Tải bản đầy đủ (.docx) (8 trang)

TÍNH HIỆN đại về NGÔN từ TRONG THƠ mới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (101.88 KB, 8 trang )

» Chuyên mục »Tạp chí NCVH »Nghiên cứu, Lý luận, Phê bình >

Tính hiện đại của Thơ mới Việt Nam xét trên
phương diện ngôn từ
13/01/2011 01:54




Vượt ra ngoài không gian văn học vùng để tham gia vào một không gian văn học rộng lớn hơn là
chiều hướng vận động có tính tất yếu đối với văn học Việt Nam đầu thế kỉ XX, trong đó có thơ.
Đó cũng chính là quá trình hiện đại hóa. Đối với văn học Việt Nam, do trực tiếp tiếp xúc và chịu
ảnh hưởng của văn học Pháp, nên quá trình đó cũng chính là thế giới hóa và phương Tây hóa.
Quá trình ấy diễn ra trên nhiều bình diện, từ sự cảm nhận thế giới, sự đồng hóa thế giới thành nội
dung nghệ thuật đến sự sáng tạo và vận dụng các phương tiện diễn đạt… theo tinh thần hiện đại.
Bài viết này chỉ nhấn mạnh một số biểu hiện tính hiện đại trên phương diện ngôn từ, một trong
những vấn đề quan trọng đối với các nhà thơ trong phong trào thơ mới 1932-1945.
Vượt ra ngoài không gian văn học vùng để tham gia vào một không gian văn học rộng lớn
hơn là chiều hướng vận động có tính tất yếu đối với văn học Việt Nam đầu thế kỉ XX, trong đó
có thơ. Đó cũng chính là quá trình hiện đại hóa. Đối với văn học Việt Nam, do trực tiếp tiếp xúc
và chịu ảnh hưởng của văn học Pháp, nên quá trình đó cũng chính là thế giới hóa và phương Tây
hóa. Quá trình ấy diễn ra trên nhiều bình diện, từ sự cảm nhận thế giới, sự đồng hóa thế giới
thành nội dung nghệ thuật đến sự sáng tạo và vận dụng các phương tiện diễn đạt… theo tinh thần
hiện đại. Bài viết này chỉ nhấn mạnh một số biểu hiện tính hiện đại trên phương diện ngôn từ,
một trong những vấn đề quan trọng đối với các nhà thơ trong phong trào thơ mới 1932-1945.
1. Trong văn học phương Tây, văn học tiền hiện đại chủ yếu chú trọng phương diện nội dung, xem
vấn đề đề tài, chủ đề, nội dung các hình tượng quyết định giá trị của một tác phẩm. Văn học lãng mạn
ra đời được xem như một “hủy thể” của chủ nghĩa cổ điển, tuy nhiên, do hầu hết các nhà văn lãng mạn


gắn hoạt động văn học với những hoạt động xã hội và do sáng tạo trong thời đại người phương Tây


đang còn lạc quan về quyền năng của tư duy duy lí nên sự đối lập với văn học cổ điển chủ yếu biểu
hiện ở khuynh hướng tự do hóa, đề cao cảm xúc và tưởng tượng cá nhân, phản ứng tính công thức, qui
phạm... Và vì vậy, dù đó là “một sự bùng nổ kinh động”, là “chân trời không giới hạn”…, nhưng nhìn
chung, sự quan tâm của các nghệ sĩ lãng mạn chủ yếu vẫn thiên về cái được biểu đạt chứ không phải
cái biểu đạt. Sau sự thoái trào của trào lưu này, tương quan giữa cái biểu đạt và cái được biểu đạt
dường như có sự sắp xếp lại, đặc biệt trong lĩnh vực ngôn từ, gắn liền với tinh thần “vị nghệ thuật”, bắt
đầu từ phái Parnasse, và sau đó là sự ra đời của trào lưu hiện đại chủ nghĩa. Về sự hoán vị tương quan
giữa cái biểu đạt và cái được biểu đạt, Roland Barthes đã nêu nhận xét thú vị, có tính tổng kết: “Ý nhị
cổ điển là ý nhị về các mối quan hệ, chứ không phải về từ: đó là nghệ thuật biểu đạt chứ không phải
nghệ thuật phát minh…, người ta thích thú vì cách trình bày chúng chứ không phải vì sức mạnh và vẻ
đẹp riêng của nó”(1).
Trên thực tế, vai trò của ngôn từ được đề cao một cách đặc biệt từ thế hệ các nhà thơ tượng trưng
cuối thế kỉ XIX. Stéphane Mallarmé từng cho rằng thơ trước tiên là “ma thuật ngôn từ” và kêu gọi
“hãy nhường sáng kiến cho những từ”. Cùng thời với Mallarmé, Arthur Rimbaud – một thiên tài vụt
sáng - say mê phát minh “những loài hoa mới”, “những tinh cầu mới”, những ngôn ngữ mới chưa từng
bị “ô uế”. Ông quan niệm chữ viết là một kinh nghiệm tự thân, nó “không tìm cách khoanh vòng thực
tại mà (phải) là một phát kiến mới mẻ”(2). Đứa con nghịch đạo của thế kỉ cực trị của tinh thần duy lí đã
dứt khoát với ý nghĩ “lĩnh vực của khoa học là lĩnh vực mà sự vật hiện diện ấy thôi, chứ chưa phải
lĩnh vực mà sự vật thể hiện ý nghĩa”(3), ý nghĩa hay linh hồn sự vật mới là điều đáng nói, chính nó mới
làm nên giá trị cho nhà thơ. Nỗi bận tâm của Mallarmé hay Rimbaud đã trở thành nỗi bận tâm có tính
đại điện cho nhiều thế hệ nhà thơ hiện đại. Và không phải ngẫu nhiên, không ít nhà thơ đã nhìn thấy ở
Rimbaud hình ảnh một nhà thơ “tiên tri”, một người “ăn trộm lửa thiêng” trong công cuộc tìm kiếm
ngôn từ mới, giải thoát nó khỏi vai trò vật lệ thuộc hay phương tiện thông tin về phong tục hoặc mô tả
đời sống thường nhật. Muộn hơn, và cũng với tinh thần ấy, các học giả phái hình thức Nga đầu thế kỉ
XX đã nêu yêu cầu sáng tạo ngôn từ thành vấn đề có tính lí luận, xem đó như là “yếu tố đặc biệt tạo
điều kiện cho sự tồn tại của một tác phẩm văn học”(4), thậm chí coi “lịch sử của thơ ca là lịch sử của
ngôn từ”.
Nhìn chung, sự thay đổi từ quan niệm đến sự sáng tạo và sử dụng ngôn từ là một trong những thay
đổi quan trọng của văn học hiện đại thế giới, và xu hướng của văn học hiện đại là ngôn ngữ phải trở
thành công cụ khám phá thế giới của những điều chưa biết và bản thân nó cũng phải trở thành một

khám phá. Tính hiện đại của thơ trên phương diện ngôn từ về cơ bản gắn liền với cốt lõi quan niệm ấy.
2. Tính hiện đại của thơ mới như thế nào? Trong Đổi mới phê bình văn học, Đỗ Đức Hiểu nhìn
nhận: “Thơ mới là một sáng tạo ngôn từ thơ về nhiều mặt; nó mở rộng câu thơ, bài thơ; nó đi vào chiều
sâu của thơ bằng cấu trúc mới, cú pháp mới, từ ngữ mới, nhịp điệu mới”. Đó là một sự thay đổi toàn
diện về mặt ngôn ngữ thơ, gắn liền với một thời đại thơ đang chuyển mình theo hướng hiện đại hóa.
Tuy nhiên, những đổi mới ngôn từ của thơ mới không chỉ dừng ở những thay đổi về hình thức, mà còn
có những thay đổi trên những bình diện khác có chiều sâu hơn, có tính “nổi loạn” hơn, gắn với cách
nhìn và cách diễn đạt mới về thế giới và đời sống, và tuy mới dừng lại ở một bộ phận các nhà thơ
nhưng nói được rất nhiều về triển vọng của thơ và văn học hiện đại nói chung.


2.1. Ngôn từ gợi kinh nghiệm giác quan.
Không thể nói khác trước một thực tế là: thơ lãng mạn phương Tây, trước hết là thơ lãng mạn
Pháp, đã tác động một cách sớm nhất, mạnh mẽ và rộng rãi nhất đến các nhà thơ mới Việt Nam. Điều
đó cũng dễ hiểu. Với một thời gian dài sáng tạo trên một tư duy thơ khuôn mẫu, chặt chẽ, khi tiếp xúc
với thơ lãng mạn các nhà thơ mới đã thấy ở đó một cơ hội rõ ràng nhất cho sự giải phóng. Và như thế,
từ cái tôi cô đơn, cái tôi kiêu kì, những sự ám ảnh về thời gian qua mau đến hình thức thơ đầy tự do của
Lamartine, Musset, Vigny,… nhanh chóng được các nhà thơ nhận ra như những sáng tạo mới mẻ và
hấp dẫn, để rồi từ đó, cái Tôi trong thơ mới cũng nổi lên như một giá trị. Tuy nhiên, thơ mới không chỉ
có thế. Sau một thời gian củng cố thế bàn thạch của mình, một bộ phận các nhà thơ mới làm một sự
chuyển dịch, từ chỗ thiên về thơ mô tả khách thể hay trình bày cảm xúc một cách trực tiếp đến chỗ họ
thích thú một lối thơ kín đáo, giàu ẩn ý, gợi ra những cảm giác, thông qua đó người đọc có thể liên
tưởng đến một thế giới sâu xa hơn hoặc những rung động tinh vi của đời sống tâm linh. Tạo ra hình
thức ngôn ngữ mới có khả năng tác động trực tiếp vào giác quan và gợi cảm giác là một sáng tạo khá
phổ biến ở nhiều nhà thơ mới, trong đó trước hết phải kể đến Bích Khê như một trường hợp tiêu biểu.
Hình thức ngôn ngữ trong thơ Bích Khê hết sức linh hoạt. Khi diễn đạt cái bí ẩn, vô hình, ông
thường chú trọng sử dụng những từ chỉ màu sắc, gợi hình ảnh thị giác như hồn ngọc thạch (Đây hồn
ngọc thạch xanh xao như tờ), mộng trắng phau (Mộng trắng phau phau, vót cung nga), mộng xanh
(Mộng rất xanh, rất xanh, rất xanh), mộng trắng như ngà (Mộng sao mộng lạ - trắng như ngà /
Chúng tôi lạc giữa mộng như ngà)… hoặc tạo ra sự kết hợp lạ giữa một từ chỉ cái trừu tượng và một

từ chỉ vật thể để cụ thể hóa, tạo cho cái trừu tượng một hình hài, như mùi hương vỡ (Phăng mạch
đêm - hương vỡ ứa ngầm tinh), hồn vỡ (Hồn ơi! Cặp mắt vỡ men hoa), miếng nhạc (Tôi để vạn
miếng Nghê thường, a dội vào đôi con mắt ngọc)…
Về phương diện ngôn từ, có thể nói Bích Khê thể hiện khả năng sáng tạo ở độ linh hoạt và sung
mãn nhất. Ngôn từ thơ ông đúng nghĩa là một thứ ngôn từ nhào nặn và chinh phục chất liệu. Ông hoàn
toàn giống như một vị tướng điều khiển đạo quân chữ nghĩa theo mục đích của mình, biến cái không
thành có, biến cái vô hình thành cái hữu hình, dường như chưa có trong tiền lệ. Thơ Bích Khê bởi vậy
luôn có được cái ma lực cuốn hút người đọc do những ý nghĩa, những cảm giác bất ngờ được tạo nên
từ từ ngữ. Trong thơ mới có lẽ ông cũng là người gia công nhiều trong kĩ thuật biểu đạt, thậm chí một
số bài thơ khá cầu kì, nhưng đó không phải sự “luyện kim ngôn từ” một cách thuần túy mà điều quan
trọng ở chỗ đằng sau những sáng tạo đó là quan niệm mới về vẻ đẹp của từ ngữ và khả năng lớn lao
của thơ: thơ phải đạt đến sức mạnh đánh thức một thế giới chưa biết, một thế giới ngầm không phải
tĩnh tại mà vô cùng linh động, huyền diệu, không giới hạn. Bích Khê đã sáng tạo nên một thứ thơ làm
rung động tất cả các giác quan, cả tinh thần và thể chất với tất cả khả năng thẩm mĩ của nó. Đó là quan
niệm thơ nhưng cũng là một cách nhìn thế giới trong chiều sâu và sự vô tận. Tất nhiên, sự gia công quá
rõ rệt về từ ngữ cũng như những phương tiện biểu đạt khác khiến cho thơ Bích Khê có lúc cũng đưa lại
cho người đọc cảm giác tác giả của nó đã quá thiên về kĩ xảo ngôn từ, ít chăm chút hơn phương diện
cảm xúc.
Hàn Mặc Tử cũng chú trọng khả năng gợi của ngôn ngữ. Ông cũng có cách vật thể hóa cái trừu
tượng gần giống với Bích Khê, như:


Dịp cười như tiếng vỡ pha lê
(Một miệng trăng)
hay:
Tôi riết thời gian trong nắm tay,
Tôi vo tiếc mến như vo lụa.
(Chơi trên trăng)
Nhưng nhìn chung cách làm gần với Bích Khê trong thơ Hàn Mặc Tử không nhiều. Sự khác biệt
quan trọng giữa hai nhà thơ này còn ở chỗ, nếu Hàn Mặc Tử sử dụng ngôn từ mang tính chất ảo giác

gắn liền với cái nhìn vật thể trong trạng thái biến thiên, thì Bích Khê lại chú trọng nhiều hơn tới sự mê
hoặc của thơ qua sự chuyển dịch liên tục giữa các trạng thái cảm giác khác nhau dựa trên nguyên tắc sự
liên tưởng có tính chất “bùng nổ” và "tràn sóng”.
Bích Khê thể hiện sự khai thác một cách khá triệt để cảm quan tương hợp trong thơ Baudelaire.
Sự sáng tạo ngôn từ mới đi liền với cảm quan tương hợp ấy đưa lại cho ngôn từ của thơ ông khả năng
gợi cảm đặc biệt hơn so với nhiều nhà thơ mới khác.
2.2. Sự liên tưởng tự do, bất định.
Nghệ thuật hiện đại, trong đó có thơ, là nghệ thuật mang tính “phát minh”. Thực tế văn học thế kỉ
XX cũng chứng minh một điều rằng: thẩm mĩ dựa trên nguyên tắc mô phỏng được xác lập từ cổ đại
với Aristote, để từ đó đưa lại một ảo giác về tính có thật của cái được miêu tả đã trở nên không đủ sức
khái quát thực tế vô cùng phong phú và sinh động của văn học trong thời đại chủ nghĩa duy lí và tư duy
phân tích đầy tính thực chứng đã trở nên bất tín nhiệm. Thế giới trong cách cảm nhận của người hiện
đại không chỉ là thế giới được nhìn thấy mà còn là thế giới được nhận ra, một thế giới của những chiều
sâu thẳm, đầy bí ẩn. Quyền năng của thơ, vì vậy, không thể chỉ là sự miêu tả, kể lể hời hợt, mà quan
trọng hơn là sự khải thị về một thế giới chưa từng biết, thế giới của tinh thần, huyền diệu và linh động.
Diễn đạt thế giới ấy là bất khả đối với thứ ngôn từ của trí năng và là cơ hội cho ngôn từ của sự liên
tưởng đầy tính trực giác, thần cảm của nhà thơ.
Nhìn lại con đường tiến hóa của thơ mới, một thực tế rõ ràng rằng thơ càng ngày càng có xu
hướng xa rời dần lối thơ thiên về kể tả sự vật khách quan theo nguyên tắc “đối cảnh sinh tình” phổ biến
của thơ ca truyền thống, mà thiên về lối thơ diễn đạt những tương quan vô hình, bên trong, mang tính
tinh thần của bản thân sự vật, gắn với cảm quan về một thế giới thống nhất (cụ thể và trừu tượng, hữu
hình và vô hình, thể chất và tâm linh…)…. Và cũng vì vậy, không phải ngẫu nhiên mà nhiều nhà thơ
mới như Xuân Diệu, Huy Cận, Hàn Mặc Tử, Bích Khê, Chế Lan Viên, Vũ Hoàng Chương, Đinh
Hùng, Nguyễn Xuân Sanh, Đoàn Phú Tứ, Phạm Văn Hạnh lại say mê tư duy tương hợp và tinh thần
nhất thể giác quan (unité de sens), những giá trị thơ mới lạ và độc đáo mà những nhà thơ tiền bối của
chủ nghĩa hiện đại như Baudelaire, Mallarmé, Rimbaud, Verlaine… đã tạo ra. Về thực tế này, ta có thể
dẫn ra vô số ví dụ, như:
-

Hãy lắng nghe nhạc tơ mềm dãy dụa


Trong nhạc trăng vang nổi khắp cung mây (Chế Lan Viên - Vo lụa)
-

Nàng bước tới như sông trăng chảy ngọc


Như nắng thơm hớp đặc cả nguồn hương (Bích Khê - Nàng bước tới)
-

Một đêm vàng – một đêm vàng âm điệu

Đầy nhựa thơm xanh mịt ngàn phi lau (Bích Khê - Sọ người)
-

Đêm đêm ảo ảnh thơm chăn gối

Tình hướng về đông, dạ lắng chờ (Vũ Hoàng Chương - Tình liêu trai)
-

Cốc rượu hồng, hy vọng sáng rung rinh

Mùi son phấn khác gì hương trinh bạch? (Đinh Hùng - Hương trinh bạch)
-

Hồn nào lang thang bên đêm êm

Hồn hoa chơi vơi - bình trăng mềm (Nguyễn Xuân Sanh - Xây mơ)
-


Hương thời gian thanh thanh

Màu thời gian tím ngát (Đoàn Phú Tứ - Màu thời gian)
-

Này lắng nghe em khúc nhạc thơm

Hãy tự buông cho khúc nhạc hường (Xuân Diệu - Huyền diệu)
-

Anh đã đón tình em bay phất phới

Như hương trăng đằm thắm cõi không gian (Hàn Mặc Tử - Sáng láng)
Đó là những cách diễn đạt vô cùng độc đáo, lạ lẫm, mà có lẽ trước thời đại thơ mới khó ai có thể
hình dung ra. Tuy nhiên, cũng cần dứt khoát một điều rằng: sáng tạo ngôn từ (ở đây) không phải là tạo
ra những từ mới, mà cơ bản là làm mới ngôn từ, nhằm đưa lại cho từ một khả năng đặc biệt trong việc
làm hé lộ thế giới tinh thần bên trong của bản thân sự vật. Trong những ví dụ trên, rõ ràng năng lực liên
tưởng đầy tính trực giác và thần cảm trở thành nguồn năng lượng vô tận cho sáng tạo, ở đó sự vận dụng
ngôn từ không còn theo qui luật miêu tả mà theo qui luật của sự liên tưởng. Và như thế, chỉ xét riêng
bình diện ngôn từ, thơ mới đã đặt ra một vấn đề mới về vai trò của cái biểu đạt: sáng tạo không phải
chỉ là một sự lựa chọn, sắp xếp, mà bản thân ngôn từ đã là một sáng tạo, nó không chỉ đóng vai trò thừa
hành sự sai bảo của lí trí, mà chính nó đã là một thế giới có giá trị tự thân, nó không chỉ là phương tiện
của thơ mà còn là chính bản thân thơ.
Liên tưởng là đặc trưng của thơ nói riêng và nghệ thuật nói chung, nhưng ở đây có nét mới cần
lưu ý. Thông thường ta hay nói về hai dạng liên tưởng phổ biến: liên tưởng tương đồng (hai vật thể có
cùng hoặc gần về bản chất) và liên tưởng tiếp cận (từ vật thể này di chuyển sự chú ý đến một hoặc
nhiều vật thể khác trong một văn cảnh rộng lớn hơn). Đó là những dạng liên tưởng thuộc phạm vi lí trí
và tri thức thường nghiệm. Với thơ mới, trong nhiều trường hợp (như những ví dụ thơ đã nêu), những
dạng liên tưởng ấy có lẽ chưa đủ, vì thơ càng ngày càng có xu hướng vươn đến diễn đạt tinh thần bên
trong, cái bí ẩn, chưa biết, nó cần những dạng liên tưởng khác tự do, linh động và bất định hơn. Theo

đó, cũng bắt đầu từ một vật thể xuất phát, nhưng mạch liên tưởng không chỉ bó hẹp trong phạm vi cái
tương đồng hay tiếp cận, mà thường dẫn dắt trí tưởng tượng của nhà thơ đi đến những hình ảnh hoặc ý
tưởng hết sức xa lạ với ý nghĩa ban đầu, vượt ra khỏi thói quen kinh nghiệm và nhận thức thông
thường. Những liên tưởng ấy phụ thuộc vào ý thức tìm kiếm giá trị tinh thần bên trong và cũng phụ


thuộc vào năng lực trực giác của nhà thơ. Nhờ liên tưởng tự do và có tính bất định ấy, người đọc được
dẫn dắt trải nghiệm những trạng thái cảm giác khác nhau đầy ngạc nhiên với những cảm nhận mới mẻ,
thú vị, những điều mà thơ nghiêng về tư duy luận lí không thể có được. Những liên tưởng bất định
trong sáng tạo ngôn từ của các nhà thơ mới thực sự đã góp phần nới rộng tầm nhìn và nêu lên cách
nhìn mới về thế giới với tất cả sự uyển chuyển, linh động cùng chiều sâu thăm thẳm của nó.
2.3. Hiện tượng phi trật tự tuyến tính.
Đặc điểm ngôn từ của thơ mới còn thể hiện ở tính lỏng lẻo và xu hướng phá vỡ cấu trúc ngữ
pháp thông thường. Đặc điểm này thực ra không phải là phổ biến trong thơ mới nhưng đó là hiện
tượng hoàn toàn mới. Nó khác với hình thức đảo từ (hoặc đảo ngữ) ta thường gặp trong sáng tác của
một số nhà thơ như Xuân Diệu hoặc Vũ Hoàng Chương… Bài thơ Hết ngày hết tháng của Xuân Diệu
có những câu:
Đêm qua mưa gió lạnh lùng trời
Anh ở, em đi, lạnh lẽo người…
Hoặc trong bài thơ Thu:
Nõn nà sương ngọc quanh thềm đậu;
Nắng nhỏ bâng khuâng chiều lỡ thì…
“Lạnh lùng trời”, “lạnh lẽo người”, “nõn nà sương ngọc” là những sự đảo từ cục bộ. Nó tạo ra cách
diễn đạt mới để nhấn mạnh đặc tính sự vật mà tác giả muốn miêu tả. Xét tổng thể bài thơ thì trật tự tuyến
tính cơ bản vẫn được tôn trọng, chức năng mô tả của từ không thay đổi, giá trị biểu cảm của câu thơ được
gia tăng nhưng không tạo ra giá trị ngữ nghĩa mới. Đó là những sáng tạo có ý nghĩa của thơ mới nhưng
nghĩa của các câu thơ vẫn nằm trong vòng kiểm soát của nhận thức lí tính, người đọc không khó khăn
nếu ngầm lập lại cho câu thơ trật tự thông thường khi cảm thụ. Hình thức đảo từ (hoặc đảo ngữ) ấy có thể
bắt gặp ở nhiều nhà thơ khác, kể cả các nhà thơ sau thời kì thơ mới (Nguyễn Đình Thi cũng xáo trộn trật
tự từ trong câu thơ “những phố dài xao xác hơi may” của bài thơ Đất nước để nhấn mạnh cảm nhận của

mình về mùa thu Hà Nội buồn và đẹp). Trong sáng tác của một số nhà thơ như Bích Khê (bài thơ Duy
tân), Phạm Văn Hạnh (bài thơ Thư, thơ), Nguyễn Xuân Sanh, Đoàn Phú Tứ, những thay đổi về cấu trúc
ngữ pháp có sự khác biệt về bản chất, trong đó đặc biệt phải kể đến Nguyễn Xuân Sanh, nhà thơ trẻ nhất
nhóm Xuân Thu nhã tập và cũng là người đưa lại cho ngôn từ thơ những thể nghiệm táo bạo. Trong số
các sáng tác của ông, trật tự cú pháp của nhiều bài thơ dường như bị phá vỡ hoàn toàn. Bài Bình tàn thu
là một ví dụ tiêu biểu:
Bình tàn thu vai phấn nghiêng nghiêng
Chén vàng dâng ướp nhạc lòng đời
Sương mù lệ héo dặm đường hương
Cung phi dăng bướm buồn nghê thường
Sách đâu tay xoã ái - tình - chương…
Không có sự liên hệ ngữ nghĩa rành mạch giữa các con chữ, liên hệ tuyến tính cũng bị xóa. Không


thể dựa vào logic câu chữ để hiểu bài thơ. Nguyễn Xuân Sanh cũng đã từng khuyên đọc thơ ông không
nên dùng sự phân tích rạch ròi của lí trí tỉnh táo mà chỉ cảm, bắt đầu từ sự gợi cảm của từ, không được
sắp xếp theo một trật tự nào cả. Phấn, hương, sương mù, bướm gợi hình ảnh thiên nhiên - mùa thu; các
từ vai, lệ, héo, cung phi, tay xõa lại nói về con người, gợi hình ảnh những mĩ nữ thời xưa đẹp nhưng
héo hắt buồn chán trong cung cấm với rượu ngon, chén vàng, hương hoa và giai điệu du dương của
khúc nghê thường? Đằng sau sắc, nhạc, hương, toàn bài thơ gợi một cảm giác mơ hồ, mong manh về
một mùa thu xa xăm, buồn và đẹp não nùng. Các bài thơ như Buồn xưa, Hồn ngàn mùa, Người xuân
cũng có chung một phong cách ngôn ngữ như vậy.
Cũng đã từng có ý kiến cho thơ Nguyễn Xuân Sanh theo xu hướng bí hiểm, kín mít. Tuy nhiên có
lẽ không hoàn toàn như vậy. Thơ của ông, mở rộng ra là của Xuân Thu nhã tập có khó hiểu hơn so với
các nhà thơ lãng mạn, nhưng gắn liền với quan niệm về thơ của các tác giả. Sự phá vỡ trật tự cú pháp
hay các liên hệ ngữ nghĩa trong thơ của họ không phải chỉ để tạo ra một cách diễn đạt khác với thông lệ
mà theo một triết lí riêng, nói như Phạm Văn Hạnh trong bài thơ văn xuôi Tự sự, bằng “vô số ngẫu hợp
chắt ra giọt sương Lí Tưởng cho ta ngưỡng vọng ngàn đời”. Rimbaud cũng đã từng nói: nhà thơ thấu
thị “qua sự phá vỡ, lâu dài và có lí luận, tất cả các giác quan”. Phải chăng cách làm của Nguyễn Xuân
Sanh và Xuân Thu nhã tập có liên hệ với cách làm của thiên tài vụt sáng trong thơ Pháp ấy? Vẻ đẹp mơ

hồ khó nắm bắt trong các bài thơ của Xuân Thu nhã tập không phải tạo ra từ trình tự có tính chất miêu
tả mà từ sự liên kết các hình ảnh, các từ gợi cảm có ý nghĩa biểu tượng gợi lên ý nghĩa mới. Thơ của
Nguyễn Xuân Sanh và một phần của Phạm Văn Hạnh, Đoàn Phú Tứ, Bích Khê đã có dấu hiệu của
hình thức nghệ thuật đặt người đọc trước những thách thức mới, không phải đọc những dòng đen mà từ
những ẩn ý trong khoảng trống không nói đến, để tìm ra những niềm im lặng hay “vẻ đẹp câm” (theo
cách nói của Bích Khê).
Cũng không phải ngẫu nhiên các nhà thơ Xuân Thu nhã tập có điểm rất gần gũi, họ đều có thiên
hướng tìm về những vẻ đẹp đã mất. Đoàn Phú Tứ nhắc đến vẻ đẹp của các Tần phi (Màu thời gian),
Nguyễn Xuân Sanh với “hồn Tương giang” (hồn Tương giang đàn dựa buồn hường), nỗi buồn, vẻ đẹp
của cung phi xưa (cung phi dăng bướm buồn nghê thường), Phạm Văn Hạnh nhắc đến nhiều hơn với
vẻ đẹp của các tích cổ như thành Hoàng Dương, với những rung động “như mấy nghìn năm trước, nó
đã ướp thơm giấc mơ của Quận chúa nước Tần, trên lầu Thúy Phượng” (Tiếng ngọc tiêu), với Quang
Trung Nguyễn Huệ, với “Vũ vương chín năm đi trị thủy không nghĩ đến về nhà”, và cả với Tần Thủy
Hoàng, “hình ảnh một siêu nhân, nên thơ…và tàn bạo” (Tần Thủy Hoàng). Không phải chỉ ở ý thức
quay về với niềm tự hào phương Đông, các tác giả còn muốn ủy thác cho nghệ thuật sức mạnh chiến
thắng sự va đập, tàn phá của thời gian để tìm từ trong “một cái nháy mắt” “cái - khôn - cùng” (Tự sự)
của vũ trụ mà mỗi cá thể nghệ sĩ là một phần trong đó. Không nói về những điều rõ ràng có không thời gian xác định với một ngôn ngữ tường minh, các nhà thơ Xuân Thu nhã tập muốn nâng thơ ca lên
thành một nghệ thuật của cái vĩnh cửu.
Trên đây là một số biểu hiện thể hiện tính sáng tạo theo tinh thần hiện đại của thơ mới trên
phương diện ngôn từ. Những sáng tạo độc đáo ấy có được từ ý thức làm mới thơ Việt Nam trong bối
cảnh hiện đại hóa nền thơ dân tộc và sự tác động mạnh mẽ của văn học hiện đại phương Tây. Sự tiếp
thu và vận dụng những điểm khả thủ của các trào lưu thơ hiện đại đã giúp cho sáng tạo của các tác giả
thơ mới thêm phong phú, sung mãn và cũng có chiều sâu hơn trong cách diễn đạt1




×