Tải bản đầy đủ (.docx) (27 trang)

Yếu tố phật giáo trong văn học thời lý

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (165.41 KB, 27 trang )

Yếu tố phật giáo trong văn học thời Lý – Trần
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Phật giáo là một tôn giáo được Thích Ca Mâu Ni (Shakyamuni) truyền giảng ở miền bắc Ấn Độ
vào thế kỷ 6 TCN và nó được truyền bá vào Việt Nam qua một hành trình dài. Phật giáo Việt
nam trải qua nhiều biến thiên lịch sử, tồn tại trong một quốc gia chịu nhiều tang tóc chinh chiến,
nhưng vẫn có những nét đặc thù riêng lẽ từ kiến trúc hội hoạ, điêu khắc, nghệ thuật, văn chương
cho đến những câu hò điệu lý… đều xuất phát từ tinh hoa Phật giáo.
Theo dòng thời gian người Việt nam chúng ta càng ngày càng nhận thức thấu đáo hơn về giá trị
của văn hoá Phật giáo trong nền văn hoá chung của dân tộc. Muốn hiểu sâu về văn hoá dân tộc
không thể không hiểu sâu về văn hoá Phật giáo.
Nói đến Phật giáo chúng ta không thể không nói đến Phật giáo thời Lý – Trần. Đây là thời kỳ mà
có thể cho là cực thịnh nhất trong quá trình Phật giáo tồn tại ở Việt Nam. Song song với sự phát
triển của Phật giáo thời bấy giờ, nền văn học Việt Nam cũng được khơi nguồn từ đó.
Toàn bộ những tác phẩm văn thơ Lý – Trần đều toát lên một sự giải thoát tự tại, chứa đựng
những triết lý sâu xa nhưng rất gần gũi với con người. Bằng những việc làm, sự nhập thể tích cực
của các vị thiền sư, các vua quan là những Phật tử thuần thành đã đưa văn thơ Lý – Trần vào
lòng dân tộc. Qua những bài thơ chúng ta thấy chính phong cách sống của quý ngài đã tạo nên
cái đẹp của Phật giáo với tinh thần “nhập thế mà không trụ thế”. Bằng tư tưởng bình đẳng, vô
ngã, vị tha các vị đã góp nhặt và thể hiện qua những áng văn thơ tuyệt đẹp. Ngoài ra các ngài đã
biết kết hợp chọn lọc và dung hoà các hệ tư tưởng với nhau, tìm tòi những cái riêng để tạo thành
một cái chung cho dân tộc. Đây chính là nét độc đáo mà chúng ta có thể tìm thấy ở thời đại Lý –
Trần mà không thể tìm thấy ở một thời đại nào khác.
Phật giáo Việt Nam qua những tác phẩm thơ Lý – Trần đã tự hoàn thiện. Thời đại mà con người
và văn chương hợp thành một. Xã hội đương đại và con người thời Lý – Trần hoà quyện vào
nhau. Thơ văn là quan điểm, là hiện thân của nhân dân. Điều đáng nói nói ở đây là Phật giáo là
quốc giáo đã hòa nhập vào lòng dân tộc, đưa đất nước song song với đạo Phật đi lên .
Đọc những tác phẩm văn thơ Lý – Trần chúng ta cảm thấy có một cáo gì đó rất thâm thuý nhưng
cũng rất nhẹ nhàng. Tìm lại nét đẹp trong thơ Lý – Trần chính là tìm lại phong cách sống của các
thiền sư, cái đẹp đó thể hiện qua những bài thơ, những bài văn đã đi sâu vào lòng dân tộc và đó
cũng chính là lý do vì sao người viết chọn đề tài này.


2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
2.1. Đối tượng nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu của chúng tôi là: Yếu tố Phật giáo và Đạo giáo trong văn học trung đại
Việt Nam.
2.2. Phạm vi nghiên cứu:
Ở đề tài này, chúng tôi chỉ nghiên cứu tìm hiểu yếu tố Phật giáo trong văn học trung đại Việt
Nam. Và giới hạn nó trong một thời việc nghiên cứu tìm hiểu trong phạm vi văn học thời LýTrần qua một số tác gia tiêu biểu .
3. Lịch sử vấn đề nghiên cứu:
Văn học so sánh là bộ môn khoa học nghiên cứu các mối quan hệ giữa các nền văn học dân tộc
để tìm thấy tính quốc tế và tính dân tộc của các nền văn hóa dân tộc
Văn học so sánh có một vị trí xứng đáng trong giới học thuật của Việt Nam và cho đến nay nó
vẫn là một bộ môn khoa học còn mới mẻ đối với các trường Đại học. Rất ít các trường xem văn


học so sánh như một môn học, thậm chí trong các chuyên đề cao học có tính chuyên sâu thì văn
học so sánh vẫn chưa quan tâm đúng mức.
Đề tài: Yếu tố Phật giáo trong văn học trung đại Việt Nam (và giới hạn nó trong một thời việc
nghiên cứu tìm hiểu trong phạm vi văn học thời Lý- Trần qua một số tác gia tiêu biểu) mà chúng
tôi nghiên cứu ở đây thuộc một trong những đề tài được giao xuất phát từ môn học văn học so
sánh. Về lịch sử nghiên cứu vấn đề này cũng đã có một số nhà nghiên cứu đề cập đến như: Văn
học Việt Nam thế kỉ X nửa đầu thế kỉ XVIII của nhóm tác gia: Đinh gia khánh, Bùi Duy Tân, Mai
Cao Chương (Nxb: Đại học và trung học chuyên nghiệp, H, 1978); Lịch sử văn học Việt Nam –
Tập 3, 4 của nhóm tác gia: Lê Trí Viễn, Phan Côn, Nguyễn Đình Chú, Huỳnh Lý, Lê Hoài Nam
(Nxb Giáo dục, 1978); Giáo trình Văn học trung đại Việt Nam do Nguyễn Đăng Na (chủ biên,
Nxb Đại học sư phạm, 2007)…
Ngoài ra trên mạng, báo, tạp chí có một số bài viết, bài nghiên cứu có liên quan đến đề tài.
Nhìn chung các bài viết trên trong một số tài liệu chí rải rác và đề cập một phần nào đó một cách
khái quát nhưng vẫn chưa tổng hợp được tất cả những vấn đề chính, những nội dung tiêu biểu cụ
thể. Và vẫn chưa có nhiều công trình lớn đề cập đến vấn đề này.
Trên cơ sở kế thừa, tiếp thu những thế hệ đi trước và sự kết hợp một số nguồn tài liệu tham khảo

hiện có. Chúng tôi mạnh dạn đi vào công việc nghiên cứu tìm hiểu đề tài của mình.
4. Phương pháp nghiên cứu:
Trong quá trình nghiên cứu đề tài chúng tôi sử dụng một số cách tiếp cận sau:
- Phương pháp tiếp cận hệ thống:
- Phương pháp so sánh - đối chiếu:
- Phương pháp phân tích - chứng minh:
- Phương pháp tổng hợp:
5. Cấu trúc đề tài:
Cấu trúc đề tài nghiên cứu này gồm ba phần: Phần mở đầu, Phần nội dung, Phần kết luận. Trong
phần nội dung được chia làm hai chương chính:
Chương một: Những vấn đề chung
Chương hai : Yếu tố phật giáo trong văn học thời Lý- Trần
Cuối cùng là tài liệu tham khảo
*
**

NỘI DUNG
Chương 1: Những vấn đề chung
1.1.Khái quát về Phật giáo.
1.1.1.Nguồn gốc và quan điểm của Phật giáo


Phật giáo là một tôn giáo được Thích Ca Mâu Ni (Shakyamuni) truyền giảng ở miền bắc Ấn Độ
vào thế kỷ 6 TCN. Do được truyền bá trong một thời gian dài ra nhiều nơi đến nhiều chủng tộc
nên lịch sử phát triển của đạo Phật khá đa dạng về các bộ phái cũng như các nghi thức hay
phương pháp tu học. Ngay từ buổi đầu, Thích Ca, người sáng lập đạo Phật, đã tổ chức được một
giáo hội với các giới luật chặt chẽ. Nhờ vào sự uyển chuyển của giáo pháp, đạo Phật có thể thích
nghi với nhiều hoàn cảnh xã hội, nhiều dạng người, nhiều tập tục ở các thời kỳ khác nhau, và do
đó ngày nay Phật giáo vẫn tiếp tục tồn tại và ngày càng phát triển ngay cả trong các nước có nền
khoa học tiên tiến như Hoa Kỳ và Tây Âu.

Sự ra đời của Phật giáo trước tiên thể hiện tinh thần phản kháng của người nghèo, chống lại
thuyết bốn đẳng cấp của đạo Bà la môn, tìm con đường giải thoát con người khỏi nỗi khổ triền
miên trong xã hội nô lệ Ấn Độ.
Phật giáo là một yếu tố tâm linh. Thực chất của đạo Phật là một học thuyết về nỗi khổ và sự giải
thoát. Khuyên con người sống tốt đời, đẹp đạo.
Nói về lý thuyết của Đạo Phật, có thể tóm tắt như sau :
+ Quan niệm về thế giới và con người :
Bản thể của vũ trụ là chân như, có có không không. Các hiện tượng là vô thường, luôn luôn
chuyển động. Trong sự sống có sự chết, chết là điều kiện có sự sinh thành mới. Thời gian là vô
cùng, không gian vô tận. Trong vũ trụ có đến ba ngàn thế giới, đời thì có nhiều kiếp, một tiểu
kiếp có đến 16 triệu năm. Và con người ở trong vòng luân hồi sinh tử.
+ Về lý thuyết cứu khổ :
Phật đưa ra các vấn đề rất tinh vi và sâu sắc. Trước hết là bốn điều huyền diệu gọi là Tứ Diệu Đế
là :
Khổ đế : con người có bốn cái khổ sinh, lão, bịnh, tử, rồi còn nhiều cái khổ khác nữa như oán thù
mà thường gặp nhau,yêu thương phải xa nhau, cầu như ý mà không được . . . Tất cả những cái
khổ này đều là nghiệp báo.
Tập đế : nguyên nhân của bốn cái khổ trên do đâu mà có. Là do chỗ con người mê muội.
Diệt đế : phải biết nguyên nhân mê muội ấy, biết rồi thì phải diệt đi. Diệt được thì lòng mới thanh
thản, để vào cõi Niết Bàn.
Đạo đế : để diệt được mê muội phải có có con đường đi cho đúng. Con đường đúng ấy có tám
pháp, gọi là Bát Chánh Đạo.
Đấy là những điều cơ bản của Đạo Phật
1.1.2. Phật giáo ở Việt Nam
Đạo Phật từ Ấn Độ du nhập vào Việt Nam từ rất sớm, vào khoảng thế kỷ thứ II. Trong những
năm đầu của Công nguyên các thương nhân hàng hải ở Ấn Độ qua miền Viễn Đông để mua hàng
hoá, gỗ, trầm hương, vàng... Đạo Phật đã theo những đoàn khách buôn bằng đường thuỷ băng
qua Srilanka, Java, Indonesia, Ấn Độ và Trung Hoa. Ngay từ khi mới du nhập đạo Phật đã được
người Việt Nam nhìn nhận và trở thành một nền văn hóa đặc sắc của dân tộc.
Trong suốt hơn hai mươi ngàn năm đất nước chúng ta chịu biết bao thống khổ vớí bao đổi thay

thăng trầm, nhưng đạo Phật không vì vậy mà thay đổi. Luôn đồng cam cộng khổ với vận mệnh
thăng trầm của đất nước, vớí công cuộc chống ngoại xâm cũng như sự nghiệp dựng nước và giữ
nước, mở mang bờ cõi. Trong mọi hoàn cảnh nào Phật giáo luôn luôn có mặt trong sức sống của
nền văn hoá cũng như trong công cuộc chống xâm lăng.
Về quá trình du nhập và phát triển của Phật giáo từ đầu Công nguyên đến thế kỷ thứ XIV chúng
ta có thể khái quát qua các giai đoạn sau:
Giai đoạn I: Từ giữa thế kỷ thứ II đến đầu thế kỷ thứ III. Có thể nói ở giai đoạn này sự du nhập
của Phật giáo như một tôn giáo, mở ra hai con đường là Thiền tông và Tịnh độ tông.


Giai đoạn II :Từ thế kỷ thế VI đến thế kỷ thứ X
Đây là thời kỳ Phật giáo đặt nền móng xây dựng và phát triển. Với hai thiền phái chính là Tỳ Ni
Đa Lưu Chi và Vô Ngôn Thông đã khẳng định sự hiện hữu của Phật giáo như là một tôn giáo
không thể thiếu trong lòng dân tộc. Phật giáo đưa con người hướng đến một đời sống tâm linh
thánh thiền, biết phân biệt thiện, ác.
Giai đoạn III : Từ cuối thế kỷ thứ X đến cuối thế kỷXIV (tức cuối đời Trần)
Đây là thời kỳ Phật giáo phát triển cực thịnh. Trong giai đoạn này có thể xem Phật giáo như là
một quốc giáo của dân tộc Việt nam. Điểm đặc biệt của giai đoạn này là sự thống nhất của các
thiền phái và lập nên các phái Thiền ở Trúc Lâm và Yên Tử. Với sự nhiệt thành của Trần Thái
Tơng và Tuệ Trung Thượng Sỹ, khai sơn đệ nhất tổ là Thiền sư Hiện Quang và tổ thứ hai là
Thiền sư Viên Chứng hiệu Trúc Lâm là vị thầy của vua Trần Nhân Tông được vua tôn xưng là
Quốc Sư.
Đạo Phật có thể nói là một tôn giáo rất dễ gần gũi, luôn uyển chuyển trong mọi thời đại, mọi tình
huống. Thế cho nên các Thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi, Vô Ngôn Thông dù có mang màu sắc
Phật giáo của Ấn Độ hay Trung Hoa nhưng khi vào Việt Nam thì nhanh chóng thể nhập, dung
hoà gần gũi với đời sống dân tộc. Đó cũng chính là đặc điểm nổi bật của Phật giáo trong suốt quá
trình du nhập và phát triển.
Phật giáo ăn sâu, bám rễ vào Việt Nam từ rất sớm. Đến đời nhà Lý, nhà Trần, Phật giáo
phát triển cực thịnh, được coi là quốc giáo ảnh hưởng đến tất cả mọi vấn đề trong cuộc
sống. Đến đời nhà Hậu Lê thì Nho giáo được coi là quốc giáo và Phật giáo đi vào giai đoạn

suy thoái. Đến đầu thế kỉ XVII, vua Quang Trung cố gắng chấn hưng đạo Phật, chỉnh đốn
xây chùa, nhưng vì mất sớm nên việc này không có nhiều kết quả. Đến thế kỉ XX, mặc dù
ảnh hưởng mạnh của quá trình Âu hóa, Phật giáo việt Nam lại phát triển mạnh mẽ khởi
đầu từ các đô thị miền Nam với các đóng góp quan trọng của các nhà sư Khánh Hòa và
Thiện Chiếu
1.2. Văn học trung đại và một số đặc điểm
Văn học trung đại Việt Nam hình thành và phát triển theo sự hình thành và phát triển của lịch sử
dân tộc. Nó chính thức ra đời vào thế kỉ thứ X và về cơ bản kết thúc vào cuối thế kỉ XIX. Lấy
văn học dân gian làm nền tảng, lấy nhiệm vụ chính trị mà thời đại đặt ra làm nội dung, trên cơ sở
tiếp thu, kế thừa một cách có chọn lọc tinh hoa nền văn hóa Trung Hoa, Ấn Độ cùng các nước
lân cận…, văn học trung đại Việt Nam phát triển theo xu hướng dân tộc hóa, dân chủ hóa để
ngày càng đáp ứng tốt nhất việc phản ánh đời sống tâm linh của người Việt Nam và thúc đẩy đất
nước đi lên.
Sự phát triển của văn học trung đại Việt Nam đã tạo ra những truyền thống cơ bản nhất cho văn
học cậnn – hiện đại. Đây cũng là thời kì hình thành hệ thống ngôn ngữ văn học dân tộc; hình
thành các truyền thống tư tưởng – nghệ thuật và tích lũy kinh nghiệm sáng tác cho các thế hệ
sau.
Trong 10 hành trình thế kỉ, văn học trung đại Việt Nam đã trải qua bốn giai đoạn:
- Giai đoạn thế kỉ X- XIV
- Giai đoạn thế kỉ XV – XVII
- Giai đoạn thế kỉ XVIII – nửa đâu XIX
- Giai đoạn nửa cuối thế kỉ XIX
Văn học trung đại Việt Nam nổi bật lên bốn đặc điểm chính:
- Lấy văn học dân gian làm nền tảng:
- Tiếp thu có chọn lọc và sáng tạo tinh hoa từ truyền thống văn học Trung Hoa, Ấn Độ và các


nước lân cận
- Gắn bó vận mệnh đất nước, với những số phận của con ngươi Việt Nam
- Không ngừng tự đổi mới để đảm bảo ngày càng tốt hơn trọng trách mà lịch sử giao phó

1.3. Một số đặc điểm văn học Lý- Trần
Có thể nói văn học Phật giáo thời Lý – Trần đã để lại biết bao ấn tượng tốt đẹp trong lòng người
đọc qua bao thế hệ. Mỗi lần lật lại trang sử vẻ vang của đời Trần, chúng ta chi xiết cảm động và
khâm phục các vua Trần đã đoàn kết được mọi người, thống nhất được lòng dân, vua tôi hòa
hợp, quyết tâm bảo vệ giang sơn gấm vóc, đã ba lần oanh liệt chiến thắng quân Nguyên – Mông
xâm lược, viết nên những trang sử hào hùng của dân tộc Việt Nam. Hòa nhập vào vào vận hội
thăng hoa của đất nước, những người Phật tử Việt Nam đã biết vận dụng sức mạnh tâm linh của
Phật giáo, nâng Phật giáo Việt Nam lên ngang tầm của thời đại.
Trong đó phải kể đến ngọn đuốc sáng của Thiền học Việt Nam Trần Thái Tông, một bậc hành xử
lưỡng toàn cả đời lẫn đạo. Và ông đã trao lại tinh hoa Phật học của mình cho người học trò xuất
sắc, vừa thân tình, vừa có tình cốt nhục, đó là Trần Nhân Tông. Ông quả xứng đáng là một vị vua
anh hùng, một bậc lãnh đạo sáng suốt của dân tộc, một vị Tổ đã khai sáng phái Thiền Trúc Lâm
Yên Tử, trong bản sắc đặc thù Việt Nam. Do đó, nhân dân đã kính tặng ông danh hiệu là Điều
Ngự Giác Hoàng, một người suốt đời chỉ biết tận tụy, vì dân, vì nước, vì sự nghiệp hoằng dương
chánh pháp đến hơi thở cuối cùng. Đó là những nét độc đáo của Thiền học, thông qua những tác
phẩm văn học Phật giáo thời Lý – Trần, mãi mãi là dấu ấn vàng son trong lịch sử dựng nước và
giữ nước của dân tộc với hơn bốn ngàn năm văn hiến, trải qua các thời Văn Lang, Âu Lạc, Đại
Việt cho đến ngày nay thì thời đại Lý - Trần là thời kỳ cực thịnh nhất ở nước ta. Cũng chính
trong thời kỳ này, Phật giáo đã hòa nhập trong lòng dân tộc, cùng dân tộc đưa đất nước và đạo
pháp ngày càng phát triển. Thơ văn Lý – Trần có thể nói là một mảng văn chương rất đặc sắc đạt
đến đỉnh cao nghệ thuật, gắn liền cuộc sống đạo và đời, thể hiện triết lý thực tại của Phật giáo
thông qua các Thiền Sư, danh tăng, cư sĩ, vua, quan và cả những trí thức nho sĩ. Tất cả những dữ
kiện tiêu biểu, những giá trị đặc biệt, độc đáo của văn học thời Lý – Trần là những di sản cao quý
của cha ông lúc nào cũng thiết tha với tiền đồ của dân tộc mà ta có thể tìm thấy và chia sẻ đôi
điều.
Thời đại Lý – Trần là thời đại phục hưng, đất nước được độc lập có chủ quyền, dân tộc được hồi
sinh sau hơn một nghìn năm nô lệ phương Bắc. Văn học Phật giáo thời Lý – Trần được sản sinh
từ thời đại đó. Đây là giai đoạn đầu, đặt nền móng vững chắc cho sự phát triển của văn học viết
Việt Nam, trong đó văn học Phật giáo thời Lý – Trần đã đi tiên phong cho giai đoạn này với
những thành tựu đáng kể. Dù Phật giáo Việt Nam có nguồn gốc từ Ấn Độ hay Trung Hoa truyền

sang và chịu ảnh hưởng của nền văn hóa Phật giáo của hai nước này. Nhưng qua các triều đại
Đinh, Lê, Lý, Trần, Phật giáo Việt Nam đã thật sự cảm nhận được truyền thống tinh hoa của dân
tộc được ấp ủ, tôi luyện từ hồn thiêng sông núi, đã có những cảm xúc, biểu tượng, tư tưởng, tình
cảm, lẫn cái đẹp, cái bi, cái hài, cái trác tuyệt đã làm nên một thời đại thi ca huy hoàng.
Có thể nói văn học viết Việt Nam trước thời Lý Trần có rất ít tác phẩm là của các nhà Nho, quan
chức, số còn lại, đại bộ phận là những tác phẩm thuộc văn học Phật giáo.
Văn học viết Việt Nam trước thời Lý Trần với diện mạo riêng của nó, chúng ta thấy rằng trừ một
số tác giả Nho gia như Triệu Vũ Đế. Lữ Gia, Trương Trọng, Lý Tiến, Khương Công Phụ, Phùng
Đái Tri, Liêu Hữu Phương thì đa số còn lại là các trí thức Thiền sư hoặc trí thức theo Phật; và đại
bộ phận có các tác phẩm có giá trị, có bề dày trong văn học thời kỳ này đều thuộc về văn học
Phật giáo.
Về mặt ngôn ngữ, tuy văn học trước thời Lý Trần được viết bằng chữ Hán nhưng trong đó chúng
ta lại thấy phôi thai hình thức tá âm để hình thành chữ Nôm giai đoạn sau, đặc biệt là trong Hán


văn lại được viết theo cấu trúc ngữ pháp tiếng Việt. Điều đó cũng có nghĩa là nhà chùa là nơi đầu
tiên sản sinh ra tá âm. Có lẽ đây là nền tảng, để giai đoạn sau chế tác ra chữ Nôm tương đối hoàn
thiện và sử dụng để sáng tác tạo nên những tác phẩm văn học ưu tú.
Về mặt thể loại, văn học Phật giáo trước thời Lý Trần có mặt tương đối các thể loại văn học cổ –
trung đại; ca, kệ, thơ, luận thuyết triết lý, tựa, chú giải, dịch thuật, thuật ký, thư tranh luận thơ,
biên khảo. Những thể loại này phục vụ cho mục đích tôn giáo nên đa số thuộc văn học chức năng
– một truyền thống của văn học cổ – trung đại, vì thế những tác phẩm mang tính hình tượng còn
mờ nhạt. Tuy nhiên rải rác cũng có vài tác phẩm văn học hình tượng như Thương Đạo Hy pháp
sư của Đại Thừa Đăng. Nếu mở rộng ra văn học nhà Nho thời này còn có những tác phẩm như
phú Bạch Vân chiếu xuân hải (Khương Công Phụ), Đề lữ thấn (Liêu Hữu Phương) và hai bài thơ
của anh học trò vô danh Tống Mã thực và Thích An Nam sự. Đó là những tiếng lòng với nhiều
cung bậc tình cảm, thể hiện những sắc thái khác nhau của tác giả đối với đối tượng được phản
ánh. Ở đây, riêng trong bộ phận văn học Phật giáo có các thể loại như: tựa, chú giải, luận thuyết
triết lý, thơ, kệ, tụng, dịch thuật, thuật ký, biên khảo dạng tự điển ngôn ngữ, thư tranh luận…
chứng tỏ văn học Phật giáo thời kỳ này tuy mới hình thành nhưng đa dạng về thể loại, để giai

đoạn văn học sau kế thừa, tiếp tục phát triển.
Về mặt nội dung thể hiện, đó là những tác phẩm mang nội dung truyền giảng Phật pháp (dịch
thuật, tựa, chú sớ, chú giải, thuật ký, kệ, ngũ lục, lời đối đáp khai thị…). Đặc biệt, với chùm thư
tranh luận ở thế kỷ thứ V “có hay không có chân hình đức Phật” đã mở đầu cho loại văn chương
phê bình tranh luận mang tính chất học thuật và tác phẩm tá âm tự lại cắm cái mốc cho thể loại
nghiên cứu, biên khảo về ngôn ngữ học. Một số thơ, kệ mang tính sấm vĩ, tiên đoán việc xã tắc
của thời kỳ này cũng đã xuất hiện để giai đoạn sau phát triển với Pháp Thuận, Ngô Chân Lưu,
Nguyễn Vạn Hạnh…
Tóm lại, văn học trước thế kỷ thứ X trong đó chủ yếu là văn học Phật giáo như đôi nét diễn trình
nêu trên không đến nỗi “ít ỏi”, “thiếu vắng”, “mờ nhạt”, “hoặc đã chết theo họ từ lâu” như có
nhà nghiên cứu đã phát hiểu, mà trái lại, với số lượng tác giả, tác phẩm tuy không nhiều (so với
lịch sử ngàn năm) ít nhiều đã góp phần làm nên diện mạo một thời đại văn học. Có thể nói dân
tộc ta thật sự có một dòng văn học viết bằng chữ Hán trước thời Lý Trần (trước thế kỷ thứ X).
Đây chính là thời kỳ phôi thai, hình thành để khi có điều kiện sẽ tạo nên sức bật mạnh mẽ cho
văn học giai đoạn sau phát triển. Điều đó giải thích tại sao sau cả ngàn năm nô lệ, khi nước nhà
vừa giành lại được độc lập tự chủ thì văn học lại phát triển mạnh, có những thành tựu to lớn như
văn học thời Lý Trần.
*
**
Chương 2: Yếu tố phật giáo trong văn học thời Lý- Trần
2.1. Vài Nét Về Phật Giáo Lý - Trần
Phật giáo có mặt ở Việt Nam trong hơn 20 thế kỷ qua đã có một vai trò, một vị trí quan trọng
nhất định trong lịch sử dân tộc. Nhất là Phật giáo Lý – Trần đã thể hiện trí tuệ và từ bi sâu sắc
bằng sự nhập thế sinh động và đa dạng qua tư tưởng, lời nói, hành động gắn bó với cuộc sống an
vui hạnh phúc của dân tộc. Cả hai triều đại Lý – Trần, Phật giáo đã trở thành quốc giáo. Lúc bấy
giờ, cả nước từ vua, quan đến thứ dân đều theo Phật, đến chùa quy y, giữ giới, tụng kinh, Thiền
định nên mới có được một tinh thần an lạc, hòa hợp và thuần từ.
Thâm nhập giáo lý nhà Phật qua chính sách an dân trị nước nên các vua Lý – Trần đã chinh phục



trái tim, khối óc con người bằng đức trị thay pháp trị. Đạo đức vô ngã đã tạo cho con người một
cuộc sống hòa hợp, giản dị nhưng tạo lực tác động mạnh mẽ vô cùng. Vì thế cả hai triều đại Lý –
Trần đều tồn tại khá lâu. Triều Lý hơn 200 năm (1010 – 1225) và Triều Trần gần 200 năm (1226
– 1400). Như vậy, hai triều đại Lý – Trần tồn tại gần 400 năm. Có thể nói đây là thời đại cực
thịnh của Phật giáo Việt Nam mà cũng là thời đại đất nước hùng mạnh nhất trong trang sử nước
nhà. Các vua thời đại Lý – Trần được thừa hưởng những thành quả tốt đẹp của thế hệ trước, đồng
thời biết phát huy những tinh hoa gạn lọc được từ bên ngoài biến thể sao cho phù hợp với quốc
dân thủy thổ mà không đánh mất bản sắc dân tộc. Thêm vào đó, họ đã thấm nhuần lời chỉ bảo
của Thiền sư Pháp Thuận:
Quốc tộ như đằng lạc
Nam thiên lý thái bình
Vô cư như điện các
Xứ xứ tức đao binh
(Vận nước như giây quấn/ Trời Nam ôm thái bình/ Đạo đức ngự cung điện/ Muôn xứ hết đao
binh)
Muốn đất nước thái bình, thịnh trị. Chính nơi bản thân các vua đã tự trau dồi bằng đạo đức vị
tha, triết lý sống nhập thế trên tinh thần từ, bi, hỷ, xả của đạo Phật các vua không ngừng học hỏi,
tu tập cho đến khi thấu rõ giáo lý Phật Đà, góp phần tạo một sức sống mạnh mẽ, không khép kín
mà phổ biến khắp nơi trong dân chúng, khiến họ cùng học tập theo và sống đúng. Một đời sống
hướng thượng, hướng con người đến Chân – Thiện – Mỹ và đạt được chân lý ngay trong đời
sống thực tại này chứ không phải nơi một thế giới xa xăm nào khác. Đạo Phật đã tạo cho dân tộc
Việt Nam đương thời một niềm tin mạnh mẽ vào tự lực, vào khả năng trong sáng thuần khiết của
bản thân để sống đúng và sống đẹp theo tinh thần Chánh kiến, Chánh tư duy và Chánh mạng.
Đây chính là nguyên nhân làm cho triều đại Lý – Trần phát triển rực rỡ nhất trong lịch sử với
những chiến công vẻ vang và sự thành tựu to lớn về chính trị, kinh tế, văn hóa. … Chính đạo
Phật đã chan hòa vào lòng dân tộc góp phần hình thành một quan niệm, một lối sống tích cực,
hữu ích cho con người và cho cuộc sống.
Hơn thế nữa, Phật giáo đời Lý đã có những Thiền sư nổi tiếng. Đặc biệt là Thiền sư Vạn Hạnh –
Ngài vì dân vì nước, muốn cứu nước khỏi lâm nguy nên đã làm một cuộc đảo chính năm 1009
phế Lê lập Lý mở ra một trang sử mới cho triều đại nhà Lý. Lời nhận xét của Hoàng Xuân Hãn

là một minh chứng triều đại nhà Lý vững chắc và thịnh vượng ngự trị trên 200 năm thực thi nhờ
tinh thần Phật giáo: “Sau các đời vua hung hãng họ Đinh – Lê, ta thấy xuất hiện ra những người
cầm quyền có lòng độ lượng khoan dung, những cận thần đức độ trung thành. Đời Lý có thể gọi
là đời thuần từ nhất trong lịch sử nước ta”. Như vậy, Phật giáo đời Lý đã hun đúc nên những ông
vua Phật tử thuần thành làm cầu nối cho Phật giáo đời Trần đạt đến đỉnh cao trong lịch sử để
khẳng định quyền tự chủ tự cường của một đất nước. Vì vậy, dân tộc Việt Nam sẵn sàng chống
lại bất cứ sức mạnh nào muốn phá hoại nền hòa bình, hạnh phúc của mình. Và Phật giáo Lý –
Trần đã đáp ứng nguyện vọng ấy, góp phần vĩ đại vào công cuộc xây dựng bảo vệ đất nước.
Chiến công hiển hách còn ghi lại trong lịch sử. Nếu Lý Thái Tông đã đánh giặc Nùng rồi bình
được Chiêm Thành. Lý Thường Kiệt đem binh đánh Tống thì Trần Thái Tông cũng thu phục
được đất Chiêm và cuộc chiến thắng Nguyên Mông vẻ vang này dưới sự lãnh đạo tài tình của
vua Trần Nhân Tông và Hưng Đạo Vương.
Xưa nay, các bậc đế vương thâu phục giang sơn bằng con đường gươm đao, chế ngự dân bằng
quyền hành, bạo lực. Còn thời đại Lý – Trần thì khác, lên ngôi vua không hề có một giọt máu
rơi, quần thần trong triều đình đều nhất trí và cũng không nghe dân tình than oán. Sức mạnh nào
đã tạo nên một quốc gia hưng thịnh hùng cường, có phải chăng chính đức từ, bi, hỷ, xả của nhà


Phật đã thấm nhuần từ vua quan cho đến thứ dân.
Các ông vua thời Lý – Trần đã dùng chính sách trị dân có tính khoan hồng kết hợp pháp trị với
đức trị. Như chúng ta thấy, sau khi Lý Công Uẩn lên ngôi, là một Phật tử thuần thành, ông liền ra
lệnh hủy bỏ hết mọi hình cụ trong ngục và cho xây dựng nhiều chùa mới trong nước. Lý Thánh
Tông, vị vua thứ 3 nhà Lý, nổi tiếng là một ông vua nhân từ. Một hôm thiết triều, ông chỉ vào
công chúa Động Thiên đứng cạnh mà bảo các quan rằng: “Lòng trẫm yêu dân như yêu con trẫm
vậy. Hiềm vì trăm họ làm càng cho nên phải tội, trẫm lấy làm thương lắm, vậy từ nay về sau tội
gì cũng giảm bớt đi …”
Nói chung, các ông vua Phật tử thuần thành đời Lý và đời Trần đều có tấm lòng thương yêu dân
như vậy là nhờ thấm nhuần tinh thần từ, bi, hỷ, xả, vô ngã vị tha của đạo Phật. Đường lối lấy đức
trị dân của hai triều đại Lý – Trần đã minh chứng sự hội nhập của Phật giáo vào đời sống văn
hóa, chính trị và xã hội của dân tộc Việt Nam.

Song, điểm nổi bật của Phật giáo Lý – Trần là nó cung cấp một triết lý sống, chứ không phải là
những tín điều chết, các Phật tử Lý – Trần đã quán triệt, đã thực hiện triết lý đó bằng cả cuộc
sống của chính mìmh. Đạo Phật đời Lý – Trần không chấp tướng, không giáo điều, không vướng
mắc vào hình thức, không bó hẹp trong chùa chiền, tu viện, càng không phải là sở hữu riêng của
giới Tăng, Ni mà là của tất cả mọi người biết lấy nó làm lẽ sống, dù người đó là vua chúa, Thiền
sư, quan lại, hay là người dân bình thường. Ai cũng học và tu đạo Phật được, ở đâu, làm gì cũng
học và tu theo đạo Phật được, miễn là biết nhìn rõ tâm mình, chuyển hóa tâm và sử dụng tâm cho
tốt. Trong “Khóa Hư Lục”, Trần Thái Tông gọi đó là biện tâm, Trần Thái Tông viết: “Không kể
là sống ẩn trên núi hay giữa thành thị, không phân biệt tại gia hay xuất gia, tăng hay tục, điều chủ
yếu là biện tâm, vốn không có phân biệt nam nữ sao còn chấp tướng”. Vì không chấp tướng nên
Phật giáo đời Trần mới có được một nhân vật đặc biệt như Tuệ Trung Thượng Sĩ, tuy là một cư sĩ
tại gia, nhưng lại được mọi người Tăng cũng như tục tôn kính, học hỏi như là một bậc Thầy lớn
trong đạo. Thậm chí Trần Nhân Tông và Pháp Loa là hai vị Tổ thứ nhất và thứ hai của Phái
Thiền Trúc Lâm cũng suy tôn Tuệ Trung Thượng Sĩ là Thầy của mình. Với tinh thần không chấp
tướng, vua Trần Nhân Tông sau khi xuất gia, đã không quản gian khổ nhọc nhằn, đi khắp nơi
trong nước khuyên mọi người sống theo năm giới, mười thiện là những nguyên lý căn bản của
Đạo Đức Phật giáo. Nhờ vậy, ngay giữa lòng của xã hội Phong kiến, đạo Phật đời Lý – Trần đã
tạo ra những mẫu người tuyệt vời, mà con người ở vào thời đại nào cũng cảm thấy tự hào.
Đạo Phật thời Lý – Trần là đạo Phật của từ bi và trí tuệ, là hai đức hạnh hàng đầu của Phật giáo.
Tinh thần từ bi của Phật giáo thời Lý – Trần là đường lối trị nước bằng đức trị còn hạnh trí tuệ là
nó không hướng đến giải quyết các vấn đề thuần túy lý luận hay là siêu nghiệm, như chúng ta có
thể thấy ở một số luận sư Phật giáo Ấn Độ, mà hướng tới giải quyết các vấn đề rất cụ thể, rất bức
xúc, có tầm quan trọng đối với đời sống con người và trong công cuộc xây dựng bảo vệ đất
nước.
Hai triều đại Lý – Trần đánh dấu đỉnh cao của sự hội nhập Phật giáo vào giòng sống của đất
nước và xã hội Việt Nam. Một sự hội nhập được trải dài trên mọi bình diện của đời sống. Phật
giáo thời Lý – Trần đã hình thành một nước Việt Nam thật sự độc lập, tự chủ, có đủ sức mạnh tự
thân để đánh đuổi mọi cuộc xâm lăng của ngoại ban.
Tóm lại, tính độc đáo và sáng tạo của Phật giáo Lý – Trần chính là ở chỗ luôn luôn chủ động gạn
lọc, tiếp thu cái hay, gạt bỏ cái dở, từ đó sáng tạo ra một xã hội thường xuyên đổi mới, trẻ trung,

cập nhật với thời thế, có nhiều sinh khí. Đó là điểm nổi bật nhất của Phật giáo thời Lý – Trần
trong những thế kỷ đầu xây dựng nền độc lập, tự chủ. Quả thật, Phật giáo thời đại Lý – Trần đã
góp phần không nhỏ trong việc xây dựng nền độc lập quốc gia trong lịch sử nước nhà. Các vua
trị vì đã thực sự thấm nhuần lời dạy của đức Phật trong kinh Trường A Hàm: “Biết đoàn kết, biết


ăn ở hòa hảo cùng nhau và thường hội họp nhau lại để lo bàn việc nước thì không sợ gì sẽ bại
vong mà nhất định sẽ được cường thịnh, phong phú thêm”. Đây là những nhân tố tư tưởng góp
phần tích cực vào sự tồn tại lâu dài của hai triều đại Lý – Trần. Và cũng là mọt trong những bản
sắc trong văn học thời kỳ này.
2.2. Nét đẹp Phật giáo qua thơ văn Lý- Trần
2.2.1. Vẻ đẹp của con người trước những ưu tư tĩnh lặng của cuộc đời:
“Văn học là nhân học” (M.Gorki). Văn học phản ánh hiện thực cuộc sống và góp phần cải
tạo cuộc sống. Hiện thực cuộc sống bao giờ cũng đa dạng, muôn màu muôn vẻ. Văn học
phản ánh hiện thực tức phần nào đề cập đến cuộc sống với vận mệnh con người cụ thể. Ở
đó, con người vừa là trung tâm chủ thể sáng tạo văn học nghệ thuật, vừa là đối tượng
khách thể để văn học nghệ thuật nhận thức, chiêm nghiệm và phản ánh.
Hình ảnh con người trong thơ Thiền đời Lý: “Dấu ấn cái “tôi” mang giá trị thẩm mỹ trong nền
văn học ấy chưa biểu hiện ra bằng sự khắc họa ngoại hình nhân vật cũng như tô điểm cá tính
nhân vật, tuy vậy, nó đã thấp thoáng ẩn hiện đằng sau cảm hứng rạo rực của những bài thơ dùng
thiên nhiên để nói lên tâm trạng của người viết” (Nguyễn Huệ Chi – Nghĩ về văn học đời Lý).
Đời Lý được xem là thời đại thuần từ nhất trong lịch sử dân tộc Việt Nam (Hoàng Xuân Hãn)
chính là do sự ảnh hưởng của Phật giáo lúc bấy giờ. Phật giáo thời kỳ này phát triển sâu rộng
trong xã hội. Từ vua quan đến thứ dân, ảnh hưởng đến tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn
hóa, xã hội. Có thể nói, đó là một đạo Phật với tất cả những yếu tố phù hợp với tâm lý, tập quán
và đạo lý truyền thống của dân tộc, là đường lối đúng đắn có ích cho sự phát triển, hưng thịnh
của đất nước. Đó là Phật giáo Thiền tông, một Phật giáo Việt Nam vô ngã, vị tha, bình dị và thiết
thực, đi thẳng vào lòng xã hội với tinh thần thực tiễn, tích cực nhập thế: “Người ta không chú
tâm đi tìm một Niết bàn xa xôi mà đi tìm chân lý, hạnh phúc ngay chính trong lòng cuộc sống.
Công quả của Thiền sư không ở tu trì giới hạnh mà bằng những đóng góp hữu ích cho con người,

cho dân tộc” (Đoàn Thị Thu Vân, thơ Thiền Lý-Trần).
Với tư cách là một dòng văn học, thơ Thiền đời Lý không thể không bàn về vấn đề con người.
Có thể nói, nổi bật trong thơ Thiền đời Lý là sự thể hiện giáo lý khá đậm nét, với tinh thần điều
hòa, dung hợp quân bình giữa tâm và trí. Thông thường nói đến tâm và trí là nói đến hai phạm
trù đối lập nhau. Trí là trí tuệ, lý trí tức là nói đến sự rạch ròi, khúc chiết với tư duy logic, đó là
nhận thức lý tính mang tính nghiêm khắc, khô khan. Tâm không chỉ là tình cảm, là tấm lòng mà
còn phải hiểu theo nghĩa triết học là làm chủ thể cả tư tưởng cùng hành vi của con người. Tâm có
tĩnh thì trực giác mới mẫn nhuệ. Thiền học là tâm học, phương pháp tu tập của Thiền là trực cảm
tâm linh, thấy rõ chỗ không tâm mới đạt đạo. Người ta có hành đạo, sống đạo mới biết đạo là gì.
Đó chính là một nét đặc thù của thơ Thiền đời Lý. Chính từ khả năng trực cảm ấy, con người trực
ngộ được lẽ nhiệm mầu của Đạo, thấy được bản chất của các pháp. Vấn đề bản thể thường xuyên
được đặt ra.
Danh từ “bản thể” theo từ điển Phật học nói “là căn nguyên tự thể của các pháp”. Cao Xuân Huy
nói “Bản thể là bản thể của vũ rụ, vạn pháp, là các hiện tượng trong thế giới khách quan”. Kinh
Hoa Nghiêm nói “Thế giới bản thể gọi là Lý pháp giới, thế giới hiện tượng gọi là Sự pháp giới”,
bản thể ví như nước, hiện tượng ví như sóng. Sóng dù có muôn hình, vạn trạng nhưng bản chất
tối sơ, nguyên thủy nước vẫn không thay đổi. Quan niệm đồng nhất, trong sai biệt này được thơ
Thiền phản ánh khá đầy đủ, chủ yếu dưới hình ảnh hiện tượng vô thường, vô ngã của thế giới:
Bát nhã chân vô tong
Nhân không ngã diệc không
Quá hiện vị lai Phật
Pháp tánh bản lai đồng.


(Lý Thái Tông)
Con người cũng là một pháp, một pháp đặc biệt, hiện lên trong thơ Thiền đời Lý là con người
bản thể: vô ngã, duyên sinh.
Thân như điện ảnh hữu hoàn vô
Vạn mộc xuân vinh thu hựu khô
Nhậm vận thịnh suy vô bố úy

Thịnh suy như lộ thảo đầu phô.
(Vạn Hạnh)
Giáo lý đạo Phật thậm thâm vi diệu, khó hiểu khó nhận. Giúp người dễ dàng nắm bắt không gì
bằng ví dụ. Thông qua “ánh chớp, hạt sương, ngọn cỏ” tính vô thường, giả tạm của nhân sinh,
trần thế hiện lên rõ nét.
Thân như bóng chớp có rồi không
Cây cối xuân tươi thu não nùng.
(Ngô Tất Tố dịch)
Thiền sư Bản Tịch cũng nói:
Huyễn thân bản tự không tịch sinh,
Do như khính trung xuất hình tượng.
Dòng thời gian vẫn mãi vô tình trôi. Bạn chấp nhận hay không nó vẫn vậy. Nếu nhận chân được
bản chất con người là vô ngã, thế sự vô thường, bạn sẽ bớt đi sự khổ đau, bi lụy. Hãy nghe Thiền
sư nói:
“Mặc cuộc thịnh suy đừng sợ hãi
Kìa kìa ngọn cỏ giọt sương đông”.
Mở đầu bài thơ tưởng như tâm trạng bi ai của tác giả luyến tiếc vô thường chóng vánh nhưng kết
thúc là sự minh triết đầy vẻ thư thái của một con người bản lĩnh. Con người đã vượt lên những
được – mất, vinh – nhục, hơn – thua, tốt – xấu. Đi giữa dòng đời mà không lụy thế, đó là tinh
thần “tùy duyên bất biến” của Thiền tông, của Phật giáo. Hình ảnh “hạt sương treo đầu ngọn cỏ”
chuyển đạt trọn vẹn tính vô thường tạm bợ của kiếp người, cuộc đời, đồng thời cũng hàm súc
diệu nghĩa chơn thường trong lòng thực tại…
Đứng trước hiện trạng ấy của đất nước, các Thiền sư là những người trụ cột, có ảnh hưởng rất
lớn trong việc vạch ra phương hướng đúng dắn cho nước nhà. Không giáo điều như Nho giáo,
không bị đồng hóa bởi Trung Hoa, không để đất nước lại rơi vào tay giặc… âm hưởng ấy ít
nhiều phảng phất trong hơi thở Thiền gia.
Ly tịch phương ngôn tịch diệt khứ
Sanh vô sanh hậu thuyết vô sanh
Nam nhi hữu chí xung thiên khí
Hưu hướng Như Lai hành xứ hành.

(Quảng Nghiêm)
Tính khai phóng, phá chấp khoáng đạt của Thiền tông đã mở ra cho con người những chân trời
mới đầy hứa hẹn. Không cần cứng nhắc rập khuôn theo giới điều, phong cách cũ, đường đi
không còn quan trọng chỉ cần đích đến là giải thoát tối thượng. Mỗi một con người là một cuộc
sống riêng với rất nhiều duyên hòa hợp, trong trùng trùng duyên khởi ấy không ai giống ai.
Thiền sư Bảo Giám còn nhấn mạnh:
Mấy ai thành Phật ở tu hành
Chỉ trói cùm thêm trí óc mình
Thấu lẽ huyền vi trong ngọc sáng
Là vầng dương hiện giữa trời xanh.


“Mặt trời soi tỏ giữa trời cao” là hình ảnh rất ấn tượng, biểu thị chân tính khi gạt hết mọi mây mờ
che lấp. Giá trị ở chổ mỗi người đều có ngọc ma ni của chính mình, chỉ cần nhận biết điều này
thì ai cũng đủ tự tin để “gạn đục khơi trong”, để vạch ra cho mình một hướng đi mới “chớ dẵm
Như Lai lối đã qua”, mãnh liệt hơn nhưng không trái bản nguyên của Phật pháp. Chính điều này
đã thay áo mới cho Phật giáo; vẫn mang màu sắc, hình thái như một tín ngưỡng truyền thống
nhưng không rơi vào lối mòn bảo thủ, cố chấp hay thụ động. Các Thiền sư dấn thân phụng sự
dân tộc nhân sinh mà vẫn không quên mục đích chính giải thoát, giác ngộ. Thiền sư nhập thế mà
không lụy tục, sẵn sàng “chống gậy trấn kinh kỳ” nhưng cũng sẵn sàng bỏ vinh hoa phú quý như
“trút bỏ chiếc giày rách”, bởi Thiền sư hiểu rõ:
Sắc là không, không tức sắc
Không là sắc, sắc tức không.
(Diệu Nhân)
Con người trong thơ Thiền đời Lý, tựu trung là con người giác ngộ, mang tư tưởng tùy tục, hòa
hợp với đời một cách nhuần nhuyễn, hóa đạo, hành đạo trong tinh thần “phụng sự chúng sanh là
đền ân chư Phật”. “Con người” trong thơ Thiền đời Lý tuy vẫn mang thủ pháp tượng trưng ước
lệ cao, chưa thoát ra phương pháp phổ biến xây dựng những mẫu mực nghệ thuật trong quan
điểm Trung cổ khiến cho phần nào xa vời cái “tôi” bé nhỏ, gần gũi ở mỗi con người cá thể nhưng
ảnh hưởng sâu sắc của “con người” ấy đối với bao thế hệ người đọc là điều không thể phủ nhận.

Tiếp nối nền thơ ca Phật giáo đời Lý, văn học đời Trần cũng chịu ảnh hưởng sâu sắc của tôn giáo
này, nhất là thơ Thiền. Khác trước, thời này không còn sự thống lĩnh duy nhất của Phật giáo nữa
mà tinh thần tam giáo đồng nguyên tác động nhiều đến đời sống văn hóa tinh thần. Tuy nhiên
Phật giáo vẫn có ảnh hưởng sâu rộng hơn cả đến nhiều mặt trong xã hội, đặc biệt là thơ Thiền.
Đã có mấy ai trong đời tự vấn mình: “ Sinh hà xứ lai, tử hà xứ khứ?” (Ta sinh ra từ đâu và chết sẽ
về đâu?). Dường như đó là câu hỏi của muôn đời, mãi không tìm ra câu trả lời thỏa đáng.
Thơ Thiền đời Trần không nhằm tìm lời giải đáp câu hỏi ấy. Trước tiên, thơ Thiền đề cao vẻ đẹp
của con người ở những gì là bản chất nhất, tự nhiên nhất, không cầu kỳ tô điểm. Trong bài tựa
sách Thiền tông chỉ nam, Trần Thái Tông viết: “ Trong núi vốn không có Phật, Phật ở trong tâm
ta, phàm phải lấy ý muốn của thiên hạ làm ý muốn của mình và tâm thiên hạ làm tâm của mình”.
Bởi con người chính là Phật rồi, chẳng phải tìm chi nữa. Con người, nơi tập trung những gì đẹp
nhất. Sự sinh ra và có mặt của con người trong trời đất là bước khởi đầu tốt đẹp. Có thể thấy, đây
là sự khẳng định tinh thần nhân văn sâu sắc. Con người là tất cả, sự hiện hữu của con người là
niềm hạnh phúc lớn lao:
“Tứ sơn liễu bích vạn thanh tùng
Bích liễu đô vô, vạn vật không
Hỉ đắc lư nhi tam cước tại
Mịch kỳ đả sấn thướng cao phong”
(Trần Thái Tông – Tứ sơn kệ)
(Bốn núi cheo leo vạn khóm xanh/ Muôn lời không cả hiểu cho rành/ Lừa ba chân đó may tìm
được/ Lên thẳng non cao sấn bước nhanh)
Mượn cảnh vách núi cheo leo, rừng cây xanh thẳm, thiền sư nhắc ta mọi vật đều là không cả.
Hãy quay về tìm lấy sức sống trong chính bản thân mình. Khi nhận ra điều đó, mọi khó khăn
nguy hiểm trong cuộc đời sẽ trở thành vô nghĩa, không ràng buộc. Qua đó, ta thấy nổi lên một
tinh thần mạnh mẽ trong thơ Thiền: luôn chủ động làm chủ chính mình. Tất cả toát lên một vẻ
đẹp nhân văn: vẻ đẹp tự thân của con người.
Hình ảnh con người trong thơ Thiền đời Trần còn mang nét đẹp cao cả: khả năng tự lực, tự
cường, biết dựa vào sức mình. Thơ Thiền đời Trần có xu hướng vươn đến một con người vũ trụ,



hòa điệu với thiên nhiên, mang tất cả sức mạnh tự do tuyệt đối của trời đất. Thơ thiền đề cao khả
năng độc lập sáng tạo của con người, chú trọng cái tâm: “Ưng vô sở trụ nhi sinh kỳ tâm” (Không
dựa vào cái gì để sinh ra tâm). Tâm chính là Phật, là bản thể của vũ trụ. Thơ Thiền hướng đến
bản thể - vấn đề cội rễ mà con người băn khoăn tìm kiếm. Bằng những hình ảnh quen thuộc, cụ
thể, thơ Thiền chỉ ra rằng: cội rễ ấy không ở đâu xa mà rất gần gũi trong tầm tay con người. Có
thể thấy thấp thoáng qua hình ảnh thiên nhiên:
“Lưu thủy hạ sơn phi hữu ý
Bạch vân xuất tụ bản vô tâm”
(Trần Thái Tông – Ngữ lục vấn đáp môn hạ)
(Nước chảy xuống đồi không cố ý/ Mây ra khỏi núi vốn vô tâm)
Ý thức được thế giới thực tại là vô thường, đầy biến động và không ngừng thay đổi, hiểu được
quy luật tự nhiên của trời đất, con người thời này vượt khỏi cái chấp vào không hay có để đạt đến
một cuộc sống bình dị ý nghĩa và hài hòa cùng mạch sống dân tộc. Con người có thể mặc sức
tung hoành mà không rơi vào chấp. Như Tuệ Trung thượng sĩ trong Phật tâm ca:
“Hành diệc thiền, tọa diệc thiền
Nhất đóa hồng lô hỏa lý liên”
(Đi cũng thiền, ngồi cũng thiền/ Trong lửa lò hồng một đóa sen)
Chất nhân văn trong thơ Thiền đời Trần không chỉ đề cao sức mạnh tự lực, tự cường của con
người mà còn đẹp trong suy nghĩ, hành động. Tuệ Trung cũng kéo người đọc ra khỏi cách nghĩ
thông thường, khuôn sáo. Người đi tu không nhất thiết phải suốt ngày niệm Phật, không được ăn
thịt. Ông kêu gọi hãy tự thắp lên ngọn đuốc của chính mình, giác ngộ chân lý, đừng dựa vào cửa
ngõ nhà người khác:
“Phật Tổ đáo đầu câu bất lễ
Thu quang hiểu giản ngọc sùng vinh”
(Tụng cổ)
(Phật tổ cũng chẳng cần lễ bái/ Ánh sáng mùa thu nơi khe sớm tự trong sáng như ngọc).
Tự nhiên mà không kém phần thanh thoát. Thật là những ý nghĩ, hành động hết sức độc đáo, mới
mẻ. Điều đó càng tôn lên vẻ đẹp của con người thời này. Như bài Ngẫu tác của Trần Thánh
Tông:
“Tự thị quyện thì tâm tự tức

Bất quan nhiếp niệm, bất quan thiền”
(Lúc mệt mỏi rồi tâm tự tắt/ Chẳng cần nhiếp niệm, chẳng cần thiền)
Đừng tìm đâu xa xôi, Phật cũng là người với mày ngang mũi dọc (Giới am ngâm – Trần Minh
Tông). Cái tinh vi, khéo léo của thiền gia là biết che giấu lòng nhân ái hiền hậu, nồng nàn đằng
sau cái bề ngoài có vẻ lạnh lùng, giễu cợt. Đó chính là tấm lòng của nhà thơ đối với con người,
cuộc sống. Thơ Thiền đời trần đã phản ánh vẻ đẹp đầy chất nhân văn ấy trong tư tưởng ca ngợi
con người đẹp trong ý chí, suy nghĩ và hành động.
Bên cạnh đó, con người thời này còn đẹp ở thái độ, cách sống được thể hiện trong thơ Thiền.
Tiểu biểu hơ cả là thái độ sống ung dung tự tại. Nhiều lần trong thơ Thiền ta bắt gặp hình ảnh
con người sống phóng khoáng, trong sáng. Đó là hình ảnh ngư ông ngủ say để thuyền tự do vượt
sóng, ông chài quên cái công việc độ nhật của mình để hòa nhập tâm hồn làm một với cảnh vật
(Ngư nhàn – Không Lộ). Cái mới trong hình ảnh con người đời Trần là sống tự do phóng khoáng
nhưng luôn gắn bó mật thiết với cuộc sống.
Hơn thế nữa, thơ của các thiền sư không xa rời cuộc đời mà qua đó, giáo dục con người một tâm
hồn, một cách sống minh triết:
“Thiền bản bồ đoàn khán trụy hồng”


(Trần Nhân Tông – Xuân vãn)
(Nệm cỏ ngồi yên ngó rụng hồng)
Có thể tìm thấy trong thơ thiền những giây phút lặng yên không nói. Đó là hình ảnh con người
vô ngôn. Trong không gian ngập chìm mùi hương nhẹ nhàng lan tỏa, con người lặng yên để lắng
tâm hồn dạt dào hơn hết (Gia Lâm tự - Trần Quang Triều). Phút giây đó, ngôn ngữ đời thường
trở nên không cần thiết vì phương tiện hữu hạn ấy làm sao diễn đạt cái chân lý vô cùng! Giây
phút hòa điệu giữa con người và vũ trụ đem lại niềm an lạc không thể bày tỏ thành lời, chỉ người
trong cuộc mới cảm nhận được hết.
Chất nhân văn trong thơ Thiền đời Trần còn thể hiện qua việc tập trung miêu tả vẻ đẹp tâm hồn
con người. Đó là cái tâm trong sáng, đạt đạo, không vướng bận. Như trong bài Hạnh Thiên
Trường hành cung của Trần Nhân Tông. Thi nhân mở rộng cảm xúc, trải tâm hồn mình ôm lấy
non sông cảnh vật. Một ánh trăng, một mảnh trời thật thanh bình như vốn dĩ của nó. Chính nhờ

tâm hồn đẹp, con người làm cho cảnh vật đã đẹp lại càng trở nên sống động hơn, vừa như có thể
nắm bắt, vừa rất mơ hồ, huyền ảo. Cái tâm hướng thiện giúp họ sống hết sức thoải mái, không bị
ràng buộc vào bất cứ điều gì.
Khá nhiều lần trong thơ Thiền, ta bắt gặp trạng thái quên: “Vong thân vong thế dĩ đô vong” (Cúc
hoa III), “Trúc đường vong thích hương sơ tận” (Tảo thu – Huyền Quang). Tất cả những cái
quên đó nói lên tinh thần, cách sống của con người thời này. Họ biết sống an nhiên, vượt khỏi
ràng buộc thói thường, quý trọng hạnh phúc thực tại. Sống tự do, có phần táo bạo nhưng không
kỳ dị, con người coi vũ trụ với mình là một. Dẫu mang hơi thở: “Mùi thiền đã bén muối dưa,
màu thiền ăn mặc đã ưa nâu sồng” (Nguyễn Du), đạo Thiền không phải để an ủi những ai tủi
nhục, hèn yếu. Nó đòi hỏi con người phải lấn lướt mọi gian nguy, vượt lên chính mình và trở về
với chính mình – một trong những vẻ đẹp nhân văn cao quý.
Đối với con người, cuộc sống, thi nhân luôn rộng mở tâm hồn để giao hòa với tất cả. Với thiền
sư Huyền Quang, đó có thể là một cô thiếu nữ (Xuân nhật tức sự) hoặc một người tù binh (Ai
phù lỗ). Bằng tấm lòng tha thiết nồng nàn, nhà thơ trải lòng mình với mọi cảnh đời, số phận. Đó
là tấm lòng yêu thương chân thành với đất nước, quê hương.
Một nét đẹp nhân văn sâu sắc trong thơ Thiền đời Trần là sự sống của con người tồn tại sự vĩnh
hằng với tự nhiên. Trở về với thiên nhiên là lúc con người tìm gặp bản ngã của mình với tính
nhân văn tuyệt đích. Có một mối hòa điệu tuyệt vời giữa tâm hồn người với sự vận động của
thiên nhiên. Không gian trong thơ Thiền qua Thiên trường vãn vọng, Đăng Bảo Đài sơn… mang
vẻ khoáng đạt và lặng lẽ, trống không và bình dị cũng là nét đặc trưng cho cái không của Thiền.
Không gian này biểu trưng cho tâm hồn Thiền gia, không phải lúc nào cũng say đắm ngọt ngào,
thiết tha nồng cháy nhưng lại bát ngát vô bờ bến, trong lặng không mùi vị nhưng đậm đà một
hương vị Thiền sâu thẳm.
Không gian bao giờ cũng gắn với một thời gian cụ thể. Thời gian trong thơ Thiền không nằm
trong một giới hạn nhất định nào. Có khi là Xuân vãn, có lúc là Tảo thu… Nhờ nắm bắt được
quy luật thay đổi của tự nhiên, vận động của trời đất, thơ Thiền đề cao thời gian thực tại và chủ
trương sống trọn vẹn, hết mình với cuộc đời. Trở về với chính mình, với nguồn cội, đó là lúc cái
đẹp của chất nhân văn hội tụ và tỏa sáng.
Đỉnh cao đích thực của tư tưởng nhân văn là hướng dẫn con người đạt tới một cuộc sống an lạc,
hạnh phúc. Hiểu được ý nghĩa đó, con người đời Trần với tinh thần phá chấp vượt khỏi mọi

vướng mắc, vui vẻ đón nhận cuộc sống: “Tiếng ve chiều rộn rã bên tai” (Hạ cảnh – Trần Thánh
Tông), “Suốt ngày thảnh thơi gảy đàn muôn điệu” (Tự thuật – Trần Thánh Tông). Hay sự kết hợp
hài hòa cả thể chất lẫn tinh thần (Xuân cảnh – Trần Nhân Tông, Đốn tỉnh – Tuệ Trung)…
Trong giai đoạn gắn với nhiều biến cố lớn lao của lịch sử, con người đời Trần với tinh thần nhập


thế, tích cực hành động, họ sống hòa mình vào mạch sống dân tộc: “Vắt đất thành vàng ròng cho
quốc gia, khuấy sông dài thành sữa ngọt đãi người” (Khóa hư lục – Trần Thái Tông). Vượt lên
thói thường, con người trở nên lạc đạo, đạt đến cuộc sống bình dị, có ý nghĩa ngay trong cuộc
đời này: đánh giặc cứu nước, hành đạo giúp đời. Hành động nhập thế tươi đẹp này đã được vua
Trần Nhân Tông tổng kết xuất sắc trong bài kệ ở cuối bài phú Cư trần lạc đạo:
“Cư trần lạc đạo thả tùy duyên
Cơ tắc xan hề khốn tắc miên
Gia trung hữu bảo hưu tầm mịch
Đối cảnh vô tâm mạc vấn thiền”
(Ở đời vui đạo hãy tùy duyên / Hễ đói thì ăn, mệt ngủ liền / Trong nhà có báu tìm đâu nữa /
Trước cảnh vô tâm chớ hỏi thiền)
Có lẽ, đó cũng là tinh thần con người Việt Nam được thể hiện trong ca dao:
“Ra đường gặp vịt cũng lùa
Gặp duyên cũng kết, gặp chùa cũng tu”.
Tóm lại, hình ảnh con người dưới cái nhìn của phật giáo kia thật cao đẹp, Ngày nay, chúng ta
đang sống giữa thế kỷ XXI, một xã hội hiện đại với nhiều tiến bộ về khoa học kỹ thuật. Nhưng
cùng lúc, xã hội cũng cất lên tiếng kêu khẩn thiết báo động sự suy thoái trầm trọng về vấn đề đạo
đức, lối sống của con người. Trong ý nghĩa đó, tìm về Chất nhân văn trong thơ Thiền đời Lý Trần có ý nghĩa tích cực làm vực dậy ý thức của con người về một cuộc sống tốt đẹp, sống hết
mình để cống hiến cho đời bằng cả tình yêu và nhiệt huyết. Một khi con người biết sống vị tha,
cho người vì đời thì cuộc sống này thật ý nghĩa biết bao!
2.2.2. Triết lý giác ngộ, giải thoát hướng mọi người thiền tu (tinh thần nhập thế của các
Thiền sư)
Theo quan niệm Phật giáo, hạnh phúc là sự vắng mặt của khổ đau. Nếu có khổ đau là không có
hạnh phúc. Không ai muốn khổ đau, ai cũng muốn hạnh phúc. Đó là một thực tế. Thông thường

con người thường tránh nói chuyện đau khổ, tuy nhiên trong Phật giáo, người thực hành Phật
pháp không hề chạy trốn khổ đau mà trái lại thường quán sát về nó, nhờ quán sát sự đau khổ mà
ta có thể thực nghiệm về đời sống tâm linh.
Quán khổ đau của chính mình một cách thường xuyên là điều thiết yếu giúp ta từ bỏ tâm bám
víu, ích kỷ, nuối tiếc. Còn quán sát nỗi đau của người khác giúp ta phát triển lòng từ bi và thái độ
sống tri túc, nhiệt tình trong sự chia sẻ trách nhiệm của người khác, đồng thời thiết lập mối quan
hệ tương thân tương ái giữa cộng đồng và xã hội, phát triển đời sống tâm linh nhằm xây dựng
một cuộc sống tốt đẹp ngay giữa cuộc đời này.
Nếu nói và nghĩ về khổ đau để mà chán ghét và chạy trốn nó thì đấy không phải là quan điểm
của Phật giáo. Quán sát về khổ đau để sống tích cực hơn, vị tha hơn, bớt cố chấp thì đấy mới là
một phần ý nghĩa của người học Phật.
Con người chúng ta khi sinh ra và lớn lên ai cũng từng nếm những mùi vị khổ đau và luôn ấp ủ
những ước mơ đi tìm hạnh phúc, nhưng thử hỏi có mấy ai được toại nguyện điều mơ ước của
mình? Có thể nói hầu hết đều chuốc lấy sự thất bại. Chỉ có đạo Phật mới hoá giải tất cả những
nỗi khổ, niềm đau ấy và mang lại nguồn hạnh phúc an lạc cho mọi người.
Thực tế những nỗi khổ đau của con người trong cuộc sống đã được xác lập khi mơi sinh ra bằng
tiếng khóc chào đời (?). Và lớn lên đắm mình trong ngũ dục lạc chẳng bao giờ có giây phút bình
an hỷ lạc. Và nếu con người tránh xa cuộc sống thực tại, để đi tìm hạnh phúc cho mình thì lại
khổ đau nhiều hơn. Vì thế con người không nên vội vã tìm kiếm hạnh phúc ảo giác bên ngoài.
Trong Kinh Pháp Bảo Đàn, Lục Tổ Huệ Năng Ngài nói:
"Phật tại thế gian, bất ly thế gian giác


Ly thế mích Bồ đề, cáp như cầu thố giác."
(“Phật pháp tại thế gian, không lìa thế gian mà giác ngộ, nếu lìa thế gian mà tìm Bồ đề, cũng như
tìm lông rùa sừng thỏ”).
Cho nên sự tu hành phải ở tại thế gian, giác ngộ cũng ở tại thế gian. Nhưng người có tâm hướng
về đạo, họ không thể chán bỏ thế giới, trốn tránh loài người trên thế giới thế này mà “độc thiện
kỳ thân” tu hành chứng quả. Bởi vì một hành giả muốn thành Phật, ngoài việc có đầy đủ trí tuệ,
phải có tâm bi nguyện rộng lớn phổ độ chúng sanh. Cần phải có tâm bi và trí song hành, đạt đến

chỗ triệt để, viên mãn mới có thể thành Phật
Có thể nói tinh thần của các vị Thiền sư trong thời Lý –Trần là một hành động tích cực. Nhập thế
mà không trụ thế. Hình ảnh con người có thể dung nạp được mình để hòa đồng và vui vẻ suốt
ngày với thiên nhiên là hình ảnh con người mang khát vọng hòa nhập và chế ngự thiên nhiên
được thể hiện qua lời thơ thoát phàm bay bổng: “còn một tiếng kêu vang, lạnh cả trời”. Có thể là
một tiếng reo của một người chứng ngộ, thoát khỏi cảnh giới trần thế. Cái kêu vang lạnh ấy phải
chăng là tiếng kêu sảng khoái của một tâm hồn khoáng đạt với tư tưởng phá chấp triệt để và với
một tinh thần thoái mái tột cùng, chứ không phải là một người suốt ngày cứ câu nệ vào tín điều
một cách cứng ngắc, khô khan. Tiếng kêu đó chính là sự trực cảm tâm linh, là trạng thái chứng
ngộ của các Thiền sư. Sự nhập thế tích cực của các Thiền sư thời Lý – Trần đã đưa Phật giáo đến
đỉnh cao của sự phồn vinh.
Những áng văn, thơ của các Thiền Sư đã mang đầy chất liệu sống, bởi các Ngài đã hiện hữu
trong cuộc sống bằng tuệ đúc và trả về cho chính bản thân cuộc sống bằng sự từ bi. Thơ văn của
các vị Thiền Sư mang chất liệu Phật hoá đã len lõi và thấm sâu vào tâm thức của đông đảo quần
chúng nhân dân. Phong cách của các Ngài luôn thể hiện bằng sự ung dung, tự tại. Vì thế nên
những áng văn của các Ngài rất sinh động nội dung phong phú bao gồm nhiều lĩnh vực khác
nhau
Trong Kinh Pháp Bảo Đàn, Lục Tổ Huệ Năng Ngài đã từng nói:
"Phật tại thế gian, bất ly thế gian giác
Ly thế mích Bồ đề, cáp như cầu thố giác."
(“Phật pháp tại thế gian, không lìa thế gian mà giác ngộ, nếu lìa thế gian mà tìm Bồ đề, cũng như
tìm lông rùa sừng thỏ”).
Cho nên sự tu hành phải ở tại thế gian, giác ngộ cũng ở tại thế gian. Nhưng người có tâm hướng
về đạo, họ không thể chán bỏ thế giới, trốn tránh loài người trên thế giới thế này mà “độc thiện
kỳ thân” tu hành chứng quả. Bởi vì một hành giả muốn thành Phật, ngoài việc có đầy đủ trí tuệ,
phải có tâm bi nguyện rộng lớn phổ độ chúng sanh. Cần phải có tâm bi và trí song hành, đạt đến
chỗ triệt để, viên mãn mới có thể thành Phật.
Các nhà sư, vua chúa, thần dân lúc bấy giờ đều thấm nhuần giáo lý nhà Phật cho nên khi đối
cảnh thì vẫn sanh tình, nhưng tình ở đây không phải là những tình cảm tầm thường mà là cái đẹp
cái hay mang tính thoát tục. Trần Nhân Tông khi viếng cảnh Thiên Trường vào một buổi hoàng

hôn đã thốt lên:
Thôn hậu thôn tiền đạm tợ yên
Bán vô bán hữu tịch dương biên
Mục đồng địch lý ngưu quy tận
Bạch lộ song song phi hạ điền
(Thôn trước thôn sau tựa khói hồng/ Bóng chiều như có lại như không/ Mục đồng thổi sáo trâu
về hết/ Cò trắng từng đôi liệng xuống đồng.)
(TVLT- Tập 2- 464)
Với cái nhìn bằng đôi mắt của một bậc giác ngộ, các Thiền sư đã xem cuộc đời vốn là như


huyễn, cho nên đối với sự còn mất của vạn vật trong vũ trụ cũng là thường tình. Như Ngài
Huyền Quang đã xem sự nở tàn của hoa cúc khoe sắc cùng sương gió bao năm vẫn thế:
Vương thân vương thế dĩ đô vương
Toạ cửu tiên nhiên nhất tháp lương
Tuế vãn sơn trung vô lịch nhật
Cúc hoa khai xứ túc trùng dương
(Quên mình quên hết cuộc tang thương/ Ngồi lặng đìu hiu mát cả giường/ Năm cuối trong rừng
không có lịch/ Thấy hoa cúc nở biết trùng dương )
(Trích Thiền Sư Việt Nam – 362- HT Thanh Từ)
Và cứ như thế Ngài đã sống an lạc trong núi rừng vắng vẻ làm bạn với trăng sao và Ngài cũng đã
đánh tiếng chuông cảnh tĩnh cho những ai còn đắm chìm trong trong mộng để rồi mãi chìm đắm
trong sự khổ đau của cuộc đời. Đối với các Ngài phú quý vinh hoa chỉ là giả danh như cây cỏ có
rồi lại không
Phú quý phù vân trì vị đáo
Quan âm lưu thuỷ cấp tương thôi
Hà như tiểu ẩn lâm tuyền hạ
Nhất tháp tùng phong trà nhất bôi
(Phú quý mây bay tự nẻo xa/ Tháng ngày nước chảy vội vàng qua/ Chi bằng vui thú lâm tuyền
ẩn/ Giường cỏ thông reo một chén trà )

(TVLT- Tập 2- 697)
Cũng như bao người khác, với vẻ ung dung, với đời sống tự tại Trần Nhân Tông đã nhận thức
được chân tướng các pháp, của vạn hữu vũ trụ, thấy rõ bộ mặt thật của chính mình tất cả đều
không ngoài tự ngã của mình khởi sanh. Đối với những người phàm phu bình thường thì sự sanh
diệt luôn làm cho mình lo âu sợ hãi, cứ như thế tâm trạng khát khao lo lắng ấy cứ mãi nung nấu
trong tâm trí và theo họ mãi mãi. Nhưng với các vị Thiền Sư thì không như vậy, hôm nay và
ngày mai chỉ là một hiện tiền sanh khởi, con người sống hay chết đều có nguyên lý nhất định.
Thiền Sư Chân Không thì cho rằng :
Xuân lai xuân khứ nghi xuân tận
Hoa lạc, hoa khai chỉ thị xuân
(TVLT- Tập 1- 697)
Ngài Mãn Giác Thiền Sư cũng biến cuộc đòi thành mùa xuân vĩnh cửu, vẫn thấy xuân đến trăm
hoa đua nở, xuân đi thì muôn hoa đều rụng, nhưng thể tánh của hoa vẫn không thay đổi. Hoa ở
đây chỉ là cái tướng bên ngoài vì thể tánh còn nên hoa vẫn nở, mặc dù tịch diệt nhưng thể tánh
chơn như vẫn còn:
Đừng bảo xuân tàn hoa rụng hết
Đêm qua sân trước một cành mai
(Cáo tật thị chúng- Mãn Giác Thiền Sư)
Thật vậy chân lý chẳng ở đâu xa mà luôn hiện hữu trong cuộc sống hiện tại, chân lý chỉ có một
mà đường đi đến chân lý thì muôn vạn nẽo. Nếu biết tĩnh giác và lắng sâu thì chân lý hiển lộ như
một vầng trăng sáng, hiện hữu lấp lánh trên mặt nước trong xanh yên tĩnh. Chân lý được thật sự
hiển bày chỉ khi nào chúng ta nhận chân được các pháp một cách như thật.
Có thể nói tư tưởng của các vị Thiền Sư trong thời Lý Trần là những tư tưởng độc đáo. Các Ngài
đã tự kiềm chế mình và vượt ra ngoài lợi danh, tài sắc để hoà nhập vào cuộc sống bằng hành
động mang lợi ích đến cho mọi người. Cho nên với Trần Thái Tông xem nhẹ ngai vàng chỉ như
một chiếc giày cỏ có thể vứt bỏ khi nào cũng được, với Trần Nhân Tông cũng thế :
Cư tràn lạc đạo thả tuỳ duyên


Cơ tắc sang hề khốn tắc miên

Gia trung hữu bảo hưu tầm mích
Đối cảnh chi tâm mạc vấn Thiền
(Ở đời vui đạo mặc tuỳ duyên/ Hễ đói thì ăn mệt ngủ liền/ Trong nhà sẵn ngọc tìm đâu nữa/ Đối
cảnh vô tâm hỏi chi thiền.)
(TVLT- Tập 2- 504)
Ngay giữa chợ đời mà tuỳ duyên đói ăn, mệt ngủ. Nguồn sống đó chính là chân lý đích thực của
cuộc sống chân thặt. Phải chăng sự hiện hữu của những con người mang tính tự giác siêu việt sẽ
làm cho cuộc đời tươi đẹp thêm và muôn loài được hạnh phúc hơn. Đó chính là một trong những
nét đẹp của Phật giáo qua thơ văn Lý- Trần.
Mặc khác Đức Phật ra đời với mục đích mang đến cho nhân loại niềm an lạc, hạnh phúc. Vậy
cho nên nhiệm vụ của những người con Phật là thay Phật dẫn dắt, giáo nghĩa chúng sanh đạt đến
cuộc sống an vui, giải thốt sau khi Ngài diệt độ.
Thế cho nên hành trang của những người con Phật ở đây chính là trí tuệ và từ bi. Với trí tuệ làm
sự nghiệp những người con Phật có thể lên đường đi đến bất cứ nơi nào. Các Thiền sư trong thời
Lý –Trần là tiêu biểu cho những con người như vậy. Chính nhờ có trí tuệ siêu việt như vậy mà
các Thiền sư đã quán triệt một cách thấu đáo những lời Đức Phật dạy để áp dụng trong công việc
trị nước an dân. Có thể nói rằng trong suốt mấy trăm năm trị vì đất nước cả hai triều đại này đã
dùng phương pháp đức trị. Phải chăng chính phương pháp ấy đã nói lên sự bền vững của hai
triều đại.
Phải nói rằng nhân dân dưới hai triều đại này rất thái bình an lạc. Với một tâm niệm là đem lại
niềm vui cho muôn dân, đặt vận mệnh đất nước lên hàng đầu, lấy ý dân làm ý chung. Chính sự
xả bỏ tự ngã đó cho nên đất nước luôn sống trong cảnh giới hoà bình. Các Ngài hiểu rõ nếu lấy
đúc trị dân thì sẽ giải phóng được ý tưởng phân biệt giai cấp, xoá bỏ những thành kiến và tạo
được một lối sống bình đẳng trong xã hội.
Nhưng không dừng lại ở việc trị nước an dân, các Thiền sư còn thể hiện sự giải thoát của mình
qua những vần thơ trong sáng nhẹ nhàng tự tại. Một lần khi đưa sứ nhà Tống sang sông lúc ngồi
trên thuyền Lý Giác thấy hai con ngỗng bơi liền cảm hứng ngâm:
Nga nga lưỡng nga nga
Ngưỡng diện hướng thiên nga
(Song song ngỗng một đôi / Ngữa mặt ngó lên trời )

Lúc đó nhà Sư Đỗ Pháp Thuận làm người chèo đò liền ứng khẩu:
Bạch mai phô đầu thuỷ
Hồng trạo bãi thanh ba
(Lông trắng phơi dòng biếc / Sóng xanh chân hồng bơi)
( TVLT- Tập 1- 202)
Chính sự thông thái văn chương ấy đã làm cho sứ nhà Tống thán phục, qua đó chúng ta cũng
thấy rằng sự dấn thân đích thực của các nhà sư vào cuộc sống nhưng mà không bị cuộc đời ràng
buộc. Trong thời đại Lý – Trần Phật giáo đã gắn liền với sự thăng trầm nhục vinh của đất nước.
Sự đóng góp của Thiền sư Vạn Hạnh dưới triều Lý đã thể hiện rõ truyền thống yêu nước của
Phật giáo Việt nam. Vua Lý Nhân Tông đã khẳng định:
Vạn Hạnh dung tam tế
Chơn phù cổ sấm xưa
Hương quan danh cổ pháp
Trụ tích vấn vương kỳ
(Thiền sư học rộng bao la/ Giữ mình hợp pháp sấm ra ngoài lời/ Quê hương Cổ pháp danh ngời/


Tháp bia đứng vững muôn đời Đế đô.)
(Trích VNPG sử lược –121- HT Mật Thể )
Cả cuộc đời bảo vệ non sông đất nước Vạn Hạnh Thiền sư đã cống hiến cho nền độc lập tự chủ
của nước nhà. Tư tưởng hành đạo của Ngài là phụng sự dân tộc trong tinh thần từ bi và trí tuệ:
Thân như điện ảnh hữu hoàn vô
Vạn mộc xuân vinh thu hựu khô
Nhậm vận thịnh suy vô bố uý
Thịnh suy như lộ thảo đầu phô
(Thân như ánh chớp có rồi không/ Cây cỏ xuân tươi thu não nùng/Mặc cuộc thịnh suy đừng sợ
hãi/Kia kìa ngọn cỏ giọt sương đông.)
( VNPGsử lược- 121- HT Mật Thể)
Cầu giải thoát cho mình nhưng các vị Thiền sư không bao giờ thờ ơ lãnh đạm với xã hội. Thiền
không chỉ suốt ngày bĩ gối ngồi thiền ở chốn hang hiểm rừng sâu, mà ngay trong cuộc đời này

cũng đã thể hiện được phong cách của Ngài.
Tóm lại, mọi hành vi, mọi ứng xử trong xã hội với mục đích là đem lại cuộc sống an lạc cho
muôn dân. Điều đó đã thể hiện qua tinh thần nhập thế tích cực của các nhà Sư và chính tinh thần
đó đã thể hiện được cái đẹp Phật giáo qua những tác phẩm văn thơ Lý – Trần.
2.2.3. Khẳng định cái khả biến và bất biến của cuộc đời với thế giới vũ trụ bao la
Triết lý đời Lý- Trần qua thơ thiền, khẳng định cái khả biến và cái bất biến trong thế giới vi mô
và vĩ mô.
Cái khả biến là thế giới hình tướng, sắc tướng; cái bất biến là đạo, là qui luật của tự nhiên.
Trong bài "Thị đệ tử Bản Tịch", tức là bảo cho học trò là Bản Tịch, thiền sư Đào Thuân Châu
viết:
Chân tính thường vô tính
Hà tằng hữu sinh diệt
Thân thị sinh diệt pháp
Pháp tính vị tằng diệt
(Chân tính luôn luôn không có tính/Nó chưa từng có sinh diệt/Thân người là hiện tượng sinh
diệt/Những pháp tính thì chưa từng sinh diệt)
Do nhận thức về qui luật sinh tử cũng như các qui luật khác của tự nhiên có tính bản thể luận như
vậy, nên con người thời đó có lối sống rất hồn nhiên, và hoà đồng. Thái độ sống rất chủ động và
tích cực. Thường là làm chủ bản thân, làm chủ xã hội và hoà hợp với thiên nhiên tạo vật.
Bài "Cáo tật thị chúng" của thiền sư Mãn Giác (1052 - 1096) ra đời gần một ngàn năm, mà sao ta
có cảm giác như nó được viết vào thời nay
Xuân khứ bách hoa lạc
Xuân lai bách hoa khai
Sự thực nhãn tiền quá
Lão tòng đầu thượng lai
Nhằm nói về bốn núi, tức là bốn nỗi khổ của con người: sinh - lão - bệnh - tử thì ai cũng biết rồi.
Bởi trong cuộc đời ai mà không trải qua bốn cảnh bất hạnh đó. Lối tư duy mới mẻ bắt nguồn từ
vị trí đang là của bản thân, tác giả dẫn ta đến một thực tại không ai phủ nhận được. Năm tháng
trôi nhanh, cuộc đời chóng vánh, loay hoay đã hết kiếp người. Nói như Trương Văn Quang rằng
nếu con người có niềm tự hào không giống cỏ cây thì con người cũng có đau đi không trở lại.

“Sự trục nhãn tiền quá
Lão tòng đầu thượng lai”.
Một nhà thơ đã từng tham vọng trở lại mùa thu trước nhặt lá vàng:


“Về đây đem chắn nẻo xuân sang”
“Chắn” được không? Âu chỉ là tham vọng! Dòng đời vẫn vậy! Phảng phất đâu đây cái buồn
“mang mác sầu thiên cổ”. Ta đã già rồi, cuộc đời không còn bao nhiêu nữa. Người đọc như muốn
xuôi theo tác giả trong nỗi niềm gần như tuyệt vọng. Thế là hết kiếp người, nuối tiếc, xót xa!
Nhưng không:
“Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận
Đình tiền tạc dạ nhất chi mai”
(“Nhất” ở đây không phải lượng từ, là danh từ bởi nó không còn là một cành mai cụ thể, đơn
điệu mà là cành mai hình tượng). Chặn đứng mạch tư duy đang tuôn trào của chúng ta không là
vách núi đá cũng không phải bức tường cứng nhắc vô tri mà là “nhất chi mai”, “mai” chứ không
phải một loại hoa khác. Tâm thức vỡ òa, mọi suy nghĩ, tính toan phút chốc tan biến.
Văn thơ thiền không dụng ý nghệ thuật, nhưng chổ độc đáo, thâm diệu của Thiền tông lại lồ lộ
hiện lên trong mớ ngôn từ không dụng ý đó.
Trên tàn lụi kiếp người, trên mong manh hư ảo, cành mai ấy tích tụ nguyên khí để hồi sinh, nảy
lộc, đơm hoa kết trái và không cần đợi ánh dương lên, một đêm, bừng nở! Một sự sinh tồn với
sức sống mãnh liệt tự do tự tại. Câu kết sững lại. Cành mai hay chiếc cọc neo giữa dòng thời gian
cuồn cuộn. Chính nơi đây thể hiện rõ bản lĩnh trác việt của thiền giả ngộ đạo. “Chắn nẻo xuân
sang” không còn là ảo vọng, nhưng không phải bằng những lá vàng khô.
Là Thiền sư, chắc hẳn tác giả không cố tình làm thi sĩ. “Thị đệ tử” là một bài kệ trước lúc thị
tịch, nhưng đồng thời cũng là một bài thơ đích thực, thấm đẫm tính nghệ thuật. Có cái gì như
một khúc ca mãi du dương, như một dòng sông êm lẫn trong tâm thức chảy về phía chúng ta và
mãi mãi về sau. Sóng vẫn xô giữa hai bờ sinh - tử. Gần 1000 năm, cành mai ấy vẫn luôn luôn
tươi thắm. Vô thường là gì giữa cuộc nhân sinh.
Thực chất, “vô thường không làm nên đau khổ” duyên sinh đã vén màn cho những chân trời xa.
Cũng vậy, quan niệm con người duyên sinh vô ngã ở đây không phải là một quan niệm hư vô,

phủ định sạch trơn mọi hiện hữu của con người mà chính là cái nhìn đúng như thật. Ngay khởi
điểm đó, thơ Thiền chắp cánh cho con người bay cao, bay xa vô tận trên lộ trình hướng thượng.
Vô ngã nên con người là một thực thể sống động có khả năng chuyển nghiệp để cải thiện vị trí
của mình trên bản đồ sanh tử, đập tan ranh giới rạch ròi giữa chủng tộc thượng đẳng và thấp hèn.
Đồng thời, vì vô ngã nên một lần nữa khẳng định tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, có khả
năng thành Phật, là con người mang tính nhân văn cao cả.
Vô ngã là bản thể, là nguồn gốc mà từ đó con người có cái nhìn sáng suốt, chính xác đối với thế
giới vạn hữu, đối với hoàn cảnh, quốc độ cụ thể con người đang sống. Thế giới tồn tại trong một
tương quan hòa điệu vì mật không thể cắt xén bằng khái niệm. Con người phải đặt bản thân và
cuộc sống mình trong thế giới thực tại đó mới có thể cảm nhận được sự mầu nhiệm xung quanh:
con người vô trú. Nhờ sự tự do tự tại của con người vô ngã, vô trú mà khắc họa nên một con
người vô úy như một nhà phê bình đã nhận xét: “Đó là con người chưa chịu sự ràng buộc của
Nho giáo, còn đầy tinh thần tự chủ, tiến thủ tích cực kiểu Thiền tông. Con người vô ngôn, vô
ngã, tự do phá chấp theo giáo lý nhà Phật”.
Sinh lão bệnh tử
Tự cổ thường nhiên
Dục cầu xuất ly
Giải trọc thêm phiền
Mê chi cầu Phật
Hoặc chi cầu thiền
Thiền, Phật bất cầu


Uổng khẩu vô nghiên.
(Diệu Nhân)
Đả phá mạnh mẽ những lối mòn trong tư duy thường tình. Cầu Thiền, cầu Phật là một việc là
ngốc nghếch sai lầm như muốn đi ngược lại quy luật tự nhiên sinh lão bệnh tử. Điều đó có phản
bội lại lý tưởng tìm cầu giác ngộ giải thoát không?
Khi được hỏi “Đạo Phật nên nhập thế hay nên yếm thế”, rất tự nhiên chúng ta sẽ nhớ đến bài kệ:
“Phật pháp tại thế gian

Bất ly thế gian giác
Ly thế mích bồ đề
Do như cầu thố giác”.
Bỏ qua thực tế cuộc sống, không dám đối mặt với hiện thực mà lánh đời để cầu giác ngộ há
không phải vọng cầu sao? Đạo Phật không chỉ cho con người thấy khổ, vô thường để rời xa, than
oán: “Ngay trong lẽ thường tình sanh lão bệnh tử ấy, con người nhìn ra được lý chơn thường mới
là ngộ đạo”.
Lại nữa, Trần Nhân Tông (1254 - 1308), khó ai mà tưởng tượng được một vị vua gần dân đến
thế, một con người sống giữa cõi đời, sống giữa thiên nhiên và đã thực sự hoà vào với đời, hoà
vào với thiên nhiên.
Đọc bài: "Thiên Trường vãn vọng", ta có cảm giác đích thị tác giả là một nông dân; hay chí ít là
vị vua này sống không cách biệt với dân.
Thôn hậu, thôn tiền, đạm tự yên
Bán vô, bán hữu, tịch dương biên
Mục đồng địch lý ngưu qui tận
Bạch lộ song song phi hạ điền
(Xóm trước, thôn sau nhạt khói lồng/ Bóng chiều nửa có nửa hư không/ Đi trong tiếng sáo trâu
về hết/ Cò trắng từng đôi liệng xuống đồng.
Đọc tới bài "Nguyệt" tức "Trăng", ta cảm như tác giả là một hàn sĩ, hoặc một anh khoá nghèo nơi
thôn dã đọc sách và thiếp ngủ đi lúc nào không biết.
Và cũng chẳng có ai săn sóc, hầu hạ:
Bên song đèn rạng sách đầy giường,
Khí lạnh, đêm thu, đượm giọt sương
Thức giấc tiếng chày đã lặng ngắt
Trên chùm hoa mộc nguyệt lồng gương.
Con người thi sĩ ấy, nhà vua anh hùng ấy thoắt cái bỏ ngôi vua như người ta quẳng đi một đôi
dép rách, để đi tu thiền.
Việc tu đạo của Trần Nhân Tông không hề có mảy may thoát ly thế gian, cầu tìm sự yên nhàn
cho thân tâm. Nhà vua đi tìm chân lý; khác với các triết gia cùng thời ở phương Tây, họ tìm chân
lý qua thế giới hiện tượng, tức là tìm trong cái động; trái lại Trần Nhân Tông tìm chân lý trong

cái tĩnh, tìm chính trong bản thân mình, trong lòng mình.
Nhà vua khuyên mọi người hãy trong lặng soi tìm vào chính mình, lôi cho bằng được ông Phật
(tức chân lý) ở trong tâm mình ra, chớ có vọng động mà cầu tìm tha lực. Đó chính là giáo lý
hướng nội.
Trong "Cư trần lạc đạo" đệ ngũ hội, ngài viết:
Bụt ở trong nhà
Chẳng phải tìm xa
Nhân khuy bản (quên bản gốc)
Nên ta tìm Bụt


Chỉn mới hay
Chính Bụt là ta
Chính ông là một thiền sư, lại tuyên cáo không cần thiền.
"Gia trung hữu bảo hưu tầm mịch
Đối cảnh vô tâm mạc vấn thiền"
(Trong nhà sẵn ngọc thôi tìm kiếm/ Lặng lòng đối cảnh hỏi chi thiền)
Và việc tu đạo chẳng có gì là khó, cứ sống giữa đời một cách vui vẻ, tuỳ cái duyên nó đến, tu
được thì tu. Và việc tu này cũng tự nhiên như người đói thì ăn, mệt thì ngủ, có chi phải nhiêu
khê, phiền toái.
"Cư trần lạc đạo thả tuỳ duyên
Cơ tắc thực hề, khốn tắc miên"
Và Tuệ Trung thượng sĩ, bậc thầy của Điều Ngự Giác Hoàng Trần Nhân tông cũng chỉ cho người
học đạo một quan điểm tu tập rất thoáng đãng:
Học giả phân phân bất nại hà
Đồ tương linh đích khổ tương ma
Báo quân hữu ỷ tha môn hộ
Nhất điểm xuân quang xứ xứ hoa
(Hoa đạo mênh mang ai có hay/ Gạch đem mài gạch cực lắm thay/ Cửa người anh hãy thôi
nương dựa/ Một áng xuân về hoa đó đây - Đỗ Văn Hỷ)

Rõ ràng là thơ thiền cũng như thiền học các đời Lý-Trần là một minh chứng cho thấy con người
thời đó sống tự tin, tự cường, sống hoà hợp với thiên nhiên, vua sống gần dân, vua với dân cùng
chung sức chung lòng, chung lo việc xây dựng đất nước và bảo vệ đất nước.
2.3. Giá trị thẩm mỹ của vẻ đẹp Phật giáo qua văn chương Lý –Trần
Thơ văn Lý-Trần là những áng văn chương hay, đẹp, liên hệ đến cuộc sống của đạo, của đời,
được sáng tác ngay trong thời đại Lý-Trần mà chiều sâu là những giáo lý, triết lý của Phật giáo
ngang qua lăng kính nhãn quan của từng vị thiền sư, danh tăng hay các cư sĩ (trong đó có cả
những vị vua, quan, trí thức nho sĩ) am hiểu đạo Phật. Nói chung là những người có thực học,
thực tu và thân chứng về đạo Phật, biểu lộ sở đắc của mình về Phật giáo bằng thơ văn.
Ngày nay, trải qua nhiều thế hệ nối tiếp, sự cọ xát, thử thách được tôi luyện, kinh qua trong cuộc
sống giúp con người khẳng định được thế nào là giá trị văn học của từng thời đại trước đó. Cái
mới được trình bày ở bài làm là góp thêm một chút ánh sáng nhằm soi sáng giá trị thẩm mỹ văn
hóa Phật giáo.
Về mặt giáo lý, triết lý hay triết học của Phật giáo tự thân nó đã có đầy đủ tính chủ thể thẩm mỹ
rồi. Vấn đề được đặt ra là chủ thể sáng tạo thẩm mỹ Phật giáo ngang qua thơ văn thời Lý – Trần
thực sự đã được chủ thể cảm thụ thẩm mỹ - tức nhân loại nói chung, con người dân tộc Việt Nam
nói riêng, tiếp nhận như thế nào trước dòng thời gian?
Con người là một thực thể nhân bản, dù không ai sống hoài trong đời, nhưng tự thể hết đời này
đến đời khác, nó cứ nối tiếp tồn tại miên viễn từ thế hệ này qua thế hệ khác trong đời. Do đó,
những tác giả, tác phẩm dù xuất phát từ tư tưởng, quan điểm, chủ nghĩa nào mà mục đích cứu
cánh của nó là vì con người, biết cảm nhận, biết trân trọng và phục vụ sự sống của con người thì
tất nhiên tác giả, tác phẩm đó cũng được đón nhận, cảm thụ một cách thân thương, và cũng được
ghi nhận là những giá trị chân chính.
Cho nên, nếu trong cuộc sống, con người biết hy sinh, biết xả kỷ quên mình mà mưu tìm sự sống
hạnh phúc cho chung quanh, cho nhân dân, xã hội và chúng sanh thì ở đó chính là tinh thần vô
ngã lợi tha của Phật giáo, hay cũng chính là giá trị đích thực của thẩm mỹ nhân văn.
Sự hiện diện của con người trên trái đất trong cuộc sống này đã là một tác phẩm nghệ thuật tuyệt


bích rồi. Bởi, nếu không có con người, ai sẽ làm chủ thể cuộc sống? Ai là người cảm thụ nghệ

thuật? Ai là người nhận ra được vẻ đẹp của thiên nhiên? Nhưng khi con người được sản sinh ra,
mỗi lúc mỗi nhiều hơn, ngày nay con người không phải dừng ở con số hàng trăm ngàn hay hàng
triệu mà nó đã lên đến hàng tỷ và nhiều tỷ. Mỗi con người là mỗi tác phẩm nghệ thuật, có nhiều
tỷ con người tất nhiên có nhiều tỷ tác phẩm nghệ thuật. Cho nên, trong tất yếu phải nảy sinh đối
tượng thẩm mỹ, bi kịch hay trác tuyệt, đẹp và xấu. Lúc này thì thế giới con người hay xã hội loài
người không thể dửng dưng được nữa, mà phải có một chuẩn mực để giữ thăng bằng và đưa cuộc
sống đi lên. Từ đó, mục đích phấn đấu và hướng dẫn của con người là một nếp sống văn hóa, văn
minh.
Đã có con người, tất nhiên có sự sống và cái chết của con người. Nhưng muốn tìm ra được cái
đẹp về sự sống và cái chết của con người thì ta phải trực diện nhìn thấy vào sự hiện hữu của con
người, phải tìm cho được nguyên nhân tức phần tiền đề lý thuyết của sự sống và cái chết. Mọi sự
sống và cái chết đều có nguyên nhân, cái trước nó. Nếu chúng ta không tìm ra, không nhận ra
được mà chúng ta cứ đòi hỏi về sự sống hay sợ sự chết thì chắc chắn dễ bị rơi vào cái bi kịch hay
cái hài trong cuộc sống. Ngược lại, khi thấy rõ nguyên nhân của sự sống và cái chết thì con
người sẽ biết làm thế nào để có được cuộc sống an vui hạnh phúc, có ý nghĩa, cũng như biết làm
thế nào để có cái chết bình yên, thanh thản.
Tuần tự theo phạm trù thẩm mỹ, chúng ta đã nhận ra thế nào là cái đẹp về con người, cái đẹp về
sự sống và cái chết của con người. Giờ đây, chuyển sang một lĩnh vực khác, lĩnh vực tôn giáo,
giáo lý nhà Phật, để chúng ta nhận ra thêm thẩm mỹ hay cái đẹp qua tinh thần giác ngộ giáo lý
vô thường và thường của Phật giáo.
Căn cứ giáo lý nhà Phật để phân định thì phạm trù vô thường đứng đầu một hệ thống giáo lý có
bốn pháp là “vô thường, khổ, vô ngã, bất tịnh”, còn được gọi là bốn pháp quán niệm. Giáo lý
này, đức Phật dạy cho hàng Thanh văn, Duyên giác, nói chung là các hành giả đệ tử thích nương
tựa trong giáo pháp, dấn thân tu tập, đang còn trong thời kỳ tu học, biết hành trì quán niệm bốn
pháp này, biết nhận thức trước các pháp để làm chủ được chính mình. Trong mỗi con người đều
có sáu căn là mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý. Nơi sáu căn này có sáu thức là thấy, nghe, ngửi, nếm,
cảm xúc, biết. Và khi đối diện với sáu trần là sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp mà con người vẫn
giữ vững được nhận thức, biết rõ các pháp vốn “vô thường, khổ, vô ngã, bất tịnh” không hề bị
dao động hay ô nhiễm, không bị thất tình, lục dục phát sinh, kềm chế được chính mình, không
gây tội ác, sái quấy do tham, sân, si, chấp thủ tạo nên. Nói theo ngôn ngữ mỹ học, chúng ta có

thể xem đây là vùng khách thể, đối tượng của chủ thể thẩm mỹ.
Còn phạm trù “thường” thì đứng đầu hệ thống giáo lý cũng có bốn pháp là “thường, lạc, ngã,
tịnh”, còn được gọi là tứ đức Niết bàn. Giáo lý này, đức Phật chỉ bày cho hàng Thanh văn A la
hán hay Bồ tát, nói chung là những hành giả có trình độ cao, tinh thông, thể nhập, thân chứng
hay đắc đạo. Tức tự mình có khả năng là hiện thân của “thường, lạc, ngã, tịnh” ở mọi chỗ, mọi
nơi, mọi cảnh giới và mọi lúc, kể cả khi thân tứ đại con người còn sống hay khi lìa bỏ nó (chết
đi), hành giả đều có năng lực chủ động trước các pháp. Tuyệt đối không còn tham, sân, si, tội ác,
sái quấy. Đứng về góc độ mỹ học, chúng ta có thể xem như đây là vùng chủ thể thẩm mỹ, chủ thể
sáng tạo nghệ thuật.
Cho nên từ lâu, dù Phật giáo ít nhiều bị mang tiếng là triết học duy tâm, nhưng tuyệt nhiên không
hề giống và hoàn toàn trái ngược quan điểm Platon, khi ông cho rẳng “nghệ sĩ là một cái gì nhẹ
nhàng, bay bổng và thiêng liêng. Anh ta chỉ có thể sáng tạo khi đã phấn khích đến cuồng loạn,
khi ở anh ta không còn lý trí nữa. Và đó, theo Platon, cũng là niềm hạnh phúc vĩ đại nhất diễn ra
theo sự ban tặng của thần linh đối với nghệ sĩ”
Đến đây, chúng ta có thể đi vào vùng sâu thẳm của ý thức, thầm lặng nhưng hùng tráng, đơn sơ


mà trác tuyệt của các vị thiền sư, các vua quan cư sĩ tiêu biểu qua văn chương thơ văn Lý-Trần.
Như bài thơ “Thị đệ tử” của Thiền sư Vạn Hạnh, cho chúng ta bài học thâm thúy, chẳng những
về lẽ tử sinh mà còn cả về sự tốt, xấu, thịnh, suy ở đời:
“Thân như điện ảnh hữu hoàn vô
Vạn mộc xuân vinh, thu hựu khô
Nhậm vận thịnh suy vô bố úy
Thịnh suy như lộ thảo đầu phô”
(Thân như ánh chớp có rồi không / Cây cối Xuân tươi, Thu não nùng / Mặc cuộc thịnh suy đừng
sợ hãi / Kìa kìa ngọn cỏ giọt sương đông.)
Nếu như bài thơ được sáng tác trong thời điểm khác thì nó chỉ có giá trị như một bài kệ pháp
truyền bá giáo lý có dung lượng quan điểm triết học Phật giáo nói về thịnh suy, sinh tử như phần
đông các vị đạo sư khác thường làm. Giá trị đặc sắc là nó được sáng tác ở đỉnh cao của tâm hồn
trước sự sống và chết, có và không, còn và mất.

Về nhân sinh quan, ngài đã thấu suốt định luật vô thường “Thân như ánh chớp có rồi không”.
Về thế giới quan, trước cảnh vật thiên nhiên, Ngài cũng thấy rõ tính biến đổi vô thường của nó
“Cây cỏ xuân tươi, thu não nùng”.
Cái thẩm mỹ, cái đẹp, cái trác tuyệt nơi tâm hồn Thiền sư (chủ thể thẩm mỹ) là biết thân vô
thường nhưng không bi quan, không lo sợ trước vô thường, chủ động đem cái thân vô thường
hành động phục vụ lợi ích, hạnh phúc cho chúng sinh mà cụ thể trước mắt chính là đồng bào, dân
tộc.
Vô thường và thường tương tự như hai mặt của một tờ giấy. Giác ngộ thì là cái đẹp, cái trác
tuyệt; không giác ngộ (không thấu triệt) thì nó sẽ trở thành bi kịch, vì khi biết thân vô thường rồi
bi quan, chán nản, bế tắc cuộc sống, tự vận v.v... đều xem như là bi kịch do sợ hãi trước cái vô
thường, hay nói hài kịch, là dù biết thân vô thường nhưng lại cứ tham sống sợ chết, sống dở chết
dở, tức có cái sống không ý nghĩa mà chết thì chết trong sợ hãi!
Về mặt chủ thể sáng tạo nghệ thuật nơi Thiền sư cũng tuyệt vời. Bởi ngài chủ động biết lúc nào
sáng tác (công bố) bài thơ để làm sáng tỏ được tinh thần giác ngộ của đạo Phật về lẽ vô thường
của con người và cảnh giới chung quanh. Đồng thời cũng biểu thị cho đệ tử thấy rõ giá trị của
một kiếp người hoàn thiện với đầy đủ ý nghĩa sống phụng sự an lạc, lợi ích cho quần sinh đến
hơi thở cuối cùng, tức biết đem cái vô thường của bản thân mà cống hiến cho dòng SỐNG
THƯỜNG của con người trong cuộc đời. Ở đây, giá trị thẩm mỹ, cái đẹp về tinh thần nhân bản
nhân văn được tỏa lên ngời sáng; nó hoàn toàn trái ngược với trạng thái của người hiểu biết về
vô thường nhưng lại không làm chủ được cuộc sống mà rơi vào bi quan, yếm thế, tiêu cực, có
những trường hợp chối bỏ cả cuộc sống. Điều này rất dễ gây nên sự ngộ nhận và làm lu mờ, mai
một tính thẩm mỹ, cái đẹp của Phật giáo đối với cuộc sống nhân sinh.
Thiền sư Vạn Hạnh đã giải thích tinh thần giác ngộ về vô thường và thường bằng cả cuộc đời
hành động cũng như sau khi ngài qua đời “Mặc cuộc thịnh suy đừng sợ hãi”, ngài mượn sự thịnh
suy để chỉ bày cho môn đồ đừng sợ hãi lo lắng trước sự sống và chết, có và không, còn và mất
(tức lẽ vô thường) của con người hay các pháp trong đời, kể cả sự đứng ngừng chấm dứt sự sống
của bản thân mình, vì ngài đã thấu đạt tính chơn thường của vạn hữu “Kìa kìa ngọn cỏ giọt
sương đông”. Đã là giọt sương thì không thể nào tồn tại lâu dài, nhưng điều kỳ diệu là nó mất
hoài và cũng cứ có mãi. Từ đây, triết lý về cái chết cũng lại được khẳng định - có không, còn
mất, sống chết, thịnh suy..., nó là những phạm trù bất tận của con người và cả thế giới trần gian

này.
Ôi! Cuộc sinh sinh, hóa hóa của vạn sự, vạn vật và của con người trên trái đất này cũng bất tận.
Sự hiện hữu của hàng triệu, hàng tỷ con người hôm nay và mãi mãi về sau là một bằng chứng


thực tế để chúng ta thẩm định giá trị thẩm mỹ tuyệt vời của những dòng thơ của một thời đại thi
ca đi qua.
Thiền sư Mãn Giác (1052-1096) đã chuyển hóa giáo lý vô thường và thường thâm nhập hoàn
toàn vào những áng văn chương lấp lánh đầy màu sắc triết học, mỹ học, thiền học, thiên nhiên
và con người.
Bài thơ làm nổi bật nét đẹp về sự an định của Thiền sư (chủ thể thẩm mỹ, chủ thể sáng tạo nghệ
thuật) trước sự sống và cái chết của con người (đối tượng thẩm mỹ), vượt khỏi cả cái bi, cái hài
mà chỉ còn một dấu ấn duy nhất là sự tự tại, sự bình thản hồn nhiên như đang đi dạo trong vườn
mai mùa Xuân (cái đẹp, cái trác tuyệt) tức sự tồn tại của văn hóa thẩm mỹ qua bài thơ “Cáo tật
thị chúng” (Có bệnh bảo mọi người):
Xuân khứ bách hoa lạc
Xuân đáo bách hoa khai
Sự trục nhãn tiền quá
Lão tùng đầu thượng lai
Mạc vị Xuân tàn hoa lạc tận
Đình tiền tạc dạ nhất chi mai.
(Xuân ruổi trăm hoa rụng/ Xuân tới trăm hoa cười/ Trước mắt việc đi mãi/ Trên đầu già đến rồi/
Đừng bảo Xuân tàn hoa rụng hết/ Đêm qua, sân trước một cành mai)
Kiếp sống con người đang mạnh mà bệnh là vô thường. Bệnh rồi chết cũng là vô thường, nhưng
đồng thời cũng là bi kịch đối với tình thân. Vậy mà trước khi chết, biết mình đang bệnh sắp chết,
Thiền sư chủ tâm truyền đạt cho đệ tử thấy thế nào là kiến tánh thành đạo, là giác ngộ lẽ vô
thường (bi kịch và khổ), để đến với thường là cái đẹp, cảnh giới an vui - Niết bàn.
Bằng một phong thái tự tại, tự tại tuyệt đích - vừa Thiền sư, vừa thi nhân, vừa nghệ sĩ..., với một
cành mai, một mùa Xuân, một mái đầu..., Thiền sư đã cho chúng ta thấy sự đến, đi và trở lại của
một con người trước sự sống, cái chết và sự sống (vô thường và thường vốn không hai):

Xuân đi trăm hoa rụng
Xuân đến trăm hoa cười
Hoa rụng, con người bi thương; hoa cười, con người hạnh phúc. Cái bi thương hay cái hạnh phúc
rồi cũng qua mau, chỉ có sự vĩnh hằng là mùa Xuân tươi thắm.
Trước mắt việc đi mãi
Trên đầu già đến rồi
Chỉ sự chuyển biến của cuộc vô thường, cuộc vận hành dài “trước mắt việc đi mãi” để nhắc nhở
con người trực nhận sự vô thường nơi chính mình “trên đầu già đến rồi”.
Nó đến, biết nó đến là một thực tại, tuyệt đối không hề bi thương, không hề nuối tiếc! Cùng lúc,
từ tác giả, chúng ta thấy đầy đủ cả - chủ thể thẩm mỹ, chủ thể sáng tạo nghệ thuật và chủ thể cảm
thụ nghệ thuật. Nhưng cái đẹp chưa dừng ở đây mà nó còn biến ảo kỳ diệu trong sự hiện hữu
thường hằng của mùa Xuân bất tận:
Chớ bảo Xuân tàn hoa rụng hết
Đêm qua sân trước một cành mai
Làm con người đứng trước bờ vực thẳm của sự sống và cái chết mà lại có được cái ý thức chân
như tự tại, xem cái chết như sự chấm dứt và trở lại của một mùa Xuân thì thiết tưởng không còn
giá trị thẩm mỹ nào đẹp và trác tuyệt hơn!
Điều này chúng ta dễ dàng nhận ra, bởi cũng có nhiều vị thiền sư đắc đạo trước khi qua đời,
thường đều có làm kệ di huấn cho các đệ tử, nhưng nội dung những bài thơ thường chỉ chứa
đựng tính triết học tôn giáo, hay cao hơn là sự tự tại của tâm hồn một con người đắc đạo, bình
thản trước cái chết, mà không tạo được một sự tiếp cận, tức qua cái chết (thị tịch) hay sự đắc đạo


của mình khả dĩ giúp con người tự mình có được khả năng vượt khỏi chính mình, tự tại trước
mọi lẽ tử sinh. Bài thơ “Thị tịch” (Dặn lại trước khi tịch) của Thiền sư Ngộ Ấn (1020-1088) là
một điển hình:
Diệu tính hư vô bất khả phan
Hư vô tâm ngộ đắc hà nan
Ngọc phần sơn thượng sắc thường nhuận
Liên phát lô trung thấp vị càn.

(Hư vô diệu tính khó vin noi/ Riêng bụng hư vô hiểu được thôi/ Trên núi ngọc thiêu, màu vẫn
nhuận/ Trong lò sen nở, sắc thường tươi)
Nếu đứng trên bình diện Phật học cảm nhận thì bài thơ này rất đặc sắc, nhất là hai câu “Trên núi
ngọc thiêu, màu vẫn nhuận; Trong lò sen nở, sắc thường tươi” là những câu thơ tuyệt đẹp trong
văn chương thiền học Phật giáo. Nhưng, đứng trên bình diện mỹ học (Mác - Lê-nin) thì bài thơ
chỉ giúp cho người đọc nhận biết được tác giả là một vị thiền sư đắc đạo, có đạo đức thâm diệu
vững vàng trong sanh tử; còn về diệu dụng thì bài thơ chưa tạo nên mối giao tiếp và bản năng kỳ
diệu để qua bài thơ đó có thể cảm độ được người chưa giác ngộ đến với trình độ nhận thức thực
tiễn: nghe, thấy, biết và thâm nhập..., tức tự mình có thể thân chứng như hai bài thơ của hai Thiền
sư Vạn Hạnh và Mãn Giác để làm nên sự tồn tại về giá trị của văn hóa thẩm mỹ qua giáo lý vô
thường và thường của Phật giáo.
*
**
KẾT LUẬN
Lý – Trần là thời đại vàng son của lịch sử Việt Nam. Đây là thời đại phục hưng, đất nước được
độc lập chủ quyền, dân tộc được hồi sinh sau hơn một ngàn năm Bắc thuộc. Thời này Phật giáo
rất thịnh, tư tưởng triết lý Phật giáo đã ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống tâm linh con người và đời
sống văn học. Văn học Phật giáo nói chung, thơ Thiền nói riêng là một bộ phận quan trọng của
văn học Lý – Trần, là di sản quý báu của một thời đại đáng tự hào của dân tộc ta.
Thơ văn Lý-Trần là những áng văn chương hay, đẹp, liên hệ đến cuộc sống của đạo, của đời,
được sáng tác ngay trong thời đại Lý – Trần mà chiều sâu là những giáo lý, triết lý của Phật giáo
ngang qua lăng kính nhãn quan của từng vị thiền sư, danh tăng hay các cư sĩ (trong đó có cả
những vị vua, quan, trí thức nho sĩ) am hiểu đạo Phật. Nói chung là những người có thực học,
thực tu và thân chứng về đạo Phật, biểu lộ sở đắc của mình về Phật giáo bằng thơ văn.
Văn học Phật giáo thời Lý – Trần đã đúc kết tất cả những tinh hoa, nghệ thuật, những triết lý giác
ngộ giải thoát… đã tạo nên bức tượng đài hùng vĩ giữa lòng dân tộc. Dấu ấn ấy sẽ mãi là hình
ảnh bất hủ trong lòng người đọc. Thông qua việc tìm hiểu trên ta thấy được những tính cách đặc
trưng ấy, và đã tạo nên dấu ấn của dòng văn học Việt Nam nói chung và Phật giáo Việt Nam nói
riêng. Dù chúng ta nhìn nhận từ khía cạnh nào đi nữa thì văn học Phật giáo thời Lý – Trần cũng
có những giá trị đóng góp thiết thực của nó.

Có thể nói nhân tố tạo kỳ tích trong thời đại này là con người. Quan trọng hơn hết cái được xem
là tinh thần của thời đại, chính là hình ảnh con người tự tin, phóng khoáng và trong sáng mà đời
sau khó gặp lại, dù trình độ văn minh mỗi ngày một cao hơn. Ngay giữa lòng xã hội phong kiến,
những mẫu người rất tuyệt vời mà hậu thế luôn ca ngợi, đã hình thành và phát huy tối đa năng
lực bản thân để cống hiến để tô điểm cho đời, cho nhân dân và cho đất nước. Văn học Phật giáo
thời Lý – Trần đã tổng hợp tất cả những triết lý nghệ thuật sống, những áng văn chương đặc sắc
nghệ thuật mang đậm tính nhân văn sâu sắc.
Qua việc tìm hiểu vẻ đẹp văn học của Phật giáo thời Lý – Trần, chúng ta không chỉ tự hào về
những thành tích quá khứ vô cùng vẻ vang của cha ông, mà phải biếtrút ra từ đó những bài học


×