Tải bản đầy đủ (.docx) (10 trang)

Tiếp cận truyện kiều từ hướng so sánh văn học và phương pháp so sánh loại hình lịch sử

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (102.74 KB, 10 trang )

Tiếp cận Truyện Kiều từ hướng so sánh văn học và phương
pháp so sánh loại hình lịch sử.
Trần Thị Phương Phương
There are no translations available.

Truyện Kiều của Nguyễn Du (1765[1] - 1820) là tác phẩm tiêu biểu của văn chương trung đại
Việt Nam. Truyện Kiều được viết vào khoảng cuối thế kỷ 18 - đầu thế kỷ 19, dựa vào một tác
phẩm tiểu thuyết văn xuôi của nhà văn Trung Hoa có bút hiệu Thanh Tâm Tài Nhân, viết về số
phận của một người phụ nữ tài sắc tên Thúy Kiều, vốn xuất thân từ tầng lớp trung lưu, nhưng do
hoàn cảnh xô đẩy đã phải trở thành gái giang hồ, lưu lạc truân chiên 15 năm trời mới được trở về
đoàn tụ với gia đình. Đây là một tác phẩm truyện Nôm - một thể loại tự sự viết bằng văn vần, rất
phát triển vào nửa sau thế kỷ 18 - thế kỷ 19. Về thời điểm ra đời chính xác của Truyện Kiều các
nhà nghiên cứu vẫn còn tranh luận, song chắc chắn rằng, khi Truyện Kiều ra đời thì bộ phận văn
học bằng tiếng dân tộc của Việt Nam (văn học chữ Nôm) đã có những thành tựu đáng kể. Viết
Truyện Kiều, Nguyễn Du là người tiếp tục phát huy những thành tựu của truyện Nôm nói riêng
và của văn học chữ Nôm nói chung, đồng thời cũng có những bước đột phá để chuẩn bị cho một
thời kỳ văn học mới. Truyện Kiều là đỉnh cao của truyện Nôm, đó là tác phẩm truyện Nôm được
viết bằng nghệ thuật điêu luyện nhất, và cũng chứa đựng một nội dung phong phú và sâu sắc hơn
cả. Lồng trong câu chuyện nàng Thúy Kiều còn có cả những triết lý nhân sinh quan của nhà thơ
Nguyễn Du. Truyện Kiều được viết dưới dạng văn vần và bằng thể thơ lục bát (gồm từng cặp câu
6 âm tiết - câu 8 âm tiết luân phiên nhau). Đây là một thể thơ khởi nguồn từ dân gian Việt Nam,
giàu âm thanh nhạc điệu, lại độc đáo ở khả năng thu ngắn, kéo dài (đó là thể thơ mà từ đó có thể
tạo ra bài thơ rất ngắn chỉ gồm hai câu lục bát 14 âm tiết, mà cũng có thể tạo ra những tác phẩm
dài hàng nghìn câu). Lục bát của Nguyễn Du trong Truyện Kiều đã đạt đến trình độ nghệ thuật
điêu luyện khó có người theo kịp. Có lẽ đó là tác phẩm duy nhất đã bộc lộ hết tất cả sức mạnh
của thơ ca truyền thống Việt Nam.


Hoài Thanh, một nhà phê bình văn học nổi tiếng ở Việt Nam đã viết: "Truyện Kiều
từng là niềm say mê lớn trong hàng trăm năm, đối với hàng triệu người. Truyện Kiều sẽ
mãi mãi là một niềm say mê lớn"[2]Chính niềm say mê đó đã khiến cho bao người Việt


Nam và cả người nước ngoài đọc và nghiên cứu Truyện Kiều, để cho ra đời nhiều công
trình có giá trị.
Truyện Kiều từ trước đến nay đã được nghiên cứu trên nhiều phương diện: khảo

đính, chú giải, tìm hiểu khám phá những giá trị nội dung và nghệ thuật, dịch và giới thiệu
ra nước ngoài... Trong quá trình tiến hành những nghiên cứu đó, các nhà nghiên cứu chắc
chắn không ít thì nhiều đều từng làm công việc so sánh. “Tất cả đều được nhận thức
bằng so sánh”, câu cách ngôn cổ đó đã trở nên phổ biến. Tất nhiên không phải tất cả mọi
sự vật đều có thể đem ra so sánh được, thật vô nghĩa khi chúng ta đem so sánh hai sự vật
hoàn toàn chẳng liên quan gì với nhau, chẳng có một mối tương đồng nào. Tuy nhiên khi
sự so sánh là hợp lý và chính đáng, nó có thể trở thành phương tiện nhận thức thật sự,
giúp người ta xác định các đặc tính của những hiện tượng có liên quan đến nhau và từ đó
đánh giá được các giá trị hay tìm ra những quy luật phát triển chung hay đặc thù. Việc so
sánh được tiến hành với Truyện Kiều cũng không nằm ngoài mục đích đó.
Truyện Kiều được so sánh về nhiều mặt và ở những mức độ khác nhau. Truyện

Kiều có thể được nghiên cứu trong mối quan hệ với các lĩnh vực như triết học, tôn giáo,
xã hội học, tâm lý học. Nhưng ở đây chúng tôi chỉ nói đến nghiên cứu so sánh Truyện
Kiều trong phạm vi của văn học, tức là so sánh Truyện Kiều như một hiện tượng văn học,
với một hay nhiều hiện tượng văn học khác. Có ba hướng chủ yếu trong việc so sánh này:
Nghiên cứu so sánh Truyện Kiều với chính nó: Thực chất, đây là vấn đề liên quan đến văn bản,
vấn đề khảo đính và chú giải Truyện Kiều. Từ trước đến nay có hàng chục bản Truyện Kiều bằng
chữ nôm và chữ quốc ngữ, và khi so sánh đối chiếu với nhau thì mỗi bản đều có chỗ khác biệt.
Việc so sánh đối chiếu các bản Truyện Kiều giúp cho các nhà nghiên cứu khảo đính và chú giải
Truyện Kiều được chính xác hơn và từ đó cũng giúp hiểu Truyện Kiều được đúng đắn hơn.
Nghiên cứu so sánh Truyện Kiều với các hiện tượng văn học Việt Nam: Việc so sánh Truyện
Kiều với các tác phẩm văn học của dân tộc vừa cho thấy sự phát huy truyền thống trong sáng tác
của Nguyễn Du, vừa cho thấy những nét độc đáo đặc sắc của riêng nhà thơ và Truyện Kiều. Đặc
biệt, Truyện Kiều thường được đem so sánh với các tác phẩm văn học trung đại Việt Nam, nhất
là với các truyện Nôm cùng thời về cả nội dung tư tưởng lẫn hình thức nghệ thuật để đi đến kết



luận: Truyện Kiều là đỉnh cao sáng tạo nghệ thuật, là “tập đại thành” của văn chương trung đại
Việt Nam.

Nghiên cứu so sánh với các hiện tượng văn học ngoài dân tộc cũng là điều rất cần thiết cho việc
tìm hiểu và đánh giá Truyện Kiều. Trước hết là việc so sánh Truyện Kiều với nguyên tác của nó tiểu thuyết Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân, ra đời vào khoảng cuối thế kỷ 16đầu thế kỷ 17 ở Trung Hoa. Nguyễn Du đã dựa trên Kim Vân Kiều truyện mà viết thành thiên
tiểu thuyết bằng thơ dài 3254 câu thơ lục bát với tên Đoạn trường tân thanh, hay gọi nôm na là
Truyện Kiều. Việc so sánh Truyện Kiều với Kim Vân Kiều truyện cho thấy nguồn gốc của Truyện
Kiều, nhưng chủ yếu cho thấy Truyện Kiều của Nguyễn Du không phải là bản dịch từ văn xuôi
sang văn vần, mà là một sáng tạo của Nguyễn Du cả về mặt hình thức lẫn nội dung tác phẩm.
Cùng với sự phát triển của lịch sử, Truyện Kiều đã vượt ra ngoài biên giới Việt Nam để đến với
độc giả trên thế giới. Việc dịch và giới thiệu Truyện Kiều ra nước ngoài đã được thực hiện nhiều
chục năm qua. Tính cho đến nay có khoảng 30 bản dịch ra 20 tiếng nước ngoài. Ngoài ra đã có
những công trình nghiên cứu so sánh Truyện Kiều với một số tác phẩm của một số nền văn học
dân tộc khác như văn học Nga, văn học Đức, văn học Hàn Quốc, ...
So sánh Truyện Kiều với các tác phẩm văn học của các dân tộc khác trên thế giới là một hướng
mới mẻ trong nghiên cứu Truyện Kiều. Tuy nhiên, điều quan trọng ở đây là phải có những cách
tiếp cận, những phương pháp so sánh thích hợp thì việc so sánh mới thực sự có ý nghĩa.
Một trong những phương pháp so sánh được tiến hành trong nghiên cứu so sánh Truyện Kiều với
các tác phẩm văn học thế giới là phương pháp loại hình lịch sử (historical typology).
So sánh loại hình lịch sử không phải là phương pháp duy nhất trong nghiên cứu văn học so sánh
và cũng không phải là quan niệm của mọi nhà nghiên cứu. Văn học so sánh Phương Tây nhìn
chung có thiên hướng thực chứng, chú trọng vào các sự kiện cụ thể nhiều hơn các khái quát lý
luận, mặc dù cũng có xu hướng muốn đi ngược lại để tránh sa vào những ngõ cụt của sự so sánh
tỉ mẩn.

Loại hình lịch sử là sản phẩm của nghiên cứu văn học Liên xô cũ và vẫn được duy
trì cho đến nay. Có thể gọi đó là "trường phái Nga" trong văn học so sánh, bên cạnh các
trường phái Pháp và Mỹ. Những cơ sở ban đầu của trường phái này được đặt ra từ cuối

thế kỷ 19 trong các công trình về thi pháp lịch sử của A.Veselovsky, và thực sự được
khẳng định dưới thời Liên Xô với những tên tuổi lớn như I.Anissimov, V.M.Zhirmunsky,
M.P.Alekseev, N.I.Konrad, I.G.Neupokoeva... So sánh loại hình lịch sử dựa trên quan
điểm triết học duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, xem xét văn học như một phạm trù
lịch sử có những mối quan hệ bên trong và bên ngoài dân tộc. Văn học nằm trong bối


cảnh của dân tộc, đồng thời cũng nằm trong bối cảnh của thế giới, vì vậy có vấn đề văn
học dân tộc và văn học thế giới, vấn đề tiến trình phát triển của văn học trong phạm vi
dân tộc và phạm vi thế giới. Các nhà nghiên cứu loại hình học cho rằng những quy luật
chung của quá trình phát triển lịch sử cho phép nói đến những hiện tượng tương đồng
xuất hiện trong các nền văn học khác nhau mà không phải là kết quả của sự giao lưu trực
tiếp, và từ đó có thể nói đến những quy luật phát triển trên bình diện thế giới của văn học,
đến sự phân chia các hiện tượng văn học theo những loại hình lịch sử khác nhau.
Không phải ai cũng đồng ý với phương pháp loại hình. Những người phản đối phương pháp này
trước hết thường là những nhà văn, những người không muốn người ta quên đi giá trị độc đáo
riêng biệt, cái làm nên giá trị nghệ thuật của tác phẩm, cái chứng tỏ tài năng của nhà văn, mà
ngược lại bị xếp vào trong những ngăn ô của loại hình này hay loại hình khác. Nhiều nhà văn,
nhà nghiên cứu văn học phủ nhận loại hình văn học vì cho rằng, khác với những khoa học khác,
nghiên cứu văn học không nhằm mục đích phát hiện các quy luật chung mà là nghiên cứu những
hiện tượng cá biệt độc đáo. Trong bài viết về những nguyên tắc của nghiên cứu so sánh loại hình,
nhà nghiên cứu văn học Nga M.B.Khrapchenko đã dẫn ý kiến của học giả người Đức W.Kayser
cho rằng: chỉ có tác phẩm văn học là đối tượng chân chính của khoa học về thi ca, và do đó
Kayser đã loại trừ tất cả những yếu tố như cá nhân nhà văn, hoàn cảnh xã hội, thời đại... ra khỏi
nghiên cứu văn học. Khrapchenko đã rất có lý khi phản bác lại. Ông cho rằng sự độc đáo của nhà
văn không cùng nghĩa với việc loại bỏ các mối liên hệ của nhà văn với môi trường xung quanh,
trong đó có mối liên hệ với những nhà văn khác, cũng như sự độc đáo của tác phẩm văn học
không có nghĩa là nó bị cô lập, tách khỏi chủ thể sáng tạo ra nó, khỏi môi trường sản sinh ra nó.
Lịch sử của một nền văn học không phải chỉ đơn thuần là tổng số của các nhà văn đơn lẻ cộng
lại, cũng không phải là tổng số của các tác phẩm đơn lẻ cộng lại, mà còn là cả một hệ thống của

những mối quan hệ qua lại, còn là cả một quá trình vận động và phát triển với những quy luật
phổ biến và đặc thù[3].
Đúng là nghiên cứu văn học khác với những khoa học khác, nhưng như thế không có nghĩa là
nghiên cứu văn học không cần đi tìm những cái mang tính chất quy luật, phổ biến. Cái khác biệt
của nghiên cứu văn học là tìm thấy cái chung, cái phổ biến mang tính chất quy luật trong sự
thống nhất hữu cơ với cái cá biệt, đặc thù. Đó là một trong những nguyên tắc cơ bản của nghiên
cứu loại hình văn học.
So sánh lịch sử nghiên cứu các mối liên hệ giữa các nền văn học khác nhau, làm sáng tỏ những
ảnh hưởng, tác động qua lại. Ngoài ra so sánh văn học còn nghiên cứu những đặc thù của các nền
văn học dân tộc, sự phát triển lịch sử trên cơ sở đối chiếu nền văn học này với nền văn học khác,
và nghiên cứu những đặc thù cũng quan trọng như nghiên cứu những quan hệ qua lại, những mối
tương đồng. Loại hình học lại đặt mục tiêu chủ yếu là phát hiện ra những nguyên tắc, những
nguyên lý cho phép nói đến tính thống nhất thẩm mỹ, đến sự phân thuộc của hiện tượng văn học
nào đó vào một loại hình nào đó. Sự phân thuộc này không hiếm thấy khi xem xét nhiều hiện
tượng văn học tương đồng với nhau nhưng không nằm trong những mối liên hệ trực tiếp với
nhau.


Trong công trình Lý luận nghiên cứu văn học so sánh, nhà nghiên cứu văn học so sánh người
Tiệp Khắc D. Dyurishin có đưa ra sự phân chia những hiện tượng tương đồng và khác biệt của
các hiện tượng văn học thành hai loại: tương đồng hay khác biệt về mặt khởi nguyên (tức là do
quan hệ ảnh hưởng và tác động trực tiếp) và tương đồng khác biệt về loại hình (không dựa trên
quan hệ ảnh hưởng trực tiếp) và từ đó có thể nói đến so sánh về mặt khởi nguyên và so sánh về
mặt loại hình như hai phương pháp nghiên cứu so sánh văn học[4]. Như vậy thì có thể coi loại
hình học ở đây như một dạng phương pháp được vận dụng trong nghiên cứu văn học so sánh.
Chúng tôi sử dụng ở đây khái niệm nghiên cứu so sánh loại hình để chỉ sự nghiên cứu những
hiện tượng tương đồng và khác biệt, vừa làm sáng tỏ những tính chất đặc thù của hiện tượng văn
học, vừa cho thấy sự phân thuộc của hiện tượng văn học đó trong loại hình nào đó, nhằm tìm
thấy [5]những quy luật phát triển chung nào đó của văn học. Việc nghiên cứu đó đòi hỏi phải
xem xét các hiện tượng văn học trong sự phát triển lịch sử, do đó có thể thêm vào thuật ngữ trên

hai chữ “lịch sử”, thành so sánh loại hình lịch sử.
Theo chúng tôi, loại hình lịch sử là một trong những phương pháp đem lại hiệu quả đối với việc
nghiên cứu so sánh được tiến hành với Truyện Kiều, nhất là khi đối tượng được chọn để so sánh
với Truyện Kiều là tác phẩm của những nền văn học không có sự giao lưu trực tiếp với văn học
Việt Nam lúc đương thời. Ví dụ, khi so sánh Truyện Kiều với Xuân Hương Truyện của Hàn Quốc
có thể thấy những nét tương đồng trong cảm hứng nhân đạo (sự cảm thông với những số phận
đau khổ của những con người bình thường, nhất là những người phụ nữ, trong hoàn cảnh xã hội
phong kiến giai đoạn suy tàn; sự thể hiện những khát vọng hạnh phúc, tình yêu đôi lứa, khát
vọng công lý và tự do của con người thời đại;...) cũng như trong các hình thức nghệ thuật ( thể
loại, cốt truyện, nhân vật,...) Trong hợp như thế, rất khó giải thích những tương đồng giữa các tác
phẩm chỉ bằng những lý do ảnh hưởng. Thế nhưng, có thể tìm thấy và lý giải nguyên do của
những tương đồng đó khi nhìn vào những điều kiện lịch sử xã hội có nhiều nét giống nhau của
hai dân tộc thời đại ra đời tác phẩm, từ đó rút ra những kết luận về tính quy luật của sự phát triển
văn học dân tộc và thế giới, đồng thời thấy được vị trí và vai trò của mỗi tác phẩm trong tiến
trình đó.
Ngoài ra, đối tượng của nghiên cứu so sánh loại hình nói chung cũng không chỉ đơn thuần là
những tương đồng. Việc nghiên cứu những khác biệt giữa các tác phẩm cũng rất quan trọng. Một
mặt, nó giúp xác định chính xác sự phân thuộc của hiện tượng văn học vào trong một loại hình
nào đó. Mặt khác, nó còn cho thấy những tính chất đặc thù, riêng biệt của hiện tượng văn học, là
điều kiện hết sức quan trọng. Sự giống nhau và khác nhau trong các tác phẩm văn học không
phải là sự giống - khác rành mạch, đơn giản, mà thường hết sức phức tạp và tế nhị. Trong những
tác phẩm lớn thì sự phức tạp và tế nhị đó càng lớn. Bởi trong tác phẩm lớn, bên cạnh những tiếp
thu, phát huy những thành tựu của văn học dân tộc và thế giới, thì cái độc đáo, cái mới mẻ, cái
không lặp lại bao giờ vẫn luôn là giá trị quan trọng khiến cho chúng trở thành bất hủ. Thường khi
so sánh những tác phẩm như vậy, nhất là khi so sánh những khác biệt, rất dễ vấp phải những vấn
đề tình cảm dân tộc, vấn đề định các giá trị. Truyện Kiều là niềm tự hào của người Việt Nam,
nhưng Xuân Hương Truyện lại là niềm tự hào của người Hàn Quốc, Evgeny Onegin là niềm tự
hào của người Nga, ... Phương pháp so sánh loại hình, như đã nói, là nhằm tìm ra những quy luật
chung, nhưng cũng không bỏ qua những cá biệt, đặc thù. Việc so sánh để định giá trị hơn kém,
cao thấp giữa các tác phẩm văn học lớn, nhất là khi các tác phẩm khác nhau về loại hình lịch sử,

hoàn toàn không phải là mục đích của so sánh loại hình. Tuy nhiên, điều này cũng cho thấy việc


so sánh đòi hỏi người nghiên cứu bên cạnh những vốn kiến thức cần thiết còn phải hết sức thận
trọng và tinh tế khi tiến hành công việc của mình.
Một trong những vấn đề mà giới nghiên cứu văn học so sánh quan tâm hiện nay là vấn đề so
sánh Đông - Tây. Ban đầu, khoa nghiên cứu so sánh văn học phát triển ở Phương Tây, hạn chế
chủ yếu trong việc so sánh những hiện tượng văn học Phương Tây với nhau. Tuy nhiên, cùng với
sự phát triển của lịch sử, sự giao lưu Đông - Tây, trong đó có giao lưu văn hóa, văn học ngày
càng mở rộng, văn học so sánh không chỉ còn là lãnh địa của riêng người Phương Tây, mà người
Phương Đông cũng đã thâm nhập vào, góp phần không nhỏ vào việc khai thác, nghiên cứu. Sự
phát triển của các trung tâm nghiên cứu văn học so sánh ở Đông Á và Nam Á cho thấy vị trí
quan trọng của văn học so sánh ở Phương Đông hiện nay. Đối tượng của văn học so sánh càng
mở rộng sang nhiều hiện tượng văn học của Phương Đông.

Phương Đông - Phương Tây là sự phân chia đã có từ lâu. Phần Phương Tây chủ
yếu bao gồm các nền văn hóa, văn học Âu châu bắt nguồn từ truyền thống Hy Lạp - La
Mã. Phần Phương Đông chủ yếu là văn hóa, văn học Á châu với các nguồn Ấn Độ, Trung
Hoa, A rập. Từng có những ý kiến cực đoan cho rằng Phương Tây và Phương Đông là hết
sức khác biệt, là không bao giờ có thể gặp nhau. Tuy nhiên, trên thực tế, từ lâu hai nền
văn hóa đó vẫn luôn có sự giao lưu, thâm nhập lẫn nhau. Đáng chú ý là phần lớn các nhà
nghiên cứu so sánh văn học theo loại hình lịch sử của Nga, cái nôi của trường phái này,
đều là các chuyên gia nghiên cứu văn học Phương Đông. Bản thân nước Nga cũng là một
hiện tượng đặc biệt: một phần nhỏ nằm ở châu Âu, một phần lớn thuộc về châu Á. Sự
hiện diện của nước Nga cũng là một biểu hiện của tính chất tương đối trong sự phân chia
Phương Đông - Phương Tây. Trong điều kiện của một đất nước như vậy, các nhà văn học
so sánh Nga hơn bao giờ hết có điều kiện để hiểu được sự giao lưu giữa Phương Đông và
Phương Tây trong suốt chiều dài lịch sử từ cổ đại đến hiện đại.Văn học Phương Tây, như
một tổng thể, là sự tiếp nối từ văn học Hy Lạp - La Mã, qua văn học trung đại rồi đến thời
kỳ cận-hiện đại, từng tiếp thu nhiều ảnh hưởng của Phương Đông, đặc biệt như Kinh

Thánh của Thiên chúa giáo vốn là sản phẩm của Phương Đông, nhưng lại trở thành một
nguồn quan trọng của văn học Phương Tây. Ngược lại, văn học Phương Đông với sự phát
triển tương đối ít ngắt quãng thành các giai đoạn rõ ràng như Phương Tây, cũng tiếp thu
những ảnh hưởng của Phương Tây, nhất là thời kỳ cận hiện đại (từ thế kỷ 18-19).
N.I.Konrad, một trong những nhân vật lớn của so sánh loại hình lịch sử, đồng thời là nhà
Đông Phương học nổi tiếng của Nga, đã đưa ra nhận xét thú vị và không phải không dựa


trên những cơ sở nghiên cứu đáng tin cậy là: phong trào Phục Hưng trong văn học thế
giới đi từ Phương Đông sang Phương Tây (bắt đầu từ Trung Quốc - thế kỷ 8, sau đó đến
Trung Á, Iran và Tây Bắc Ấn Độ - thế kỷ 9, sang Ý vào thế kỷ 13 để mở đầu thời kỳ này
ở Châu Âu và kéo dài đến thế kỷ 18); còn các trào lưu văn học thời kỳ cận hiện đại - thời
kỳ chủ nghĩa tư bản - như chủ nghĩa lãng mạn, chủ nghĩa hiện thực... lại vận động theo
chiều ngược lại: từ Tây sang Đông[6]. Ngoài những mối quan hệ ảnh hưởng, còn có thể
thấy bên cạnh những khác biệt giữa Phương Đông và Phương Tây còn có những hiện
tượng tương đồng do sự phát triển lịch sử mang tính chất quy luật đem lại, là đối tượng
của so sánh loại hình.
Sự đi trước của Phương Tây trên nhiều phương diện kinh tế và văn hóa ở thời cận hiện đại (nhất
là cùng với làn sóng thuộc địa từ Tây sang Đông) là một nguyên nhân quan trọng dẫn đến cái gọi
là : chủ nghĩa trung tâm châu Âu (Eurocentrism), lấy châu Âu là trung tâm và nhìn nhận các sự
vật từ cái nhìn của người Âu châu. Chủ nghĩa trung tâm châu Âu ảnh hưởng cả vào trong nghiên
cứu văn học so sánh khi đối tượng nghiên cứu là các hiện tượng văn học Phương Đông.
Ảnh hưởng của văn học Phương Tây lên các nền văn học Phương Đông trong thời cận - hiện đại
là điều không thể phủ nhận. Thời kỳ thực dân Pháp ở Việt Nam (1858 -1954) là thời kỳ người
Việt Nam vừa đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân để giành độc lập dân tộc, vừa tiếp thu những
tinh hoa văn hóa của người Pháp nói riêng và của thế giới nói chung, đặc biệt là thế giới Phương
Tây, thông qua người Pháp. Ảnh hưởng của văn hóa Phương Tây đối với Việt Nam những năm
đầu thế kỷ 20 đã làm xáo trộn nhiều cái trong đời sống văn hóa Việt Nam, trong đó có văn học
nghệ thuật: Nho học dần thay thế cho Tây học, chữ quốc ngữ thay thế cho chữ Hán và chữ Nôm,
xuất hiện các trào lưu lãng mạn chủ nghĩa, hiện thực chủ nghĩa,... Tiến trình hiện đại hóa văn học

đã diễn ra và văn học trung đại đã lui vào quá khứ.
Đây là một hoàn cảnh khá tiêu biểu cho nhiều nền văn học Phương Đông. Có thể đặt ra câu hỏi:
Phải chăng ảnh hưởng của văn hóa Phương Tây là nguyên nhân dẫn đến tiến trình hiện đại hóa
của văn học các dân tộc Phương Đông?
Câu trả lời của chúng tôi là: Không. Nhìn vào lịch sử văn học Việt Nam, có thể thấy đầu thế kỷ
20 đã có những điều kiện cho công cuộc hiện đại hóa văn học. Những thành tựu của văn học thế
kỷ trước, đặc biệt là bộ phận văn học viết bằng chữ dân tộc (văn học Nôm) đã cho thấy những
bước chuyển biến chuẩn bị cho cho sự ra đời của những trào lưu sáng tác mới với những nguyên
tắc phản ánh và hình thức nghệ thuật mới. Truyện Kiều của Nguyễn Du là một ví dụ tiêu biểu.
Tập trung trong mình những tinh hoa của những thế kỷ trước, là "tập đại thành" của văn chương
trung đại Việt Nam, Truyện Kiều còn chứa đựng nhiều cái mới trong quan niệm nghệ thuật về
con người, về quan hệ giữa cá nhân và xã hội. Bị xếp vào loại "yêu thư" cũng là bởi Truyện Kiều
đã mang theo mình cái mới mà những người đương thời phản ứng, nhất là những người còn
mang nặng tinh thần của Nho giáo, hệ thống triết lý tư tưởng thống trị đời sống tinh thần trung
đại Việt Nam nhưng đến thế kỷ 19 đã ở thời kỳ suy tàn. Mặt khác, sự tiếp nhận rộng rãi tác phẩm


vào trong công chúng, nhất là tầng lớp bình dân, mặc kệ cả những lời cảnh cáo :"Đàn ông chớ
đọc Phan Trần, Đàn bà chớ đọc Thúy Vân, Thúy Kiều" cũng cho thấy nhu cầu của xã hội đối với
văn chương đã đòi hỏi những sự đổi mới. Bên cạnh mặt nội dung tư tưởng, hình thức của tác
phẩm, từ thể loại, cốt truyện, nghệ thuật xây dựng tính cách đến ngôn ngữ, cũng biểu hiện những
cái mới đang được nhen nhóm lên trong lòng cái cũ.
Như thế, không phải văn học Pháp, hay rộng hơn là văn hóa Phương Tây, đã mang đến sự đổi
mới cho văn học Việt Nam, mà sự đổi mới đó trước hết là từ chính trong lòng của văn học Việt
Nam mà những ảnh hưởng của văn học Pháp là chất xúc tác vô cùng quan trọng thúc đẩy nó diễn
ra. Cái mới từ bên ngoài đem lại niềm hứng khởi cho những người nghệ sĩ đang khát khao tìm
tòi. Bắt chước, học theo là điều không thể tránh khỏi, nếu không nói là điều cần thiết, nhưng
sáng tạo đổi mới trên nền tảng của truyền thống dân tộc mới là điều quan trọng. Những kinh
nghiệm của thơ ca và văn xuôi giai đoạn 1930-1945 là minh chứng cho thành công của sự đổi
mới nhưng không tách rời truyền thống dân tộc trong văn học Việt nam. Phong trào Thơ Mới

không phải là sự học theo thơ Pháp để chối bỏ thơ dân tộc. Những thử nghiệm các thể thơ Pháp
đã không mang lại kết quả, và thành tựu của thơ mới Việt Nam vẫn là ở những thể thơ dân tộc
với những cách tân. Tiểu thuyết và truyện ngắn lãng mạn cũng như hiện thực của các nhà văn
Việt Nam sẽ không thể sống với thời gian, nếu như không phải là những bức tranh điển hình của
đời sống Việt Nam, và được viết nên bởi ngôn ngữ cũng thuần túy Việt Nam. Ngoài ra, cũng cần
phải nói đến văn thơ yêu nước, phục vụ cho cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, giành độc lập,
như một phần không thể thiếu trên bộ mặt văn học đổi mới đó.
Những kết luận trên chúng tôi rút ra được từ việc nghiên cứu văn học Việt Nam trên cơ sở so
sánh với một số nền văn học khác có những tương đồng về loại hình lịch sử (so sánh với các tiến
trình hiện đại hóa văn học dân tộc của Nga, của Trung Hoa...). So sánh loại hình lịch sử cho phép
xem xét các hiện tượng văn học các dân tộc khác nhau trên thế bình đẳng: mỗi dân tộc đều có
một tiềm năng riêng của mình, nhất là trong lĩnh vực văn học nghệ thuật. Có giao lưu, có ảnh
hưởng, và giao lưu, ảnh hưởng là yếu tố hết sức quan trọng cho sự phát triển. Tuy nhiên, giao lưu
ảnh hưởng phải luôn đi liền với sự phát triển nội lực. Văn học mỗi dân tộc đều có những đặc
điểm phát triển riêng, nhưng lại cũng có những cái tuân theo những quy luật phát triển chung của
văn học thế giới, những cái chung nằm trong cái riêng đó là cơ sở cho sự tiếp thu ảnh hưởng.
Mọi ảnh hưởng từ bên ngoài vào, nếu vừa có thể hòa hợp được với cái riêng biệt (nhưng không
hòa tan mất cái riêng biệt), vừa giúp thúc đẩy phát triển cái có tính chung nhất thì sẽ được tiếp
nhận và tạo nên tiến bộ cho văn học dân tộc, còn ngược lại thì hoặc sẽ bị đào thải, hoặc sẽ làm
suy thoái hay triệt tiêu văn học dân tộc.
Chúng tôi nghĩ rằng, một trong những ưu điểm của phương pháp so sánh loại hình lịch sử khi so
sánh các hiện tượng văn học Đông - Tây là : giúp tiếp cận các hiện tượng văn học dân tộc một
cách khách quan trên bình diện văn học thế giới, tránh những cực đoan của chủ nghĩa trung tâm
châu Âu (eurocentrism) lẫn những cực đoan của chủ nghĩa dân tộc (nationalism). Điều này rất có
ý nghĩa khi so sánh Truyện Kiều với một số kiệt tác của văn học Phương Tây.
Ngoài ra, Truyện Kiều là một tác phẩm của văn học trung đại Việt Nam. Ảnh hưởng của văn học
Trung Hoa đối với văn học của một số nước Đông Á, trong đó có Việt Nam nói chung, và đối với
bản thân Truyện Kiều nói riêng cũng rất lớn. Bởi vậy, khi nghiên cứu so sánh Truyện Kiều với
nguyên tác của nó (tác phẩm Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân), hay so sánh với



một số tác phẩm của văn học trung đại các dân tộc Đông Á khác (như so sánh với Xuân Hương
Truyện của Hàn Quốc), vấn đề quan hệ giữa giao lưu ảnh hưởng và sự phát triển nội lực văn học
dân tộc được đặt ra tương tự như vấn đề Đông - Tây đã nêu trên, chỉ khác ở chỗ phạm vi của nó
là trong khu vực Đông Á. Và ở đây cũng vậy, vận dụng đúng đắn phương pháp so sánh loại hình
lịch sử sẽ giúp tránh những cực đoan của chủ nghĩa trung tâm Trung Hoa (Sinocentrism), đồng
thời đánh giá được đúng mức vai trò ảnh hưởng của các dân tộc Đông Á, nhất là ảnh hưởng của
văn hóa, văn học Trung Hoa.
Như đã nói ở trên, loại hình lịch sử không phải là phương pháp duy nhất trong nghiên cứu so
sánh văn học. Vận dụng nó khi tiếp cận Truyện Kiều từ hướng so sánh không có nghĩa là loại trừ
những phương pháp khác, mà trái lại, việc phối hợp so sánh loại hình lịch sử với so sánh khởi
nguyên (so sánh các tương đồng và dị biệt do quan hệ ảnh hưởng, giao lưu), hay với các phương
pháp nghiên cứu như văn bản học, cấu trúc học... là điều cần thiết để việc so sánh mang lại hiệu
quả và trở nên có ý nghĩa.

Tài liệu tham khảo:
1. Akiyama and Leung. Crosscurrents in the Literatures of Asia and the West. University

of Delaware Press, Associates University Presses, 1997.
2. China and the West: Comparative Literature Studies . The Chinese University Press.

Hongkong, 1980.
3. Comparative Literature: Method and Perspectives. Edited by Newton P.Stallknecht and

Horst Frenz. Southern Illinois University Press, 1961.
4. Comparative Literature in the Age of Multiculturalism . Edited by Charles Bernheimer.

John Hopkins University Press, 1995.
5. Dima Alecxander Printsipy sravnitel'nogo literaturnovedenia. Progress, Moskva,


1977.
6. Dyurishin Dionis. Teoria spavnitel'nogo izuchenia literatury. Progress, Moskva, 1979.
7. Istoricheskaya poetika: Literaturnye epokhi i tipy khudozhe -stvennogo soznanya (Thi pháp

lịch sử : Các thời đại văn học và các loại hình ý thức nghệ thuật). Institut mirovoi
literatury. Moskva, 1994.


8. Konrad N.K. Phương Đông và Phương Tây. (Trịnh Bá Đĩnh dịch). NXB Giáo Dục,

1997.
9. Lý Valenti . Truyện Xuân Hương và Truyện Kiều của Nguyễn Du. Tạp chí văn học, số

3, 1992.
10. Miner Earl. Comparative Poetics. An Intercultural Essay on Theory of Literature.

Princeton University Press, 1990.
11. Nguyễn Du. Truyện Kiều. Văn học, Hà Nội, 1979.
12. Nguyễn Du. Về tác gia và tác phẩm. Trịnh Bá Đĩnh tuyển chọn và giới thiệu. NXB Giáo

Dục, Hà Nội, 1998.
13. Nguyễn Văn Dân. Lý luận văn học so sánh. NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 1998.
14. Perspectives comparatistes. Etudes réunies par Jean Bessière et Daniel-Henri Pageaux.

Paris, 1999.
15. Poetics. East and West. Edited by Milena Dolezelova-Velingerova. University of

Toronto, 1988-89.
16. The Comparative Perspective on Literature. Approaches to Theory and Practice. Edited and


with an Introduction by Clayton Koelb and Susan Noakes. Cornell University Press,
1988.
17. Tipologia i vzaimosvyazi srednevekovykh literatur Vostoka i Zapada (Loại hình học và các

quan hệ qua lại của các nền văn học Phương Đông và Phương Tây). Institut mirovoi
literatury. Moskva, 1974.
18. Trần Thanh Đạm. Sự chuyển biến của văn chương Việt Nam sang thời kỳ hiện đại.

Trường Đại học Tổng hợp TP.Hồ Chí Minh, 1995.
19. Wellek René and Warren Austin. Theory of Literature. HJB Books. Third edition. San

Diego, New York, London, 1956.



×