Tải bản đầy đủ (.docx) (5 trang)

VÀI NÉT VỀ NHÀ THƠ TÚ XƯƠNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (124.44 KB, 5 trang )

VÀI NÉT VỀ NHÀ THƠ TÚ XƯƠNG1.1. Cuộc đờiNhà thơ Tú Xương tên thật là Trần Tế Xương, tự Mặc Trai, hiệu Mộng
Tích, Tử Thịnh. Tên húy là Trần Duy Uyên. Ông sinh ngày 5 tháng 9 năm 1870 ở làng Vị Xuyên, huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định. Ôngmất ngày
20-1-1907 ở làng Ðịa Tứ cùng huyện. Ông sinh ra trong một gia đình đông con, thuộc dòng dõi nho gia, vốn là họ Phạm, sau đổi thành họ Trần là
bởi vào đời Nhà Trần, do lập được công lớn nên được phong quốc tính (vua cho đổi theo họ nhà vua). Ông nội Trần Tế Xương tên là Trần Duy
Năng. Thân sinh của Trần Tế Xương là cụ Trần Duy Nhuận cũng là một nhà nho, thi nhiều khoa không đậu, sau làm Tự thừa ở dinh đốc học Nam
Định, sinh được 9 người con, 6 trai, 3 gái, Tú Xương là con trưởng. Trong tất cả các tài liệu nói về Tú Xương đều không thấy có ảnh, nhưng dáng
hình ông được người bạn học là hạc phong Lương Ngọc Tùng viết trong bài thơ "Nhớ rõ hình dung": Cùng làng, cùng phố, học cùng
trường
Nhớ rõ hình dung cụ Tú Xương,
Trán rộng, tai dày, da tựa tuyết,
Mồm tươi, mũi thẳng, mắt như gương.
Tiếng vàng sang sảng ngâm thơ phú,
Gót ngọc khoan khoan dạo phố phường.
Mấy chục năm trời đà vắng bóng,
Nghìn năm còn rạng dấu thư hương.
Ông đi học sớm và cũng sớm nổi tiếng thông minh. Mười lăm tuổi đi thi hương không đậu. Hai khoa tiếp theo ông cũng đi thi nhưng trượt cả hai.
Mãi đến khoa Giáp ngọ (1894), ông mới đậu tú tài, khi ấy ông hai mươi bốn tuổi. Nhưng đối với thời bấy giờ, bằng tú tài chỉ làm ông đồ dạy học
chứ chưa làm được quan chức gì. Vì vậy trong những khoa thi tiếp theo (cứ ba năm một khoa), ông lại vác lều chõng đi thi và khoa nào cũng
trượt.
Ông cưới vợ từ năm mười sáu tuổi. Vợ là Phạm Thị Mẫn từ một cô gái quê, hơn ông một tuổi, là con gái nhà dòng, nhưng lại lấychồng kẻ
chợ. Bà Tú tần tảo, thương chồng, thương con, nhẫn nại quên mình, bà đã đi vào thi phẩm của ông chồng như một nhân vật điển hình hấp dẫn:
Quanh năm buôn bán ở mom sông, Nuôi đủ năm con với một chồng. Lặn lội thân cò khi quãng vắng, Eo sèo mặt nước buổi đò đông Một duyên
hai nợ âu đành phận, Năm nắng mười mưa dám quản công. Cha mẹ thói đời ăn ở bạc Có chồng hờ hững cũng như không (Thương vợ)
Có thể nói, việc hỏng thi và cảnh nghèo của gia đình là nguồn đề tài phong phú trong sáng tác của Tú Xương. 1.2. Thời đạiCuộc đời ông nằm
gọn trong giai đoạn nước mất, nhà tan. Năm Tú Xương ba tuổi (1873) Pháp đánh Hà Nội lần thứ nhất rồi tấn công Nam Ðịnh. Năm mười bốn tuổi
(1884) triều đình ký hàng ước dâng đất nước ta cho giặc. Tuổi thơ của Tú Xương trôi qua trong những ngày đen tối và ký ức về những cuộc chiến
đấu của các phong trào khởi nghĩa chống Pháp cũng mờ dần. Nhất là sau cuộc khởi nghĩa của Phan Ðình Phùng (1896) bị thất bại thì phong trào
đấu tranh chống Pháp dường như tắt hẳn. Năm 1897, Pháp đặt nền móng cai trị đất nước, xã hội có nhiều biến động, nhất là ở thành thị. Tú
Xương lại sinh ra và lớn lên ở thành thị vào thời kỳ chế độ thực dân nửa phong kiến được xác lập, nền kinh tế tư bản phát triển ở một nước thuộc
địa làm đảo lộn trật tự xã hội, đảo lộn đời sống tinh thần của nhân dân. Nhà thơ đã ghi lại rất sinh động, trung thành bức tranh xã hội buổi giao
thời ấy và thể hiện tâm trạng của mình. Như vậy, Tú Xương là một nhà nho không gặp thời, sống trong hoàn cản nho học suy tàn đang chuyển


sang Tây học. Ông là người có tài, chữ tốt văn hay nhưng trí óc ngang tàng, không thể ép mình vào cái quy chế cổ hủ, bó buộc của khoa trường
cũ rích, nên bước khoa cử cứ lận đận và cuộc đời cũng gặp nhiều khó khăn cũng như người dân Việt Nam lúc bấy giờ dưới chế độ thực dân nửa
phong kiến.1.3. Tác phẩmTú Xương mất sớm, ông chưa đi trọn con đường sáng tác của mình. Nhưng những tác phẩm Tú Xương để lại có
tác dụng như một bản cáo trạng đanh thép lên án xã hội thực dân nửa phong kiến trong giai đoạn nửa cuối thế kỷ XIX.
Tình hình văn bản tác phẩm của Tú Xương hết sức phức tạp. Ông sáng tác rất nhiều và thất lạc cũng nhiều. Không có những công trình đáng tin
cậy tập hợp tác phẩm khi tác giả còn sống hoặc vừa nằm xuống. Sinh thời, nhà thơ sáng tác dường như chỉ để tiêu sầu hoặc mua vui, thơ làm đọc
lên cho vợ con, bạn bè nghe, rồi tùy ý truyền khẩu. Những tác phẩm hiện nay phần nhiều do bạn bè, người thân cận ghi chép lại và do đó cũng bị
cải biên ít nhiều. Ông viết khoảng 151 bài thơ bằng chữ Nôm với đủ các thể loại. Ngoài ra, ông có dịch một số thơ Ðường.
II.NGHỆ THUẬT TRÀO PHÚNG TRONG THƠ TÚ XƯƠNG2.1.Vài nét về nghệ thuật trào phúngNghệ thuật trào
phúnglà nghệ thuật tạo tiếng cười mang ý nghĩa đả kích, lên án, vạch trần bản chất xấu xa của đối tượng, trào phúng còn là nghệ thuật gây ra
tiếng cười mang ý nghĩa phê phán xã hội.Tiếng cười chỉ xuất hiện khi phát hiện ra những mâu thuẫn trái với tự nhiên rồi phóng đại lên để gây
cười. Để gây được tiếng cười trào phúng, điều quan trọng nhất là tạo được tình huống mâu thuẫn và tổ chức truyện làm nổi bật mâu thuẫn.Trong
sự phát triển của văn hóa nói chung, văn học nghệ thuật nói riêng, thơ ca trào phúng góp phần quan trọng làm phong phú thêm cho đời sống văn
hóa tinh thần, gây sự cuốn hút và ấn tượng mạnh mẽ.Một đặc điểm nổi bật là thơ ca trào phúng vừa là tiếng cười sảng khoái, vừa như một mũi tên
đâm thẳng vào những thói hư tật xấu ở đời, lên án những bất công, những suy thoái của xã hội để từ đó thức tỉnh những nhân tố tích cực, đẩy lùi
cái xấu, ươm mầm cho cái tốt. Trong một xã hội mà sự xuống cấp đang là một nguy cơ thì văn thơ trào phúng đả kích càng có tác dụng. Nói đến
thơ Tú Xương là nói đến những đòn roi quất mạnh vào chế độ thực dân phong kiến, ở đó quan lại đa phần cam tâm làm tay sai cho giặc, hoặc là
bọn bán rẻ lương tâm, chạy theo tiền bạc, bọn rởm đời lố lăng. Trào lộng trong thơ Tú Xương thật là muôn màu, muôn vẻ. Cái xã hội thối nát với
những nhân vật khả ố, những sự việc nhơ nhuốc, những đồi phong bại tục với biết bao nhiêu cái lố lăng, chướng tai gai mắt đã cung cấp cho nhà
thơ những đề tài phong phú để sáng tác, chửi đời một cách khái hoạt, ghi lại những nét đặc biệt của một thời đại đen tối. 2.2. Đối tượng
trào phúng2.2.1. Tự trào Nhắc đến Tú Xương ta vẫn không thôi buồn man mác về một nhà thơ lỡ thời, cuộc sống với ông là những thất
vọng, bất công, nghèo khổ vì miếng cơm, manh áo, xót xa vì nỗi khổ tâm cho bản thân, gia đình và vận mệnh của dân tộc. Vậy mà ông không hề
lên tiếng trách đời, trách người, ngược lại ông vẫn nhìn cuộc đời một cách thản nhiên bằng những tiếng cười hóm hỉnh nhưng nhiều khi cũng là
tiếng cười rơi nước mắt. Những điều ông nói ra bằng giọng khôi hài, trào phúng như để nhạo báng bản thân mình hay để che lấp vẻ thảm thiết, ảo
não của một tâm hồn đau đớn.Tú Xương được xem là bậc thầy và là người khai sáng ra dòng thơ trào phúng trong bộ phận văn học viết nói chung
và của văn chương nhà nho nói riêng qua kiểu tự trào đầy bản ngã.
Ta thấy được điều này bởi lẽ ông sống trong buổi giao thời lại chịu ảnh hưởng sâu sắc của hoàn cảnh xã hội nên ông đã dùng thơ văn của mình để
ghi lại những nét đặc biệt của xã hội Việt Nam trong thời kì đó.
Hơn nữa, ông là một là một nhà văn có khuynh hướng hiện thực rất rõ rệt, cho nên trong thơ văn của ông thường không diễn đạt những khía cạnh
nghệ thuật có tính phi không gian, thời gian mà đặc biệt chú trọng tới sự ghi chú lại những sự thực điển hình của một thời đại trong một hoàn

cảnh nhất định. Chính vì thế khi đến với thơ,, văn của ông ta có cảm tưởng như nhìn vào một tấm gương lớn, một cuốn phim thời sự có đầy đủ
mọi gác cạnh có thể phản chiếu lại toàn diện những nét đặc biệt chung của xã hội Việt Nam vào đầu thế kỉ XX.
Nếu như Nguyễn Khuyến với kiểu tự trào ý nhị, kín đáo thông qua hình ảnh để nói về mình tiểu biểu như một số bài: Vịnh tiến sĩ, Vịnh Kiều, Tạ
người tặng hoa trà, Thân già và Ông phỗng đá:
Ông đứng làm chi đó hỡi ôngTrơ trơ như đá vững như đồngĐêm ngày giữ gìn cho ai đóNon nước đầy vơi ông biết không?
Tú Xương tự trào một cách trực tiếp, không hề giấu giếm tật xấu của mình. Trong kiểu tự trào phủ định, Tú Xương có một lối trào lộng vô cùng
độc đáo. Đó là bức chân dung kí họa về hình dung của chính bản thân mình. Trước hết đó là một hình dung xấu xí khác thường:
Râu rậm bằng chổiĐầu to tày đình


(Thầy đồ dạy học)
Biết tự cười mình luôn là bản lĩnh rất lớn và ngạo nghễ của những người có cá tính. Với Tú Xương, ông tự thấy bản thân có những nghịch lý để
tự trào. Ông là người thông minh, có tài thơ văn, nhưng thi mấy lần cũng chỉ đỗ đến tú tài, đạt được cái bằng cũng không dùng để đi làm mà chỉ
là thứ ghi nhận một nấc thang học vấn.
Và rồi ông lôi tất cả những tật xấu của mình ra để mà tự giễu. Đó là sự ăn diện, nét phong lưu, tài ỷ lại. Ông không tiếc lời để nói về những tật
xấu của mình:
Vị Xuyên có Tú XươngDở dở lại ương ươngCao lầu thường ăn quỵtThổ đĩ lại chơi lườngỞ phố Hàng Nẫu có phỗng sànhMắt thời thao láo mặt
thời xanhVuốt râu nịnh vợ con bu nó,Quắc mắt khinh đời, cái bồ anhBài bạc, kiệu cờ cao nhất xứRượu chè, trai giá đủ tam khoanhThế mà vẫn
nghĩ rằng ta giỏiCứ việc ăn chơi chẳng học hành
(Tự cười mình)
Ông lôi tất cả những cái xấu của bản thân mình ra mà phô bày với thiên hạ, không một chút giấu giếm. Qua những vần thơ của ông, bản thân ông
hiện lên là một người với đầy đủ tật xấu, nào là thích bài bạc, rượu chè, chỉ lo hưởng thụ cho bản thân mà không chịu học hành. Hết kể những tật
xấu của mình ra ông lại mang cả những sở thích của bản thân ra mà cười cợt:
Nghiện chè, nghiện rượu, nghiện cả cao lâu,Hay hát, hay chơi, hay nghề xuống lõngQuanh năm phong vận, áo hàng Tàu, khăn nhiễu tím, ô Nhật
Bản xanhRa phố nghênh ngang, quần tố nữ, bít tất tơ, giày Gia Định bóng
(Phú hỏng thi)
Bằng giọng điệu trào phúng, mọi khía cạnh của bản thân ông đều trở nên xấu xí để làm đối tượng trào lộng. Hết những ăn chơi ông quay sang kể
dến những sự dốt nát của bản thân để cợt nhả:
Có một thầy,Dốt chẳng dốt nào,Chữ hay chữ lỏng( )Sách vở mập mờVăn chương lóng ngóng(Phú hỏng thi)Ý hẳn thầy văn dốt vũ dát,Cho
nên thầy luẩn quẩn loanh quanh(Phú thầy đồ)Tấp tểnh người đi tớ cũng điCũng lều cũng chõng cũng đi thiTiễn chân cô mất ba đồng

chẵn,Sờ bụng thấy không một chữ gì (Đi thi)
“Tám khoa chưa khỏi phạm trường quy” (Buồn hỏng thi), Tú Xương đã hăm hở, những mong đem tài năng và sức lực của mình để phục vụ
non sông đất nước. Với mong muốn:
"Mở mặt để cho vua chúa biết
. Lăm le bia đá bảng vàng, cho vang mặt vợ"
Thế nhưng, giấc mộng cao cả ấy không thành, ông cảm thấy chán nản, thất vọng. Và những bài thơ tự trào ra đời. Ông trách bản thân mình, cười
vào tài năng của mình để vơi đi nỗi buồn hỏng thi đó. Nhưng sự thật, chúng ta biết, Tú Xương không phải là kẻ bất tài, mà do tính cách của
ông ngang tàng, không chịu ép mình vào những khuôn sáo rỗng tuếch thì làm sao lễ giáo phong kiến có thể chấp nhận cho được.
Trong cuộc đời của mình, một niềm may mắn lớn đã đến với ông. Ông đã lấy được bà Tú – bà Trần Thị Mẫn, một người phụ nữ đảm đang, tháo
vát, hết mực yêu chồng thương con. Bà là người phụ nữ điển hình cho người phụ nữ Việt Nam “biết hi sinh nên chẳng nhiều lời”. Bà gánh trên
vai gánh nặng “năm con với một chồng” , lo cho gia đình đủ ăn, lại phải có tiền để ông Tú đi thi, mặc sức ăn chơi, phong lưu. Biết vợ mình “lặn
lội thân cò” vất vả toan lo, Tú Xương không thể làm gì cho vợ. Ông đã giễu đức ông chồng vô tích sự, là một “thứ con cao cấp” của vợ:
Hỏi ra quan ấy ăn lương vợĐem chuyện trăm năm trở lại bàn(Quan tại gia)Ngồi đấy chả hơn gì chú Cuội,Nói ra thì thẹn với ông Tơ(Ta
chẳng ra chi)Thậm chí, ông đã cất lên một tiếng chửi đổng:Cha mẹ thói đời ăn ở bạcCó chồng hờ hững cũng như không(Thương vợ)
Đó là tiếng chửi đời, hay cũng chính là tiếng chửi chính bản thân mình khi trở thành gánh nặng trên đôi vai gầy guộc, yếu ớt cần biết bao sự che
chở của người vợ đáng thương, bản thân ông phải nhận những đồng tiền mà vợ mình phải toan lo khó nhọc mới có được. Thế nhưng ông cũng
đành bất lực. Chửi vậy thôi nhưng đâu có thay đổi được gì, có bớt được gánh nặng cho vợ được đâu. Tuy nhiên, việc Tú Xương cất lên câu chửi
như vậy đã làm thỏa lòng cho bà Tú biết bao.
Tuy rằng “ăn lương vợ” với những cuộc ăn chơi của mình, nhưng có những lúc Tú Xương nhận ra cảnh nghèo của bản thân của gia đình mình:
Bức sốt nhưng mình vẫn áo bông,Tưởng rằng ốm dậy hóa ra không.Một đàn rách rưới con như bốBa chữ nghêu ngao vợ chán chồngLà trụ cột
trong gia đình thế mà ông đành phải đứng nhìn vợ con mình cực khổ thậm chí hi sinh cho mình quá nhiều. Nghèo đến nỗi chỉ có mỗi một chiếc
áo bông, thậm chí thời tiết oi bức vẫn phải mặc áo bông, mọi người thấy thế lại tưởng ông bị ốm, nhưng không, do nghèo khổ quá đấy thôi. Nhà
đã nghèo lại gặp cảnh đông con:
Gạo cứ lệ ăn đong bữa mộtVợ quen dạ đẻ cách năm đôiÔng không chỉ tự trào chân dung của bản thân mình mà ông còn cười nhạo sự bất lực
trước thời cuộc của mình trong tư cách một người công dân:
Một đàn thằng hỏng đứng mà trôngNó đỗ khoa này có sướng khôngTrên ghế bà đầm ngoi đít vịtDưới sân ông cử ngỏng đầu rông(Giễu
người thi đỗ)
Lạ thật, sao ông không giễu những kẻ thi hỏng mà lại đi nhạo báng những người thi đỗ. Rõ ràng có nguyên nhân cả đấy! Những kẻ đỗ đậu nào
phải do bản thân họ có tài mà do chế độ khoa cử bất bình đẳng, người ta thi đỗ vì có tiền, có quyền, có địa vị xã hội, còn ông có gì nào! Có tài thì
thay đổi được cả một nền khoa cử cố hữu sao? Thật chua xót quá!

Lôi thôi sĩ tử đeo vai lọ,Âm vị quan trường miệng thét loaLọng cắm rợp trời quan sứ đến,Váy lê quét đất mụ đầm ra(Lễ xướng danh khoa
Đinh Dậu)
Tú Xương tả thực những cảnh đối chọi nhau chan chát: cái váy đối với cái lọng, cái đít vịt của mụ đầm đối với cái đầu rồng của ông cử. Như vậy
thật là tuyệt xảo, hai từ “ngoi” và “ngỏng” đối nhau thật sướng vô cùng và cũng thật đau xót làm sao. Hình ảnh “váy lê quét đất” chốn quan
trường lúc bấy giờ, khi có hình ảnh bà đầm xuất hiện đã làm mất hết tính chất uy nghiêm của trường thi. Không những thế, cảnh tượng bi hài ấy,
trong hình ảnh “ông cử”, “sĩ tử” ấy có cả nhà thơ trong “đàn hỏng đứng mà trông”. Chế giễu đám “ông cử”, “sĩ tử” cũng chính là Tú Xương tự
giễu cợt sự bất lực, kém cỏi của chính ông.
Tự cảm thấy không phải với vợ con và với chính mình nhà thơ đã dùng tiếng cười tự trào để giải thoát cho mình, tự khẳng định nhân cách của
mình. Ông tự trào bằng cách tự chế giễu cái xấu của bản thân,tiếng cười của ông có mục đích, đối tượng rõ ràng. Ông chế giễu cái dốt nát, nhếch
nhác, thảm hại của nhà nho phong kiến, chế giễu tính ăn bám của đức ông chồng trong chế độ gia trưởng phong kiến, chế giễu sự hèn kém của
một kẻ sĩ trong tư cách công dân của một nước nô lệ. Bằng kiểu tự trào phủ định, Tú Xương đã chế giễu, đã phê phán tính chất hủ lậu của kẻ sĩ
phong kiến và phủ nhận cả những khuôn phép lỗi thời của xã hội phong kiến. Không chỉ hết lời tự giễu mình, trong kiểu tự trào khẳng định ta
thấy xuất hiện một hình ảnh Tú Xương hoàn toàn khác:
Kìa thơ tri kỉ đàn anh nhất,Nọ khách phong lưu bậc thứ nhìĂn mặc vẫn ra người thiệp thế,Giang hồ cho biết bạn tương tri(Tự đắc)Cũng lắm
phen đi đó đi đây, thất điên bát đảo,Cũng nhiều lúc chơi liều chơi lĩnh, tự đốm, tam khoanhNhà lính tính quan: ăn rặt những thịt quay, lạp


xường, mặc rặt những quần vân, áo xuyến;Đất lề, quê thói: chỗ ngồi cũng án thư, bàn độc, ngoài hiên cũng cánh xếp, mành mành.(Phú thầy
đồ)Đâu phải thơ ông chỉ toàn cười cợt, mỉa mai. Trong thơ ông ta vẫn nhận thấy một nỗi lòng đau đáu, thương vợ mà chỉ biết đứng nhìn, trên
cương lĩnh một người chồng ông thiết tha bày tỏ lòng mình cùng vợ:Mình đi tu cho thành tiên thành Phật, để rong chơi nơi Lãng Uyển, Bồng
hồTớ nuôi con cho có dâu có rể, để trọn vẹn đạo chồng, nghĩa vợ(Văn tế sống vợ)Trên thực tế không phải ông bất lực trước cuộc đời mà
chán nản. Thơ ông vẫn ẩn chứa một niềm lạc quan, mong muốn thay đổi được số phận. Năm nay ta học năm sau đỗ,Chẳng những Lương Đường
đỗ thủ khoa(Than thân chưa đạt)
Qua những lời thơ trên,hình ảnh Tú Xương hoàn toàn mới khác với bức chân dung kí họa ở trên, Tú Xương đã khắc họa hình ảnh một con người
đầy bản ngã. Một con người với những phẩm chất tốt đẹp, những ý trí và hoài mộng thiết tha muốn làm nên sự nghiệp phục vụ nước nhà. Mặc dù
những hoài mộng không thành, Tú Xương chỉ có thể cất lên tiếng chửi đời, bó tay bất lực trước thời cuộc, nhưng với bản ngã ấy Tú Xương đã
thực sự khẳng định được mình.
Ông tự phô mình trong mọi góc cạnh, Tú Xương đã phác họa nên một chân dung của chính mình một cách độc đáo và đặc sắc. Tuy nhiên ta cũng
cần lưu ý rằng không nên đồng nhất giữa tác phẩm và tiểu sử của nhà thơ bởi trên thực tế ta không có một Tú Xương ăn chơi, bất cần đời như
vậy. Ta cần lưu ý đến quy luật sáng tác của văn học. Việc cường điệu, nói quá sự ăn chơi của mình rõ ràng là dụng ý của nhà thơ một mặt nhằm

đạt hiệu quả trào phúng cho thể loại này, mặt khác để bày tỏ sự khinh bỉ của ông trước thực tại xã hội đen tối. Và ông đã thuuwjc sự thành công
khi độc giả đén với thỏ ông mà không hề thấy khinh ghét những tật xấu của ông, không thấy coi thường sự nghiệp công danh “ăn lương vợ”, cũng
không oán trách ông bất lực trước hoàn cảnh gia đình và xã hội mà từ đó người ta có cái nhìn đúng đắn hơn về thời cuộc, hiểu được tấm lòng, con
người của Tú Xương trong một thời đại đầy biến động như vậy.
2.2.2. Thế trào 2.2.2.1. Ðối với khoa cử, nho học: Chính sách về văn hóa là cái ảnh hưởng đau khổ đến Tú Xương hơn cả.
Khoa cử đối với ông là con đường tiến cử duy nhất và cũng chúng là nguyên nhân khiến ông phải long đong, khốn khổ suốt đời, dầu căm tức nó
nhưng ông vẫn không thể dứt khoát từ bỏ nó được.Trong bức tranh xã hội của Tú Xương có những nho sĩ đi thi, những ông Nghè, ông Cống; có
hình ảnh của trường thi, của một nền nho học đang xuống dốc trầm trọng. Thời Tú Xương không còn tìm thấy hình ảnh uy nghi, trang trọng của
một trường thi chữ Hán xưa kia nữa mà nó đang lùi dần trước uy thế của kẻ thù. Ông đi thi với những mong muốn:Mở mặt để cho vua chúa
biếtĐỗ đành may hỏi tiếng cha cuLăm le bia đá bảng vàng cho vang mặt vợNhưng ác thay! Toàn chuyện ảo mộng cả! Ông than thở:Học đã sôi
cơm nhưng chửa chínThi không ăn ớt thế mà cayÔng thẳng thắn đưa ra những chính kiến của bản thân mình về đạo họcĐạo học ngày nay đã
chán rồi,Mười người đi học, chín người thôiCô hàng bán sách lim dim ngủ,Thầy khoa tư lương nhấp nhổm ngồi.Sĩ khí rụt rè, gà phải cáo,Văn
trường liều lĩnh, đấm ăn xôi.(Than đạo học) Là một nhà trí thức, hơn ai hết ông thấm thía được sự suy tàn của đạo học, tất cả trở nên lố
bịch, là một mớ hỗn độn không hơn không kém và đó cũng chính là sản phẩm tất yếu của hoàn cảnh xã hội lúc bấy giờ.Ông còn chế giễu những
người kéo nhau đi thi ở những trường lớp mới mở của thực dân Nghe nói khoa này sắp đổi thiCác thầy đồ cố đỗ mau đi !Dẫu không bia đá còn
bia miệngVứt bút lông đi, giắt bút chì. (Ðổi thi)Trong buổi lễ xứng danh khoa Ðinh Dậu, nhà thơ đã vẽ ra trước mắt người đọc bức tranh về
cảnh trường thi cảnh ngao ngán của sĩ tử trước thực trạng nước mất, nhà tan, sĩ khí tiêu điều, bút lông hết được săn đón: Vứt bút lông đi giắt bút
chì. Ðó là hình ảnh:
Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ Ậm oẹ quan trường miệng thét loa. Lọng cắm rợp trời quan sứ đến, Váy lê quét đất mụ đầm ra
Tú Xương than thở cho số phận của một ông Nghè, ông Cống và giễu cả những ông Phán: Nào có gì lạ cái chữ nho Ông nghè, ông cống cũng
nằm co Sao bằng đi học làm ông Phán. Tối rượu sâm banh, sáng sữa bò (Chữ nho) Lạ đời thay một chế độ khoa cử đương thời khi mà:Cử
nhân cậu ấm KỷTú tài con đô MỹThi thế mà cũng thiƠi khỉ ơi là khỉ!(Than sự thi)Khỉ thật! Cái chế độ thi cử đầy rẫy gian lận, bất công, kẻ
bất tài thì thi đỗ ầm ầm mà tài ba như ông thì lại cứ trượt oành oạch.Vậy qua những bài thơ của tác giả về chế độ khoa cử lúc bấy giờ, ta thấy ông
là một nạn nhân của khoa cử mà cay cú nhất chính là cái trường qui tàn nhẫn mà ông uất ức nhắc lại nhiều lần về cái trường thi tai ác ấy:Ví phỏng
còn thi mà học mãiHao cơm, tốn vải, hại mà thôi! Những vần thơ đã thốt lên sự chán nản tràn đầy lòng ông. Nhưng ông hơn người ở chỗ bực tức
mà chỉ bật ra cười, điệu cười của con người ngang tàng qua đó chỉa ngọn bút đả kích của mình vào sự thật trớ trêu một cách thật đau, thật
hằn.2.2.2.2. Đối với thế lực đồng tiền: Trước Tú Xương, nhiều tác giả Việt Nam cũng như nước ngoài đã lên án sức mạnh ghê gớm
của đồng tiền. Nó chi phối tư tưởng và hành động của con người. Ðến thời Tú Xương, đồng tiền lại một lần nữa gây đảo điên xã hội nhất là ở
thành thị. Nó làm cho đạo đức suy đồi từ trong gia đình cho đến ngoài xã hội. Tú Xương đã mắng nhiếc cái xã hội đã hỗn loạn lên vì đồng
tiền: Người bảo ông điên ông chẳng điênÔng thương ông khổ hoá ra phiềnKẻ thương người ghét hay gì chữĐứa trọng, thằng khinh chỉ vị tiền.Có

thể thấy bức tranh xã hội của Tú Xương bị tha hóa đến trầm trọng. Nào là cảnh:
Ở phố Hàng Song thật lắm quan Thành thì đen kịt, độc thì lang Chồng chung vợ chạ kìa cô Bố Ðậu lại quan xin nọ chú Hàn
( Phố Hàng song)
Vì đồng tiền, con người lừa gạt lẫn nhau để mà sống, đối xử với nhau không ra gì. Tình nghĩa cha con, vợ chồng, tình yêu, tình bè bạn . đều bị
chà đạp bởi thế lực của đồng tiền. Như trong bài thơ Mùng hai tết viếng cô Ký:Hàng phố khóc bằng câu đối đỏÔng chồng thương đến
cái xe tay !Ông chồng khóc vợ chết chỉ vì thương cái xe tay. Than ôi! Còn tình, còn nghĩa vợ chồng bấy lâu thì quẳng đi đâu mất. Còn vợ đối với
chồng thì :Vợ đẹp, của người không giữ được, Chồng ngu, mượn đứa để chơi nhăng.Mới biết hồng nhan là thế thế.Trăm năm trăm tuổi lại trăm
thằng !Ngòi bút Tú Xương đã khái quát bức tranh hiện thực sinh động về một xã hội lố lăng, rởm đời, có những cảnh khá nực cười, những cảnh
chướng tai, gai mắt cứ nhan nhản xuất hiện trong thơ Tú Xương:
Khăn là bác nọ lo tày rế, Váy lĩnh cô kia quét sạch hè. Công đức tu hành sư có lọng, Xu hào xủng xoảng mán ngồi xe.
( Năm mới)
Ông cũng nhận ra sức mạnh vạn năng của đồng tiền để mà: Lẳng lặng mà nghe nó chúc sangĐứa thì mua tước đứa mua quan.Phen này ông
quyết đi buôn lọngVừa chửi vừa rao cũng đắt hàng.(Năm mới chúc nhau)
Các quy luật của xã hội đều bị đồng tiền, vì đồng tiền mà xáo nhào lên cả, không còn tôn ti trật tự, không còn lấy dù chỉ là một chút ít thôi đạo lý
làm người.Ngay cả tình cảm cha con, máu mủ ruột rà, tình cảm vợ chồng đầu ấp tay gối cũng bị lãng quên, cũng vùi chôn sâu trong một chữ
tiền.Tú Xương nhạo xã hội, một xã hội không còn kỉ cương, lề lối.Thật đau xót khi con người mất dần cả tính người, tình người.
2.2.2.3. Ðối với thực dân Pháp Tú Xương sinh ra và lớn lên ở thành thị vào thời kỳ chế độ thực dân nửa phong kiến được xác lập, bọn
thực dân Pháp sau khi đã làm xong việc cướp nước ta bằng quân sự bọn chúng tiếp tục gò tay triều đình Huế kí những hiệp ước bất bình đẳng
năm 1873 và 1884, bắt đầu xúc tiến chính sách thuộc địa của chúng về cả ba mặt kinh tế, chính trị và văn hóa. Trong đó những chính sách đô hộ
về văn hóa là ảnh hưởng đến cuộc đời ông hơn cả. Thực dân Pháptuy chưa phải là đối tượng chính để ông tập trung phê phán nhưng ta vẫn có thể
thấy được bóng dáng những tên thực dân xuất hiện với dáng vẻ rất buồn cười. Ðó là hình ảnh những ông Tây, bà Ðầm rất nghênh ngang lố
bịch trong bài Vịnh khoa thi Hương: Nhà nước ba năm mở một khoaTrường Nam thi lẫn với trường HàLôi thôi sĩ tử vai đeo lọẬm oẹ
quan trường miệng thét loaLọng cắm rợp trời quan sứ đếnVáy lê quét đất mụ đầm ra Nhân tài đất Bắc nào ai đóNgoảnh cổ mà trông cảnh nước
nhà Đây là bức tranh hiện thực trong kì thi năm Đinh Dậu 1897 có vợ chồng ông toàn quyền Pháp Paul Doumer và vợ chồng Công sứ Nam Định
Le Normand đến dự.
Ở đây có cảnh đón tiếp diễn ra long trọng : “lọng cắm rợp trời” để đón “ông Tây, mụ đầm” - Cảnh tượng vong quốc của dân ta. Hình ảnh


của "ông Tây mụ đầm" ở đây là một phản ánh đúng bản chất xã hội Việt Nam lúc bấy giờ: xã hội nô lệ, mà người nắm thực quyền là thực
dân. Hơn nữa, hình ảnh quan Tây, mụ đầm ngồi trên vị trí cao ngất đó cho thấy nỗi nhục mất nước của nhân dân ta.Hay trong bài thơ Ông

cò(Ông cò là viên chức Pháp đứng đầu lực lượng cảnh sát trong một thành phố)
Hà Nam danh giá nhất ông còTrông thấy ai ai chẳng dám ho.Hai mái trống toang đành chịu giộtTám giờ chuông đánh phải nằm coNgười quên
mất thẻ âu trời cãiChó chạy ra đường có chủ loNgớ ngẩn đi xia may vớ đượcChuyến này ắt hẳn kiếm ăn toÔng cò
Đây là một bài thơ của ông Tú nói về một tên quan nổi tiếng là hà khắc, đề ra những luật lệ trái khoáy khiến người dân phải điêu đứng. Người dân
sống dưới chế độ này trong một sự tù túng, sợ sệt, nép mình vào trong những luật lệ mà quan trên đã đưa ra.Những luật lệ cực kì vô lý.Những tên
quan này mặc sức hoành hành ngang dọc, đứng trên đầu dân ta, vô cùng hống hách.
Qua những tác phẩm của mình, nhà thơ đã để cho xã hội ấy tự bộc lộ cái bản chất của cả xã hội thực dân nửa phong kiến đương thời.Với ngòi bút
châm biếm sắc sảo, Tú Xương đả kích chúng không khoang nhượng, vạch trần thói gian ác, bần tiện, thủ đoạn kiếm ăn dơ bẩn của chúng bằng
bút pháp trào phúng sâu sắc.2.2.2.4. Ðối với bọn quan lại, tay sai
Bọn thực dân Pháp vào cướp nước, đáng lẽ ra nhân dân cả nước phải đồng lòng đánh đuổi kẻ thù, đàng này trong xã hội ấy vẫn tồn tại không ít
những tên chỉ biết giương mắt nhìn cảnh nước mất nhà tan. Đáng ô nhục hơn nữa là chúng cam tâm nhượng bộ để lũ cướp nước đè đầu cưỡi cổ,
ức hiếp nhân dân đã thế lại còn làm tay sai cho chúng, quay lưng lại với nhân dân, với đất nước, làm những việc trái với luân thường đạo lý.
Ðề tài này thật ra không có gì mới mẻ so với trước, nhưng cái mới ở đây là bút pháp của Tú Xương có cá tính và mang nét cảm hứng thời sự.
Ông khinh những kẻ dốt nát, xu thời mà nên danh, nên giá. Bác cử Nhu là một điển hình, học lực rất xoàng, đỗ cử nhân , làm huấn đạo, được cử
làm sơ khảo trường Nam khoa Canh Tý:Sơ khảo khoa này bác cử NhuThực là vừa dốt lại vừa nguVăn chương nào phải là đơn thuốcChớ có
khuyên xằng, chết bỏ bu!(Bác Cử Nhu)Hình ảnh ông chủ khảo trường thi hiện lên thật là lố bịch, một tên ngu dốt, chỉ là hữu danh vô thực,
chúng không khác chi những tên hề:
Chi chi trong khám sắp ngang hàngNghĩ lại thì ra các bợm làng.(Hát bội).Ông cười lên mặt những tên chỉ chuyên giở trò gian lận, hối lộ, bòn
rút của dân không nghĩ gì đến trách nhiệm:Tri phủ Xuân Trườngđược mấy niênNhờ trời hạt ấy cũng bình yên.Chữ y chữ chiểu không phê
đến,Ông chỉ quen phê một chữ tiền!
(Ðùa ông Phủ)
Lại còn cảnh nực cười của những kẻ cam tâm đi làm tay sai cho bọn cướp nước:Chỉ trách người sao chẳng trách mình?Mình trung đâu đấy,
trách người trinh?Áo dày cơm nặng, bao nhiêu đứcChiếu cạnh giường bên, mấy hột tình?Tơ tóc nỗi riêng thì xét nét,Giang sơn nghĩa cả nỡ mần
thinhCổ cong mặt lệnh, người đâu thế?Cái cóc bôi vôi khéo dại hình!(Cô hầugửi quan lớn)Những tên tay sai này chỉ giỏi lên đời, ức hiếp
những người dân thấp cổ bé họng. Lên mặt dạy đời người khác nhưng chính bản thân chúng nào có tốt lành gì. Chúng chỉ vì những lợi ích tầm
thường trước mắt mà quên đi nghĩa tình non nước, nỡ hạ mình làm kẻ sai vặt cho những kẻ cướp nước, nào có nỗi nhục nào hơn. Giọng cười cất
lên thật đắng cay, chua chát, đọc những câu thơ này ngỡ như nước mắt cứ chực trào ra ấy chứ!Nhà thơ đã dựng lại chân dung của bọn quan lại,
mỗi người mỗi vẻ nhưng đều rất sắc cạnh, cụ thể. Tất cả đều chỉ là những kẻ rởm đời, vô liêm sỉ. Thậm chí đến cả các cậu ấm tửcũng được Tú
Xương tái hiện, sinh động, cụ thể:
Hai cậu con con đóng vai ấm tử, lỗi bếp bồi cậu cũng như nhau. Ðôi đức bà lên mặt phu nhân, ngón đĩ thỏa bà nào cũng nhất. Nhất tắc mộ sư

mô chi cực, nay chùa này, mai chùa khác, mở lòng từ tô tượng, đúc chuông.
Nhất tắc ham chài lái chi khu, lên mành nọ xuú Xương trước thực trạng xã hội và ông đã dùng ngòi bút của mình để lên án, phê phán những con
người, những hiện tượng trái tai, gai mắt. ống mành kia, che miệng thế đong dầu rót mật
(Khai lý lịch)
Từ đó thấy được thái độ phẫn uất của T
2.2.2.5.Đối với thuần phong mỹ tục bị xâm phạm Nho học suy tàn đã lôi cuốn cả một hệ thống luân lý suy tàn theo, những
hình thức luân lý căn bản của xã hội như hiếu nghĩa đã được dân tộc Việt Nam tôn trọng qua hàng nghìn năm lịch sử, nay nhất đán bị công khai
xâm phạm. Cha mẹ bị coi cái coi khinh, tam tòng tứ đức bị lu mờ nhường chỗ cho thái độ hỗn xược với chồng:
Nhà kia lỗi phép con khinh bốMụ nọ chanh chua vợ chửi chồng
Người ta đã quay lưng lại với những thuần phong mỹ tục tốt đẹp từ ngàn đời, người ta khinh rẻ cái cũ để a dua với cái mới với tất cả mọi đặc tính
lố lăng của thời đại.Ngoài những điều phi lí, trái ngang do hiện thực xã hội lúc bấy giờ sản sinh ra thì cái đáng cười còn xuất phát từ chính một bộ
phận nhân dân, từ những thói hư tật xấu của con người mà bao đời nay vẫn không sửa chữa dược.Ông đanh thép lên án những người hành đạo mà
lòng dạ xấu xa và hành vi bẩn thỉu như cảnh sư sãi vụng trộm trong chùa, sư cho vay nặng lãi, sư chứa của gian đến nỗi phải ở tù :Quảng đại từ
bi cũng phải tù Hay là sư cũng vụng đường tu?Tụng kinh cứu khổ ba trăm quyển Ý hẳn còn quên một phép phù ? (Sư ở tù)Rồi những cảnh
nực cười xưa nay chưa từng có, khi trong tay có tiền người ta có thể vượt lên những nghi vệ xưa kia chỉ dùng cho hiển sĩ, quan lại, vua chúa như
xe, như lọng. Nhà tu hành lúc này có tiền cũng quay ra hách dịch, đi đâu cũng phải có lọng che, bọn Mán nửa người, nửa ngợm nếu có tiền cũng
rình rang xe ngựa:
Công đức tu hành Sư có lọngXu hào rủng rỉnh Mán ngồi xe
Hay những kẻ giả danh, giả nghĩa. Lợi dụng lòng tin của người dân để mà chuộc lợi, thật chỉ đáng một phường rẻ rúng, đáng khinh bỉ: Một thằng
trọc tuếch ngồi khua mõ,Hai ả tròn xoe đứng múa bông.Thấp thoáng bên đèn lên bóng cậuThướt tha dưới án nguýt sư ông.Chị em thủ thỉ đêm
thanh vắng:"Chẳng sướng gì hơn lúc thượng đồng!( Ông sư và mấy ả lên đồng) Ông còn lên án thói đồng bóng, cho đồng bóng là trò
mê tín giả dối không thể chịu được, chúng lợi dụng lòng tin của người dân để mà trục lợi:Ðồng giỏi sao đồng không giúp nước
Hay là đồng sợ súng thần công.
Phê phán những phong tục xa hoa, phù phiếm trong ngày tết ý tứ mỉa mai trước thực trạng nước mất, nhà tan. Dân nghèo, nước nghèo mà
cứ:Đem tiền mua pháo đốt chơiPháo nổ đì đẹt, tiền ơi là tiềnÔng vạch trần những tâm lý giả dối, sáo rỗng của con người trong ngày tết bằng lời
lẽ châm biếm sắc sảo. Bài thơ Chúc tết đã chế giễu độc địa và sâu sắc:
Nó lại chúc nhau cái sự sang! Ðứa thời mua tước đứa mua quan. Phen này ông quyết đi buôn lọng, Vừa chửi vừa rao cũng đắt hàng. Bên cạnh
đó ông còn mỉa mai cái thói a dua, đua đòi của một bộ phận người dân, họ thích mặc đẹp. Được thôi! Nhưng đẹp phải ra đẹp, phải có óc thẩm mỹ
chứ không phải là kệch cỡm, lạ đời mà dân chúng những tưởng rằng thế là đẹp:Khăn là bác nọ to tày rếVáy lĩnh cô kia quét sạch hè(Năm
mới)Tuy ông nghèo tiền, nghèo bạc nhưng vốn sống thì súc tích. Ông khai thác được hết những sự thực, những nhân vật tiêu biểu của một tấn

trò đời mà ông coi khinh, rẻ mạt. Điệu cười của ông khi thì cười vui, khi thì cười ác nhưng tựu chung lại thì đó chính là những vần thơ thể hiện
nỗi lòng của nhà thơ trước thực tại. Chỉ tiếc rằng khi ông mất mới có 37 tuổi, mất sớm quá, mang xuống Tuyền đài cái nợ công danh chưa trả.
Nhưng ông có thể tự hào vì đã để lại cho hậu thế nhiều áng thơ tuyệt tác, còn quý giá bằng vạn bia đá, bảng vàng của ông nghè, ông cử.III.
Nghệ thuật trong thơ trào phúng củaTú Xương


Tú Xương là nhà thơ hiện thực trào phúng. Phần đóng góp đáng kể nhất của ông cho nền văn học hiện thực trào phúng Việt Nam là ở chỗ nhà thơ
đã nâng nó lên một mức rõ rệt trong quá trình phát triển của nó.
Bằng thơ văn của mình ông đã làm cho nghệ thuật phản ánh hiện thực của nền văn học dân tộc có thêm những đường nét sắc sảo hơn, những màu
sắc rực rỡ hơn, những khía cạnh độc đáo hơn. Dầu chưa được xem là nhà thơ hiện thực chủ nghĩa nhưng thơ văn của ông đã có một hình thức
nghệ thuật đang tiến gần tới phương pháp nghệ thuật hiện thực chủ nghĩa.
Trong kiểu tự trào, Tú Xương đã sử dụng thành công nghệ thuật trữ tình. Nó đã giúp nhà thơ bày tỏ tập trung nhất, chân thành nhất, những vần
thơ xót xa nhất, những tiếng lòng ai oán nhất của ông.
Một nghệ thuật nữa được Tú Xương sử dụng đắc điệu chính là nghệ thuật hiện thực. Ông không hề dùng hình ảnh mang tính ước lệ tượng trưng
mà là những hình ảnh chân thật xuất phát từ chính cuộc sống của ông. Những hình ảnh ấy rất gần gũi với cuộc sống lao động. sinh hoạt của nhân
dân.
Nói về đề tài, có lẽ cũng nhiều người như Tú Xương đã khai thác tiếng cười từ những chệch choạc, nhố nhăng trong xã hội và tự cười nhạo chính
mình để nói lên những thói tật của đời sống. Nhưng về mặt nghệ thuật, Tú Xương đã tạo nên được một giọng điệu rất riêng bởi cá tính độc đáo
của mình.
Trước hết, ông tạo nên được những tình huống, tình thế đặc biệt. Chẳng hạn trong câu “Trên ghế bà đầm ngoi đít vịt - Dưới dân ông Cử ngỏng
đầu rồng”. Bà đầm vợ ông quan Tây đến dự lễ xướng danh thì ngồi trên ghế. Các ông quan thời đó ở dưới sân. Khi đọc xướng danh, phải lạy
thiên tử. Khi người đỗ - tiêu biểu cho đạo học - lại ở dưới thấp và cúi lạy bà đầm - tiêu biểu cho bọn thống trị, ngồi ở chỗ cao thì Tú Xương lại
chỉ lia cái ống kính của mình quay cận cảnh. Cái đứa ngồi ông chỉ quan tâm tới cái mông của nó. Còn người quỳ ở dưới, ông chỉ quan tâm tới cái
đầu. Vậy tình thế ở đây là anh thống trị - anh bị trị, anh vô học - anh có học, cái đít vịt - cái đầu rồng, đó là cái đáng gây cười. Còn thái độ được
biểu lộ qua chữ “ngỏng”, đó là chữ rất nghịch ngợm của Tú Xương. “Bà ngoi - ông ngỏng”, hình ảnh đó khiến sân khấu của lễ xướng danh thành
ra như trò hề không ra đầu đuôi gì cả.
Thơ văn Tú Xương cũng phản ánh được một phần ngôn ngữ của xã hooij đó, thời đại đó. Ngoài cái phần chung là phần ngôn ngữ đầy màu sắc,
âm thanh và nhịp điệu của dân tộc, phần ngôn ngữ của tục ngữ, ca dao, truyện cổ tích, truyện tiếu lâm thì thơ văn Tú Xương còn thể hiện được
thứ ngông ngữ của nhân dân Việt Nam thời toàn quyền Đu-me, của nhân dân thành phố Nam Định. Vì vậy những tiếng Tàu, tiếng Tây, tiếng lóng
đều có mặt trong thơ của ông. Cô me Tây thì nói "rứt cái mề đay" hoặc "tháo nhẫn ma dê"; anh "phi-lu" ở sòng bạc thì được đãi "cái tử cù" .

Mặt khác, nghệ thuật trào phúng của Tú Xương còn bao gồm một khía cạnh đặc biệt là bao giờ nhà thơ cũng cố tìm cho ra một hình dáng xấu,
một cố tật, một dị tướng của người ông định đả kích, ngay khi đó là chính bản thân mình, do đó làm cho đối tượng trở nên đáng khinh, đáng gét
thêm.Một nghệ thuật trào phúng cao đòi hỏi một cái nhìn thật sắc sảo, thật chính xác, thật nhạy bén. Nó đòi hỏi nhà thơ phải bắt chộp được ngay
trong cái nhìn đầu tiên những nét điển hình nhất của đối tượng muốn mô tả.
Tiếng cười trong thơ Tú Xương cũng rất phong phú. Nó biến đổi tinh chất từ bài này sang bài khác, từ chủ đề này sang chủ đề khác, từ đối tượng
này sang đối tượng khác. Khi thì nó nhẹ nhàng, thân mật, dí dỏm, khi thì nó mỉa mai, chua chát, khi nó lại cay độc, ác liệt và khi thì nó lại cảm
động, đau xót, nhuốm đầy nước mắt.
Ngòi bút tương phản, nghệ thuật trào phúng bậc thầy đã chắp cánh cho những vần thơ Tú Xương trở thành những mũi kim, những đòn roi quất
thẳng vào những tệ nạn trong xã hội. Thậm chí khi thể hiện bức tranh chân dung tự họa bản thân, ngòi bút châm biếm ấy cũng không tha cho
chính bản thân mình. Chính vì vậy, bức tranh ấy hiện ra một cách chân thực, sắc sảo đầy khách quan.
Nhìn chung lại, chúng ta có thể thấy để phục vụ đắc lực cho nghệ thuật của mình, nhà thơ có khá nhiều năng khiếu, khá nhiều kĩ xảo. Những năng
khiếu đó bồi bổ cho nhau, hỗ trợ cho nhau để nâng giá trị của thơ văn ông và nguyên nhân thành công chủ yếu của nhà thơ là ở chỗ ông đã bám
sát lấy nguồn gốc văn học dân gian, ở chỗ ông biết phát huy truyền thống thơ ca của dân tộc. Và đó cũng chính là lý do để thơ Tú Xương tồn tại
lâu dài trong lòng người đọc.

MỤC LỤC
I. VÀI NÉT VỀ NHÀ THƠ TÚ XƯƠNG 1.1. Cuộc đời1 1.2. Thời đại3 1.3. Tác phẩm4II. NGHỆ THUẬT TRÀO
PHÚNG TRONG THƠ TÚ XƯƠNG2.1. Vài nét về nghệ thuật trào phúng4 2.2. Đối tượng trào phúng 2.2.1. Tự
trào5 2.2.2. Thế trào 2.2.2.1. Đối với khoa cử, nho học14 2.2.2.2. Đối với thế lực đồng tiền17 2.2.2.3. Đối với thực dân Pháp19 2.2.2.4. Đối với
bọn quan lại, tay sai 21 2.2.2.5. Đối với thuần phong mỹ tục bị xâm phạm23III. NGHỆ THUẬT TRONG THƠ TRÀO PHÚNG CỦA
TÚ XƯƠNG26

Xem thêm: />s=d3d20b37d3a6bb457fb5b8a70597248e#ixzz3tshPlNev
Follow us: kilobooks.vn on Facebook



×