Tải bản đầy đủ (.doc) (8 trang)

Nội dung, nghệ thuật của các bài thơ Đường ở chương trình THPT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (116.77 KB, 8 trang )

NỘI DUNG NGHỆ THUẬT CỦA CÁC BÀI THƠ ĐƯỜNG Ở CHƯƠNG TRÌNH
THPT
Trên thi đàn Trung Quốc, thơ Đường chiếm một vị trí quan trọng, mang nội dung và nghệ
thuật trác tuyệt, đạt đến trình độ cổ điển đánh dấu thời đại hoàng kim của thơ ca Trung
Quốc.
Với những tinh hoa của thơ Đường mà nó được chọn lọc, đưa vào giảng dạy ở trường
THPT. Điều đó thể hiện thái độ trân trọng và tiếp thu những tinh túy văn hóa nhân loại của
dân tộc ta. Đây cũng là cách cho các thế hệ mai sau biết những tinh hoa đó để các em phát
huy những nét đẹp văn hóa mới trên cơ sở kế thừa những điều tốt đẹp cũ. Thế nên việc
giảng dạy thơ Đường như thế nào là điều quan trọng đối với người giáo viên. Vấn đề này
đã trở thành đề tài nghiên cứu của nhiều người, bao gồm việc đưa ra những phương pháp,
kinh nghiệm, từ đó hình thành kiến thức chuyên môn cho giáo viên khi giảng dạy thơ
Đường. Bài tiểu luận này chỉ đi vào tìm hiểu mấy nét chính về nội dung nghệ thuật của
một số bài thơ Đường được đưa vào giảng dạy trong chương trình THPT. Qua công việc
này, tôi mong muốn góp một tiếng nói nhỏ của mình để việc giảng dạy thơ Đường sao cho
thật hay và hiệu quả
1. Không gian hình tượng trong thơ Đường:
Nếu ta đặt” hình tượng nghệ thuật là các khách thể đời sống được nghệ sĩ tái hiện một cách
sáng tạo trong những tác phẩm nghệ thuật” ( Từ điển thuật ngữ văn học) thì không gian
hình tượng trong thơ Đường là một loại hình tượng nghệ thuật. Vậy tại sao lại gọi không
gian được miêu tả trong thơ Đường là không gian hình tượng? Nó được các tác giả đời
Đường xây dựng như thế nào trong tác phẩm của mình? Và việc xây dựng không gian hình
tượng đó có ý nghĩa như thế nào?
Nói không gian trong thơ Đường là loại không gian hình tượng bởi vì khi miêu tả về nó,
các tác giả luôn tìm cách đồng nhất các sự kiện, biến cái hữu hạn thành cái vô hạn:
“ Cô phàm viễn cảnh bích không tận
Duy kiến trường giang thiên tế lưu”
Đây là hai câu cuối trong bài” Hoàng Hạc Lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng”( Lý
Bạch). Ông làm bài thơ này để tiễn Mạnh Hạo Nhiên từ lầu Hoàng Hạc đi Dương Châu.
Và ông đã tả khung cảnh chia tay ấy với các sự kiện sau: bích không tận – Trường Giang,
một cánh buồm cô đơn, một khoảng trời xanh vô tận, một con sông dài. So sánh những


hình ảnh này về giới hạn, số lượng, bản chất, ta thấy có những từ tương phản: một cánh
buồm lẻ loi, cô độc, đìu hiu. Cánh buồm tự bản thân nó không mang tâm trạng gì nhưng nó
lại được đặt trong một khung cảnh khiến người ta nghĩ đến sự cô đơn: con sông Trường
Giang dài và rộng. Cánh buồm quả là cô lẻ giữa con sông ấy, song sông Trường Giang dài
rộng là thế cũng không sánh được với khoảng vũ trụ bao la trên đầu. Một cánh buồm đơn
độc xa xăm lẩn vào khoảng không xanh vô tận, trông theo chỉ thấy dòng sông chảy miệt từ
trời xuống. Ta biết Trường Giang không phải chảy từ trên trời xuống mà là chảy xuyên
suốt mảnh đất Trung Quốc rộng lớn. Vậy tại sao Lý Bạch đã hơn một lần nhầm lẫn như
vậy? Trong “ Vọng lư sơn bộc bố”, ông nhìn thác mà cứ ngỡ bắt nguồn từ trới cao: “ Nghi
thị Ngân Hà lạc cửu thiên” ( Tưởng là sông Ngân rơi xuống từ chin tầng mây). Thực ra Lý
Bạch không hề nhầm lẫn, vì con sông dài với khoảng trời xanh vô tận đã khộng còn phân
biệt được nữa trước con mắt của thi nhân, cả hai đã hòa làm một. Những thuộc tính tương
phản nổi bật : cánh buồm cô độc ( hữu hạn), dòng sông ( hữu hạn), không gian vô hạn khi
hòa làm một không hề tương phản mà tạo thành chỉnh thể thống nhất, bổ sung cho nhau tạo
nên hình ảnh chung đó. Cánh buồm càng lẻ loi, đơn độc, thì dòng sông càng dài, càng rộng
khiến bầu trời vốn xanh me6ng mông lại càng thêm bất tận. Trời nước mênh mông, bóng
buồm xa thẳm, tất cả hòa làm một, sông cứ dài, trời cứ xanh, thuyền cứ xa và trở nên vô
hạn. Cùng cái nhìn chung lí tưởng với Lý Bạch, trong bài” Đăng cao”, Đỗ Phủ đã miêu tả:
“ Phong thấp thiên cao viên khiếu ai
Chữ thanh sa bạch điểu phi hồi
Vô biên lạc mộc tiêu tiêu hạ
Bất tận trường giang cổn cổn lai”
Trên đây có ba sự kiện được tả: trời cao, rừng cây bát ngát và dòng sông bất tận. Rừng cây,
dòng sông mà tác gải thấy là dài dằng dặc nhưng lại nhỏ bé so với cái vô cùng của trời cao.
Cho dù” vô biên lạc một”, là “ bất tận trường giang” thì cũng là hữu hạn so với thiên cao
vô hạn. Với cùng một khuynh hướng đồng nhất mô tả các sự kiện giống nhau, Đỗ Phủ đã
biến cái hữu hạn thành cái vô hạn bằng cách nhìn chúng trong một không gian ba chiều:
dọc với trời cao, với nước trong một cái nhìn xuyên suốt từ trời đến đáy nước: trời càng
cao, nước càng trong thì cái nhìn càng sâu; bề rộng với ngàn cây bát ngát vô biên, lá xào
xạc rơi thì rừng cây càng mênh mông , sông dài càng bất tận, nước càng cuồn cuộn, sông

càng dài. Từ vật nhỏ góp thành vật lớn, ngàn cây góp thành rừng, bất tận con nước làm
thành sông dài, tất cả tạo nên vũ trụ mênh mông. Trong không gian ba chiều ấy, rừng cây
và dòng sông hòa vào trời cao làm thành vũ trụ mênh mông choáng ngợp.
Một ví dụ khác về bút pháp đồng nhất các sự kiện trong thơ của Đỗ Phủ:
“ Tinh thùy bình dã khoát
Nguyệt dũng đại giang lưu”
Đỗ Phủ đã đồng nhất ngôi sao với đồng bằng, ngôi sao càng rũ xuống thì đồng bằng càng
rộng. Ngôi sao rũ xuống khiến đồng bằng hữu hạn cứ như được kéo dài thêm ra đến mênh
mông vô hạn. Dòng sông đang chảy xiết nên khi trăng chiếu trên mặt nước , trăng như bị
xé ra từng mảnh vụn rơi vãi trên mặt nước. “ Dũng” nghĩa là tung tóe thật mạnh và vỡ tan
ra thành từng mảnh nhỏ. Trăng càng tung tóe dữ dội thì dòng sông càng chảy xiết. Đồng
nhất các sự kiện, biến cái hữu hạn thành cái vô hạn mới chỉ là một đặc trưng nghệ thuật
trong vô số những sáng tạo nghệ thuật sản sinh từ những thiên tài thơ ca xuất chúng đời
Đường.
2. Phương thức chiếm lĩnh không gian của các nhà thơ Đường:
Để có được không gian hình tượng trong thơ, các thi nhân đời Đường có phương thức
chiếm lĩnh không gian rất độc đáo. Muốn có được không gian hình tượng, trước tiên phải
có một không gian cụ thể làm vật liệu và các nhà thơ là những người xây dựng khéo léo và
sáng tạo ttrong việc lựa chọn chất liệu thơ là những sự vật cụ thể trong không gian đưa vào
thơ, từ đó tạo nên thần thái của bài thơ, khái quát nên thành hình tượng nghệ thuật. Để
hướng tới cái đẹp hoàn thiện, cùng chung một lí tưởng thẩm mĩ, vô hình chung, các nhà
thơ lớn đời Đường có chung một phương thức chiếm lĩnh không gian. Họ hướng đến việc
chiếm lĩnh không gian theo bề cao chứ không phải theo bề rộng. Bề cao mang đến sự cảm
nhận về chiều sâu, thăm thẳm và đầy bí ẩn, không phải nghe là biết, nhìn là hiểu. Điều này
mới chính là đặc trưng của thơ Đường, bình dị mà sâu sắc, đơn giản ngắn gọn mà trầm
lắng sâu xa. Chúng ta có thể tìm hiểu điều này qua bài thơ “ Hoàng Hạc Lâu” của Thôi
Hiệu.
Đây là bài vịnh ngôi lầu Hoàng Hạc được chép lại ngay trên bức vách của lầu. Hoàng Hạc
lâu được xem là nơi cao nhất để ngắm cảnh, thưởng nguyệt xem hoa, là nơi dạo chơi và là
nguồn cảm tác thơ lí tưởng. Thôi Hiệu đã làm bài thơ này trong một lần yến tiệc để dâng

vua. Sau này thi tiên Lý Bạch đọc xong cũng phải ngậm ngùi gác bút giữa lúc trước mắt
đang có cảnh đẹp( nhân tiền hữu cảnh) nhưng thơ không viết thành lời( đạo bất đắc) vì trên
lầu, thôi Hiệu đã viết thơ rồi ( Thôi Hiệu đề thi tại thượng lầu).
Từ độ cao 50m, Thôi Hiệu có thể nhìn thấy tất cả: Trên đầu là áng mây trắng bay mãi, trôi
lang thang trong vũ trụ, xuyên qua cả không gian và thời gian (Bạch vân thiên tải không du
du), dưới đất là bãi cỏ Anh Vũ xanh mơn mởn, xa xa là cây cối ở Hán Dương ( Tình xuyên
lịch lịch Hán Dương thụ, phương thảo thê thê Anh Vũ châu). Giữa cảnh và không gian bao
la đó, nơi này ( Thử địa không dư Hoàng Hạc lâu) chỉ còn trơ lại ngôi lầu Hoàng Hạc, cho
dù quá khứ nơi này vàng son đến đâu nhưng “ tích nhân dĩ thừa Hoàng hạc khư”ù mang
theo những câu chuyện huyền bí, và dấu tích còn lại chỉ là lầu Hoàng Hạc và áng mây vẫn
lững lờ trôi như ngàn năm trước. Càng lên cao, con người càng cảm thấy mình cô đơn, lẻ
loi khi nhìn thấy những cảnh vật đang bị tách ra khỏi tầm nhìn bên dưới. So với cái bao la
vô cùng ở phía dưới thì con người quả là nhỏ bé và cô độc. Thôi Hiệu không đứng từ xa để
nhìn và làm thơ về lầu Hoàng Hạc, không miêu tảû để làm nổi bật nó vớinhững gì xung
quanh mà ông làm ngược lại, đứng ngay trên lầu Hoàng Hạc để miêu tả mọi thứ xung
quang lầu, qua đó lầu Hoàng Hạc hiện lên một cách gián tiếp. Giữa hai phương thức miêu
tả, một nhìn lên để trông thấy, một nhìn xuống để tầm nhìn mở rộng hơn. Thôi Hiệu đã
chọn cách thứ hai để miêu tả lầu Hoàng Hạc. Điều đó chứng tỏ thói quen chiếm lĩnh không
gian theo chiều cao trong thơ Đường.
Phương thức chiếm lĩnh ấy phổ biến trong phong cách chung của thơ Đường, bất kể tác giả
là người ít tên tuổi như Thôi Hiệu, hay lừng lẫy trên thi đàn đương đại như Lý Bạch hay
Đỗ Phủ. Trong “Đăng cao”, Đỗ Phủ cũng đã từng viết theo phương thức ấy. Tại sao lại là
“lên cao”? “ Lên cao” để làm gì giữa lúc tuổi già ốm đau bệnh tật? Vì khi lên cao, con
người mới mới có thể thấy sự tồn tại của mình nhỏ bé đến đâu so với không gian rộng lớn
bên ngoài. Càng cảm thấy nhỏ bé, con người càng cô độc với xung quanh, với đất trời, một
cảm giác bơ vơ lạc long. “ Độc đăng đài” – một mình lên đài cao, để ngẫm nghĩ về cuộc
đời, về số phận của bản thân mình. Miêu tả thiên nhiên nhưng đồng thời cũng lấy thiên
nhiên mà so sánh với cuộc đời mình. Cảnh vật là trường tồn nhưng con người lại luôn thay
đổi. Một Thôi Hiệu ở lầu Hoàng Hạc buồn nhớ đến người xưa mà cảm thấy thong cho số
phận mong manh của mình, một Đỗ Phủ với tấm thân gầy trăm bệnh mà vẫn một mình lên

đài cao ngẫm nghĩ về số kiếp con người để cùng nhận ra rằng giữa cái bao la vô hạn của vũ
trụ, con người that nhỏ bé, cô độc, số kiếp mong manh. Con người dù vĩ đại đến đâu rồi
cũng mất hút vào không gian vô tận. Như Phí Văn Vân ngày xưa thực hiện ước mơ của
bao người là tu hành thành tiên trường sinh bất lão. Song cuối cùng, dấu tích còn lại chỉ là
lầu Hoàng Hạc, bóng dáng mất hút, không hề trở lại một lần ( nhất khứ bất phục phản).
Điều này không dành ngoại lệ cho bất kì ai, kể cả thiên tài, kể cả đó là vị tiên bị đày đọa
xuống trần như Lý Bạch, hạ bút xuống là kinh mưa bạt gió, hay kể cả thánh thơ Đỗ Phủ
với ngòi bút “ ngữ bất kinh nhân tử bất hưu”. Tài năng là thế, nhưng số phận của họ thật
hẳm hiu. Một Lý Bạch ai cũng tri âm nhưng không dứt khỏi sự cô đơn, không thoát ra
những ngược đãi của cuộc đời. Một Đỗ Phủ cả đời không tìm được tri âm, cuộc sống
nghèo đói, tài thơ không nuôi sống được gia đình để rồi phải chết trong sự nghèo đói, cô
độc. Chính vì xuất phát từ tư tưởng được rút ra qua bao lần bể dâu, sóng gió cuộc đời của
chính mình, các tác phẩm của họ đều chứa đựng những nét độc đáo, những gì họ để lại cho
đời là trường tồn mãi mãi. Đó chính là một “Hoàng Hạc lâu” của Thôi Hiệu tuy không
được xếp vào một trong những nhà thơ lớn nhưng bài thơ lại đứng đầu trong số những bài
thơ hay nhất. Đó là những áng thơ lãng mạn, phóng khoáng của Lý Bạch, là những bài thơ
hiện thực có giá trị tố cáo kinh người của Đỗ Phủ.
3.Thơ Đường có sức khái quát cao, hàm ý súc tích:
Người ta thường nói thơ Đường mang “ý tại ngôn ngoại”. Ngoài “ Tì bà hành” của Bạch
Cư Dị được viết dài hơn so với các bài còn lại đều là thất ngôn tứ tuyệt hay thất ngôn bát
cú. Một bài thơ vỏn vẹn chỉ có 28 chữ hoặc 56 chữ nhưng đã nói được rất nhiều điều: vừa
có tình cảm nhà thơ, vừa là sự suy ngẫm về cuộc đời, là tiếng nói tố cáo xã hội, cũng có thể
là bức tranh tuyệt vời theo bút pháp “ thi trung hữu họa”.
Ta hãy nghe tâm sự của Lý Bạch:
“ Cố nhân tây từ Hoàng Hạc lâu
Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu
Cô phàm viễn cảnh bích không tận
Duy kiến Trường giang thiên tế lưu”
( Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng)
Đây là cuộc chia ly giữa Lý Bạch và bạn thơ Mạnh Hạo Nhiên. Trong bối cảnh xã hội lúc

bay giờ, phương tiện đi lại khó khăn, nên sự ra đi này của Mạnh Hạo Nhiên là không hẹn
ngày gặp lại nên càng thêm vương vấn âu sầu. Hình ảnh cánh buồm chỉ là cái bóng xa xôi
lẩn vào xa xăm vời vợi của trời nước mênh mông thể hiện sự lưu luyến, buồn đau khi chia
tay bạn mà không thể quay gót bước đi. Ông còn đứng đó trông theo con thuyền cho tới
khi nó chỉ còn là một chấm nhỏ nơi cuối trời.Nhìn cánh buồm cô độc, chia tay bạn rồi, nhà
thơ cũng cô đơn như cánh buồm ấy. Bài thơ là bức tranh thiên nhiên thật phóng khoáng,
cao và rộng, hơn thế là bức tranh sơn thủy thật tuyệt vời. Lý Bạch tả cảnh nơi đưa tiễn bạn
nhưng cảnh ấy lại thấm đẫm nỗi buồn đau khi xa bạn của nhà thơ. Cái tài của Lý Bạch
không chỉ dừng lại ở việc tả cảnh ngụ tình. Cảnh trong thơ Lý Bạch vẫn đẹp, tươi vui
nhưng vẫn nói lên được cái buồn, thêm nữa lại được phát huy trong bút pháp thi trung hữu
họa, chỉ vài nét đơn sơ mà vẽ được tình cảnh thần diệu vừa điều hòa, vừa sinh động. Bài “
Tảo phát Bạch Đế thành” của Lý Bạch lại là một bức tranh phong cảnh mang ý nghĩa khác:
“ Triêu từ Bạch Đế thái vân gian
Thiên lý Giang Lăng nhất nhật hoàn
Lưỡng ngạn viên thanh đề bất tận
Khinh chu dĩ quá vạn trùng san”
Nhà thơ kể về cuộc hành trình của mình từ thành Bạch Đế xuống Giang Lăng dài 1100 km
của mình chỉ trong vòng một ngày. Dòng Trường giang chảy từ Bạch Đế thành xuống
Giang Lăng nằm giữa hai dãy núi non muôn trùng. Một chiếc thuyền con nhẹ tênh lướt trên
muôn ngàn con sóng giữa tiếng vượn kêu đôi bờ nghe không dứt. Bài thơ không có một từ
nào để chỉ dốc cao và nước chảy xiết nhưng người đọc vẫn có thể thấy được điều đó qua
nét bút của Lý Bạch. Trên thực tế, từ thành Bạch Đế đến Giang Lăng dài là vậy, và Lý
Bạch không thể đi trong một ngày bằng thuyền, điều đó là vô lí. Nhưng rất có lí khi ông
viết:
“ Lưỡng ngạn viên thanh đề bất tận
Khinh chu dĩ quá vạn trùng sơn”
Con sông từ trên cao đổ xuống, sức nước mạnh, chảy xiết mới có thể đẩy con thuyền lướt
đi với tốc độ cao, vượt ngàn dặm như thế trong một ngày. Và do thuyền đi nhanh như vậy
nên tiếng vượn kêu hai bên bờ sông nghe như một tiếng kéo dài ( đề bất tận). Miêu tả tiếng
vượn kêu kéo dài không dứt ấy là để nói lên cái tốc độ cực nhanh của chiếc thuyền. Nhờ

vậy, con thuyền của Lý Bạch trở nên nhẹ tênh, vượt qua muôn trùng núi non. Ýù ở ngoài
lời là ở chỗ thông qua đó, người ta có thể tưởng tượng ra con sông Trường Giang chảy xiết
như thế nào. Nếu cảnh trong thơ Lý Bạch thật phóng khoáng và bao la, chứng tỏ phong
cách của một thi tiên lãng mạn thì cảnh trong thơ Đỗ Phủ lại u buồn, mang bóng dáng hiện
thực đau buồn:
“ Phong cấp thiên cao viên khiếu ai
Chữ thanh sa bạch điểu phi hồi
Vô biên lạc mộc tiêu tiêu hạ
Bất tận trường giang cổ cổn lai?”
Có thể nói ở một cảnh gần giống nhau nhưng hai tác giả lại có hai cách nhìn rất khác. Cảnh
trong thơ Đỗ Phủ miêu tả cũng khoáng đạt không kém Lý Bạch nhưng lại trầm buồn.
Tiêáng vượn kêu ai oán chẳng dứt, lá lại rụng xao xác. Cảnh như buồn cùng lòng người.
Toàn là những hiện tượng sắp đi dần đến sự hủy diệt, báo trước tâm trạng tác giả. Bốn câu
tiếp như là sự tổng kết một đời gian truân của nhà thơ, là tiếng kêu ai oán về cuộc đời:

×