Tải bản đầy đủ (.docx) (136 trang)

ĐẶC điểm NGHỆ THUẬT của NHỮNG bài THƠ TÌNH BẰNG hữu TIÊU BIỂU TRONG ĐƯỜNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (427.53 KB, 136 trang )

ĐẶC ĐIỂM NGHỆ THUẬT CỦA NHỮNG
BÀI THƠ TÌNH BẰNG HỮU TIÊU BIỂU
TRONG ĐƯỜNG THI
Posted by: giangnamlangtu on: 15.09.2011


In: Luận văn đại học



Comment!

TRƯỜNG ĐẠI HỌC AN GIANG
KHOA SƯ PHẠM
BỘ MÔN NGỮ VĂN
DƯƠNG THỊ THUÝ HẰNG
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
Khoá học 2000-2004
ĐẶC ĐIỂM NGHỆ THUẬT CỦA NHỮNG BÀI THƠ TÌNH BẰNG HỮU TIÊU BIỂU
TRONG ĐƯỜNG THI
GVHD: Thạc sĩ GVC Phùng Hoài Ngọc

Em xin chân thành cảm ơn thầy Phùng Hoài Ngọc, người đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ và động
viên em trong quá trình hoàn thành luận văn tốt nghiệp.
Em xin cám ơn các thầy cô trong bộ môn Ngữ văn khoa sư phạm và các thầy cô trường Đại học
An Giang, các thầy cô thỉnh giảng từ Đại học Sư phạm và Đại học Khoa học XH-NV thành phố
Hồ Chí Minh đã hướng dẫn em nghiên cứu học tập hoàn thành khoá trình đại học Ngữ văn trong
suốt bốn năm qua .
Em cũng xin bày tỏ lời cảm ơn cán bộ Thư viện Đại học An Giang tạo điều kiện giúp em nghiên
cứu tài liệu và làm luận văn .
Xin ghi nhận nơi đây tình bằng hữu của các bạn học khoá 1C đã giúp tôi cả về vật chất lẫn tinh


thần để có thể hoàn thành luận văn tốt nghiệp này.


Dương Thị Thuý Hằng
An Giang tháng 5 năm 2004

díc
MỤC LỤC
TRAN
G

NỘI DUNG

12
MỞ ĐẦU
1-

Lí do chọn đề

2-

Mục đích nghiên cứu

3-

Lịch sử nghiên cứu vấn đề

4-

Đối tượng và phương pháp nghiên cứu


4.1- Đối tượng nghiên cứu
4.2- Phương pháp nghiên cứu
NỘI DUNG
Chương 1: Khái quát về thơ Đường
1- Thời đại nhà Đường
quát về thơ Đường

2- Khái

2.1- Cội nguồn của thơ Đường
Nguyên nhân phát triển

2.2-

2.3- Qúa trình diễn biến

2.4- Đề tài

Chương 2: “Bằng hữu chi tình” trong thơ Đường
1- Cơ sở hình thành của đề tài “bằng hữu chi tình” trong thơ Đường


2- Khái quát về 112 bài “Đường thi trung bằng hữu chi tình”
3- Đặc điểm nghệ thuật của Đường thi
trong những bài thơ “bằng hữu chi
tình”
3.1- Quan niệm nghệ thuật về con người
3.1.1- Con người cô đơn khát khao tìm kiếm tri âm
3.1.2- Con người tri âm

3.1.2.1- Con người tri âm trong thơ Đỗ Phủ
3.1.2.2- Con người tri âm trong thơ Lí Bạch
3.1.2.3- Con người tri âm trong văn chương của Bạch Cư Dị
3.1.2.4- Con người tri âm trong bài thơ “Chương đài liễu” của Hàn Hồng
3.2- Không gian nghệ thuật của “bằng hữu chi tình” trong Đường thi
3.3- Thời gian nghệ thuật của “bằng hữu chi tình” trong Đường thi
KẾT LUẬN
1-Ảnh hưởng đề tài “bằng hữu chi tình” của Đường thi đến thơ ca đời Tống , Minh,
Thanh ở Trung Quốc
2- Ảnh hưởng đề tài “bằng hữu chi tình” của Đường thi ở ViệtNam
3- Kết luận
PHỤ LỤC 1 và 2:
Văn bản nguyên tác, phiên âm phiên dịch của 20 bài Đường thi và danh mục 112 bài
Đường thi
THƯ MỤC THAM KHẢO


3
6
9
12
15
17
23
25
28
35
36
39
44

45
48
49
54
59
61
64
PL 1- 32
MỞ ĐẦU


1-

LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI

“Văn hoá là cái còn lại khi người ta đã quên đi tất cả, là cái vẫn thiếu khi người ta đã học được
tất cả”. Thơ Đường là một trong những đỉnh cao của văn hoá Đường, “là mũi tên bắn đi bay vĩnh
viễn cùng thời gian”. Thơ Đường đã làm nên đỉnh cao phồn thịnh của một thời đại thi ca – thời
đại nhà Đường. Hôm nay, ngày trước hay ngày sau, dù đã trải qua bao lớp bụi thời gian thì
Đường thi muôn đời vẫn toả sáng, nói như Tế Hanh :
Đây những tập thơ Đường bất tuyệt.
Thơ Lí Bạch, Đỗ Phủ tinh hoa.
Cùng với trăng sao vằng vặc,
Triệu ngàn năm mà mới tựa hôm qua.
“Cái còn lại khi người ta đã quên đi tất cả” của Đường thi phải chăng là ở cái “kĩ thuật tinh
thần”, như Kim Thánh Thán nhận xét “ôi luật thi đời Đường, chẳng phải chỉ là sự cấu tạo tốt đẹp
của một thời, mà là tuyệt xướng của ngàn bậc thánh”. Thơ Đường là “sự chưng cất của 12 thế kỉ
thơ ca Trung Quốc”[7- tr16]. Đến thời này, các thể tỉ hứng của Kinh thi, thể thơ 5 chữ của Hán
nhạc phủ, thơ 7 chữ của thời Lục triều, các phép đối, các yêu cầu về luật thi mới manh nha ở các
đời trước đã đạt tới mức hoàn thiện, trở thành chuẩn mực về thi pháp sáng tác cho thơ ca ở các

thời sau không chỉ ở Trung Quốc, mà cả ở nước ngoài, đặc biệt là Việt Nam. Về các thể thơ 7
chữ, 5 chữ của Đường thi có thể kể đến Vương Duy được xem là bậc thầy của thơ ngũ ngôn, bên
cạnh đó còn có Mạnh Hạo Nhiên với hơn 260 bài thơ còn lại thì phần lớn là thơ 5 chữ ; về thể
thất ngôn tứ tuyệt người thành công nhất phải nói đến là Vương Xương Linh, hiện còn khoảng
70 bài chiếm 2\5 trong tổng số thơ còn lại của ông; thơ thất ngôn luật, người đạt đến mức cổ điển
là thi thánh Đỗ Phủ.
“Cái vẫn thiếu khi người ta đã học được tất cả”có lẽ lại là “ nguồn cảm hứng”của Đường thi, là
nội dung biểu hiện, là đề tài của thơ Đường. Bước vào thơ Đường là bước vào thế giới của sự
hoà điệu, vào thế giới nội cảm của các thi nhân với những nỗi niềm ưu tư ẩn ức của những trái
tim sôi nổi đau đáu tình đời, tình người. Bởi thế đến với Đường thi, ta không chỉ đến với cái đẹp
của những phong, hoa, tuyết, nguyệt mà còn tìm thấy ở đấy những giá trị nhân sinh, “có thể nuôi
được cái khí hạo nhiên của người ta tức là di dưỡng được cái tinh thần cao thượng và chân
chính” (Trần Trọng Kim)
Yêu nước thương dân, đối xử với người thì chân thành chung thuỷ… là những tình cảm đẹp,
được thể hiện một cách sâu sắc trong Đường thi. Trong đó đáng kể là tình bạn thi nhân. Ai cũng
có nhu cầu tìm bạn, ai cũng muốn có một tri âm, ai cũng viết thơ về tình bạn như thơ tiễn bạn lên
đường, thơ tặng bạn, thơ trao đổi tâm tình lẫn nhau…Thông qua các vần thơ những tưởng là rất
riêng tư thầm kín ấy, người ta tìm thấy ở trong ấy chuyện đời, chuyện người nồng nhiệt và đầm
ấm, nhờ những vẻ đạp vẻ sáng do tự thân nó mang lại.


Vấn đề đặt ra là từ trước đến nay khi nghiên cứu về thơ Đường, người ta chỉ đặc biệt quan tâm
đến các chủ đề như thơ hiện thực của Đỗ Phủ, thơ lãng mạn của Lí Bạch…mà ít ai chú ý đến đề
tài “bằng hữu chi tình”, cái quan trọng góp phần làm nên diện mạo phong phú của thơ Đường.
Khi tìm hiểu về nó sẽ mang lại cho ta những giá trị thiết thực, nhất là trong điều kiện thời đại
ngày nay, quan hệ giữa người và người được giải quyết và xử sự theo lối kim tiền. Hiểu biết phần
nhiều về những giá trị tinh thần, về quan niệm tình bạn, cách xử thế trong giao tình bằng hữu của
Đường thi chắc hẳn sẽ mang đến cho con người chút niềm tin, cách hiểu và cách sống với mọi
người, nhất là với những ai mà ta xem là bạn.
Dạy văn là dạy người, dạy các em biết sống tốt hơn và đẹp hơn giữa biết bao mối đời chộn rộn.

Với những hữu ích của việc tìm hiểu đề tài tình bạn trong thơ Đường, cộng với đề tài tình bạn
chưa được nghiên cứu rõ ràng từ trước tới nay, người viết thấy cần thiết phải lựa chọn đề tài
“Đặc điểm nghệ thuật của những bài thơ Đường thi trung bằng hữu chi tình” làm chủ đề cho bài
viết của mình.
2-

MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU

Đề tài có một phạm vi bao quát khá rộng, nó không chỉ dừng lại ở vấn đề giao tiếp ứng đối giữa
những người bạn thơ với nhau mà còn chứa đựng cả các vấn đề hiện thực xã hội. Đó là cuộc đời
làm quan chìm nổi như “Văn Vương Xương Linh tả thiên Long Tiêu dao hữu thử kí” của Lí
Bạch, “Văn Bạch Lạc Thiên tả giáng Giang Châu Tư Mã” của Nguyên Chẩn. Đó là cuộc sống
tha hương của đông đảo người dân lao khổ trong xã hội giai đoạn trung vãn Đường, trong các
sáng tác của Đỗ Phủ như “ Bồi giang phiếm chu tống Vi Ban quy kinh”, “ Kí Đỗ Vị”, “Tặng Vệ
Bát xử sĩ”… Vì vậy khi đi vào nghiên cứu đề tài bằng hữu chi tình trong thơ Đường, người viết
giới hạn, chỉ tìm hiểu cái hay cái đẹp trong nghĩa kim bằng của các thi nhân đời Đường.
Trong nhiều năm qua việc giảng dạy thơ Đường cũng như các tác phẩm văn học Việt Nam trung
đại, một nền văn học vốn chịu ảnh hưởng khá sâu đậm văn hoá, văn học cổ Trung Quốc, giáo
viên thường là đi theo lối mòn truyền thống, phân tích theo kết cấu đề, thực, luận, kết (bát cú),
hay khai, thừa, chuyển, hợp (tuyệt cú). Điều đó không sai nhưng đó chỉ là lí thuyết sáng tác, thực
ra bố cục bốn phần chỉ đúng với một số bài thơ, nó sẽ tốt và phù hợp hơn với những ai muốn học
cách làm thơ. Bản thân mỗi học sinh là một chủ thể tiếp nhận, cho nên khi giảng dạy đòi hỏi
người giáo viên cần chú ý nhiều hơn đến lí thuyết tiếp nhận, hướng các em cách cảm, cách phân
tích, tiếp cận một cách tốt nhất các tác phẩm văn học cổ này.
Để chuẩn bị tốt hơn cho công tác giảng dạy của mình sau này, người viết mạnh dạn tìm hiểu vấn
đề thi pháp trong các bài thơ bằng hữu chi tình được lựa chọn để khảo sát. Mục đích chính là qua
việc nghiên cứu này sẽ tìm được một hướng tiếp cận tốt hơn không chỉ với Đường thi mà còn cả
thơ cổ điển ViệtNam. Tìm hiểu thi pháp sẽ cho ta có được sự kết hợp chặt chẽ giữa nội dung và
hình thức khi đi vào phân tích bất kì một bài thơ luật Đường nào. Vì vấn đề thi pháp của một loại
hình hay một nền văn học đều có nguồn gốc sâu sa từ nội dung tư tưởng, quan điểm triết học, tôn

giáo. Cho nên đặt vấn đề tìm hiểu thi pháp thơ Đường chính là cùng một lúc tiếp cận được hai
lĩnh vực : cấu trúc nghệ thuật và nội dung cảm hứng.


Tìm hiểu đề tài “ bằng hữu chi tình” trong Đường thi thông qua hướng tiếp cận thi pháp, người
viết sẽ đi vào 3 vấn đề chủ yếu là: quan niệm nghệ thuật về con người, không gian và thời
gian trong thơ bằng hữu. Qua việc tìm hiểu thi pháp này, người viết sẽ làm sáng tỏ các giá trị
nội dung hay nói khác là những vẻ đẹp vẻ sáng trong giao tình bằng hữu của các thi nhân đời
Đường.

3- LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ.

Đề tài bằng hữu chi tình trong Đường thi tuy là một đề tài có phạm vi bao quát khá rộng, thế
nhưng từ trước đến nay người viết chưa đọc được một công trình nào nghiên cứu chuyên sâu về
nó. Thỉnh thoảng trong một số sách có đề cập đến vấn đề này, nhưng hoặc là chỉ trên phương
diện nội dung hoặc chỉ để bổ sung cho phần thân thế của nhà thơ.
Chẳng hạn trong “Lịch sử văn học Trung Quốc” tập 1[1], rải rác có nói về tình bạn thi nhân, như
trong phần viết về nhà thơ Vương Bột, bài “Tống Đỗ thiếu phủ chi nhậm Thục Châu”, được tác
giả sách viết như sau: “câu “ở đâu có bạn” là câu từ danh ngôn “tứ hải chi nội giai hữu huynh đệ
dã”, ý muốn nói chỉ cần là tri kỉ, thì dù xa vạn dặm cũng như cách một bức tường mà thôi, không
những nói lên tình bạn chân thành mà còn biểu hiện tấm lòng rộng mở trong sáng của nhà thơ.
Toàn bộ bài thơ tràn trề không khí lạc quan”.
“Thơ Đường” của giáo sư Lê Đức Niệm viết về 3 tác giả : Lí Bạch, Đỗ Phủ, Bạch Cư Dị.Cũng
có nói đến vấn đề bằng hữu chi giao này. Trong phần “Lí Bạch”, Lê Đức Niệm làm rõ hơn cuộc
đời và thân thế của nhà thơ họ Lí qua các cuộc hội ngộ kết giao với bằng hữu, như tình bạn sâu
nặng của ông và Ngô ChỉNam, những ngày sống cảnh “ba người đi chung hai đôi giày” với năm
người bạn ở Sơn Đông. Đặc biệt là cuộc tương ngộ tình cờ với Đỗ Phủ ở Lạc Dương, cùng Đỗ
Phủ, Cao Thích sống cuộc đời ngao du. Làm rõ tính cách cũng như nội dung thơ của Lí bằng tình
bạn bình đẳng với Uông Luân, tấm lòng nồng nhiệt thuỷ chung của Lí Bạch đối với bạn trong bài
“Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng”. “Thi tiên Lí Bạch”, giáo sư nói về mối

tình tri giao đằm thắm giữa Lí Bạch và Đỗ Phủ. Đây là hai nguồn tư liệu khả dĩ giúp người viết
tiếp cận tốt hơn và có phương hướng cụ thể khi tiến hành bài viết của mình.
“Thi pháp thơ Đường” của Trần Đình Sử tuy không nói nhiều đến đề tài “bằng hữu chi tình”,
nhưng đã tạo cơ sở cho người viết có những hiểu biết nhất định về vấn đề thi pháp, cụ thể là
không gian nghệ thuật và thời gian nghệ thuật. Về không gian nghệ thuật, Trần Đình Sử cho rằng
không gian trong thơ Đường thường là không gian vũ trụ, không gian vừa to lớn, vĩ mô, của
những đất trời, nhật nguyệt, vạn dặm, nam bắc, đông tây…đến những đường nét tinh vi bé nhỏ
của từng đường gân bé xíu trên cánh con chuồn chuồn, hay cái thoáng rơi nhẹ nhàng của một
chiếc lá ngô đồng rụng khi trời đất vào thu…Về thời gian thì thường xuất hiện ở năm phạm trù :
thời gian sinh mệnh cá thể; thời gian vũ trụ, tự nhiên; thời gian siêu nhiên; thời gian sinh hoạt;
thời gian lịch sử.


Trong phần sau của “Thi pháp thơ Đường”, Trần Đình Sử dịch các bài nghiên cứu Đường thi
của các tác giả nước ngoài. Tuy cũng nói đến thi pháp nhưng chủ yếu là về chi tiết nghệ thuật
như các phép tỉnh lược, phép đối. Điều đáng nói là tác giả bài viết sử dụng khá nhiều dẫn chứng
thơ tình bạn để làm sáng tỏ nhận định của mình. Chẳng hạn hai câu “anh lại chốn mây xanh, tôi
về nơi núi biếc” của Mạnh Hạo Nhiên được tác giả viết “ hai câu thơ trong một bài thơ, tác giả
làm lúc tiễn người bạn vào kinh thành làm quan to, còn nhà thơ thì lui về nơi ẩn cư. “Mây xanh”
ý muốn nói “lên quan trên trật quan tước”, đã đặt ra rất đúng chỗ, đối xứng với “núi biếc”, tượng
trưng cho sự ngao du, sự trốn tránh cuộc đời. Hai hình ảnh này được lấy từ tự nhiên vừa làm nỗi
bật hai con đường khác nhau (nghề nghiệp và cuộc sống khổ hạnh), vừa làm nỗi bật sợi dây tình
cảm gắn bó giữa hai người”.
Nói chung tìm hiểu thi pháp chi tiết nghệ thuật cũng là một hướng tiếp cận đối với thơ Đường.
Thế nhưng ở mỗi bài thơ thường có những chi tiết đặc sắc riêng, nhất là ở các tác giả khác nhau
cho nên sẽ khó đưa ra những dẫn chứng mang tính hệ thống, vì thi pháp là một yếu tố nghệ thuật
được lập đi lập lại nhiều lần mang tính hệ thống. Do vậy “Thi pháp thơ Đường” của Trần Đình
Sử mới chỉ đề cập đến những vấn đề cơ bản về không gian và thời gian nghệ thuật.
“Thi pháp thơ Đường” của Nguyễn Thị Bích Hải nói khá rõ về 3 lĩnh vực thi pháp : con người,
không gian, thời gian. Về con người thì theo tác giả, trong thơ Đường có hai quan niệm về con

người :Con người vũ trụ và con người xã hội, tương ứng với nó sẽ có không gian vũ trụ, không
gian đời thường, thời gian vũ trụ và thời gian đời thường.
Con người tri âm cũng chính là con người vũ trụ, hướng đến sự giao hoà cùng vũ trụ. Con người
được đặt trong mối tương quan với vũ trụ, mỗi cá thể là một tiểu vũ trụ, với ý niệm như vậy nó
chi phối hoàn toàn mọi cảm thức về không gian và thời gian. Không gian tống biệt, không gian
lữ thứ, không gian tương hợp, không gian nỗi niềm là một bộ phận của không gian vũ trụ. Mọi
vật thể trong không gian, từ dòng sông, con đường, đất trích, đến cánh nhạn, đám mây, nhành
dương liễu…dù là to lớn hay nhỏ bé đều là những vật thể hữu linh của vũ trụ bao la, thể hiện
những ẩn ức ưu tư trong tâm hồn của đôi tri kỉ. Thời gian cho niềm thương nỗi nhớ của tình bè
bạn là thời gian của quá khứ xa xăm, thời gian vũ trụ. Có thể nói “Thi pháp thơ Đường” của
Nguyễn Thị Bích Hải đề cập tương đối nhiều đến đề tài bằng hữu chi tình trong thơ Đường. Tác
giả còn đưa ra những con số cụ thể để chứng minh đây là một đề tài được viết tương đối nhiều
của Đường thi. “ Chỉ tính riêng trong cuốn “Thơ Đường” tập 1 (Nhà xuất bản văn học Hà
Nội,1987) gồm 220 bài thơ, có đến 20 bài là thơ tống biệt. Nếu ta kể cả những bài “ mộng hữu”,
“ức hữu”, “kí hữu”…thì vừa tròn con số 20%. Thơ Đường có rất nhiều đề tài mà tình bạn lại
chiếm đến 20%, con số đó rất có ý nghĩa”.
Dĩ nhiên tác giả sách khômg phải chỉ đi vào một đề tài “ bằng hữu chi tình”, nên 3 vấn đề chủ
yếu của thi pháp là :con người, không gian, thời gian của tình bạn thi nhân chưa được đề cập một
cách xác đáng, gần như chỉ ở mức khái quát. Con người, không gian, thời gian được đặt trong cái
nhìn tổng quát về quan niệm triết học, về lí tưởng nhân sinh nên chỉ đưa ra hai khía cạnh chung
nhất là vũ trụ và xã hội. Đề tài tình bạn trong thơ Đường tất nhiên là không đi ngoài quỹ đạo đó,
nhưng ở đây khi đi vào tìm hiểu người viết sẽ đi sâu hơn vào 3 lĩnh vực con người, không gian,
thời gian được thể hiện như thế nào trong đề tài này. Cụ thể, về con người thì có con người cô
đơn khát khao tìm kiếm tri kỉ tri âm và con người tri âm của 3 tác giả Lí Bạch, Đỗ Phủ, Bạch
Cư Dị. Về không gian thì tìm hiểu không gian tống biệt, không gian lữ thứ, không gian tha


hương, không gian ước lệ, không gian tương cảm. Thời gian thì có thời gian đồng hiện, thời
gian ức hữu, thời gian tuần hoàn, thời gian vật lí


4-

ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

4.1- Đối tượng nghiên cứu.

Tìm hiểu đề tài “bằng hữu chi tình” trong Đường thi trên cơ sở khảo sát 112 bài đã được lựa
chọn và phân loại, đối tượng nghiên cứu là phân tích tìm hiểu những cái hay cái đẹp về quan
niệm về cách xử thế trong giao tình bằng hữu của các thi nhân đời Đường.Tìm hiểu về vấn đề
này nhằm chuẩn bị cho người viết có được những vốn hiểu biết cơ bản về giá trị cuộc sống,
không chỉ trong lí thuyết dạy học của mình mà cả trong thực tiễn cuộc sống, hướng học sinh có
cái nhìn hoàn thiện và tốt đẹp hơn trong quan hệ giữa người và người nhất là trong quan hệ bạn
bè cùng lứa với nhau.
Trên cơ sở tìm hiểu thi pháp để tiếp cận đối tượng, bài luận văn sẽ mang lại những đóng góp
mới. Cụ thể là tìm được một hướng tiếp cận khả dĩ đối với thơ Đường và thơ văn Việt Nam thời
kì trung đại, giảm dần cách phân tích lí giải truyền thống trước đây, thường rơi vào hai khuyết
điểm lớn, hoặc là chỉ phân tích nội dung hoặc chỉ xem trọng hình thức.Cách tìm hiểu thi pháp
này sẽ khắc phục đồng thời được hai nhược điểm đó, kết hợp chặt chẽ hai mặt cấu trúc nghệ
thuật và nội dung cảm hứng.
4.2 – Phương pháp nghiên cứu
-

Phương pháp thống kê phân loại

Với phương pháp này, người viết tiến hành thống kê 6 tuyển tập thơ Đường được lựa chọn để
khảo sát. Đó là “Đường thi” của Trần Trọng Kim, “Thơ Đường” tập 1 và 2 do nhóm Nam Trân
biên soạn, “Thơ Đường – Từ Tống” của Lí Phúc Điền, “Đường thi tam bách thủ” của Ngô Văn
Phú, “Thiên gia thi” của Ngô Văn Phú. Kết quả là đã lựa chọn và thống kê được 112 bài bằng
hữu chi tình (có nhiều bài được lặp lại ở các sách)
Tiếp theo, để thuận lợi cho việc nghiên cứu, người viết đã thực hiện thao tác phân loại dựa trên

hai tiêu chí là: giai đoạn lịch sử và nội dung biểu hiện. Trong đó dựa vào tiêu chí nội dung biểu
hiện là chính, với tiêu chí này chia làm 3 loại cũng là 3 nội dung nét đẹp của tình huynh đệ. Sự
phân loại này là cơ sở định hướng của bài viết.


-Phương pháp phân tích, so sánh:
Khảo sát các sách được lựa chọn để tham khảo về vấn đề tiếp cận với thơ Đường, phân tích các
tài liệu lí thuyết này, so sánh chúng với nhau để tìm ra một hướng tiến hành cụ thể.
Phương pháp này còn được tiến hành trên 112 bài thơ Đường đã được thống kê. Phân tích và đối
chiếu các bài thơ đó, lựa chọn lại khoảng hơn 20 bài tiêu biểu để đưa vào tiến hành phân tích tìm
hiểu.
-

Phương pháp tổng hợp khái quát:

Đây là bước cuối cùng, tổng hợp các tài liệu lí thuyết đã được phân tích tìm hiểu. Tổng hợp cả
những nội dung cơ bản của 112 bài và riêng 20 bài đã được lựa chọn, từ đó khái quát đưa ra các
đơn vị kiến thức cụ thể làm cơ sở định hướng cho toàn bộ bài viết của mình.
BỐ CỤC LUẬN VĂN

MỞ ĐẦU.

1-

Lí do chọn đề tài.

2-

Mục đích nghiên cứu.


3-

Lịch sử nghiên cứu vấn đề.

4-

Đối tượng và phương pháp nghiên cứu.
NỘI DUNG.
Chương I: Khái quát về thơ Đường.

1-

Thời đại nhà Đường.

2-

Khái quát về thơ Đường.

2.1- Cội nguồn của thơ Đường
2.2- Nguyên nhân phát triển.
2.3- Diễn biến của Đường thi
2.4- Đề tài


Chương II: “ Bằng hữu chi tình” trong thơ Đường.
1-

Cơ sở hình thành của đề tài “ bằng hữu chi tình” trong thơ Đường.

2-


Khái quát về 112 bài “Đường thi trung bằng hữu chi tình”.

3-

Đặc điểm nghệ thuật của Đường thi trong những bài thơ “ bằng hữu chi tình”.

3.1- Quan niệm nghệ thuật về con người.
3.1.1- Con người cô đơn, khát khao tìm kiếm tri âm.
3.1.2- Con người tri âm.
3.2- Không gian nghệ thuật của “ bằng hữu chi tình” trong Đường thi.
3.3- Thời gian nghệ thuật của “bằng hữu chi tình” trong Đường thi.
KẾT LUẬN.

1- Ảnh hưởng đề tài “bằng hữu chi tình” của Đường thi đến thơ ca đời Tống, Minh, Thanh ở
Trung Quốc.
2-

Ảnh hưởng đề tài “bằng hữu chi tình” của Đường thi ở ViệtNam.

3-

Kết luận

PHỤ LỤC 1 & 2
NỘI DUNG

CHƯƠNG 1. KHÁI QUÁT VỀ THƠ
ĐƯỜNG
1- Thời đại nhà Đường.


Dưới thời Nam Bắc triều (317 – 580), Trung Quốc trải qua thời kì được xem là đen tối nhất trong
lịch sử. Năm 580 Dương Kiên ép vua nhàChunhường ngôi, lập nên nhà Tuỳ. Thế nhưng triều đại
này chỉ tồn tại 37 năm ngắn ngủi, cũng như nhà Tần (221 – 206), nó xuất hiện với sứ mệnh dọn
đường chuẩn bị mọi mặt cho sự ra đời và thống nhất của nhà Đường.


Sau khi thống nhất đất nước, Dương Kiên Tuỳ Văn Đế thi hành nhiều chính sách nhằm khôi
phục lại xã hội đã bị kiệt quệ hoàn toàn sau một thời gian dài chìm trong chiến tranh. Miễn thuế,
khuyến nông là công việc mà bất kì vị vua khai quốc nào cũng làm. Dương Kiên không đi ra
ngoài vòng quay ấy, ông còn thực hiện nhiều biện pháp nhằm tiết kiệm ngân sách. Tuy nhiên,
Tuỳ Văn Đế lại bị chính con trai mình-Dương Quảng giết chết lên ngôi hiệu là Tuỳ Dưỡng Đế.
Dương Quảng là một tên bạo chúa đắm chìm trong thú vui vật dục, để thoả mãn những sở cuồng
của mình, vị hoàng đế độc tài này ngay khi mới lên ngôi đã bắt tay vào làm hai việc “lớn”: một
là xây dựng Lạc Dương thành một đô thị mới gọi là Đông Đô; hai là đào một con sông thông
suốt nam bắc, gọi là Đại Vận Hà. Đồng thời, dấy binh đánh chiếm các nước: Đột Quyết, Lam
Ấp, Thổ Cốc Hồn, đặc biệt là cuộc chiến với Cao Ly đã đưa nhà Tuỳ dần đi vào con đường bế
tắc và sụp đổ. Có thể nói nếu Dương Kiên đã có công thống nhất đem lại hoà bình cho nhân dân,
thì Dương Quảng một lần nữa đưa đất nước tái diễn lịch sử cát cứ.
Nhân dân vùng lên khởi nghĩa khắp nơi, trong đó mạnh nhất và có uy tín nhất là cuộc khởi nghĩa
của cha con Lí Uyên. Năm 617, hay tin Dưỡng đế đã bị quân lính thắt cổ chết, Lí Uyên nhanh
chóng ép vị hoàng đế 13 tuổi ở Trường An thoái vị nhường ngôi cho mình, lập ra nhà Đường,
ông lấy hiệu là Đường Cao Tổ
Thực tế lịch sử cho thấy vua bức thì dân phản và sức mạnh vùng lên khởi nghĩa của nhân dân là
không gì ngăn cản được. Do đó, ngay từ buổi lập quốc, Đường Cao Tổ, Đường Thái Tông đã xác
định con đường trị nước của mình là phải dựa vào quan điểm “nhân vi bang bản” (dân là gốc của
nước). Lí Thế Dân đã từng nói “thuyền có thể ví với nước, nước có thể ví với dân, nước có thể
chở thuyền và cũng có thể lật thuyền”. Để giữ cho con thuyền thống trị của mình không bị lật
nhào bởi nước lũ của lực lượng nhân dân, nhà Đường đã thực hiện các chính sách thuế, tô, dung
điệu. Chế độ quân điền được thực hiện, mỗi tráng đinh được phát một số ruộng, không được bán,

khi già hoặc không làm nữa hoặc chết thì trả lại cho triều đình để cấp lại cho người khác. Ngoài
ra được giữ một số, ( thường là 20 mẫu thời đó) gọi là vĩnh nghiệp, có quyền được bán. Các
chính sách này tạo điều kiện cho nông nghiệp phát triển, cùng với nó các ngành như dệt vải, làm
gốm, làm giấy, chế tác các đồ dùng bằng kim loại… cũng có bước tiến rõ rệt.
Nếu ở thời Tây Hán dân số trên 50 triệu thì đến đầu Tuỳ chỉ còn 20 triệu. Cuối nhà Tuỳ đầu nhà
Đường dân số chỉ còn ba triệu hộ gia đình, nhưng đến năm 740, đời Đường dân số lên tới 48
triệu. Nhiều thành thị mọc lên như nấm, Trường An thủ đô đời Đường có quy mô lớn nhất, 120
đường phố với hàng nghìn trạm dịch, lộ, ngựa, xe, người qua kẻ lại tấp nập ồn ào. Mậu dịch quốc
tế mở rộng, có hơn 40 nước đặt quan hệ buôn bán với nhà Đường. Việc giao lưu văn hoá với
nước ngoài cũng được mở rộng. Đặc biệt là sự du nhập của Phật giáo và các giáo phái khác như
Tiên giáo, Ma Ni giáo, Hồi giáo… vào trung thổ. Chính Huyền Tông nhận Huyền Trang làm ngự
đệ và cử sang Tây Trúc thỉnh kinh trong hơn 15 năm, sau đó là sư Nghĩa Tĩnh. Nhờ những đóng
góp của hai nhà sư này Phật giáo đã có những ảnh hưởng sâu rộng trong nhân dân.
Thời đại nhà Đường trải qua bốn giai đoạn: Sơ Đường ( 618 – 713), Thịnh Đường ( 713 – 766),
Trung Đường ( 766 – 835), Vãn Đường (835 – 906).
Sơ Đường:


Giai đoạn này triều đình phong kiến mở các cuộc bình phục cát cứ thống nhất đất nước, tiến
hành các cuộc chinh phạt nhằm mở rộng bờ cõi, chẳng hạn đối phó với Đột Quyết, Thổ Cốc
Hồn, Cao Li…Có thể nói trong các triều đại phong kiến Trung Quốc, nhà Đường lãnh thổ đất
nước được bành trướng rộng nhất. Phía đông được mở rộng đến bán đảo Cao Li, phía bắc lên tận
Mông Cổ, phía tây bắc đến Trung Á, phía nam tới bán đảo Ấn Độ Chi Na. Lí Thế Dân thực hiện
chế độ chính trị quân bình quyền lực giữa quý tộc phong kiến và nhà vua, với hình thức này vừa
giảm bớt tình trạng độc quyền của vua chúa, vừa làm giảm nguy cơ cát cứ của giới quý tộc.
Đồng thời còn thực hiện chế độ bình đẳng giữa các nhân sĩ Hán tộc và các nhân sĩ không phải
Hán tộc, điều này đã đẩy nhanh tiến độ hoà hợp giữa các dân tộc, giúp nền văn hoá Trung Hoa có
thêm những “dòng máu mới”. Giai đoạn này nổi lên hai sự kiện chính trị quan trọng là “ sự biến
Huyền Vũ môn”, phản ánh những mâu thuẫn sâu sắc trong nội bộ chính trị nhà Đường, và vụ Võ
Tắc Thiên đảo chính. Nhờ cuộc chính biến này Võ hậu đã tạm thời cứu nguy cho triều Đường

trước nguy cơ sụp đổ trong 11 năm (684 – 705). Giai đoạn này khép lại với sự kiện Trương Giản
Chi đem quân uy hiếp Võ hậu, đưa Đường Trung Tông trở lại ngôi vua , sau đó Vi hậu tiếp tục
lập lại sự kiện Võ hậu, giết Trương Giản Chi và Trung Tông. Duệ Tông lên ngôi được 3 năm rồi
truyền ngôi lại cho Huyền Tông.
Thịnh Đường :
“Đây là thời thịnh trị nhất, vua quan lo cho dân nhất, đoàn kết nhất, có tài có đức nhất, dân
chúng sung sướng nhất” [13, tr 307]. Đường Huyền Tông lúc đầu có lòng nhiệt tâm muốn cũng
cố lại nền thống trị của đế chế đại Đường, cùng với sự giúp sức của các đại thần có tài như
Dương Sùng, Tống Cảnh… đã dần dần loại trừ được những bất ổn về chính trị của thời Võ hậu,
Vi hậu, đưa đất nước phát triển lên đến đỉnh cao về mọi mặt, lịch sử gọi là thời “ Khai Nguyên
thịnh thế”. Nhưng về sau ông lại rơi vào chơi bời xa xỉ, tin dùng Cao Lực Sĩ, Lí Lâm Phủ,
Dương Quốc Trung, sủng ái Dương Quý Phi làm cho chính quyền trung ương dần dần bế tắc.
Năm 755, An Lộc Sơn kéo quân về đánh chiếm Lạc Dương tự xưng là Yên đế. Lúc này, Đường
Minh Hoàng dẫn theo Dương Quý Phi và bọn người của Dương Quốc Trung trốn chạy vào đất
Thục, đến Mã Ngôi xảy ra cuộc binh biến buộc nhà vua phải giết Dương Qúy Phi và Dương
Quốc Trung để vỗ về lòng quân. Trên đường truy kích, An Lộc Sơn lại bị Sử Tư Minh giết và
xưng là hoàng đế Đại Yên. “ Loạn An Sử” kéo dài 8 năm, gây ra nhiều tổn thất nghiêm trọng về
tính mạng và tài sản. Sau sự kiện này cảnh thịnh trị của nhà Đường không còn nữa, nhiều mầm
mống biến loạn và chia rẽ chín muồi dần trong cơ thể đầy thương tích của một triều đại từng đạt
tới đỉnh cao huy hoàng của chế độ phong kiến Trung Quốc.
Trung Đường:
Loạn An Sử kết thúc có thể nói là đất nước hoà bình trở lại. Nhưng đó chỉ là hình thức bề ngoài,
đi sâu vào đời sống nhân dân cũng như tình hình xã hội lại chứa đựng những đợt sóng ngầm sẵn
sàng nổi lên lật đỗ giai cấp thống trị Lí Đường. Bởi đây là giai đoạn mà chính quyền phong kiến
bắt đầu bế tắc, thể hiện sự khủng hoảng về đường lối cai trị. Tiết độ sứ các nơi thừa cơ chuyên
quyền, mở rộng binh lực tạo nên tình hình phiên trấn cát cứ. Ảnh hưởng của triều đình ngày càng
hẹp, vua không còn tin dùng các quan văn võ, do tâm lí e ngại bị cưỡng đoạt quyền lực nên chỉ
tin dùng hoạn quan. Vì vậy giai cấp thống trị thời kì này không khác gì lũ hoạt kê chịu sự chi
phối của hoạn quan, làm cho tình hình xã hội không còn giữ được quan niệm “ quân quân thần
thần” của Khổng Tử mà thay vào đó là một cảnh bát nháo.



Khúc như câu,
Phản phong hầu.
Trực như huyền,
Tử đạo biên.
(cong như lưỡi câu thì được phong hầu,
thẳng như dây cung thì chết bên đường.)
Nhân dân vừa phải đóng thuế với giá thuế tăng liên miên từ phía triều đình, lại chịu thêm sự vơ
vét của ngoại nhân ( quân Hồi Hột do nhà Đường rước vào để dẹp loạn An Sử)… Tất cả những lí
do này đưa đến sự tất yếu phải sụp đổ của nhà Đường ở giai đoạn sau.
Vãn Đường:
Giai đoạn này nổi lên tình hình “bằng đảng chi tranh” (sự tranh chấp bè phái), giữa hai phe Lí
Đức Dụ và Ngưu Tăng Nhụ. Cuộc tranh chấp này kéo dài 40 năm thì kết thúc. Nhưng triều
Đường trải qua biết bao biến loạn, không còn bao nhiêu sức sống nữa. Năm 875 cuộc khởi nghĩa
nông dân lớn nhất đời Đường do hai thương gia buôn muối là Vương Tiên Chi và Hoàng Sào
lãnh đạo nổ ra. Năm 880 Hoàng Sào chiếm Trường An lên ngôi hoàng đế lấy quốc hiệu là Đại
Tề. Do tương quan lực lượng quân khởi nghĩa còn non kém nên đã nhanh chóng bị dập tắt, tuy
nhiên cuộc khởi nghĩa là đòn nặng nề giáng xuống chế độ phong kiến. Năm 901 Nhà Đường mất
về tay Chu Toàn Trung. Toàn Trung trở thành vua thái tổ nhà Hậu Lương, tiếp tục đưa bánh xe
lịch sử trở lại vòng quay cát cứ với thời Ngũ Đại Thập Quốc.
Nhà Đường tồn tại 300 năm như thế là khá lâu trong lịch sử Trung Quốc. Triều đại này tuy có
nhiều khuyết điểm, trong đó lớn nhất là tin dùng hoạn quan, chính sách dùng tiết độ sứ và tin
dùng ngoại nhân, làm cho ngoài mạnh hơn trong, cán nặng hơn gáo. Nhưng đó là sau này, trong
giai đoạn đầu nhờ thực hiện được nhiều chính sách tiến bộ nên đã tạo đà cho sự phát triển rực rỡ
về mọi mặt trong xã hội, đặc biệt là về văn học mà đỉnh cao chói lọi của nó là thơ Đường.

2- Khái quát về thơ Đường

Văn hoá đời Đường được coi là đỉnh cao của văn hoá nhân loại vào TK VIII – IX nếu ta nhìn

tổng quát toàn bộ lịch sử văn hoá thế giới. Có được điều này là nhờ những đóng góp về mọi mặt
như: hội hoạ, kiến trúc, điêu khắc, âm nhạc, thư pháp…trong đó thành công nhất có thể kể đến
văn học.


Văn học Đường với đầy đủ các lĩnh vực: tiểu thuyết truyền kì, biến văn, tản văn, ngụ ngôn, thơ,
từ, lí luận văn học đã đặt nền móng cho sự hoàn thiện và phát triển đến đỉnh cao ở các giai đoạn
kế tiếp. Tuy nhiên, sở dĩ bầu trời văn học Đường có thể toả sáng với thời gian, bên cạnh các vì
tinh tú lí luận, tiểu thuyết…thì thơ Đường xuất hiện mang lại thứ ánh sáng huyền bí lấp lánh, thơ
Đường là đỉnh cao của văn hoá đường, “ muốn tìm những thơ hoàn toàn xứng đáng với hai tiếng
mĩ thuật chỉ có thơ Đường” ( Ngô Tất Tố).

2.1 – Cội nguồn của thơ Đường.
Sự phát triển của 12 thế kỉ thơ ca từ Kinh thi, Sở từ, Hán nhạc phủ, Kiến An thi và cả thi phong
của đời Lục Triều đã tạo tiền đề cho sự phát triển đạt đến đỉnh cao chói lọi của thơ Đường trong
lịch sử văn học Trung Quốc.
Kinh Thi là tập thơ đầu nguồn, là ngọn suối ở chỗ mới phát nguyên. Kinh Thi đã đặt truyền
thống trữ tình làm phương hướng chủ yếu cho sự phát triển của Đương thi. Dù thơ bắt nguồn từ
lao động, là lời ca cất lên nhằm làm giảm nhẹ gánh nặng trong lao động, nhưng lời ca đó cũng là
lời buồn của trái tim, của thân phận luôn bị đày đoạ áp bức trong thời đại lúc bấy giờ. Đó là cái
thấp thỏm lo âu của cô gái vì sợ bị công tử bắt, là cái thân “ trần như nhộng” giữa ngày giá rét
của người thợ dệt vải, là số phận của người lính nô lệ, của người chinh phụ chờ chồng…Tất cả
điều này cho thấy tính chất trữ tình trong Kinh thi thường bộc lộ một thứ tình cảm đau buồn.
Trong Đường thi tình cảm của các thi nhân bao giờ cũng bộc lộ một nổi buồn u uất, Lí Bạch, Đỗ
Phủ, Mạnh Hạo Nhiên, Bạch Cư Dị… cả một lớp người mang trong mình một mối sầu thế hệ.
Điều đáng nói là Kinh thi khác về cơ bản với các sáng tác dân gian phương Tây, như thần thoại
Homer chẳng hạn. Nó không đưa người đọc vào thế giới siêu nhiên với các vị anh hùng ít nhiều
mang tính chất thần thánh. Kinh thi đi sâu vào cuộc sống đời thường, với những hỉ nộ bi hoan ai
lạc của con người trần thế. Kinh thi lần đầu tiên khẳng định cuộc sống của con người là ở thế
gian này, sáng tác thi ca phải bắt nguồn từ hiện thực, phải toát lên từ kiếp sống lầm than của nhân

dân. Đỗ Phủ, Bạch Cư Dị và ngay cả Lí Bạch cũng kế thừa tinh thần này của Kinh thi.
Từ Kinh thi đến Sở Từ trong đó đại diện tiêu biểu là Khuất Nguyên với thiên trường thi “ Li
Tao” có một bước tiến mới về thi pháp và nghệ thuật biểu hiện. Từ câu thơ bốn chữ, thỉnh thoảng
có hình thức câu 2 đến 9 chữ, với lối trùng điệp tạo ra hiệu quả “ nhất xướng tam thán” và vận
dụng các thủ pháp “ phú, tỉ, hứng” để tăng cường hình tượng của tác phẩm, đến hình thức câu
thơ có 6 chữ một câu có thêm chữ “ hề” đệm nhịp thể hiện dấu ấn cá nhân rõ nét. Nghệ thuật
biểu hiện đã vượt ra ngoài những hình ảnh có thực trong sinh hoạt đời thường hướng đến thế giới
siêu nhiên.Thông qua nó, miêu tả nó để biểu hiện các cung bật tình cảm thống thiết của mình đối
với thế sự, do đó đến Khuất Nguyên không gian thi ca được mở rộng, thể hiện rõ đặc trưng
khoáng đạt và tráng lệ. Khuất Nguyên đã mở đầu cho khuynh hướng lãng mạn, Lí Bạch, Lí Hạ.
đều nhận được sự gợi mở từ Khuất Nguyên.
Hán Nhạc Phủ tiếp nối truyền thống của Kinh thi, mang hơi hướng của cuộc sống rất đậm đà,
nhất là nó lần đầu tiên phản ánh một cách sâu sắc cụ thể những khó khăn và nỗi đau khổ trong
cuộc sống hàng ngày của nhân dân. Tiếp nối và phát triển, Hán nhạc phủ nói về nỗi thống khổ


bằng một sức tưởng tượng rất sinh động và sôi nổi. Môt đặc điểm quan trọng của Hán nhạc phủ
là “ cảm ư ai chi tác” (cảm động trước nỗi đau buồn mà sáng tác), biểu hiện một sự nỗ lực về giải
phóng tình cảm. Đây là nội dung cơ bản có ảnh hưởng sâu sắc đến các thi nhân đời Đường, bao
giờ cũng thể hiện một cái nhìn đau đáu muốn giải phóng cá nhân khỏi sự bủa vây chật chội của
cuộc sống quần thể. Bài “ Chiến thành nam” của Lí Bạch là sự mô phỏng nhạc phủ của dân ca
đời Hán. Dân ca đời Hán có không ít tác phẩm thể hiện nỗi đau buồn trước sinh mệnh cá nhân
quá ngắn ngủi, cuộc sống của con người quá nhiều thay đổi bất thường. Thơ du tiên ra đời bắt
nguồn từ ý niệm này như là một phương thức dùng ảo tưởng để chống lại sự thật là sinh mệnh
quá ngắn ngủi.
Cùng với thể thơ 4 chữ của Kinh thi, Hán nhạc phủ còn hình thành thể tạp ngôn và thể ngũ ngôn,
góp phần làm phong phú thêm thể loại thơ ca của đời Đường..
Sang thời Nguỵ có nhóm “Thất hiền” nổi bật nhất là các sáng tác của ba cha con Tào Tháo, Tào
Phi, Tào Thực. Đặc điểm quan trọng của thơ ca thời này là “ bi thương khảng khái” (buồn đau
nhưng hùng hồn).Thương cảm trước hoàn cảnh chiến loạn, buồn đau trước cuộc đời quá ngắn

ngủi, và khát vọng xây dựng một sự nghiệp bất hủ đều là những tình cảm rất sôi nổi đậm đà. Cả
ba thứ đó hợp lại làm một khiến văn học Kiến An có sức truyền cảm không phải tầm thường.
Bên cạnh thể thơ ngũ ngôn, thể thất ngôn đã bước đầu hình thành, quan niệm “ văn chương chi
mĩ” trở thành một chuẩn mực trong sáng tác. Khuynh hương đối ngẫu, trau dồi chữ nghĩa tạo cho
câu văn có vẻ đẹp đã bắt đầu từ thời Kiến An này. Trong lí luận sáng tác của các thi nhân đời
Đường, họ cho rằng văn chương thời Lục Triều là hoa hòe không đáng kể, thơ Đường cần tìm
một hướng đi mới, thoát khỏi ảnh hưởng của thi phong Lục Triều. Nhưng trên thực tế bản thân
những sáng tác của họ lại thể hiện tính tiếp nối, kế thừa và phát triển những thành tựu tích cực
của văn chương thời kì này.
Trước hết trong thời Lục triều ta thấy xuất hiện một nhà thơ lớn, có ảnh hưởng sâu đậm đến đời
sau. Đó là Đào Uyên Minh- “ông tổ của trường phái ẩn dật” ( Lỗ Tấn) với hơn 120 bài thơ ca
ngợi quê hương đồng nội, kêu gọi con người từ bỏ vinh hoa phú quý mà trở về với thiên nhiên.
Có thể nói Đào Uyên Minh đã đặt nền móng cho thơ sơn thuỷ được manh nha, hình thành và
ngày càng phát triển dần trở thành một trong những chủ lưu của Đường thi với các tác giả như
Mạnh Hạo Nhiên, Vương Duy, Vi Ứng Vật…
Ảnh hưởng quan trọng của nền văn học Lục triều là đã bước đầu luật hoá thể thơ 5 chữ, lấy 2 câu
làm một đơn vị cơ bản. Trong mỗi câu, bình trắc phải xen kẽ nhau, giữa hai câu bình trắc phải
đối lập, cần phải tránh các yêu cầu về “ tứ thanh, bát bệnh”, số lượng câu trong một bài thơ dần
rút ngắn chỉ còn 8 câu. Ngoài ra, trừ 2 câu đầu và đuôi, những cặp ở giữa phải đối nhau. thể thơ
thất ngôn có bước phát triển mới về thanh luật.. Văn chương có đẹp thì mới xúc động lòng
người. Các nhà thơ thời Lục triều có khuynh hướng trau dồi ngôn ngữ, đưa ngôn ngữ thi ca dần
dần thoát khỏi ảnh hưởng của lời ca tiếng hát dân gian mộc mạc có từ Kinh thi, Hán nhạc phủ, đó
là một điều tốt, làm cho ngôn ngữ văn chương mang tính điển nhã, độc lập và giàu hính tượng,
giàu tính âm nhạc. Chỉ có điều, đời Lục triều là một xã hội sĩ tộc, việc sáng tác thi ca chủ yếu sản
sinh từ hai tập đoàn nhỏ hẹp là cung đình và giới quý tộc cao cấp, cuộc sống nhàn hạ, không ẩn
ức điều gì lại quá thiên về hình thức câu chữ, thì kết quả tất yếu sẽ đưa lại thứ văn chương “ hoa
hoè, không đáng quý”


Tóm lại, thơ Đường là sự chưng cất những tinh tuý của 12 thế kỉ thơ ca. Thế nhưng thơ Đường

sẽ không đạt tới đỉnh cao của văn hoá Đường nếu nó chỉ đi theo những lối mòn của cổ nhân.
Trên tinh thần tiếp biến các thi nhân đời Đường đã có nhiều cống hiến quan trọng nhất là trong
lĩnh vực thi pháp.
2.2 – Nguyên nhân phát triển.
Thơ Đường có bước phát triển rực rỡ như vậy xuất phát từ hai nguyên nhân, khách quan và chủ
quan. Khách quan tức là những tác động của điều kiện kinh tế xã hội, và chủ quan là sự vận động
tự thân của thơ ca đời Đường.
Đời Đường đất nước hoà bình thống nhất, các ông vua khai quốc như Đường Cao Tổ, Đường
Thái Tông thi hành nhiều chính sách tiến bộ thúc đẩy sự phát triển về mọi mặt từ nông nghiệp,
công nghiệp, thương nghiệp. Về kinh tế có những thay đổi rõ rệt nhất là thành thị, với nhiều phố
xá đền đài, cao lâu…bước phát triển đó một mặt làm cho nhà Đường lớn mạnh, đồng thời cũng
kích thích tạo đà phát triển của thơ ca.
Xét về ảnh hưởng của kiến trúc thượng tầng như triết học, tôn giáo, nghệ thuật, chính sách văn
hoá, chế độ khoa cử và những chủ trương của các vua chúa của nhà Đường đối với văn học, đều
có những ảnh hưởng nhất định đến thơ ca đời Đường.
Khác với Hán triều chỉ độc tôn Nho giáo, làm bó hẹp tư tưởng con người trong hai vòng xuất thế
và nhập thế, nhà Đường cả ba Nho, Phật, Lão đều được tự do thịnh hành.Với chủ trương này một
lần nữa lại xuất hiện cảnh tượng trăm nhà đua tiếng về học thuật và văn hoá. Điều đó làm cho
nếp suy nghĩ của thi sĩ không cứng nhắc, chân trời kiến thức được mở rộng cảm hứng chủ đạo
nói trên tạo ra hàng ngàn bài thơ khác nhau và tạo ra ba phong cách độc đáo : thánh thơ Đỗ Phủ,
Phật thơ Vương Duy, tiên thơ Lí Bạch.
Thực ra yếu tố quyết định thơ Đường là “ tập đại thành của thơ ca cổ điển” không phải là số
lượng mà phải nói đến chất lượng thơ, bao gồm nội dung và nghệ thuật. Tiếp tục con đường của
Tuỳ Văn Đế, nhà Đường không sử dụng hình thức “ cửu phẩm trung chính” để tuyển chọn quan
chức, thay vào đó là chế độ thi cử. Trong các kì thi, thơ ca là hình thức bắt buộc, “ dĩ thi thủ
sĩ”.Với chủ trương này một mặt tạo ra phong khí sùng thơ trong cả nước, lực lượng sáng tác mở
rộng đủ mọi tầng lớp trong xã hội. Mặt khác, nội dung thơ phong phú và ngày càng phản ánh
được các hiện tượng phức tạp của hiện thực xã hội. Nghệ thuật thơ dần thay đổi để thích ứng với
nội dung đó. Đồng thời cũng phải thấy rằng, mảng thơ hiện thực đời Đường phát triển đến đỉnh
cao góp phần quan trọng trong việc xác định vị trí hàng đầu của thơ Đường còn là bắt nguồn từ

hiện thực xã hội nhà Đường. Xã hội hưng thịnh, thơ ca nghiên về khuynh hướng lãng mạn, xã
hội loạn lạc, triều chính suy vi, thơ ca đã phản ánh hiện thực với tinh thần tích cực nhất.
Ngoài ra còn phải nói đến khẩu vị mới của giai cấp thống trị dưới triều đại này. Các ông vua đời
Đường rất yêu thích văn học và thơ ca. Đường Trung Tông còn đặt ra lệ thi thơ trong ngày tết
thượng nguyên. Giai thoại về Tống Chi Vấn được Vũ Hậu “ giật áo bào tặng cho” là một điển
hình cho phong khí sùng thơ của triều đình phong kiến. Phong trào yêu thơ không chỉ bó hẹp
chốn cung đình, mà cuộc sống ngoài nhân gian. đặc biệt là ở các trà lâu tửu điếm còn được
hưởng ứng mạnh mẽ hơn, trong đó các kĩ nữ là người thích và thuộc nhiều thơ nhất. Câu chuyện


Vương Xương Linh, Vương Chi Quán, Cao Thích được kĩ nữ thết rượu là môt ví dụ. Và không
chỉ kẽ sĩ biết làm thơ và thích làm thơ, ngay đến thương nhân như Hoàng Sào cũng làm được
thơ. Cả một xã hội đều yêu và thích làm thơ, đây là nét đặc thù của văn hoá Đường.
Các ngành nghệ thuật như âm nhạc, vũ đạo, hội hoạ đều rất phát triển, có ảnh hưởng nhất định
đến sự phát triển của thơ ca. Nó có tác dụng nâng cao khiếu thẫm mĩ và làm giàu thêm tứ thơ.
Trong đó âm nhạc và thi ca vốn là chị em sinh đôi, vì không ngừng đưa vào những nhân tố mới
của âm nhạc nên âm luật và cách điệu của thơ ca ngày càng hoàn thiện hơn. Đặc biệt giữa thơ ca
và hội hoạ có mối quan hệ khắng khít với nhau, và hội hoạ còn được gọi là “ vô thanh thi”, giữa
hai ngành nghệ thuật này có những điểm chung với nhau, như quan niệm về “ý cảnh”, “ nhập
thần”, “ hư” và “ thực”.. và thơ Vương Duy, nói như Tô Thức đời Tống: “ trong thơ có hoạ, trong
hoạ có thơ”.
Cuối cùng là quá trình vận động tự thân của thơ ca đời Đường, do yêu cầu của hiện thực đòi hỏi
phải được phản ánh vào thi ca, hình thức thơ phù hoa diễm lệ chịu ảnh hưởng của Tề Lương
không đáp ứng được yêu cầu thực tiễn đó. Vì thế, các nhà thơ mở đầu là Trần Tử Ngang chủ
trương phục cổ, kế thừa tinh thần hiện thực của Kinh thi, nhạc phủ, thơ Kiến An, bút pháp châm
biếm của thơ Chính Thuỷ, tinh thần yêu nước và bút pháp lãng mạn của Khuất Nguyên, phong
cách hào phóng của dân ca BắcTriều, phong cách uyển chuyển của dân ca Nam Triều những lí
luận, cách đánh giá của Chung Vinh, Lưu Hiệp, cho đến cả thuyết “tứ thanh bát bệnh” của Thẩm
Ước đều được các nhà thơ vận dụng một cách sáng tạo.
Đó là tất cả các nguyên nhân cơ bản làm cho thơ ca đời Đường đặc biệt phát triển, phong phú về

nội dung, điêu luyện về hính thức tạo nên một thời kì hoàng kim của thơ ca.

2.3 – Qúa trình diễn biến : Tương ứng với sự phân kì lịch sử, thơ Đường cũng được chia làm
bốn giai đoạn : Sơ Đường, thịnh Đường, trung Đường và vãn Đường.
Sơ Đường : Thơ ca thời kì này chịu ảnh hưởng khá nặng của thi phong thời Lục triều. Cùng với
sự giàu mạnh của đế quốc phong kiến nhà Đường nên giai cấp thống trị cần có các nhà thơ
chuyên ca công tụng đức. Ngay từ buổi đầu đã có các thi nhân bồi bút như: Ngô Thế Nam,
Thượng Quan Nghi, Lí Bách Dược, Dương Sư Đạo…xuất hiện muộn hơn có nhóm “ văn chương
tứ hữu” ( Tô Vi Đạo, Lí Kiểu, Đỗ Thẩm Ngôn và Thôi Dung). Ngoài ra còn có nhóm Thẩm –
Tống ( Thẩm Thuyên Kì, Tống Chi Vấn).
Tuy nhiên trên dòng chảy thơ ca hoa lệ phù phiếm trong giai đoạn sơ Đương này vẫn xuất hiện
những con nước ngược dòng, tìm mọi cách thoát ra khỏi ảnh hưởng của Tề – Lương, tìm một
hướng đi mới cho thi ca như Vương Tích, “ văn đàn tứ kiệt” ( Dương Quýnh, Vương Bột, Lạc
Tân Vương, Lư Chiếu Lân) và Trần Tử Ngang.
Vương Tích noi theo phong cách Đào Uyên Minh. Ngôn ngữ thơ mộc mạc, chất phác không trau
chuốt, hoàn toàn khác hẳn thơ ca cung đình, bài” Dã vọng” là một điển hình tiêu biểu nhất.


Nhóm “ văn đàn tứ kiệt”, tuy được xã hội đề cao và có địa vị nhất định trong triều đình, nhưng ở
họ vẫn toát lên vẻ bất mãn đối với chế độ. Trong bốn người, Vương Bột là nhà thơ nổi tiếng nhất,
cuộc đời lưu lạc, nhiều ưu hoạn, nhưng đến với thơ ông, ta không bị lạc vào một cõi lòng u uẩn
mà trái lại cảm thấy tâm hồn mình thanh thoát, nhẹ nhàng như nâng lên, bay lên tựa như cánh cò
đang chấp chới giữa trời chiều lẫn với màu mây. Có được điều này, vì thơ ông thấm đẫm tình
đời, tình người và niềm lạc quan vững tin vào con đường phía trước
Vương Bột cũng không hề tỏ ra tự hào, hân hoan về những thắng lợi trong các cuộc chiến tranh
khai biên. Chiến tranh gắn liền với mất mát và đau thương. Đây là điểm khác của thi nhân so với
Dương Quýnh thiên về ca ngợi tráng chí và cuộc sống sôi nổi nơi biên ải. Lạc Tân Vương, Lư
Chiếu Lân lại đi sâu vào các đề tài xã hội kết hợp với cảnh ngộ của bản thân, tác phẩm của họ có
sức tố cáo mạnh mẽ đối với xã hội nhà Đường trong giai đoạn mới bắt đầu cường thịnh nhưng đã
bộc lộ các mâu thuẫn giai cấp sâu sắc.

Trần Tử Ngang là người khởi xướng cho phong trào phục cổ của thơ Đường. Ông cho rằng thơ
ca phải như thời Kiến An. Nhưng ông không hoàn toàn đi trên lối mòn của cổ nhân mà có cách
tân sáng tạo. Văn chương vừa phải có kí thác vừa phải có phong cốt lành mạnh sáng sủa hàm
chứa nội dung tư tưởng đầy đủ, hai mặt này phải kết hợp một cách hoàn mĩ mới có thể đạt được
sự thống nhất giữa nội dung và hình thức.Thực tiễn sáng tác với 38 bài “ Cảm Ngộ”, 7 bài “ Kế
khâu lãm cổ”, 4 bài “Đăng U Châu đài ca” chứng minh cho lí luận sáng tác của ông
Thịnh Đường :Có người bảo: từ sơ Đường tới thịnh Đường thơ phát triển như từ đất bằng vọt
lên ngọn núi Hi Mã Lạp Sơn. Qủa vậy chỉ trong gần 60 năm ngắn ngủi nhưng chính những thành
tựu thơ ca giai đoạn này đã đưa thơ Đường trở thành tập đại thành của thơ ca cổ điển. Và quả
vậy, trong 5 vạn bài thơ của “ Toàn Đường thi” thì số lượng thơ thịnh Đường chiếm tới 3\4, trên
1500 thi sĩ với non 4 vạn bài thơ, riêng Đỗ Phủ có tới ngàn bài.
Tình hình xã hội giai đoạn này diễn ra nhiều ba động dữ dội nhất, chế độ phong kiến Lí Đường
từ đỉnh cao phồn thịnh trượt dài xuống suy yếu dẫn đến nguy cơ sụp đỗ hoàn toàn, có tác dụng
sâu sắc đến thơ ca với đủ các trường phái khác nhau: phái biên tái, phái điền viên, trong đó có
hai trường phái sáng tác tiêu biểu là lãng mạn và hiện thực.
Vương Duy và Mạnh Hạo Nhiên là hai đại biểu lớn của phái điền viên. Thơ Mạnh Hạo Nhiên
vừa có cái u tĩnh, nhàn hạ thanh thoát chốn làng quê đồng thời cũng có cái hùng tráng của giang
sơn kì vĩ trong đó mối quan hệ giữa tình và cảnh trong thơ chẳng những tương hỗ nhau, tôn nhau
lên, mà còn hoà quyện rất chặt chẽ. Thơ sơn thuỷ của Vương Duy có sự kết hợp nhuần nhuyễn
với hoạ, ngôn ngữ giàu màu sắc, với bố cục và cấu trúc chặt chẽ đã truyền đến cho người đọc
những mĩ cảm thanh tú và đẹp đẽ.

Phái biên tái : hầu như nhà thơ nào cũng viết về chiến tranh, về cảnh biên cương khốc liệt.
Trong đó tiêu biểu nhất là Cao Thích, Sầm Tham, Vương Xương Linh, Lí Kì. Ngoài ra còn có
thể nói đến Vương Chi Hoán, thơ ông còn lại 6 bài tuyệt cú rất hay như bài “Đăng Quán Tước
lâu”, thơ biên tái có “ Lương Châu từ nhị thủ” gợi lên tính bi hùng của chiến tranh, chưa đi sâu
vào phê phán. Thơ Vương Xương Linh chủ yếu viết về ba đề tài : biên tái; khuê tình, cung oán và


tống biệt. Thơ biên tái của ông chủ yếu thiên về phê phán, nói lên cảnh bất hạnh của tướng sĩ

trước và sau cuộc chiến như nhóm thơ “ Tòng quân hành xuất ngũ”. Lí Kì sở trường về thất ngôn
cổ, thường dùng thể ca hành, thơ biên tái của ông nổi tiếng với các bài “ Cổ ý”, “ Cổ tòng quân
hành”, đả kích thẳng vào tầng lớp thống trị vì muốn thoả mãn tham vọng riêng tư mà không hề
tiếc máu xương bá tánh.
Cao Thích, Sầm Tham thuộc về một dòng riêng thiên về ngợi ca. Trong thơ của Cao Thích, loại
thơ cảm hoài, vịnh sử rất nhiều, ông sở trường về cổ thể, nhất là loại cổ thể thất ngôn. Thơ biên
tái của ông có đặc điểm trầm hùng thâm hậu thiên về ngợi ca những nhân vật lập nhiều chiến
công đương thời như trong bài “ Tam quân vịnh”. Tuy nhiên đó không phải là biểu hiện của thái
độ tiêu cực trước cuộc chiến tranh đẫm máu phi nghĩa mà nó thể hiện niềm khát khao của một
người lính về chiến công và tự do, “ Tái hạ khúc”,” Yên ca hành” là những bài thơ như thế.
Sầm Thanh sống ở biên tái lâu hơn Cao Thích, cho nên thơ biên tái của ông phong phú và đa
dạng hơn thơ Cao Thích. Thơ của ông đã phát hoạ nên bức tranh tráng lệ của cuộc sống biên tái
với đủ các sắc thái đa dạng, từ cảnh đến người. Đó là hoàn cảnh khắc nghiệt nơi biên giới xa xôi
với cái nóng gay gắt của núi Hoả sơn, cái rét thấu xương của tuyết Thiên Sơn, đó là hình ảnh các
chiến sĩ biên phòng gan dạ quả cảm, chiến đấu với một tinh thần anh dũng, “ Luân Đài ca phụng
tống Phong đại phu xuất sư tây chinh”, đó còn là niềm tin yêu lạc quan của người chiến sĩ nơi
biên ải “Điền sứ quân mĩ nhân như liên hoa bắc diễn ca”. Bên cạnh cảm hứng ngợi ca, ông còn
đi sâu vào phê phán cuộc sống xa hoa của đại tướng nơi biên đình đối lập với sự đói rét của sĩ tốt
nơi chiến địa, về nỗi buồn nhớ quê hương và nỗi uất giận đối với triều đình.
Lí Bạch là đại biểu kiệt xuất của trường phái lãng mạn. Người ta gọi ông là nhà thơ lãng mạn vì
hai lẽ, xét ở hình thức nghệ thuật, thơ ông phóng túng không bó buộc. Qủa thật, 1000 bài thơ mà
trong đó chỉ có 70 bài ngũ luật, 12 bài thất luật, còn lại là thơ tự do. Xét về nội dung ta thấy
nguồn cảm hứng chủ đạo trong thơ ông là cảm hứng Đạo giáo và hiệp sĩ.
Là một nhà thơ lãng mạn, đề tài chiếm phần lớn trong thơ Lí Bạch là thiên nhiên, từ một dòng
sông, một làn gió, một cánh chim bơ vơ giữa trời chiều, một bông hoa tuyết, một thác nước ở Lư
Sơn.. đều trở thành một thực thể sinh động chứa đựng nổi niềm của thi nhân. Đặc biệt với Lí
Bạch vầng trăng đi vào thơ ông như một niềm ám ảnh khôn nguôi, trăng mang bóng dáng của
quê nhà (Tĩnh dạ tứ), là chiếc cầu nối cho niềm thương nỗi nhớ của đôi bạn xa nhau (Tống
Trương xá nhân chi Giang Đông), là người bạn đồng hành với cuộc sống phiêu linh của nhân
dân (Ngô ca), trăng nối liền quá khứ với hiện tại ( Bá tửu vấn nguyệt) và hơn hết ánh trăng là tri

kỉ tri âm của thi nhân, trăng ca hát, nhảy múa, đối ẩm với kẻ lang bạt kì hồ trong niềm cô đơn bất
tận ( Nguyệt hạ độc chước).
Đề tài lịch sử là một mảng quan trọng trong sáng tác của Lí Bạch, thi nhân sống trong hiện tại “
Khai Nguyên thịnh thế” nhưng lại hay có những vần thơ hoài cổ xa xôi. Ông ca ngợi các vị anh
hùng như Khương Thái Công (Lương phụ ngâm), Lỗ Trọng Liên (Cổ phong). Trong bài “ Hành
lộ nan” ông đã ca ngợi những bậc danh thần xuất thân áo vải. Viết như thế không phải chỉ do tình
cảm hoài cổ mà thi nhân còn muốn thông qua những nhân vật đó để bộc lộ nhiệt tình và khí khái,
“ tâm hùng vạn phu” của mình, thể hịên nguyện vọng muốn xây dựng thành tích huy hoàng, tích
cực sáng tạo giá trị của bản thân.


Trong các bước ngoặt của đời mình, từ những năm trải gót phong trần ở huyện Chương Minh,
kiếm gậy rời quê để đi nát vạn dặm đường, ba năm đại náo cung đình nhà vua và những năm
tháng đi trong chiến loạn để tìm lẽ sống cho đời, Lí Bạch có dịp tiếp xúc với những cảnh đời bất
công ngang trái, cho nên trong thơ ông còn có những giá trị hiện thực nhất định. Ông nói về cảnh
sống khổ sở của nhân dân do chiến tranh phi nghĩa gây ra, đặc biệt là chủ đề người phụ nữ trong
xã hội phong kiến, từ nàng cung nữ chốn thâm cung đến cô gái hái sen đời thường, ngòi bút của
thi nhân bao giờ cũng thể hiện thái độ trân trọng, làm toát lên cái đáng yêu đáng quý từ tâm hồn
đến hình thể của họ. Bên cạnh đó ông cũng khắc hoạ những nỗi bất hạnh mà người phụ nữ phải
chiụ đựng, đó là nỗi đau khổ do thống trị gây nên, sự o ép thúc bách của lễ giáo phong kiến, sự
cưỡng bức chồng họ đi lính thú xa xôi.
Nếu Lí Bạch là đỉnh cao của thơ trữ tình cổ điển thì Đỗ Phủ lại chính là đỉnh cao của thơ hiện
thực cổ điển, là chủ soái của thơ hiện thực đời Đường. Cả Lí Bạch và Đỗ Phủ là hai ngọn núi
song song sừng sững trên cánh đồng thi ca lúc bấy giờ. Hoài Thanh nhận xét “Thơ Lí Bạch đưa
ta vào tiêu dao trên mấy từng mây, thơ Đỗ Phủ lại bắt ta đi sâu vào giữa tình đời cay đắng.Văn
Thơ Đỗ Phủ hình như chỉ riêng tả những nỗi đau thương. Đau thương vì thân thế mình, vì những
biến cố của quốc gia và nhất là vì những đau thương của hạng cùng dân không tên tuổi”. Nhận
định trên của Hoài Thanh có phần không xác đáng về Lí Bạch, nhưng về Đỗ Phủ ông đã có nhận
xét khá chính xác
Xuất thân trong gia đình thuộc dòng dõi Nho quan đến mười ba đời, Đỗ Phủ ngay từ thuở thiếu

thời đã tắm mình trong những lề thói khắc kỉ của Nho gia, quý trọng đức hạnh, danh tiết, luôn
giữ gìn lễ giáo, quy củ và xem đó là chuẩn mực của cuộc sống. Đỗ Phủ đồng thời còn chịu ảnh
hưởng không ít không khí của thời đại.Trong giai đoạn đầu sáng tác của ông ta luôn bắt gặp hình
ảnh một cá nhân kiêu ngạo, luôn tự tin ở tài năng của mình với những bài thơ viết về cảnh núi
non, chim ưng, ngựa hồ…nói chung đó là loại thơ “ ngôn chí”, thể hiện lí tưởng của mình muốn
làm một “ tể tướng thời bình”, trong một phong thái hết sức tự tin “ Tư vị pha đỉnh xuất, lập đăng
yếu tộ tân” ( tự cho mình bước ra, sẽ được địa vị tốt). Đỗ Phủ đã thất bại ngay từ lần đầu tiên va
chạm với hệ thống quyền lực phong kiến. Cuộc sống gia đình ngày càng khó khăn đòi hỏi ông
phải có một chỗ dựa vững vàng, Đỗ Phủ làm phú thơ dâng tặng mong được tiến cử nhưng tất cả
chỉ hoài công. Tiếc thay mảng thơ đề tặng của ông lúc đầu vừa nêu lên khát vọng công danh, vừa
khiêm tốn hạ mình đến mức cầu cạnh. Tuy vậy thơ Đỗ cũng vẽ lên được cảnh nghèo khổ cơ cực
của nhà Nho nghèo và sự bất mãn thấm vẻ bất lực.
Giai đoạn thứ hai trong cuộc đời sáng tác của Đỗ Phủ là những khúc bi ca thời loạn, lên án trực
tiếp giai cấp thống trị và phản ánh sâu sắc đời sống cực khổ của nhân dân. Những năm tháng
sống lao đao chốn kinh thành, Đỗ Phủ thực sự đã qua nỗi bất hạnh của cá nhân mình, thấy được
nỗi bất hạnh của quốc gia cũng như nỗi bất hạnh của nhân dân. Sáng tác thi ca của ông đã hấp
thu chất dinh dưỡng từ máu và nước mắt của nhân dân. Bài “ Binh xa hành” đã đánh dấu bước
chuyển biến trong thi ca, từ đó hình thành nội dung cơ bản và quán xuyến trong sáng tác thi ca
của cả đời ông. Nội dung tư tưởng đó bao gồm bốn đặc điểm: một là tinh thần tả thực nghiêm
túc, dưới tiền đề trung thành với nhà vua và vương triều phong kiến, nghiêm khắc phê phán hiện
tượng hủ bại trong tập đoàn thống trị; đồng tình một cách sâu sắc nỗi đau khổ của nhân dân; ưu
tư nặng nề đối với vận mệnh của quốc gia và dân tộc. 9 bài trong nhóm “ Tiền xuất tái” tiếp tục
nêu lên nghi vấn về cuộc chiến tranh mở rộng, “ Lệ nhân hành” vạch trần đời sống xa hoa cùng
cực của bọn thân tộc Dương Ngọc Hoàn, “ Tự kinh phó Phụng Tiên vịnh hoài Ngũ Bắc tự” nêu


lên một sự so sánh ngày càng gay gắt hơn giữa cuộc sống xa hoa của tầng lớp thống trị tối cao
với cảnh sống cơ hàn của nhân dân. Những bài như: Xuân vọng, Nguyệt dạ, Bi trần đào, Bi
thanh bản, Bắc chinh, Khương thôn, Tam lại, Tam biệt, Thạch hào lại, Tân hôn biệt…được sáng
tác chủ yếu trong loạn An Sử phản ánh một cách sâu sắc tình cảnh khốn cùng của nhân dân bị

cuốn hút vào cuộc chiến tranh phi nghĩa đồng thời cũng nói lên tấm lòng tràn ngập niềm lo âu
trước cuộc đời.
Thời kì cuối, thơ ông chủ yếu là thơ trữ tình. Cuộc sống nghèo khổ phiêu bạt càng làm tăng thêm
nỗi niềm thương nhớ quê hương da diết, khi tỉnh khi mơ, lời thơ dạt dào tình cảm. Ứơc mơ mãnh
liệt về một cuộc sống hoà bình hạnh phúc khiến thơ ông bớt phần ảm đạm, u tối. Những bài thơ
như: Văn quan quân thu Hà Nam Hà Bắc, Hựu tình Ngô Lang, Thu hứng, Chư tướng, Vịnh hoài
cổ tích, Lữ dạ thu hoài…đều là những tác phẩm ưu tú trong thời kì này, có thể nói giai đoạn này
là đỉnh cao thứ hai trong thơ ca Đỗ Phủ.
Đỗ Phủ là một thi nhân đã thu gom nhiều thành quả của các thi nhân đời trước, là người kế thừa
đời trước và mở đường cho đời sau. Thành công cũng như cống hiến của Đỗ Phủ về mặt nghệ
thuật có thể thấy ở ba loại hình tiêu biểu sau: một là những bài thơ có tính tự thuật theo thể thơ
ngũ ngôn cổ thi như các bài : Tự kinh phó Phụng Tiên vịnh hoài ngũ Bắc tự, Bắc chinh; hai là
những bài thơ kể chuyện viết theo thể thất ngôn cổ thi, ngũ ngôn cổ thi; ba là thơ thất ngôn luật.
Ngôn ngữ thơ Đỗ Phủ rất tinh xảo điêu luyện.

Trung Đường : Tiếp nối truyền thống thơ ca hiện thực của Đỗ Phủ, các nhà thơ trong giai đoạn
Đại Lịch đến Trinh Nguyên này tập trung sáng tác dưới ngọn cờ “vị quân, vị dân nhi trước” của
Bạch Cư Dị. Ông là nhà thơ có nhiều tác phẩm nhất dưới thời nhà Đường, với khoảng 3000 bài.
Tạm chia làm 4 loại : thơ cảm thương, thơ phúng dụ, thơ nhàn thích và thơ tạp luật. Thơ phúng
dụ điển hình có các bài: Tần trung ngâm và 50 bài trong nhóm Tân nhạc phủ. Xoáy vào hai vấn
đề chủ yếu : một là miêu tả hiện tượng giàu nghèo chênh lệch nhau một cách gay gắt trong thời
đại này cũng như các tầng lớp dưới do bị bóc lột vơ vét mà lâm vào một thảm trạng khó khăn bi
đát. Hai là chú ý đến các cuộc chiến tranh liên miên xảy ra ngoài biên giới, dẫn đến bá tánh vô
tội bị chết chóc đến hàng nghìn hàng vạn người. Bài “ Tân phong chiết tý ông” miêu tả một cụ
già từng trốn binh dịch trong những năm Thiên Bảo, vừa nói lên nỗi khổ của nhân dân trong thời
chiến vừa phản ánh một cách sâu sắc bản chất hiếu chiến của giai tầng thống trị. Nói chung, với
loại thơ phúng dụ Bạch Cư Dị đã lột bỏ tấm vải che mặt của họ để phơi bày ra sự đen tối nhơ
nhớp và bất hợp lí của xã hội.
Thơ cảm thương của ông còn lại hai bài là “ Tì bà hành” và “Trường ca hành”. Mặc dù sinh thời
Bạch Cư Dị rất chú trọng đến thơ phúng dụ vì nó phù hợp với chủ trương văn học của ông,

nhưng trên thực tế những tác phẩm đó đôi khi không tránh khỏi khô khan hình thức vì quá thiên
về chính trị. Ảnh hưởng của ông đối với đời sau chủ yếu là ở hai bài cảm thương này.
Gỉa Đảo, Mạnh Giao lại tách riêng theo một hướng sang tác khác, có thể gọi thơ của họ thuộc
phái quái đản tức là chủ trương viết phải khác người, làm kinh dị người đọc thì mới là khéo, cố
tìm những tiếng lạ lùng, những vấn đề khó khăn. Liễu Tông Nguyên làm thơ ngụ ngôn rất sở
trường, phản ánh nổi khổ của dân chúng và phê phán bọn thống trị. Lí Hạ là nhà thơ có biệt tài


xây dựng tứ thơ độc đáo, hình ảnh kì lạ, từ ngữ mới mẻ. Ngoài ra còn có thể kể đến nhiều nhà
thơ khác cũng được người đời truyền tụng như Lưu Vũ Tích, Lí Đoan, Vi Ứng Vật..

Vãn Đường : trước một xã hội tao loạn, hoàn toàn không có khả năng cứu vãn, tình cảm tư
tưởng của các thi nhân giai đoạn này trở nên u ẩn thâm trầm. Có thi nhân chủ trương duy mĩ trở
về thời Lục triều như Đỗ Mục, Lí Thương Ẩn, Ôn Đình Quân…trong đó Lí Thương Ẩn là người
nổi tiếng trên thi đàn thời vãn Đường, ông sở trường về thất ngôn luật và ngũ ngôn luật, rất ít
dùng và dùng rất khéo các điển tích điển cố, kết cấu chặt chẽ, gãy gọn hơn so với những người đi
trước. Ôn Đình Quân là bạn thân của Lí Thương Ẩn nhưng thành công cũng như sở trường của
ông là ở lĩnh vực sáng tác Từ. Nhà thơ được xem là ông tổ của thể loại này. Nói chung các nhà
thơ dù chủ trương duy mĩ nhưng lời thơ của họ không phải là sáo rỗng không có kí gửi điều gì
mà nó là nỗi niềm ai oán, là tiếng lòng của một tâm hồn đầy niềm ưu tư dằn vặt với đời nhưng
hoàn toàn bất lực đứng bên lề của những ba động đảo điên đó.
Một số khác lại sáng tác theo lối điền viên như Lí Tần, Triệu Hỗ, Tiết Phùng, Mã Đới. Bên cạnh
đó có hàng loạt nhà thơ như Bì Nhật Hưu, Diếp Di Trung, Đỗ Tuân Hạc…vẫn kiên trì khuynh
hướng Tân nhạc phủ do Bạch Cư Dị đề xướng. Tác phẩm của họ đã phản ánh một cách chân xác
đời sống cùng khổ của nhân dân cũng như thực tại ngày càng đen tối của xã hội trong giai đoạn
Vãn Đường này
.
Tìm hiểu thơ Đường qua 4 giai đoạn để thấy quá trình diễn biến từ thịnh đến suy. Tình cảm trong
thi ca từ chỗ trong sáng trở thành tối tăm, khí thế từ chỗ sôi nổi trở thành âm trầm, ngôn ngữ từ
chỗ bình dị trôi chảy chuyển thành trau chuốt cầu kì, kết cấu từ chỗ tự nhiên thư thái chuyển

thành tinh tế, tỉ mỉ. Và do vậy cho thấy thơ Đường trong tiến trình từ sơ đến vãn thì thi pháp vẫn
không ngừng được hoàn thiện, hoàn mĩ. Điều này giải thích vì sao “thơ Đường – những mũi tên
bắn đi bay vĩnh viễn cùng thời gian đến mai sau” ( Hữu Ngọc), nó có sức sống sức ảnh hưởng
mảnh liệt đến văn học trong các thời kì sau không chỉ trong nước mà cả ngoài nước.

2.4 – Đề tài.
Tìm hiểu đề tài trong thơ Đường ta nên bắt đầu từ nội dung cảm hứng. Đường thi thường được
gợi hứng từ ba nguồn tư tưởng chủ đạo là Nho, Lão và Phật.
Nho giáo quan niệm “ khắc kỉ phục lễ vi nhân”, “nhân dã trung thứ dã”, “ kỉ sở bất dục vật thi ư
nhân”, như vậy chữ Nhân là nội dung trung tâm trong quan niệm của Nho giáo, nó khác về cơ
bản với chủ nghĩa nhân đạo của phương Tây. Nhân gắn liền với trách nhiệm và nghĩa vụ. Do đó
cảm hứng của Nho giáo là cảm hứng trách nhiệm, trách nhiệm trước dân tộc, cộng đồng, thời
đại. Thơ Đường được khơi nguồn từ cảm hứng trách nhiệm thường có các đề tài như: tình bạn,
tình yêu, chiến tranh …


Lão giáo lại cho rằng “vô vi nhi bất tranh” – thuận theo tự nhiên mà sống, cảm hứng của Lão
giáo là cảm hứng hoà đồng với thiên nhiên, thoát tục, với các đề tài như : thiên nhiên, du tiên,
cuộc sống điền dã..
Phật giáo với nhận thức đời là bể khổ, với thuyết “ tứ diệu đế” gieo vào tâm thức con người tâm
trạng bi quan chán nản, nhất là khi số phận gặp nhiều bất trắc, không thoả mãn trên bước đường
hoạn lộ, cảm hứng của Phật giáo là cảm hứng nhân sinh như mộng, bụi trần vấn vương sống gửi
thác về. Đề tài Phật giáo cũng viết về thiên nhiên, nhưng đó là thiên nhiên với cảnh núi non chủa
chiền, u nhã, trầm tịch.
Nói chung đề tài trong thơ Đường phong phú đa dạng phản ánh đủ các khía cạnh trong xã hội
nhà Đường. Tuy vậy ta có thể tổng kết các đề tài nổi bật như: Tình yêu, tình bạn, chiến tranh,
lịch sử, du tiên, thiên nhiên….
Riêng đề tài về tình bạn có lẽ được sáng tác nhiều, thấy rõ trong số thơ Đường đã được dịch ở
ViệtNam. Tìm hiểu điều này trong thơ Đường ta thấy, các thi nhân có thể mạnh về đề tài này hay
đề tài khác, chẳng hạn Cao Thích nghiêng về thơ biên tái, Vương Duy lại tỏ ra ưu ái với đề tài

sơn thuỷ. Nhưng trong sáng tác của họ bao giờ cũng có ít nhiều các bài thơ nói về tình bạn, các
nhà thơ hầu như ai cũng viết về bằng hữu chi tình. Khi cuộc sống bình yên nhàn hạ, thì họ lấy
thơ để thù tạc ứng đối cùng nhau, khi hoạn nạn lại lấy thơ ca chia sẻ những nỗi niềm riêng tây,
thông qua tình bạn cái tôi cá nhân phần nào được giải phóng khỏi những lề thói khắc kỉ của Nho
gia, đây là điều mà kẻ sĩ Trung Quốc bao giờ cũng mong muốn đạt được. “ Sự xuất hiện tình cảm
bằng hữu như là một phạm trù mới của văn học. Một mặt nó làm phong phú cho nền văn học đời
Đường, mặt khác nó phản ánh sự phát triển của xã hội đời Đường, nhất là sự giải phóng cái tôi cá
nhân” ( Nguyễn Sĩ Đại – Thơ Đường Tứ Tuyệt)
Trong 6 quyển sách được chọn để tham khảo, người viết rút ra được 112 bài thơ nói về tình bạn,
con số này dĩ nhiên là không nhỏ, vì có những bài được lặp lại ở các sách, như bài “ Vị Thành
khúc” của Vương Duy. Chỉ tính riêng trong thơ Đường tập II viết về ba tác giả : Lí Bạch, Đỗ
Phủ, Bạch Cư Dị với tổng số là 143 bài thì đã có 23 bài là bằng hữu chi tình, quyển Đương thi –
Trần Trọng Kim có 374 bài thì có 54 bài viết về tình bạn. Từ thực tế khảo sát này, người viết thấy
cần thiết phải chọn đề tài về tình bạn làm chủ đề cho bài viết của mình.
k

CHƯƠNG 2. “BẰNG HỮU CHI TÌNH”
TRONG THƠ ĐƯỜNG
1- Cơ sở hình thành của đề tài “bằng hữu chi tình” trong Đường thi


Cổ văn có câu “đắc nhất tri kỉ, khả dĩ bất hận” (ở đời có được một người tri kỉ thì không còn gì
ân hận nữa). Trong cuộc hành trình của kiếp người không ai muốn tự phong toả đời mình, mãi
làm kẻ lãng du cô độc, ai cũng có niềm khát khao giao cảm với người, mong muốn có một tri
âm.
Trong lịch sử Trung Quốc cũng đã lưu truyền nhiều giai thoại đẹp về tình bằng hữu.Vào thời nhà
Chu, Bão Thúc Nha mến tài Quản Di Ngô, hiểu được tâm tư, chí hướng và hành động của bạn.
Thế nhân có thể cho Di Ngô là ngớ ngẩn, tham tiền, nhút nhát, phản bội, nhưng Thúc Nha thì
không, trước sau ông vẫn hiểu, tin và dọn đường tiến thân cho bạn. Đấy chẳng phải là thâm tình
tri kỉ đó sao! Tử Kì mất, Bá Nha đau đớn tưởng như mất đi chính cuộc đời của mình, vì rồi đây

sẽ có ai là người hiểu được tiếng đàn cao sơn lưu thuỷ của ông. Hiểu Bá Nha, có tâm hồn đồng
điệu với Bá Nha chỉ có một tấm lòng tri âm của Tử Kì. Lưu Bị, Trương Phi, Quan Công kết
nghĩa vườn đào không vì một mục đích thù tạc nào mà ở họ có chung một con đường để đi là
khôi phục chủ quyền nhà Hán . Quan Công, Trương Phi tử trận, Lưu Bị vì họ xông pha vào nơi
tử địa bỏ lại sau lưng cả một sự nghiệp đế vương. Ai cũng bảo đó là ngu tình nhưng cũng không
khỏi cảm phục tấm lòng ông dành cho huynh đệ, đúng với câu “ bằng hữu chi giao mạc khả
vong”. Như thế tương tri giữa người với người trở thành một vấn đề về lẽ sống. Đặc biệt dưới
triều đại nhà Đường có hàng loạt mối tình thâm giao tri kỉ của các thi nhân như Lí – Đỗ (Lí Bạch
– Đỗ Phủ ), Mạnh – Vương (Mạnh Hạo Nhiên – Vương Duy), Hàn – Liễu (Hàn Dũ – Liễu Tông
Nguyên), Bạch – Nguyên (Bạch Cư Dị – Nguyên Chẩn )…..
Triều đại nhà Đường được xem là thời đại hoàng kim của các tài tử giai nhân, từ vua đến dân đều
rất yêu và thích làm thơ. Tổ Vịnh dám bỏ qua lối cầu kì hình thức của văn chương thi cử, chỉ cốt
tả đủ cái tình của mình trong bài “ Chung Nam vọng dư tuyết”, vẫn được lấy đỗ đầu tiến sĩ.
Vương Xương Linh chỉ viết “ ba chữ bảy chấm” lấy hơn nghìn lạng bạc trả ơn người thợ da
nghèo khổ mà tốt bụng… Mỗi cá nhân đều có thể dựa vào thơ ca để bộc lộ tâm, chí của mình đối
với cuộc đời của mình, để khẳng định vị trí của mình trong xã hội. Thế nhưng có không ít nhà
thơ thường rơi vào tâm trạng bất đắc chí. Lí Bạch được đời dành cho danh hiệu “ thi tiên”, được
Đường Minh Hoàng sủng ái, vậy mà đời thi nhân vẫn ngập chìm trong niềm bi phẫn u uất, muốn
hoà nhập vời đời nhưng lại cũng xa lánh cuộc đời. Không riêng gì Lí Bạch, rất nhiều những thi
nhân khác như Mạnh Hạo Nhiên, Hàn Dũ, Bạch Cư Dị… đều rơi vào tâm trạng như thế.
Đến đây, ta cần hiểu ý nghĩa và mục đích của đời người mà phần đông kẻ sĩ Trung Quốc quan
niệm. Nếu theo tinh thần cơ đốc giáo của Phương Tây cho rằng sống là nhẫn nhục mong chờ
được giải thoát ở cõi thiên đàng, thì người Trung Quốc khẳng định một cách rõ ràng : cuộc sống
của kiếp người là ở tại thế gian này, dù cuộc đời ấy có thảm sầu chát đắng, đó cũng là nơi của thế
nhân. Bởi thế, họ không dụng công tìm kiếm một ảo ảnh cụôc đời, mà tìm thấy hạnh phúc niết
bàn ở ngay chính cuộc đời trần thế. Theo Mác “ bản chất con người không phải là một cái gì trừu
tượng cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó bản chất con người là tổng hoà
của các mối quan hệ xã hội”. Ý thức về cuộc sống hiện thực là điểm nổi bật trong chủ nghĩa nhân
văn của người Trung Quốc. Vì thế, ở họ cá nhân bao giờ cũng được đặt trong đời sống chung của
cộng đồng, hướng đến các quan hệ xã hội, hoà mình vào cuộc sống chung của thời đại.

Nhà Đường chủ trương tam giáo đồng nguyên. Nho giáo thiên về tính kinh điển hướng con
người đến các hoạt động nhập thế theo quan điểm chính danh định phận, quan hệ giữa người và
người lấy nhân làm gốc và lễ là con đường để thực hiện điều nhân. Nói chung, Nho giáo thiên về


×