Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (192.08 KB, 3 trang )
Lý thuyết hiện đại về toán học trong tài chính
Trong vòng 20 năm cuối của thế kỷ XX, trong khuôn khổ kinh tế vi mô lý
thuyết về tài chính và lý thuyết toán tương ứng (thực chất là tính lỗ lãi), giải
quyết các vấn đề về quản lý vốn đầu tư và tăng vốn.
Sau đó lý thuyết về toán trong tài chính phát triển theo hai hướng: một
hướng với các giả thiết về các điều kiện hoàn toàn xác định, hướng kia về
các điều kiện bất định.
Hướng thứ nhất với các công trình của I. Fisher (1930), F. Modiliani, M.
Miller 1958, 1961, 1963) xét các quyết sách tối ưu cho cá nhân và hãng kinh
doanh. Về phương diện toán học họ giải quyết các bài toán tối ưu nhiều biến
có ràng buộc.
Theo hướng thứ hai có các công trình cổ điển của H. Markovitz (1952) giành
cho các bài toán về các quyết định đầu tư của các cá nhân trong các điều
kiện bất định với các công cụ xác suất như phân tích trung bình và phương
sai, phân tích tương quan (covariance) trong việc xác định giá của các cổ
phiếu liên quan tới mức độ rủi ro trong phân bổ vốn đầu tư và đã đề ra
nguyên lý nổi tiếng: "Không mạo hiểm thì không có thu hoạch" nhưng
"không nên bỏ tất cả trứng vào một rọ."
Bước quan trọng trong việc phát triển của lý thuyết tài chính ngẫu nhiên
được đánh dấu bởi các công trình của W.Sharpe (1964) "
Mô hình về định
giá
các tài sản vốn" trong đó đã chỉ rõ các nhà đầu tư phải hoạt động như thế
nào trong thị trường ở trạng thái cân bằng.
Năm 1976 xuất hiện các công trình của S.Ross về
mối liên hệ giữa các điều kiện cân bằng của thị
trường và khái niệm về cơ lợi (hay độ chênh thị giá)
và đã chứng tỏ khi thị trường ở trạng thái cân bằng
thì không cần chấp nhận tình huống cơ lại vẫn có khả
năng thu lợi mà không có rủi ro.
Năm 1973, nhờ có sự ra đời của lý thuyết hiện đại và