành công nghiệp, xây dựng,
dịch vụ (trừ ngành nông nghiệp, thành phần kinh tế tập thể là chủ yếu).Thời điểm cao
nhất, thànhphần kinh tế quốc doanhđã cõ gần 13 nghìn doanh nghiệp với số tài sản cố
định chiếm 70% tổng số tài sản cố định của nền kinh tế. Thời kỳ này, kinh tế nước ta
tuy có đạt được tốc độ tăng trưởng nhất định nhưng sự tăng trưởng đó không có cơ sở
để phát triển vì đã dựa vào điều kiện bao cấp, bội chi ngân sách, lạm phát và vay nợ

nước ngoài.
- Do phát triển tràn lan lại quản lý theo cơ chế bao cấp, kế hoạch hoá tập trung
nên nhà nước gặp nhiều khó khăn trong việc quản lý, điều hành các doanh nghiệp quốc
doanh, nhiều doanh nghiệp quốc doanh làm ăn thua lỗ, lực lượng sản xuất không được
giải phóng, nền kinh tế lâm vào tình trạng khủng hoảng và tụt hậu.
8


2.1.3. Nguyên nhân
Trong nhận thức cũng như trong hành động, chúng ta chưa thật sự thừa nhận cơ
cấu kinh tế nhiều thành phần còn tồn tại trong thời gian tương đối dài, chưa nắm vững
và vận dụng đúng lý luận và thực tiễn vào tinh hình nước ta.
Đến năm 1986, cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp về căn bản vẫn chưa bị xoá
bỏ. Cơ chế mới chưa được thiết lập đồng bộ, nhiều chính sách, thể chế lỗi thời chưa
được thay đổi. Tình trạng tập trung quan liêu còn nặng, đồng thời những hiện tượng vô
tổ chức, vô kỷ luật còn khá phổ biến.
Việc đổi mới cơ chế và bộ máy quản lý, việc điều hành không nhạy bén, là những
nguyên nhân quan trọng dẫn tới hành động không thống nhất từ trên xuống dưới.
Chúng ta mới nêu ra được phương hướng chủ yếu của cơ chế mới, hình thức,
bước đi, cách làm cụ thể thì còn nhiều vấn đề chưa giải quyết được thoả đáng cả về lý
luận và thực tiễn.
2.1.4. Tư tưởng chỉ đạo
Ta đã bộc lộ sự lạc hậu về nhận thức lý luận trong thời kỳ quá độ:”Khuynh
hướng tư tưởng chủ yếu của những sai lầm ấy,đặc biệt là những chính sách kinh tế là
bệnh chủ quan, duy ý chí, lối suy nghĩ và hành động giản đơn, nóng vội chạy theo
nguyện vọng chủ quan” (Đảng công sản Việt nam - Văn kiện Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ VI- 1986). Chúng ta đã có những thành kiến không đúng, trên thực tế,
chưa thừa nhận thật sự những quy luật của sản xuất hàng hóa đang tồn tại khách quan.
Chúng ta đã ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách quá mức mà hiệu quả
kinh tế phát triển chậm. Hơn thế nữa, ta chưa chú ý đúng mức tới sản xuất nông

nghiệp và sản xuất hàng tiêu dùng nên đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn.
- Bên cạnh đó, sự tan rã của hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa vào những năm
cuối thập kỷ 80, đầu thập kỷ 90 làm cho chúng ta mất đi một thị trường truyền thống,
nguồn viện trợ quan trọng, gây nhiều khó khăn đối với sản xuất và đời sống.
- Chính sách cấm vận của Hoa Kỳ kéo dài, sự thù địch của các thế lực phản
động cũng có tác động không nhỏ đến sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Tất cả những nguyên nhân trên cộng với thiên tai, mất mùa liên tiếp vào những
năm 1979 - 1980 đã đưa nước ta vào tình trạng khủng hoảng, công nghiệp chỉ tăng
0,6%, nông nghiệp tăng 1,9% trong khi lạm phát ở mức siêu cấp năm 1986: 74%
9


Chính vì vậy, bài học kinh nghiệm được rút ra trong “Văn kiện Đại hội Đại biểu
toàn quốc lần thứ VI về phát triển kinh tế phải xuất phát từ thực tiễn, tôn trọng và hoạt
động theo quy luật khách quan là hoàn toàn đúng đắn. Chính từ những khó khăn trên
đòi hỏi phải đổi mới nền kinh tế, xã hội. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đã đánh
dấu một mốc phát triển quan trọng trong quá trình phát triển của đất nước.
2.1.5. Biện pháp giải quyết tình hình để phát triển kinh tế
Để khắc phục khuyết điểm, chuyển biến được tình hình, Đảng ta trước hết phải
thay đổi nhận thức, đổi mới tư duy. Phải nhận thức và hành động đúng đắn, đề ra
những chủ trương, chính sách phù hợp với hệ thống quy luật khách quan, trong đó các
quy luật đặc thù của chủ nghĩa xã hội ngày càng chi phối mạnh mẽ phương hướng phát
triển chung của xã hội. Mọi chủ trương, chính sách, biện pháp kinh tế gây tác động
ngược lại đều biểu hiện sự vận dụng không đúng quy luật khách quan, phải được sửa
đổi hoặc huỷ bỏ.
- Trên cơ sở đó, chúng ta phải vận dụng tổng hợp hệ thống các quy luật đang tác
động lên nền kinh tế. Trong hệ thống các quy luật đó, quy luật kinh tế cơ bản cùng với
các quy luật đặc thù khác của chủ nghĩa xã hội ngày càng phát huy vai trò chủ đạo,
được vận dụng trong một thể thống nhất với các quy luật của sản xuất hàng hoá, đặc
biệt là quy luật giá trị, quy luật cùng cầu, quy luật cạnh tranh... Kế hoạch hoá phải luôn

luôn gắn liền với việc sử dụng các đòn bảy kinh tế.
- Đại hội đảng lần thứ VI có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Những quan điểm,
đường lối do Đại hội VI vạch ra là sự vận dụng đúng đắn và sáng tạo chủ nghĩa Mác
Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn của đất nước. Công cuộc đổi mới của
Đảng từ sau Đại hội VI đến nay ở nước ta không nằm ngoài những quy luật phổ biến
của phép biện chứng, Đảng ta đã vận dụng phép biện chứng vào nhận thức hiện thực
xã hội, phân tích các mối liên hệ biện chứng của đời sống hiện thực, tìm ra các mâu
thuẫn đó và tạo ra động lực mạnh mẽ cho quá trình đổi mới vững chắc.
Vì trước đây, nước ta lâm vào khủng hoảng kinh tế, xã hội với nhiều khó khăn
phức tạp, gay gắt, lạm phát phi mã do tư duy lý luận bị lạc hậu, giữa lý luận và thực
tiễn có khoảng cách xa. Tư duy cũ về chủ nghĩa xã hội theo mô hình tập trung quan
liêu bao cấp đã cản trở sự phát triển của thực tiễn sản xuất. Bị chi phối bởi quy luật
mâu thuẫn khách quan nên để giải quyết mâu thuẫn đó Đảng ta đã tiến hành đổi mới
và cải cách kinh tế.
10


- Bước đầu tạo ra một cơ cấu kinh tế hợp lý nhằm phát triển sản xuất. Để làm
đủ ăn và có tích luỹ, phải ra sức phát triển sản xuất, xây dựng một cơ cấu kinh tế hợp
lý, trước hết là cơ cấu các ngành kinh tế phù hợp với tính quy luật về sự phát triển các
ngành sản xuất vật chất, phù hợp với sự phân công lao động và hợp tác quốc tế. Cơ
cấu kinh tế đó đảm bảo cho nền kinh tế phát triển cân đối với nhịp độ tăng trưởng ổn
định. Phải thông qua việc sắp xếp lại sản xuất, đi đôi với việc xây dựng thêm cơ cấu
kinh tế hợp lý.
- Hướng vào việc đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp, đẩy mạnh sản xuất hàng tiêu
dùng, xuất khẩu.
- Xây dựng và hoàn thiện một bước quan hệ sản xuất mới phù hợp với tính chất
và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Củng cố thành phần kinh tế xã hội chủ
nghĩa bao gồm cả khu vực quốc doanh, tập thể. Bằng các biện pháp thích hợp, sử dụng
mọi khả năng của các thành phần kinh tế khác trong sự liên kết chặt chẽ và dưới sự chỉ

đạo của thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa. giải pháp đó xuất phát từ thực tế của
nước ta và là sự vận dụng quan điểm của Lênin coi nền kinh tế có cơ cấu nhiều thành
phần là một đặc trưng của thời kỳ quá độ. Thực chất của cơ chế mới về quản lý kinh tế
là cơ chế kế hoạch hoá theo phương thức hoạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa,
đúng nguyên tắc tập trung dân chủ.
- Tiến hành phân cấp quản lý theo nguyên tắc tập trung dân chủ, chống tập
trung quan liêu, chống tự do vô tổ chức. Bảo đảm quyền tự chủ sản xuất, kinh doanh,
tự chủ tài chính của các đơn vị kinh tế cơ sở, quyền làm chủ của các tập thể lao động.
2.2. QUÁ TRÌNH ĐỔI MỚI KINH TẾ CỦA VIỆT NAM
Ba mươi năm đổi mới là một giai đoạn lịch sử quan trọng có ý nghĩa trọng đại
trong sự nghiệp phát triển của đất nước, đánh dấu sự trưởng thành về mọi mặt của
Đảng, Nhà nước và nhân dân, là quá trình cải biến sâu sắc, toàn diện, triệt để, là sự
nghiệp cách mạng to lớn của toàn Đảng, toàn dân vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh,
dân chủ, công bằng, văn minh.”
Sau 30 năm đổi mới, Việt Nam đã đạt được những thành tựu quan trọng trong
công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc
hậu với 90% dân số làm nông nghiệp, Việt Nam đã xây dựng được cơ sở vật chất-kỹ
11


thuật, hạ tầng kinh tế-xã hội từng bước đáp ứng cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện
đại hóa, tạo ra môi trường thu hút nguồn lực xã hội cho phát triển.
So với thời kỳ trước đổi mới, diện mạo đất nước có nhiều thay đổi, kinh tế duy
trì tốc độ tăng trưởng khá, tiềm lực và quy mô nền kinh tế tăng lên (đạt ngưỡng thu
nhập trung bình), đời sống nhân dân từng bước được cải thiện; đồng thời tạo ra nhu
cầu và động lực phát triển cho tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, đội ngũ doanh
nghiệp, doanh nhân đã thực sự trở thành lực lượng quan trọng để thực hiện đường lối
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Về tăng trưởng kinh tế, trong suốt 30 năm qua, kinh tế Việt Nam đã đạt tốc độ
tăng trưởng cao hơn hẳn thời kỳ trước đổi mới. Sau giai đoạn đầu đổi mới (1986-1990)

với mức tăng trưởng GDP bình quân hàng năm chỉ đạt 4,4%, nền kinh tế Việt Nam đã
trải qua gần 20 năm với mức tăng trưởng rất ấn tượng.
Giai đoạn 1991-1995, GDP bình quân tăng 8,2%/năm gấp đôi so với 5 năm
trước đó; giai đoạn 5 năm tiếp theo 1996-2000, mặc dù cùng chịu tác động của khủng
hoảng tài chính khu vực (1997-1999), GDP vẫn duy trì bình quân tăng 7,6%/ năm; giai
đoạn 2001-2005, GDP tăng bình quân 7,34%; giai đoạn 2006-2010, do suy giảm kinh
tế thế giới, Việt Nam vẫn đạt tốc độ tăng trưởng GDP bình quân 6,32%/năm.
Trong các năm tiếp theo, do chịu tác động từ cuộc khủng hoảng tài chính toàn
cầu 2008 và khủng hoảng nợ công 2010, tốc độ tăng trưởng GDP giai đoạn 2011-2015
của Việt Nam tuy đã chậm lại nhưng vẫn đạt 5,9%/năm, là mức cao của khu vực và thế
giới. Quy mô nền kinh tế tăng nhanh.
Năm 2003, sau 16 năm đổi mới, GDP bình quân đầu người ở Việt Nam mới chỉ
đạt 471 USD/năm thì đến năm 2015, quy mô nền kinh tế đã đạt khoảng 204 tỷ USD,
thu nhập bình quân đầu người đạt gần 2.300 USD.
Lực lượng sản xuất có nhiều tiến bộ cả về số lượng và chất lượng. Chất lượng
tăng trưởng có mặt được cải thiện, trình độ công nghệ sản xuất có bước được nâng lên.
Đóng góp của yếu tố năng suất tổng hợp TFP vào tăng trưởng nếu ở giai đoạn 20012005 chỉ đạt 21,4%, giai đoạn 2006-2010 đạt 17,2% thì trong giai đoạn 2011-2015 đã
đạt 28,94%. Kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định, lạm phát được kiểm soát.

12


Những nỗ lực đổi mới trong 30 năm qua đã giúp cho môi trường đầu tư liên tục
được cải thiện, nhờ đó đã thu hút ngày càng nhiều hơn vốn đầu tư cho phát triển.
Cơ cấu kinh tế của Việt Nam đã bước đầu chuyển dịch theo hướng hiện đại. Cơ
cấu ngành kinh tế chuyển dịch theo hướng giảm khu vực nông nghiệp, tăng khu vực
dịch vụ và công nghiệp. Cơ cấu thành phần kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo hướng
phát huy tiềm năng của các thành phần kinh tế và đan xen nhiều hình thức sở hữu.
Cơ cấu lao động có sự chuyển đổi tích cực gắn liền với quá trình chuyển dịch
cơ cấu kinh tế. Cơ cấu hàng hóa xuất khẩu có cải thiện đáng kể.

Kim ngạch xuất khẩu thường xuyên tăng với tốc độ hai con số, giai đoạn 20112015 tăng đến 18%/năm. Xuất khẩu chuyển dịch theo hướng tăng dần tỷ trọng sản
phẩm công nghiệp và giảm dần tỷ trọng sản phẩm nông nghiệp, giảm dần sản phẩm
nguyên liệu thô. Đã hình thành các vùng kinh tế trọng điểm để làm động lực cho phát
triển kinh tế vùng, miền và cả nước. Phát triển các khu kinh tế, khu công nghiệp tập
trung nhằm thu hút vốn đầu tư phát triển, đồng thời hình thành các vùng chuyên môn
hoá cây trồng, vật nuôi gắn với chế biến công nghiệp.
Các ngành, lĩnh vực của nền kinh tế đều có bước phát triển khá. Ngành công
nghiệp và xây dựng duy trì tốc độ tăng trưởng khá liên tục, tốc độ triển khai ứng dụng
các thành tựu khoa học và công nghệ được cải thiện. Sản phẩm công nghiệp phát triển
ngày càng đa dạng và chất lượng, từng bước nâng cao khả năng cạnh tranh, bảo đảm
cung cầu của nền kinh tế, giữ vững thị trường trong nước và mở rộng thị trường xuất
khẩu; chú trọng đầu tư phát triển một số ngành công nghiệp mới, công nghệ cao.
Khu vực nông nghiệp phát triển khá ổn định; công nghiệp hóa, hiện đại hóa
nông nghiệp, nông thôn có sự chuyển biến quan trọng, từ lúc cả nuớc còn thiếu ăn nay
đã trở thành nước xuất khẩu gạo với khối lượng lớn, đứng thứ hai thế giới, góp phần
vào an ninh lương thực quốc tế; xuất khẩu càphê, cao su, hạt điều, hạt tiêu, thủy sản
với khối lượng lớn đứng thứ hạng cao trên thế giới.
Các ngành dịch vụ đã phát triển đa dạng hơn, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu
cầu của sản xuất và đời sống. Ngành du lịch, bưu chính viễn thông phát triển với tốc
độ nhanh; các ngành dịch vụ tài chính, ngân hàng, tư vấn pháp lý có bước phát triển
theo hướng tiến bộ, hiệu quả.
13


Việc khai thác, sử dụng tài nguyên quốc gia và bảo vệ môi trường gắn với yêu
cầu phát triển bền vững đã được quan tâm và đem lại kết quả bước đầu. Kết cấu hạ
tầng kinh tế-xã hội phát triển, đặc biệt là hạ tầng giao thông, điện, thông tin, viễn
thông, thủy lợi, hạ tầng đô thị, giáo dục, y tế. Việc ứng dụng khoa học công nghệ, đặc
biệt là công nghệ cao, đã tạo những tiền đề để bước đầu chuyển sang xây dựng kinh tế
tri thức.

Qua 30 năm đổi mới, đất nước cũng đã đạt được những thành tựu rất quan trọng
về hoàn thiện thể chế, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, tư tưởng, đường lối phát triển kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa đã được thể chế hóa thành pháp luật, tạo hành lang pháp lý
cho nền kinh tế vận hành có hiệu quả.
Trong 30 năm đổi mới, đã ba lần sửa đổi và ban hành Hiến pháp, sửa đổi và ban
hành trên 150 bộ luật và luật, trên 70 pháp lệnh. Gần đây nhất, Quốc hội đã thông qua
Hiến pháp 2013 và hàng loạt bộ luật để thể chế hóa Hiến pháp 2013 cơ bản đã tạo cơ
sở pháp lý hình thành và thúc đẩy việc hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa. Đó là khẳng định nguyên tắc nền kinh tế có chế độ đa sở hữu,
đa thành phần, nhiều hình thức phân phối; khẳng định nguyên tắc phát triển đồng bộ
các yếu tố thị trường và vận hành thông suốt các loại thị trường; khẳng định nguyên
tắc Nhà nước quản lý nền kinh tế theo theo các nguyên tắc của cơ chế thị trường;
khẳng định nguyên tắc đảm bảo thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội trong từng
bước, từng chính sách phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ môi trường; khẳng định
nguyên tắc mở cửa, hội nhập với kinh tế khu vực và thế giới.
Ba mươi năm đổi mới kinh tế cũng đã chứng kiến vai trò tích cực của các chủ
thể kinh tế trong nền kinh tế quốc dân, tự do kinh doanh và cạnh tranh theo quy định
của pháp luật.
Kinh tế nhà nước dần phát huy tốt hơn vai trò chủ đạo; hệ thống doanh nghiệp
nhà nước từng bước được cơ cấu lại, cổ phần hóa theo Luật Doanh nghiệp và đang
giảm mạnh về số lượng. Kinh tế tập thể bước đầu được đổi mới, các hình thức hợp tác
kiểu mới được hình thành phù hợp hơn với cơ chế thị trường. Kinh tế tư nhân tăng
nhanh về số lượng, từng bước nâng cao hiệu quả kinh doanh, giải quyết việc làm, đóng
14


góp ngày càng lớn vào GDP. Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài được khuyến khích
phát triển, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) đã có những đóng góp
quan trọng vào việc thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế-xã hội, giải quyết việc làm và

xuất khẩu.
Các tổ chức xã hội-nghề nghiệp không ngừng phát triển và ngày càng phát huy
vai trò quan trọng của mình trong nền kinh tế. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa,
dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đang tích cực được hoàn thiện, bộ máy
quản lý nhà nước đã và đang được điều chỉnh theo hướng tinh giản, chức năng quản lý
nhà nước về kinh tế cũng được nhận thức lại đúng đắn hơn, đổi mới cả trong nhận thức
và thực hiện phù hợp hơn với cơ chế thị trường.
Qua 30 năm đổi mới, Việt Nam đã dần hình thành đầy đủ, đồng bộ các yếu tố
thị trường và các loại thị trường, vận hành cơ bản thông suốt, gắn kết với thị trường
khu vực và quốc tế. Thị trường hàng hóa, dịch vụ đã có bước phát triển và hoàn thiện
về quy mô, cơ cấu hàng hóa-thị trường trong và ngoài nước, kết cấu hạ tầng thương
mại, dịch vụ, cơ chế quản lý, mức độ cạnh tranh.
Thị trường tài chính, tiền tệ phát triển khá mạnh và sôi động. Bên cạnh kênh
huy động vốn từ ngân hàng, thị trường chứng khoán đã bước đầu hình thành, góp phần
đa dạng hóa nguồn vốn đầu tư. Đồng thời, hoạt động của thị trường bảo hiểm đã đóng
góp tích cực vào việc ổn định sản xuất và đời sống dân cư, huy động vốn cho sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Thị trường bất động sản đã có bước phát triển nhanh chóng. Thị trường lao
động đã được hình thành trên phạm vi cả nước. Thị trường khoa học-công nghệ đang
hình thành và phát triển, số lượng và giá trị giao dịch công nghệ có bước tiến đáng kể
trong những năm gần đây. Thị trường một số loại dịch vụ công cơ bản, nhất là về y tế,
giáo dục có bước phát triển mới, huy động được các nguồn lực ngoài ngân sách nhà
nước tham gia.
Qua 30 năm đổi mới, việc tăng trưởng kinh tế đã cơ bản gắn kết hài hòa với
phát triển văn hóa, xây dựng con người, tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ tài nguyên
và môi trường. Tăng trưởng kinh tế đi đôi với bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội
ngay trong từng bước phát triển. Từ chỗ Nhà nước bao cấp toàn bộ trong việc giải
15



quyết việc làm đã dần chuyển trọng tâm sang thiết lập cơ chế, chính sách để các thành
phần kinh tế và người lao động đều tham gia tạo việc làm; từ chỗ không chấp nhận có
sự phân hóa giàu-nghèo đã đi đến khuyến khích mọi người làm giàu hợp pháp đi đôi
với tích cực xóa đói giảm nghèo.
An sinh xã hội cơ bản được đảm bảo; hệ thống an sinh xã hội và phúc lợi xã hội
phát triển khá đồng bộ, đặc biệt là trong vấn đề giảm nghèo, giải quyết việc làm, phát
triển hệ thống bảo hiểm xã hội, chính sách ưu đãi người có công với nước, trợ giúp xã
hội, chính sách bảo hiểm y tế toàn dân tạo điều kiện để người dân được hưởng thụ
nhiều hơn về văn hóa, y tế và giáo dục. Trong bối cảnh nền kinh tế có nhiều khó khăn,
Việt Nam đã tăng thêm ngân sách và huy động nguồn lực để thực hiện các chính sách
xã hội; đồng thời hoàn thành trước thời hạn nhiều Mục tiêu phát triển thiên niên kỷ của
Liên hợp quốc.
30 năm đổi mới cũng là một chặng đường hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng
trên nhiều cấp độ, đa dạng về hình thức, theo nguyên tắc và chuẩn mực của thị trường
toàn cầu. Việt Nam đã thiết lập được nhiều quan hệ đối tác chiến lược về kinh tế. Tích
cực xây dựng Cộng đồng ASEAN 2015 và hoàn thiện thị trường trong nước đầy đủ
hơn theo cam kết WTO.
Cho đến nay đã có 59 quốc gia công nhận nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế
thị trường, trong đó có các đối tác thương mại lớn của Việt Nam. Việt Nam đã ký kết
10 Hiệp định thương mại tự do khu vực và song phương (gồm sáu FTA ký kết với tư
cách là thành viên ASEAN; bốn FTA đàm phán với tư cách là một bên độc lập); vừa
hoàn tất đàm phán hai FTA (Liên minh châu Âu và TPP); đang tích cực đàm phán ba
FTA khác (ASEAN-Hong Kong; EFTA; RCEP).
Việc tham gia ký kết và đàm phán tham gia các FTA có tác động tích cực tới
phát triển kinh tế, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, doanh nghiệp và sản phẩm,
nhất là đến nay Việt Nam đã tham gia vào ba chuỗi giá trị có vai trò ngày càng quan
trọng đối với nền kinh tế toàn cầu đó là chuỗi giá trị lương thực và an ninh lương thực;
chuỗi giá trị năng lượng và an ninh năng lượng (dầu mỏ, khí, than) và chuỗi giá trị
hàng dệt may và da giầy.


16


Nguyên nhân của những thành tựu đạt được nêu trên là nhờ có nhận thức đúng
đắn, đổi mới tư duy lý luận của Đảng về tính tất yếu của phát triển kinh tế thị trường;
quyết định chuyển từ kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa; xác định phát triển kinh tế là nhiệm vụ trọng tâm, kiên trì lãnh
đạo, chỉ đạo thực hiện các quyết sách về kinh tế, được nhân dân đồng tình ủng hộ và
tích cực tham gia thực hiện.
Sự quản lý, điều hành của Nhà nước đối với kinh tế thị trường sát thực và hiệu
quả hơn. Mở rộng, phát huy dân chủ trong lĩnh vực kinh tế, thực hiện ngày càng tốt vai
trò làm chủ về kinh tế của nhân dân. Vai trò lãnh đạo cũng như nội dung và phương
thức lãnh đạo của Đảng đối với phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ngày càng rõ nét, theo đó đã xác định tiếp tục đổi mới tư duy kinh tế, nâng cao
năng lực lãnh đạo kinh tế của các tổ chức đảng, tăng cường lãnh đạo và kiểm tra về
phát triển kinh tế.
Ba mươi năm đổi mới là một giai đoạn lịch sử quan trọng có ý nghĩa trọng đại
trong sự nghiệp phát triển của Việt Nam, đánh dấu sự trưởng thành về mọi mặt của
Đảng, Nhà nước và nhân dân; là quá trình cải biến sâu sắc, toàn diện, triệt để, là sự
nghiệp cách mạng to lớn của toàn Đảng, toàn dân vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh,
dân chủ, công bằng, văn minh.”
Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa từng bước hình thành và
phát triển; thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được quan tâm xây
dựng và từng bước hoàn thiện. Môi trường đầu tư không ngừng được cải thiện, thế và
lực của nước ta vững mạnh, vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng lên, tạo
ra những tiền đề quan trọng để đẩy nhanh công nghiệp hoá, hiện đại hóa và nâng cao
chất lượng cuộc sống của nhân dân. Đồng thời chúng ta cũng nhận thức rõ còn những
hạn chế, khó khăn không nhỏ của nền kinh tế đã và đang đặt ra những vấn đề cần phải
có những quyết sách trong thời gian tới đưa nước ta phát triển nhanh và bền vững.
Năm 2015, năm đánh dấu một giai đoạn quan trọng của tiến trình phát triển,

năm cuối của chặng đường 30 năm đổi mới có ý nghĩa rất quan trọng; là năm triển
khai tích cực Cộng đồng ASEAN và thực hiện các Hiệp định thương mại tự do song
phương, đa phương một cách đồng bộ, hội nhập sâu rộng; đồng thời cũng là năm cuối
17


thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội 5 năm giai đoạn 2011-2015, tiến hành Đại
hội Đảng các cấp tiến tới Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ XII.
Với niềm tin sâu sắc vào đường lối đúng đắn của Đảng, Nhà nước, Quốc hội và
Chính phủ, sự cố gắng vươn lên trong tổ chức thực hiện của các cấp, các ngành, các
địa phương và sự phấn đấu nỗ lực của toàn dân, toàn quân, chúng ta luôn tin tưởng vào
sự phát triển thịnh vượng của đất nước trên con đường hội nhập rộng mở phía trước./.
2.3. Ý NGHĨA THỰC TIỄN
Đảng cộng sản Việt Nam, trước sau như một, vẫn khẳng định mục tiêu chủ
nghĩa xã hội của cách mạng Việt Nam. Nhưng trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã
hội ở nước ta đã xuất hiện bệnh chủ quan duy ý chí. Đại Hội VII Đảng cộng sản Việt
Nam đã khẳng định: Trong cách mạng xã hội chủ nghĩa, Đảng ta đã có nhiều cố gắng
nghiên cứu, tìm tòi, xây dựng đường lối, xây dựng mục tiêu và phương hướng xã hội
chủ nghĩa. Nhưng Đảng đã phạm sai lầm chủ quan duy ý chí, vi phạm quy luật khách
quan nóng vội trong cải tạo xã hội chủ nghĩa, xoá bỏ ngay nền kinh tế nhiều thành
phần, duy trì quá lâu cơ chế quản lý kinh tế tập trung quan liêu, bao cấp... Quán triệt
nguyên tắc khách quan, khắc phục bệnh chủ quan duy ý chí là nhiệm vụ của toàn
Đảng, toàn dân.
Bản thân sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội là một nhiệm vụ mới mẻ, khó
khăn, phức tạp đòi hỏi phải phát huy cao độ vai trò của nhân tố chủ quan và tính năng
động chủ quan. Vì thế phải kết hợp chặt chẽ giữa nhiệt tình cách mạng và tri thức khoa
học bởi tri thức khoa học có được hay không là nhờ ở lòng ham hiểu biết, trí thông
minh, ý chí ngược lại nếu tri thức khoa học phát huy được tác dụng trong thực tiễn thì
nó lại trở thành động lực tăng thêm tri thức, nhận thức. Sự kết hợp xuất phát từ thực tế
khách quan và phát huy nỗ lực chủ quan không những đem lại hiệu quả cao trong sự

phát triển nhận thức mà còn giúp cho lý luận không bao giờ xa rời thực tiễn cuộc sống.
Nắm bắt và vận dụng được có hiệu quả các quy luật tất yếu khách quan để hoạt
động và đem nó vào thực tiễn để kiểm nghiệm là một phương tâm chủ đạo trong công
cuộc đổi mới hiện nay. Chỉ có dám nghĩ, dám làm kết hợp với tri thức khoa học được
trang bị, chúng ta mới thành công được. Đặc biệt là trong lĩnh vực kinh tế, nắm bắt
quy luật kinh tế, quy luật sản xuất lại càng cần thiết để cải tạo thực tiễn, tạo ra phương
hướng`và mục tiêu đúng đắn phát triển đi lên. Chỉ có thế nước ta mới theo kịp được
18


trình độ phát triển kinh tế chung của khu vực và trên thế giới. Trong xu thế hội nhập
toàn cầu hoá hiện nay, những chính sách đổi mới của Đảng và Nhà nước xuất phát từ
thực tiễn tình hình đất nước đáng phát huy mạnh mẽ tính ưu việt của nó.
2.4. ĐỀ XUẤT NHIỆM VỤ VÀ GIẢI PHÁP CHO TƯƠNG LAI
Hiện nay, Việt Nam còn là một nước đứng vào hàng những nước nghèo trên thế
giới, việc đưa nước ta thoát khỏi tình trạng này đòi hỏi sự nỗ lực hết mình của mỗi
người đặc biệt là phát triển kinh tế. Mục tiêu của chúng ta là phát triển kinh tế đi kèm
với công bằng và tiến bộ xã hội. Vì vậy, cần đẩy mạnh hơn nữa công cuộc công nghiệp
hoá, hiện đại hoá, đổi mới một cách toàn diện mọi lĩnh vực. Sự đổi mới này phải đồng
bộ, tuân theo quá trình nhận thức và tình hình thực tiễn đất nước. Phát triển một nền
kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường nhưng phải dưới sự quản lý
của Nhà nước là theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Vì những mục tiêu trên đây, cần
thiết phải có một số giải pháp cho phát triển kinh tế tương lai.
- Tập trung phát triển kinh tế về chất và lượng. Đầu tư có trọng điểm cho nông
nghiệp, phát triển hình thức nông trại sản xuất của tư nhân hoặc tổ chức nhỏ. Tạo nguồn
vốn cho công nghiệp nhẹ, hiện đại hoá dây chuyền thiết bị. Phát triển mạnh công nghiệp
chế biến lương thực thực phẩm đưa công nghệ thông tin vào đời sống sản xuất.
- Tăng nhanh khả năng và tiềm lực tài chính cho đất nước bằng các đầu tư cho
xuất khẩu thu lợi nhuận cao và nguồn vốn nhanh. Phát triển công tác thu và nộp thuế,
phổ biến bằng mọi phương tiện thông tin đại chúng. Phát hành trái phiếu Nhà nước

theo định kỳ, làm lành mạnh hoá nền tài chính quốc gia.
- Mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại, gọi vốn đầu tư nước ngoài
bằng cách mở rộng, nới lỏng chính sách về đầu tư, hệ thống hoá luật đầu tư nước
ngoài, tạo cơ sở kinh tế thuận lợi và những dự án nhiều tiềm năng.
- Giải quyết tốt mọi vấn đề kinh tế xã hội như vấn đề tạo việc làm. Có thể phát
triển nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ ở cả nông thôn và thành thị để thu hút lao động.
Sắp xếp lại các xí nghiệp quốc doanh, tạo cơ hội cạnh tranh lành mạnh trên thị trường
và nhà nước bảo hộ sản xuất trong nước ở một bộ phận nào đó.
- Cần đề ra những mục tiêu cho mười, hai mươi năm tới. Những chính sách, chủ
trương lớn phù hợp với thực tiện hoàn cảnh đất nước và xu thế phát triển của thế giới.
Điều hành đúng, có tổ chức cao và chặt chẽ nền kinh tế thị trường, chống mọi biểu
19


hiện nhận thức sai lầm, lệch lạc làm đi không đúng con đường đã chọn. Vận dụng các
quy luật khách quan trong việc chỉ đạo, tổ chức đề ra những phương hướng, giải pháp
kinh tế táo bạo, có cơ sở vứng chắc.
- Nhà nước tạo mọi điều kiện cho các thành phần kinh tế phát triển bình đẳng,
hỗ trợ vốn cho người nghèo không lấy lãi.
- Hạ trần lãi suất tiết kiệm để kích cầu, tiêu thụ trên thị trường mới tăng mạnh,
sản xuất trong nước mới có nhiều điều kiện cạnh tranh, phát triển.
- Tạo nguồn cán bộ kinh tế tương lai với những tri thức khoa học và lý luận
vững chắc. Gắn đào tạo với thực hành, đầu tư thiết bị quản lý kinh tế hiện đại để giảng
dạy và thực hành trong các trường kinh tế, xã hội hoá giáo dục và đào tạo.

20


KẾT LUẬN
Những bước phát triển gì nữa sẽ đặt ra cho nền kinh tế Việt Nam trước thềm

thiên niên kỷ mới? Đổi mới kinh tế, công nghiệp hoá, hiện đại hoá phải chăng vẫn
chưa đáp ứng được nhu cầu thời đại ? Tất nhiên, những câu trả lời cho vấn đề ấy còn
đang nằm ở phía trước. Song chắc chắn, với con đường đi đúng đắn và sự lựa chọn
quyết đoán của Đảng và Nhà nước, chúng ta sẽ gặt hái được rất nhiều thành tựu mới.
Nhà nước sử dụng các đòn bẩy kinh tế trong kế hoạch hoá trực tiếp và kế hoach hóa
gián tiếp để đảm bảo thực hiện những phương hướng, mục tiêu của kế hoạch kinh tế
quốc dân. Trước thực tế của quá trình phát triển kinh tế Việt Nam từ sau cách mạng
Tháng Tám, một lần nữa ta lại càng cần khẳng định vai trò không thể thiếu được
của quá trình lý luận nhận thức và các chính sách, chủ trương xuất phát từ thực tiễn
chi phối nền kinh tế. Khi đi đúng vào tiến trình lịch sử của nhân loại, tất yếu chúng
ta sẽ không bị lạc hậu, tụt lùi mà ngày càng có vị thế, phát triển mạnh mẽ hơn. Hy
vọng chỉ một thời gian không lâu nữa nền kinh tế Việt Nam sẽ phát triển vượt bậc,
phát triển có cơ sở vững chắc, đứng vào vị trí những nước có nền kinh tế tăng
trưởng mạnh trên thế giới.

21


TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Giáo trình triết học Mác - Lênin (I,II)
2. Triết học Mác - Lênin - Chương trình cao cấp (I,II,III)
3. Kinh tế chính trị Mác - Lênin (Phần kinh tế xã hội chủ nghĩa)
4. Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thức VI của Đảng cộng sản Việt Nam.
5. Tạp chí: nghiên cứu lý luận
6. Tạp chí triết học
7. Địa lý Việt Nam
8. C.Mác - F.Engghen - tuyển tập
9. Hồ Chí Minh - tuyển tập
10. V.I.Lênin- toàn tập


22



×