Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

Vấn đề tiền lương và cải cách tiền lượng hiện nay ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (939.35 KB, 22 trang )

“Vấn đề tiền lương, cải cách tiền lương ở Việt Nam hiện nay”

MỤC LỤC
Nội dung.............................................................................Trang
MỤC LỤC.................................................................................................1
LỜI MỞ ĐẦU...........................................................................................2
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ TIỀN
LƯƠNG......................................................................................................3
1.1

Khái niệm........................................................................................3

1.2

Phân loại.........................................................................................4

1.3

Bản chất..........................................................................................5

1.4

Vai trò..............................................................................................6

CHƯƠNG 2: MỘT SỐ BẤT CẬP TRONG CHÍNH SÁCH TIỀN
LƯƠNG HIỆN HÀNH VÀ ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP...........................8
2.1 Tình hình thu nhập của người lao động tại Việt Nam trong
thời gian gần đây......................................................................................8
2.2

Một số bất cập trong chính sách tiền lương..............................9



2.2.1 Nội dung chính sách tiền lương.....................................................9
2.2.2 Mức lương tối thiểu chung và mức lương tối thiểu vùng............9
2.2.3 Hệ thống thang, bảng lương...........................................................11
2.2.4 Chế độ phụ cấp................................................................................11
2.3

Một số giải pháp............................................................................12

2.3.1 Nhận thức mới về tiền lương..........................................................12
2.3.2 Quản lý của nhà nước về tiền lương..............................................13
2.3.3 Thu hẹp khoảng cách giàu nghèo………………………………. 14
KẾT LUẬN................................................................................................15
TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................................................16
PHỤ LỤC...................................................................................................16


LỜI MỞ ĐẦU
Mỗi một sản phẩm, một dịch vụ đều có sự kết tinh lao động của
con người. Lao động vừa là tiềm lực của sản xuất vừa là sự trao đổi sức
lao động của mình để lấy sản phẩm, hàng hóa phục vụ đời sống của gia
mình và gia đình. Trong nền sản xuất hàng hóa, sự trao đổi sức lao
động lấy hàng hóa thông qua một trung gian ngang giá, đó là tiền
lương. Là khoản tiền công trả cho người lao động tương ứng với kết
quả, số lượng, chất lượng của lao động, tiền lương là nguồn thu nhập
của công nhân viên chức, đồng thời là những yếu tố chi phí sản xuất
quan trọng cấu thành giá thành sản phẩm của doanh nghiệp. Vì vậy, tiền
lương là mối quan tâm hàng đầu của cả người lao động và các nhà tư
bản, các doanh nghiệp. Thời gian qua, nhà nước ta đã không ngừng
quan tâm cải cách, sửa đổi bổ sung chính sách tiền lương, điều chỉnh

mức lương tối thiểu nhiều lần, góp phần cải thiện đời sống người lao
động hưởng lương, thúc đẩy người lao động sáng tạo, hăng say trong
công việc. Tuy nhiên, bên cạnh một số những ưu điểm mang tính giải
pháp tạm thời, chính sách tiền lương thời gian qua cũng đã bộc lộ
những hạn chế cần sớm được khắc phục.
Sau đây em xin trình bày bài tiểu luận với nội dung: “Vấn đề tiền
lương, cải cách tiền lương ở Việt Nam hiện nay”. Trong bài viết của em
khó có thể tránh được những sai sót, em mong nhận được sự góp ý từ
giảng viên. Em xin cảm ơn!


CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ
TIỀN LƯƠNG
1.1 Khái niệm
Có thể tạm định nghĩa tiền lương là sự trả công hoặc thu nhập mà có
thể biểu hiện bằng tiền. Tiền lương phản ánh nhiều mối quan hệ trong
kinh tế xã hội, tùy thuộc vào các thời kỳ khác nhau.
Trong nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung ở thời kỳ bao cấp, tiền
lương không phải là giá cả của sức lao động, không phải là hàng hoá cả
trong khu vực sản xuất kinh doanh cũng như khu vực quản lý nhà nước,
quản lý xã hội.[2]
Trong thời kỳ tư bản chủ nghĩa, mọi tư liệu lao động điều được sở
hữu của các nhà tư bản, người lao động không có tư liệu lao động phải
đi làm thuê cho chủ tư bản, do vậy tiền lương được hiểu theo quan điểm
sau: “Tiền lương là giá cả của sức lao động mà người sử dụng lao động
trả cho người lao động”.[2] Quan điểm về tiền lương dưới CNTB được
xuất phát từ việc coi sức lao động là một hàng hoá đặc biệt được đưa ra
trao đổi và mua bán một cách công khai.
Trong kinh tế thị trường, tiền lương được hiểu là: "Tiền lương
được biểu hiện bằng tiền mà người sử dụng lao động trả cho người lao

động. Tiền lương được hình thành thông qua quá trình thảo luận giữa
hai bên theo đúng quy định của Nhà nước". Thực chất, tiền lương trong
nền kinh tế thị trường là giá cả của sức lao động, là khá i niệm thuộc
phạm trù kinh tế, xã hội, tuân thủ theo nguyên tắc cung cầu giá cả thị
trường và pháp luật hiện hành của Nhà nước. Tiền lương luôn được coi
là đối tượng quan tâm hàng đầu của người lao động và các doanh
nghiệp. Đối với người lao động thì tiền lương là nguồn thu nhập chủ
yếu của bản thân người đó và với gia đình họ. Ngược lại, với doanh


nghiệp, đó là chi phí sản xuât, là giá cả họ bỏ ra để mua hàng hóa sức
lao động.

1.2 Phân loại
Để tìm hiểu về tiền lương, không thể bỏ qua các loại như tiền
lương danh nghĩa, , tiền lương tối thiểu, tiền lương kinh tế, tiền lương
thực tế ….
Tiền lương danh nghĩa là một số lượng tiền tệ mà người lao động
nhận từ người sử dụng lao động, thông qua hợp đồng thoả thuận giữa
hai bên, theo quy định của pháp luật. Thực tế, ta thấy mọi mức trả cho
người lao động đều là danh nghĩa.
Tiền lương tối thiểu: Theo nghị định 197/CP của Chính phủ ngày
31/12/1994 về việc thi hành Bộ luật lao động ghi rõ: "Mức lương tối
thiểu là mức lương của người lao động làm công việc đơn giản nhất,
(không qua đào tạo, còn gọi là lao động phổ thông), với điều kiện lao
động và môi trường bình thường". Đây là mức lương thấp nhất mà Nhà
nước quy định cho các doanh nghiệp và các thành phần kinh tế trả cho
người lao động.
Tiền lương kinh tế là số tiền trả thêm vào lương tối thiểu để đạt
được sự cung ứng lao động theo đúng yêu cầu của người sử dụng lao

động.
Về phương diện hạch toán, tiền lương của người lao động trong
các doanh nghiệp sản xuất được chia làm 2 loại tiền lương chính và tiền
lương phụ. Trong đó, tiền lương chính là tiền trả cho người lao động
trong thời gian họ thực hiện nhiệm vụ chính của mình, bao gồm tiền
lương cấp bậc và các khoản phụ cấp kèm theo. Còn tiền lương phụ là
tiền trả cho người lao động trong thời gian họ thực hiện công việc khác
ngoài nhiệm vụ chính của họ . Ví dụ như tăng ca, hỗ trợ phòng ban
khác.


Tiền lương thực tế được xác nhận bằng khối lượng hàng hoá tiêu
dùng và dịch vụ mà người lao động nhận được qua tiền lương danh
nghĩa.
Tiền lương thực tế được xác định từ tiền lương danh nghĩa bằng công
thức :

Trong đó:
ILTT: Chỉ số tiền lương thực tế
ILDN : Chỉ số tiền lương danh nghĩa
IG : Chỉ số giá cả
Tiền lương thực tế là sự quan tâm trực tiếp của người lao động,
bởi vì đối với họ lợi ích và mục đích cuối cùng sau khi đ ã cung ứng sức
lao động là tiền lương thực tế chứ không phải là tiền lương danh nghĩa
nó là số tiền thực tế người lao động được nhận. Chỉ số giá cả phụ thuộc
vào CPI (chỉ số giá tiêu dùng). Nếu xảy ra lạm phát thì chỉ số giá cả
tăng, tiền lương thực tế giảm nên người lao động nghèo đi một cách
tương đối. [2]

1.3 Bản chất

Trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung tiền lương có đặc điểm sau :
- Tiền lương không phải giá cả của sức lao động, không phải là hàng
hoá cả trong khu vực sản xuất kinh doanh cũng như quản lý nhà nước
xã hội.
- Tiền lương là một khái niệm thuộc phạm trù phân phối, tuân thủ
những nguyên tắc của quy luật phân phối.
- Tiền lương được hiểu là một phần thu nhập quốc dân biểu hiện dưới
hình thức tiền tệ, được nhà nước phân phối có kế hoạch cho công nhân
- viên chức - lao động phù hợp với số lượng và chất lượng lao động của
mỗi người đã cống hiến, tiền phản ánh việc trả lương cho công nhân viên chức - lao động dựa trên nguyên tắc phân phối theo lao động.


1.4 Vai trò
Thu nhập chủ yếu của người lao động là tiền lương. Chúng ta cần
tìm hiểu các vai trò của tiền lương:
1.4.1 Giá trị của sức lao động
Cũng như mối quan hệ của hàng hoá khác sức lao động cũng được trả công
căn cứ vào giá trị mà nó đã được cống hiến và tiền lương chính là biểu hiện
băng tiền của giá trị sức lao động trong cơ chế thị trường. Ngày nay ở nước
ta thì tiền lương còn thể hiện một phần giá trị sức lao động mà mỗi cá nhân
đã được bỏ ra trong quá trình sản xuất kinh doanh.
1.4.2 Động lực đối với người lao động
Khi xây dựng các hình thức trả lương phải đảm bảo được yêu cầu này
và đồng thời đây cũng chính là chức năng của tiền lương. Động lực cao
nhất trong công việc của người lao động chính là thu nhập (tiền lương),
vì vậy để có thể khuyến khích tăng năng suất lao động chỉ có thể tiền
lương mới đảm nhiệm chức năng này. Mặt khác, hình thức quản trị
ngày nay được áp dụng phổ biến là biện pháp kinh tế nên tiền lương
càng phát huy được hết chức năng của mình tạo ra động lực tăng năng
suất lao động.

1.4.3
Duy trì và mở rộng sức lao động
Đây là chức năng cơ bản của tiền lương đối với người lao động bởi sau
mỗi quá trình sản xuất kinh doanh, người lao động phải được bù đắp
sức lao động mà họ đã bỏ ra. Họ cần có thu nhập mà bằng tiền lương
cộng với các khoản thu khác (mà tiền lương là chủ yếu) giúp người lao
động bù đắp lại sức lao động đã hao phí để họ có thể duy trì liên tục
quá trình sản xuất kinh doanh. Mặt khác do yêu cầu của đời sống xã hội
nên việc sản xuất không ngừng tăng lên về quy mô, về chất lượng. Để
đáp ứng được yêu cầu trên thì tiền lương phải đủ để họ duy trì và tái
sản xuất sức lao động cả về số lượng và chất lượng.


1.4.4 Kích thích và thúc đẩy phân công lao động xã hội
Khi tiền lương là động lực cho người lao động hăng hái làm việc sản
xuất thì sẽ làm cho năng xuất lao động tăng lên, đây là tiền đề cho việc
phân công lao động xã hội một cách đầy đủ hơn. Người lao động sẽ
được phân công làm những công việc thuộc sở trường của họ .
1.4.5

Điều tiết
lao động xã
hội

Trong quá trình thực hiện kế hoạch phát triển cân đối giữa các ngành, nghề
ở các vùng trên toàn quốc, nhà nước thường thông qua hệt thống thang
bảng lương, các chế độ phụ cấp cho từng ngành nghề, từng vùng để làm
công cụ điều tiết lao động. Nhờ đó tiền lương đã góp phần tạo ra một cơ
cấu hợp lý tạo điều kiện cho sự phát triển của xã hội.



CHƯƠNG 2: MỘT SỐ BẤT CẬP TRONG CHÍNH SÁCH
TIỀN LƯƠNG HIỆN HÀNH VÀ ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP
1.5 Tình hình thu nhập của người lao động tại Việt Nam
trong thời gian gần đây
Số lượng người có việc làm từ 15 tuổi trở lên không có biến
động lớn phản ánh tốc độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế còn chậm. (Bảng
1-2)
Xét về tổng thể, mức thu nhập trung bình của người làm công ăn lương
từ 15 tuổi trở lên cũng có xu hướng tăng, tuy nhiên diễn biến không ổn
định. Tính bình quân cả năm, Quý 3 năm 2013 tiền lương bình
quân/tháng con số là 4072 triệu VNĐ, quý 4 năm 2013 tăng lên 4119
nghìn VNĐ, quý 1 năm 2014 tăng nhanh lên 4729 nghìn VNĐ nhưng
quý 2 năm 2014 lại giảm nhanh xuống 4335 nghìn VNĐ. (Bảng 3-4 )
Thu nhập ở thành thị lớn hơn ở nông thôn. (Bảng 3-4 )So với các nhóm
khác thì nhóm có trình độ chuyên môn kỹ thuật có thu nhập khá thấp
3477 nghìn VNĐ so với 6633 nghìn VNĐ của những lao động có trình
độ đại học trở lên (Bảng 5
So với người làm việc tại cơ quan Nhà nước và có vốn
nước ngoài, thu nhập của người lao động trong khu vực ngoài Nhà nước
– các doanh nghiệp tư nhân, các cơ sở kinh doanh cá thể, hộ gia đình….
luôn luôn thấp hơn.(Bảng 6)
Khu vực I (nông lâm ngư nghiệp – 2703 nghìn VNĐ) có thu nhập thấp
hơn hẳn so với khu vực II (công nghiệp và xây dựng – 4129 nghìn
VNĐ) và khu vực III (dịch vụ - 4944 nghìn VNĐ) (Bảng 6)
Các số liệu cho thấy sự chênh lệch về thu nhập giữa các nhóm, các khu
vực.


1.6 Một số bất cập trong chính sách tiền lương

Với định hướng nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa của thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội với nền kinh tế nhiều thành phần, lấy kinh
tế nhà nước làm chủ đạo. Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm đưa ra
những chủ trương, chính sách cải cách tiền lương.
Nhà nước đã nhiều lần điều chỉnh mức lương tối thiểu chung, tối
thiểu vùng; sửa đổi, bổ sung chế độ phụ cấp ưu đ ãi, thâm niên theo
nghề, phụ cấp đặc thù theo ngành; đổi mới cơ chế tài chính đối với đơn
vị hành chính, sự nghiệp.. Từ dó, cải thiện chế độ tiền lương và góp
phần nâng cao đời sống xã hội. Tuy nhiên, quá tr ình điều chỉnh, triển
khai trong từng nội dung của chính sách tiền lương hiện hành vẫn còn
nhiều bất cập. Cụ thể như sau:
1.6.1 Nội dung chính sách tiền lương
Tình trạng phổ biến hiện nay là tình trạng cào bằng tiền lương,
mức lương dựa vào thâm niên công tác chứ không phụ thuộc vào trình
độ , công việc, chưa tách bạch rõ ràng chính sách tiền lương đối với
công chức khu vực hành chính Nhà nước và viên chức khu vực sự
nghiệp cung cấp dịch vụ công. Cùng với đó, quan hệ tiền lương tối
thiểu - trung bình - tối đa chưa hợp lý, hệ số trung bình quá thấp nên
chưa cải thiện được đời sống, chưa khuyến khích được cán bộ, công
chức và người lao động có hệ số lương thấp. Việc thực hiện chủ trương
xã hội hóa các hoạt động sự nghiệp công (dịch vụ công) còn chậm và
đạt kết quả thấp, nhất là trong y tế, giáo dục và đào tạo… gây khó khăn
cho cải cách tiền lương, thiếu nguồn tài chính để trả lương xứng đáng
cho cán bộ công chức và người lao động do ngân sách hạn hẹp.
1.6.2 Mức lương tối thiểu chung và mức lương tối thiểu vùng
Không theo kịp so với mức lạm phát và mức tăng trưởng của nền
kinh tế, mức lương tối thiểu hiện nay chưa thật sự phù hợp với cơ chế
thị trường dù có sự điều chỉnh liên tục. Do đó, tiền lương thực tế của



cán bộ, công chức và người lao động tuy tăng nhưng lại giảm tương đối
so với CPI, chưa bảo đảm trang trải cho các nhu cầu thiết yếu của bản
thân, chưa kể đến gia đình họ và những người phụ thuộc.
Ví dụ từ năm 2008 đến tháng 10-2011, mức lương tối thiểu vùng
của doanh nghiệp còn gắn với mức lương tối thiểu chung áp dụng đối
với khu vực hưởng lương từ ngân sách nhà nước, dẫn đến khó khăn
trong nâng tỷ lệ tăng lương do phụ thuộc chủ yếu vào nguồn ngân sách
nhà nước. Mặt khác, các doanh nghiệp được phân chia theo địa bàn 4
vùng để áp dụng mức lương tối thiểu vùng, nhưng thực tế khi áp dụng,
các doanh nghiệp chỉ điều chỉnh tăng tiền lương để đóng, hưởng bảo
hiểm xã hội, bảo hiểm y tế,… Tiền lương thực tế doanh nghiệp trả cho
người lao động cao hơn nhiều so với quy định, nên các doanh nghiệp có
thể không điều chỉnh hoặc có điều chỉnh nhưng mức điều chỉnh tăng
không theo tỷ lệ tăng tiền lương tối thiểu vùng.[3]
Việc tăng mức lương tối thiểu trong thời gian qua chưa thực sử
nâng cao đời sống của người làm công ăn lương, nhất là người lao động
làm việc trong doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động, như lĩnh vực may
mặc, giày da, chế biến hải sản,… Chính sách tiền lương chưa thực sự là
đòn bẩy khuyến khích được cán bộ, công chức nâng cao hiệu quả, phát
huy năng lực.
Những điều này tất yếu dẫn đến tình trạng nhiều công chức, viên
chức, trong đó không ít đội ngũ trẻ, có trình độ chuyên môn cao chuyển
sang làm việc tại các doanh nghiệp có mức lương cao như các công ty
dầu khí, công ty nước ngoài, hoặc chảy máu chất xám ra nước ngoài ,
người lao động giỏi đến làm việc tại các nước phát triển.
Tiền lương ngoài nhà nước
Nói chung, chế độ tiền lương của các doanh nghiệp ngoài nhà nước như
các doanh nghiệp nước ngoài, các doanh nghiệp tư nhân tương đối hợp
lý và được tổ chức khoa học hơn. Nhưng khoảng cách tiền lương giữa



các cấp độ rất ví dụ quản lý và nhân viên là rất lớn. Điều đó tạo nên
khoảng cách giàu nghèo
1.6.3 Hệ thống thang, bảng lương
Hệ thống thang, bảng lương hiện nay còn rườm rà, khoảng cách
giữa các bậc lương chênh lệch không đáng kể so với thời gian nâng bậc;
một số chế độ phụ cấp chưa phù hợp, hệ số lương khởi điểm các ngạch
có trình độ đại học 2,34; ngạch nhân viên văn thư 1,35; nhân viên phục
vụ 1,0 là quá thấp chưa khuyến khích người lao động trong sáng tạo,
phấn đấu hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ.
Thang, bảng lương áp dụng đối với doanh nghiệp quốc doanh
mang nặng tính hình thức. Tiền lương thực tế của người lao động được
trả theo đơn giá tiền lương, hiệu quả sản xuất, kinh doanh của doanh
nghiệp và thường cao hơn nhiều lần so với hệ thống. Mức lương theo
hệ thống chỉ còn giữ vai trò làm cơ sở tính đóng, hưởng các chế độ bảo
hiểm xã hội, bảo hiểm y tế và thực hiện các quyền lợi khác theo quy
định của Bộ Luật Lao động. Như vậy, mức lương cơ bản theo hệ thống
thang, bảng lương nhà nước không phản ánh thực chất giá cả sức lao
động, bản thân Nhà nước cũng bị thất thu không ít trong thu ngân sách.
1.6.4 Chế độ phụ cấp
Chế độ phụ cấp áp dụng hiện hành là tương đối phù hợp. Song,
nếu quan tâm đúng mức đến một số phụ cấp thâm niên vượt khung, phụ
cấp kiêm nhiệm, phụ cấp độc hại… sẽ tác động tích cực đến hiệu quả
làm việc của người lao động hơn. Hiện nay, đối với công chức đã có
phụ cấp công vụ, còn viên chức thuộc các ngành sự nghiệp lớn như giáo
dục, y tế, văn hóa,… đã có các loại phụ cấp thâm niên hay đặc thù
ngành dù chưa đầy đủ. Nhưng bên cạnh đó, vẫn còn một số loại hình sự
nghiệp, viên chức không có phụ cấp đặc thù, thâm niên, kể cả những
người làm việc tại các bộ phận hành chính trong cùng một đơn vị sự



nghiệp y tế, giáo dục, nhưng không phải là nhà giáo hay viên chức y tế,
… gây ảnh hưởng không nhỏ đến tâm tư của những viên chức này. Nếu
một người bị luân chuyển từ nơi có phụ cấp sang một nơi không có phụ
cấp ở một địa phương khác, họ có thể không đồng ý và bất mãn.
Chính sách tiền lương dù đã trải qua nhiều lần “cải cách” nhưng
vẫn chưa tạo ra động lực đủ mạnh cho người hưởng lương phát huy tài
năng và cống hiến. Tiền lương thấp không kích thích được cán bộ công
chức và người lao động gắn bó với Nhà nước, không thu hút được nhân
tài, dẫn đến hiện tượng người làm việc giỏi, có tài bỏ khu vực Nhà
nước. Tiền lương phải là sự đầu tư lâu dài cho phát triển

1.7 Một số giải pháp
1.7.1 Nhận thức mới về tiền lương
- Cần hiểu đúng giá trị của tiền lương: Cần phải trả tiền lương xứng
đáng với sức lao động. Tiền lương không chỉ có ý nghĩa kinh tế mà còn
có ý nghĩa chính trị - xã hội. Tiền lương là biểu hiện trực tiếp của thể
chế xã hội chủ nghĩa, phản ánh sự quan tâm của nhà nước đối với người
lao động hưởng lương.
- Nhận thức tiền lương chính là sự đầu tư cho phát triển; đảm bảo tiền
lương ở mức khá sẽ là động lực để người lao động làm việc hiệu qủa,
năng suất cao.
- Xác định tiền lương phải đúng với giá trị lao động của cán bộ công chức
viên chức nhà nước. Bên cạnh đó, nếu không sắp xếp, tổ chức lại bộ máy,
vấn đề biên chế hiện nay, để cho chất lượng của đội ngũ cán bộ công nhân
viên chức được đảm bảo theo giá trị thì sẽ không giải quyết được vấn đề
tiền lương.
- Xóa bỏ tư duy quan lieu bao cấp, cơ chế xin cho dễ này sinh bất công,
tham nhũng



- Xác định nhóm ngành, nghề để đưa ra từng vị trí việc làm của cơ
quan, đơn vị; sắp xếp lại bộ máy tổ chức phù hợp không bị chồng chéo,
nhằm giảm bớt nhân lực dư thừa trong bộ máy hành chính, góp phần
tạo thêm nguồn tài chính để trả lương cho cán bộ, công chức tương
xứng với giá trị sức lao động. Cần phải phân loại cán bộ, công chức cho
phù hợp để có chế độ lương, đãi ngộ đúng. Phải xác định rõ đâu là cán bộ
công chức viên chức nhà nước rồi xác định lương trong khả năng kinh tế
của đất nước.
1.7.2 Quản lý của nhà nước về tiền lương
. Từ thực trạng tiền lương công chức hiện nay, việc quan trọng
trước tiên là cần phải thay đổi cách quản lý của nhà nước về tiền lương.
Bởi nhà nước đóng vai trò quan trọng trong việc đề ra mục tiêu cũng
như triển khai thực hiện những cải cách liên quan đến tiền lương cán
bộ, công chức...
Việc đổi mới quản lý nhà nước về tiền lương cần phải được thực hiện
quyết liệt một số nội dung sau:
- Đưa những luật lệ vào thực tế chứ không chỉ trên lý thuyết: Đẩy mạnh
việc thực hiện các quy định của Luật Cán bộ, công chức, Luật Viên
chức, tiến hành đưa ra khỏi diện công chức những người làm việc trong
các đơn vị sự nghiệp, kinh tế, dịch vụ công; xã hội hóa một số lĩnh vực
dịch vụ như: Y tế, giáo dục, khoa học và hoạt động văn hóa, thể thao,...
gắn liền với đổi mới cơ chế tiền lương, nâng cao thu nhập đồng thời tạo
động lực làm việc cho các cán bộ ở lĩnh vực này.
- Tiết kiệm ngân sách: Khoán biên chế và khoán chi hành chính hằng
năm để khuyến khích việc giảm biên chế và tiết kiệm chi phí hành
chính . Thay chế độ biên chế nhà nước bằng chế độ hợp đồng.
- Tinh giảm biên chế bộ máy hành chính nhà nước phải được coi như
một khâu đột phá quan trọng, song đây cũng là việc làm khó khăn, phức



tạp. Tinh giảm biên chế về số lượng nhưng phải đồng thời chú trọng
đến việc nâng cao chất lượng đội ngũ công chức (vừa cắt giảm, vừa
thay thế, vừa phải bồi dưỡng thường xuyên), tuyển dụng công chức có
đủ năng lực xứng đáng vào làm việc trong bộ máy hành chính nhà nước
Tiền lương trong các doanh nghiệp ngoài nhà nước.
1.7.3 Thu hẹp khoảng cách giàu nghèo
Sự chênh lệch về bậc lương, đặc biệt trong các doanh nghiệp ngoài nhà
nước làm cho sự phân hóa giàu nghèo gia tăng rất lớn. Ngoài ra, sự
phân hóa càng lớn giữa các nhà tư bản và người lao động. Các nhà tư
bản, nhà quản lý cần quan tâm hơn đến đời sống của người lao động,
góp phần thu hẹp khoảng cách giàu nghèo bằng cách chế độ thưởng,
chế độ hưu trí, chế độ bảo hiểm… và đặc biệt tăng lương một cách hợp
lý tương đối so với sự phát triển của doanh nghiệp.


KẾT LUẬN
Qua bài tiểu luận này, em đã hiểu thêm về tiền lương cũng như
những cải cách. Thiết nghĩ đây là một vấn đề lớn, cần sự nghien cứu,
tìm hiểu thêm của các nhà nghiên cứu, các nhà hoạch định chính sách,
của các nhà quản lý doanh nghiệp. Mong rằng chủ trương cải cách và
đổi mới vấn đề tiền lương của Đảng và Nhà nước, đổi mới tiền lương
của các doanh nghiệp, những bất cập và hạn chế trên sẽ được giảm bớt,
người lao động sẽ có được mức lương cao hơn ổn định hơn để có thể
đảm bảo được cuộc sống của mình. Khi được trả công xứng đáng với sự
đóng góp của mình, họ sẽ mang hết sức mình ra để lao động sản xuất có
năng suất chất lượng, có hiệu quả cao nhất, góp phần tăng trưởng kinh
tế. Đó là sự đầu tư lâu dài và vững chác nhất của một quốc gia cũng
như của một doanh nghiệp.
Em xin được kết thúc bài tiểu luận ở đây mặc dù còn nhiều thiếu

sót. Kính mong nhận được sự góp ý, chỉnh sửa của các giảng viên.


TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Học viện Tài chính - Những vấn đề lý luận cơ bản về tiền lương
trong các doanh nghiệp
/>[2]. Phạm Văn Hưng - Một số vấn đề lý luận chung về tiền lương
/>[3]. Trần Ngọc Thới - Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Bà Rịa - Vũng
Tàu
Những bất cập trong chính sách tiền lương hiện hành cần được cải cách
/>PHỤ LỤC
Nguồn các bảng
Tổng cục thống kê – Báo cáo điều tra lao động và việc làm quý II năm
2014
www.vnep.org.vn/.../Bao-cao-dieu-tra-lao-dong-va-viec-lam-quy-II-nam-2014.html


Bảng 1


Bảng 2:


Bảng 3


Bảng 4


Bảng 5



Bảng 6



×