Tải bản đầy đủ (.docx) (6 trang)

Bàn về thơ đường

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (41.51 KB, 6 trang )

Bàn về thơ Đường
phạm văn bân

Ngâm một bài thơ hay có thể làm rung động người nghe, về mặt tĩnh thì đưa tâm tình người nghe
vào chỗ mê hồn, phẳng lặng, khiến họ cảm thấy được nghỉ ngơi sảng khoái và về mặt động thì
khuấy lên như sấm sét, mưa gào. Đó chính là nhờ giọng của người ngâm thơ hay, nhờ chữ của
bài thơ (từ thi) sử dụng một cách khéo léo, tự nhiên, có vần, có điệu, nghe lọt cái lỗ tai.
Giá trị bài thơ trước hết được người ta phán xét qua cung cách trình bày, giọng ngâm và tác động
của âm hưởng trầm bổng. Sau đó mới xét đến ý thơ (tứ thi). Ý thơ có súc tích, có hàm dưỡng
được cái Chân, cái Thiện và cái Mỹ, có thanh cao, có chia sẻ được tâm tình của đại chúng thì
mới gọi là bài thơ có hồn. Thơ mà không có hồn thì không ra làm sao cả.
Người ta làm thơ để bày tỏ một tâm tình hoặc mô tả một cảnh đẹp nào đó, hoặc vừa tả cảnh, vừa
tả tình. Làm thơ thì tùy theo sở thích nhưng bắt buộc phải làm theo thể này, thể nọ bởi lẽ thơ là
thể văn vần; phá bỏ cái thể, cái nét riêng của nó thì không gọi là thơ được. Thơ tự do vẫn đòi hỏi
có vần, có điệu.
Tương tự như hội họa: một người có thể căng một tờ giấy trắng ra, chấm vào đó một chấm hoặc
quệt vào đó một gạch và gọi đó là bức tranh tuyệt tác. Người đó cảm thấy là tuyệt tác thì không
có gì đáng lưu ý; điều quan trọng là đa số mọi người có thừa nhận hay không. Mặt khác, người
đó không thể gọi "bức tranh" đó là thuộc trường phái lập thể Picasso được: có diễn tả sự vật và
phân tích ra thành những khối hình học đơn giản đâu mà gọi là lập thể ?
Thơ Việt Nam có gốc gác lịch sử từ Trung quốc là lẽ tự nhiên. Vào lúc ban sơ, người Việt Nam
đã có thể bắt chước các thể thơ Cổ phong và thơ Đường của người Trung quốc một cách dễ dàng,
không một chút gượng ép. Và về sau, với thể thơ Đường cũng vậy. Lý do là vì tiếng Việt Nam
mang cùng một đặc điểm với tiếng Trung quốc: cùng là loại tiếng độc âm và các thanh đều có thể
qui thành hai thanh bằng (tiếng phát ra đều đều, bằng phẳng, thí dụ: ăn cơm, chiều tà) và trắc
(nghiêng lệch, tiếng phát ra hoặc từ thấp lên cao, hoặc từ cao xuống thấp, thí dụ: ngã sấp xuống,
gánh nặng quá, kỷ niệm). Lúc bấy giờ, Việt Nam chưa có chữ viết và lại chịu ách đô hộ dã man
của Trung quốc hơn cả ngàn năm, tất cả sinh hoạt chữ nghĩa đều phải mượn chữ Hán mà xài.
Thực ra, các dân tộc chung quanh Trung quốc như Đại Hàn, Nhật Bản đều mượn chữ Hán; và
trong thực tế, mỗi dân tộc đều đã thay đổi chữ Hán cách này hay cách nọ để thích ứng với nét
riêng của mình. Tại Việt Nam, hiện tượng sử dụng chữ Nôm trong khoảng 700 năm và tiếng Hán


Việt là thí dụ cụ thể. Tuy nhiên, người Việt Nam cũng có sáng tạo một số thể thơ riêng biệt,
không chỉ dùng lối gieo vần ở chữ cuối câu (cước vận) mà còn gieo vần ở lưng chừng câu (yêu
vận). Thí dụ: thể thơ lục bát, song thất lục bát và các biến thể như: hát nói, sẩm, lý, hề, v.v.


Trong cả hai nền văn học Trung quốc và Việt Nam, thể thơ Đường chiếm vị thế độc tôn trong
suốt mấy ngàn năm nay bởi cách bố cục có đầu, có đuôi, súc tích, thâm trầm, càng đọc, càng suy
nghĩ thì càng thấm thía. Độc tôn cũng bởi cách cấu tạo vần, đối, niêm và luật bằng trắc được
phối hợp một cách công phu, hài hòa, ngâm lên nghe lúc bổng, lúc trầm, lúc lãng mạn tình tứ, lúc
trầm hùng, trôi chảy như núi như sông. Cụ Lệ Thần Trần Trọng Kim viết:
"Những bài thơ Đường tựa như những đồ chơi làm bằng ngọc bằng ngà, chạm trổ rất tinh xảo,
trau giồi bóng bảy, càng ngắm càng thấy đẹp, chơi bao lâu cũng không thấy chán. Những thơ ấy
lại có nhiều tình sâu ý cao, ngâm nga tiêu khiển và ngẫm nghĩ kỹ, thật là lợi cho tính tình biết
bao"
Thể thơ Đường xuất xứ từ thể thơ Cổ phong, còn gọi là Cổ thể. Thơ cổ phong chỉ cần giữ vần mà
thôi. Những bài dùng suốt một vần thì gọi là độc vận; còn đổi vần ở mỗi đoạn thơ thì gọi là hoán
vận. Số chữ trong thơ cổ phong không nhất định, có lúc khởi bằng câu ba chữ rồi tới bảy chữ, có
lúc khởi bằng câu năm chữ rồi tới bảy chữ, hoặc có khi chen lẫn những câu chín, mười chữ.
Đến đời nhà Đường, kể từ thời Sơ Đường, năm Võ Đức thứ ba (620) cho tới thời Vãn Đường,
đời vua Chiêu Tuyên (905) thì thể thơ Đường thay thế thể cổ phong. Khoảng thời gian gần 300
năm này đã lưu lại trong lịch sử thơ Trung quốc không biết bao nhiêu bài thơ Đường bất hủ của
nhiều thi hào như: Vương Tích, Vương Bột, Trần Tử Ngang, Đường Huyền Tông, Trương Húc,
Trương Cửu Linh, Vương Xương Linh, Thôi Hạo, Lý Bạch, Đỗ Phủ, Cao Thích, Sầm Tham,
Trương Kế, Liễu Tông Nguyên, Bạch Cư Dị, Giả Đảo, Đỗ Mục, v.v.
Về hình thức, số chữ trong một bài thơ Đường phải giới hạn: hoặc bảy chữ (thất ngôn) hoặc năm
chữ (ngũ ngôn) và có tám câu (bát cú); cứ bốn câu gọi là một giải, bốn câu đầu gọi là tiền giải và
bốn câu sau gọi là hậu giải.
Ngắt một bài thơ Đừờng có tám câu để làm thành bài thơ có bốn câu thì gọi là tứ tuyệt (tuyệt
nghĩa là ngắt, dứt.) Khi ngắt thì rất linh động, có thể ngắt hai câu 1,2 nhập với hai câu 3,4, hoặc
ngắt câu 3,4 nhập với câu 5,6, hoặc ngắt câu 5,6 nhập với câu 7,8, hoặc ngắt câu 1,2 nhập với

câu 7,8, hoặc ngắt câu 1,2 nhập với câu 5,6.
Hai câu đầu của tiền giải gọi là hai câu khởi (còn gọi câu thứ nhất là câu phá đề để mở đầu bài
thơ và câu thứ hai là câu thừa đề để nối câu phá mà vào bài) và hai câu kế gọi là hai câu thừa
(còn gọi là hai câu thực hoặc trạng để giải thích chủ đề bài thơ).
Hai câu đầu của hậu giải gọi là hai câu chuyển (còn gọi là hai câu luận để bàn rộng chủ đề) và
hai câu chót gọi là hai câu hợp (còn gọi là hai câu kết).
Phàm làm thơ Đường thì người ta hay dùng hai câu khởi và hợp để diễn tả tình ý thơ; còn hai câu


thừa và chuyển để diễn tả cảnh thơ bằng cách dùng chữ đối nhau. Bài thơ nào đạt được cả hai cái
tình và cảnh là ưu hạng; nếu chỉ đạt một cái thì bị xếp là thứ hạng.
Hai câu khởi thường là phải mạnh mẽ. Bốn câu đối ngẫu thì câu ba, câu bốn tiếp theo hai câu
trên đang mạnh mẽ nên phải giảm dần, êm dịu để thay đổi âm hưởng; nhưng câu thứ năm và sáu
thì lại phải bật lên để mở ra một khung cảnh khác. Trong bốn câu đối ngẫu, thường thường người
ta hay dùng hai câu thừa để tả tình và hai câu chuyển để tả cảnh. Tình thì có tính chất hư, nhẹ
còn cảnh thì thực., nặng. Nếu đảo ngược lại, trên thực, dưới hư thì như "lâu đài xây trên cát",
không hay. Nếu cả bốn câu không tả tình mà chỉ tả cảnh (điệp cảnh) thì phải có hai ý khác nhau,
gọi là phép tam muội của thơ Đường.
Hai câu hợp để thắt lại ý nghĩa của toàn bài thơ.
Về chi tiết cấu tạo của một bài thơ Đừờng thì phải xét đến vần, đối, niêm và luật bằng trắc. Để dễ
theo dõi các vấn đề này, xin lấy thí dụ một bài thơ Đường thất ngôn, bát cú của Tuệ Trung
Thương Sĩ (1230 - 1291, tên thật là Trần Tung là con trai Trần Liễu, anh ruột Hưng Đạo vương
Trần Quốc Tuấn), tựa là "Nhập Trần" trong tập thơ "Thượng Sĩ Ngữ Lục", nguyên bản chữ Hán
và do Huệ Chi dịch:
Âm Hán Việt:
Nhập Trần
Thiều thiều khoát bộ nhập trần lai,
Hoàng sắc mi đầu đỉnh đỉnh đỉnh khai.
Bắc lý ưu du đầu mã phúc,
Đông gia tán đản nhập lư thai.

Kim tiên đả sấn nê ngưu tẩu,
Thiết sách khiên trừu thạch hổ hồi.
Tự đắc nhất triêu phong giải đống,
Bách hoa nhưng cựu lệ xuân đài.
Dịch nghĩa:
Xăm xăm rộng bước đi vào chốn cát bụi,
Lông mi sắc vàng mạnh mẽ giương lên.
Xóm Bắc nhởn nhơ rơi vào bụng ngựa
Nhà Đông tản mạn rúc vào thai lừạ
Roi vàng đánh đuổi con trâu đất đi.
Giây sắt dắt con cọp đá về.
Một sớm gió đông thổi tan băng giá,
Trăm hoa như cũ reo trước gió xuân.
Dịch thơ:
Vào vòng cát bụi.
Xăm xăm cát bụi bước vào vòng,
Vàng óng đầu mi, rướn rướn trông.


Bụng ngựa rong chơi, này xóm Bắc,
Thai lừa lạc bước, nọ nhà Đông.
Trâu bùn chạy tuốt, roi vàng đuổi,
Cọp đá lôi về, giây sắt giong.
Rồi một ngày mai băng giá hết,
Trăm hoa như cũ, gió xuân nồng.
Chú thích:
1.Bụng ngựa (mã phúc), thai lừa (lư thai): ý nói còn mang tâm trạng phàm tục thì không thoát
khỏi việc chui vào bụng ngựa để làm kiếp ngựa, hoặc chui vào thai lừa để làm kiếp lừa, cứ mãi
sinh sinh, tử tử trong vòng luân hồi.
2.Cọp đá (thạch hổ): nước Sở có Hùng Cừ đi đêm thấy hòn đá, ngỡ là cọp nên dương cung bắn,

rơi mất mũi tên vàng. Về sau mới biết là hòn đá. Ý nói sự bám víu vào mê vọng của con người.
Trong thơ Đường, vần là chữ cuối của câu thứ nhất, chỉ dùng độc vận (một vần cho toàn bài thơ)
và người ta hay dùng vần bằng; ít khi dùng vần trắc (cổ thể) Các chữ cuối của câu thứ hai, tư, sáu
và tám phải vần với chữ cuối của câu thứ nhất. Trong bài thơ chọn làm thí dụ, Vào vòng cát bụi,
vần là chữ vòng của câu thứ nhất. Các chữ trông, Đông, giong, nồng vần với chữ vòng. Nên
tránh trường hợp vần gieo không hợp nhau, gọi là lạc vận (lạc: rụng), gieo mà không được hợp
lắm thì gọi là cưỡng áp (đặt gượng).
Đối là đặt hai câu sóng đôi cho ý và chữ trong hai câu đó cân xứng với nhau. Đối chữ thì phải
vừa đối thanh (bằng đối với trắc), vừa đối từ loại (danh từ đối với danh từ, động từ đối với động
từ, v.v.) Câu thứ ba đối với câu thứ tư và câu thứ năm đối với câu thứ sáu. Thí dụ:
Bụng ngựa rong chơi, này xóm Bắc,
Thai lừa lạc bước, nọ nhà Đông.
Trâu bùn chạy tuốt, roi vàng đuổi,
Cọp đá lôi về, giây sắt giong.
Niêm (nghĩa là dính) là sự liên quan bằng trắc giữa hai câu thơ. Hai câu thơ niêm với nhau khi
chữ thứ nhì của cả hai câu hoặc cùng là bằng cả, hoặc cùng là trắc cả. Trong bài thơ Đường, câu
1 niêm với câu 8, câu 2 niêm với câu 3, câu 4 niêm với câu 5, câu 6 niêm với câu 7, câu 8 niêm
với câu 1. Thí dụ:
Câu 1: xăm niêm với câu 8: hoa
Câu 2: óng niêm với câu 3: ngựa
Câu 4: lừa niêm với câu 5: bùn
Câu 6: đá niêm với câu 7: một
Câu 8: hoa niêm với câu 1: xăm.


Luật thơ là cách sắp xếp tiếng bằng, trắc. Luật bằng bắt đầu bằng hai chữ bằng. Luật trắc bắt đầu
bằng hai chữ trắc. Một câu thơ đáng lẽ phải Bằng nhưng dùng chữ Trắc thì gọi là thất luật.
1.Luật bằng, vần bằng:
b B t T t B B (v)
t T b B t T B (v)

tTbBbTT
b B t T t B B (v)
bBtTbBT
t T b B t T B (v)
tTbBbTT
b B t T t B B (v)
2.Luật trắc, vần bằng:
t T b B t T B (v)
b B t T t B B (v)
bBtTbBT
t T b B t T B (v)
tTbBbTT
b B t T t B B (v)
bBtTbBT
t T b B t T B (v)
Chú thích: các chữ B, T viết hoa có nghĩa là bắt buộc phải Bằng, Trắc, không được du di. Do
việc giữ đúng luật bằng, trắc như trên quá khó khăn nên có lệ bất luận (không kể), nghĩa là các
chữ thứ nhất, thứ ba, và thứ năm không cần giữ đúng luật. (nhất, tam, ngũ bất luận). Tuy bất luận
nhưng cần ráng tránh đổi các chữ từ bằng ra trắc để tránh nạn "khổ độc" (khó đọc). Các chữ từ
trắc đổi thành bằng thì dễ đọc, không có vấn đề gì.
Người mới làm thơ Đường nên cố gắng giữ đúng luật; một khi thành thạo rồi thì tự khắc biết phá
luật mà bài thơ, khi ngâm lên, vẫn có âm hưởng trơn tru, không gượng gập. Điều này giống như
người mới tập lái xe: khi mới lái thì giữ cả hai tay trên tay lái nhưng thành thục rồi thì có thể lái
một tay, thậm chí vài ngón tay! Đó là chưa nói đến kỹ thuật điệp ngữ làm cho ý thơ mạnh lên;
chỉ cỡ thi hào như Lý Bạch, Đỗ Phủ mới dám phá luật thơ.
Phụ bản:

Nghĩa:
Trăng rơi, quạ kêu, sương giăng đầy trời
Cây phong bên bờ sông, đèn thuyền câu đối diện người khó ngủ

Bên ngoài thành Cô Tô, từ phía chùa Hàn San
Đã quá nửa đêm tiếng chuông vọng về thuyền khách.


Trần Trọng San dịch:
Quạ kêu, trăng lẩn sương trời
Buồn hiu giấc ngủ lửa chài, bến phong
Đêm Cô Tô vẳng tiếng chuông
Chùa Hàn San đến thuyền sông Phong Kiều
Trần Trọng Kim dịch:
Quạ kêu, trăng lặn, sương rơi
Lửa chài, cây bãi, đối người nằm co
Con thuyền đậu bến Cô Tô
Nửa đêm nghe tiếng chuông chùa Hàn Sơn.
Tản Đà dịch:
Trăng tà tiếng quạ kêu sương
Lửa chài cây bến sầu vương giấc hồ
Thuyền ai đậu bến Cô Tô
Nửa đêm nghe tiếng chuông chùa Hàn San.



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×