Tải bản đầy đủ (.pdf) (92 trang)

Công tác xã hội nhóm trong việc phát triển kỹ năng sống cho trẻ em mồ côi tại trung tâm bảo trợ xã hội III, tây mỗ, từ liêm, hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.5 MB, 92 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THỊ NGỌC BÉ

CÔNG TÁC XÃ HỘI NHÓM TRONG VIỆC PHÁT TRIỂN KỸ NĂNG
SỐNG CHO TRẺ EM MỒ CÔI TẠI TRUNG TÂM
BẢO TRỢ XÃ HỘI III, TÂY MỖ, TỪ LIÊM, HÀ NỘI

Chuyên ngành: Công tác xã hội
Mã số: 876 01 01

LUẬN VĂN THẠC

C NG T C

HỘ

NGƯỜ HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: GS.TS. NGUYỄN HỮU MINH

HÀ NỘI, 2018


LỜ CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng, Luận văn Thạc sĩ Công tác xã hội về “Công tác xã
hội nhóm trong việc phát triển kỹ năng sống cho trẻ em mồ côi tại Trung tâm
Bảo trợ xã hội III, Tây Mỗ, Từ Liêm, Hà Nội” là công trình nghiên cứu của riêng
tôi được thực hiện dưới sự hướng dẫn của GS.TS. Nguyễn Hữu Minh. Những tư
liệu trích dẫn trong luận văn hoàn toàn trung thực.
Kết quả nghiên cứu này không trùng lặp với bất kỳ công trình nghiên cứu


nào trong cùng lĩnh vực. Nếu sai tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.
T C G Ả LUẬN VĂN

Nguyễn Thị Ngọc Bé


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU........................................................................................................................................ 1
CHƯƠNG 1:NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CÔNG TÁC XÃ HỘI NHÓM TRONG
VIỆC PHÁT TRIỂN KỸ NẮNG SỐNG CHO TRẺ EM MỒ CÔI ....................................... 12
1.1. Các khái niệm công cụ ........................................................................................... 12
1.2. Tiến trình Công tác xã hội nhóm và kỹ thuật tác nghiệp ...................................... 16
1.3. Lý thuyết vận dụng trong nghiên cứu................................................................................... 23
1.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến việc phát triển kỹ năng sống của trẻ em mồ côi..................... 27
1.5. Cơ sở chính trị - pháp lý hỗ trợ trẻ em mồ côi ..................................................................... 29
CHƯƠNG 2:THỰC TRẠNG CÔNG TÁC XÃ HỘI NHÓM TRONG VIỆC PHÁT
TRIỂN KỸ NĂNG SỐNG CHO TRẺ EM MỒ CÔI TẠI TRUNG TÂM BẢO TRỢ XÃ
HỘI IIITÂY MỖ, TỪ LIÊM, HÀ NỘI ...................................................................................... 33
2.1. Khái quát về địa bàn nghiên cứu........................................................................................... 33
2.2. Đặc điểm của nhóm thân chủ................................................................................................ 40
2.3. Nhu cầu phát triển kỹ năng sống của trẻ em mồ côi tại Trung tâm Bảo trợ xã hội III,
Tây Mỗ, Từ Liêm, Hà Nội ........................................................................................................... 42
2.4. Thực trạng các yếu tố ảnh hưởng đến việc phát triển kỹ năng sống cho trẻ em mồ côi
tại Trung tâm Bảo trợ xã hội III, Tây Mỗ, Từ Liêm, Hà Nội..................................................... 47
2.5. Thực trạng hoạt động Công tác xã hội nhóm trong việc phát triển kỹ năng sống cho trẻ
em mồ côi tại Trung tâm Bảo trợ xã hội III, Tây Mỗ, Từ Liêm, Hà Nội................................. 50
CHƯƠNG 3:TIẾN TRINH CÔNG TÁC XÃ HỘI NHÓM VÀ GIẢI PHÁP NHẰM
PHÁT TRIỂN KỸ NĂNG SỐNG CHO TRẺ EM MỒ CÔI TẠI TRUNG TÂM BẢO
TRỢ XÃ HỘI III, TÂY MỖ, TỪ LIÊM, HÀ NỘI .................................................................. 55
3.1.Tiến trình Công tác xã hội với trẻ em mồ côi ......................................................... 55

3.2. Giải pháp nhằm phát triển kỹ năng sống cho trẻ em mồ côi tại Trung tâm Bảo trợ xã
hội III Tây Mỗ, Từ Liêm, Hà Nội ................................................................................................ 74
KẾT LUẬN................................................................................................................................... 78
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................................... 80


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT TRONG BÁO CÁO

BTXH

Bảo trợ xã hội

CBQL

Cán bộ quản lý

CTXH

Công tác xã hội

KN

Kỹ năng

KNS

Kỹ năng sống

PTKNS


Phát triển kỹ năng sống

NVCTXH

Nhân viên Công tác xã hội

TECHCĐB

Trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt

TEMC

Trẻ em mồ côi

TTBT

Trung tâm bảo trợ


DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
HÌNH
Hình 1.1: Sơ đồ tương tác Nhóm.................................................................................. 25
Hình 1.2: Sơ đồ bộ máy tổ chức trung tâm .................................................................. 36
BẢNG
Bảng 1: Đề cương quan sát ............................................................................................. 9
Bảng 2.1: Tổng hợp số liệu đối tượng chăm sóc tại Trung tâm .................................. 37
Bảng 2.2: Tổng hợp tình hình học tập của trẻ em đang được nuôi dưỡng tại Trung tâm .... 38
Bảng 3.1: Điểm mạnh và chưa mạnh của nhóm thân chủ ............................................ 57
Bảng 3.2: Danh sách và đặc điểm cần quan tâm của nhóm thân chủ ........................... 59
Bảng 3.3: Lượng giá tiến trình can thiệp .................................................................. 70



MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trẻ em luôn là mối quan tâm hàng đầu của xã hội.Sự phát triển của trẻ em
quyết định đến vận mệnh phát triển của một đất nước.Trẻ em luôn cần nhận được sự
quan tâm, chăm sóc và yêu thương của toàn xã hội để có thể phát triển toàn diện cả
về thể chất lẫn tinh thần. Sự quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ của xã hội cần đặc biệt
chú trọng đến các nhóm trẻ em có hoàn cảnh khó khăn như: trẻ mồ côi,trẻ em thiệt
thòi, trẻ em khuyết tật, trẻ em lang thang đường phố, trẻ em là nạn nhân của bạo lực
gia đình, trẻ em bị xâm hại tình dục…Giải quyết những vấn đề xã hội liên quan đến
trẻ em có hoàn cảnh khó khăn góp phần tạo nên sự phát triển bền vững của quốc
gia, đó là trách nhiệm và nghĩa vụ của toàn xã hội.
Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề này, trong những năm qua Việt
Nam đã triển khai những chương trình hành động nhằm giúp đỡ nhóm trẻ có hoàn
cảnh khó khăn thông qua nhiều hình thức khác nhau. Mô hình chăm sóc giáo dục trẻ
có hoàn cảnh khó khăn tại các Trung tâm BTXH trong cả nước là một trong những
hình thức đã mang lại nhiều kết quả khả quan, có ý nghĩa xã hội và nhân văn sâu
sắc như: xây dựng những ngôi nhà ấm áp tình thương; giúp trẻ tiếp cận với các dịch
vụ xã hội cơ bản như y tế, giáo dục; xoa dịu sự mất mát gia đình cũng như giảm bớt
sự mặc cảm, tự ti về số phận ở các em. Trong đó, có mô hình chăm sóc, giáo dục trẻ
em mồ côi tại Trung tâm BTXH III, Tây Mỗ, Từ Liêm, Hà Nội
Công tác chăm sóc, hỗ trợ trẻ em mồ côi trong Trung tâm BTXH III tuy đã đáp
ứng được phần nào một số nhu cầu của trẻ như nhu cầu vật chất cơ bản, nhu cầu an
toàn, nhu cầu hòa nhập xã hội,.. Song vẫn còn gặp rất nhiều khó khăn, đặc biệt công tác
hỗ trợ, tham vấn tâm lý cho trẻ còn thiếu tính chuyên nghiệp, việc tổ chức các hoạt
động nhóm, hoạt động xã hội giúp các em bớt mặc cảm, tự ti, hòa nhập cộng đồng
cũng như gắn bó, đoàn kết với nhau hơn vẫn còn hạn chế. Vì vậy, một số trẻ em trong
trung tâm BTXH III vẫn thiếu tự tin vào bản thân, rụt rè và chưa hòa nhập xã hội tốt,
các em chưa được trang bị đầy đủ những kỹ năng sống, tinh thần đoàn kết chưa thực sự

cao,…Những thực tế này tại trung tâm là rào cản để các em mồ côi tự phát triển những
năng lực của bản thân và hòa nhập với cộng đồng tốt hơn.
CTXH là một ngành khoa học, một nghề chuyên môn mang tính ứng dụng cao
đã và đang bước đầu tạo dựng nền tảng và khẳng định vị thế của mình trong công
cuộc giải quyết các vấn đề xã hội ở Việt Nam hiện nay. Nghiên cứu can thiệp trợ

1


giúp trẻ em mồ côi theo hướng chuyên nghiệp là một trong những lĩnh vực chuyên
ngành quan trọng của CTXH, hướng tới cung cấp cho thân chủ những dịch vụ xã
hội cơ bản như y tế, giáo dục, vui chơi giải trí, tạo ra môi trường phát triển kỹ năng
sống của bản thân, hòa nhập xã hội. Tuy nhiên, là một khoa học còn khá non trẻ ở
nước ta nên các nghiên cứu ứng dụng các lý thuyết, phương pháp can thiệp CTXH
như phương pháp CTXH cá nhân, nhóm, cộng đồng…vào một số lĩnh vực như trợ
giúp trẻ em mồ côi nói chung và trẻ emmồ côi trong các Trung tâm CTXH nói riêng
còn chưa được thực hiện nhiều ở Việt Nam.
Từ những lý do trên, tác giả quyết định lựa chọn đề tài nghiên cứu:
“Công tác xã hội nhóm trong việc phát triển kỹ năng sống cho trẻ em mồ
côi tại Trung tâm Bảo trợ xã hội III, Tây Mỗ, Từ Liêm, Hà Nội ”
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
2.1. Tình hình nghiên cứu ngoài nước
Trên thế giới, CTXH đã phát triển từ những năm đầu của thế kỷ XX. Tiêu biểu
ở các nước phương tây như: Anh, Mỹ, Canada…Đến nay CTXH đã có mặt ở hầu
hết các quốc gia trên thế giới, với nỗ lực trợ giúp cho các đối tượng thiệt thòi, yếu
thế vươn lên hòa nhập cùng sự phát triển của xã hội, đảm bảo an sinh cho người
dân, tất cả vì sự tiến bộ công bằng bình đẳng xã hội.
CTXH nhóm được xây dựng trên nền tảng ban đầu từ truyền thống văn hóa và
giá trị nhân văn trong cộng đồng xã hội. Tuy nhiên, để có thể trở thành một phương
pháp hỗ trợ và trị liệu khoa học mang tính thực tiễn, chuyên nghiệp thì CTXH nhóm

đã trải qua quá trình phát triển với nhiều khó khăn và nỗ lực của nhiều nhà khoa
học, chuyên môn về CTXH.
Tiền thân của CTXH nhóm đó là sự giúp đỡ theo hình thức nhóm trên thế giới
từ các hoạt động từ thiện và tôn giáo. Tiêu biểu có phong trào “ Nhà định cư
SettlementHouse”, phong trào “ Toynbee Hall” khởi xướng tại Luân Đôn ở Anh vào
những năm 1884 và người sáng lập là Samuel Barnett. Tại Mỹ có “ Neighborhood
Guild” thành lập năm 1886 và đặc biệt là “Hull House” của Jane Adams ở Chicago
năm 1889.Để hiệu quả những người tham gia phong trào Nhà Định cư dọn vào
những khu ổ chuột, sống trong hoàn cảnh của người nghèo và làm việc cùng với họ
để thay đổi toàn bộ các khu xóm và cải thiện chất lượng cuộc sống của dân cư.
Phong trào cải thiện thành công nhiều xóm nghèo, xây dựng nhà trẻ, trường mẫu
giáo, phòng đọc sách, lớp dạy thi quốc tịch, văn phòng tìm việc làm…Về sau phong
trào Nhà Định cư tham gia vào những hoạt động lớn hơn như tranh đấu cho chế độ

2


làm việc tám giờ /ngày, sáu giờ /tuần; cấm lao động trẻ em; thiết lập tòa thiếu nhi
đầu tiên trên thế giới ở Hạt Cook, Chicago. Giai đoạn đầu này các hoạt động nhóm
chỉ dừng lại ở những hình thức hỗ trợ,giúp đỡ mang nhiều sắc thái của tôn giáo, từ
thiện. [22, tr.7]
Đến những năm 30 của thế kỷ XX, lần đầu tiên CTXH nhóm được dành một
phần nội dung đề trình bày và thảo luận tại Hội nghị quốc gia của Mỹ về CTXH
nhóm năm 1935. Đến nay 1936, Hiệp hội quốc gia về nghiên cứu CTXH nhóm của
Mỹ được thành lậpvới đại diện của 100 thành viên đến từ tất cả các khu vực của
Mỹ. Sự kiện này đánh dấu sự phát triển tiếp theo về mặt tổ chức của những nhà thực
hành phương pháp CTXH nhóm. Sau đó, trong những năm của thập ký 40, Hiệp hội
các trường đào tạo CTXH ở Mỹ đã khuyến khích và ủng hộ cho việc đưa nội dung
phương pháp CTXH nhóm vào chương trình đào tạo đại học và sau đại học.
Những dự án của UNICEF tại Philippines vào năm 1961 đã thúc đẩy nhanh

chóng tính chuyên nghiệp của CTXH trong các dịch vụ cho trẻ em và gia đình cũng
như đào tạo nhân viên xã hội chuyên nghiệp. Những chương trình đào tạo người
làm CTXH thời kỳ này cũng bắt đầu được quan tâm chú ý. Hiệp hội các nhà CTXH
chuyên nghiệp – một tổ chức nghề nghiệp CTXH đầu tiên của Philippines được
thành lập vào năm 1947.Đào tạo CTXH chuyên nghiệp cũng phát triển nhanh chóng
tại Philippines từ những năm giữa thế kỷ XX. Vào năm 1950 trường đào tạo CTXH
đầu tiên ra đời tại Philippines và được đào tạo tại trường đại học Phụ nữ Philippines
và sau này được nhân rộng ra các trường đại học khác ở Philippines .[12, tr.81]
Một số nghiên cứu trên thế giới về trẻ em tiêu biểu như: tài liệu “ Social work
with children” ( CTXH với trẻ em) năm 1998, viết về các hoạt động và kỹ năng làm
việc với trẻ em, trong đó có việc vận dụng phương pháp CTXH nhóm trong quá
trình trợ giúp, tài liệu cũng làm rõ hơn những đặc điểm tâm lý và nhu cầu của trẻ
trong mỗi giai đoạn phát triển, qua đó định hướng những biệnpháp trợ giúp cho
NVXH. [ 21]
Về thuật ngữ Kỹ năng sống vào cuối những năm 1960, thuật ngữ này được
những nhà tâm lý học thực hành đưa ra và coi đó như một khả năng xã hội rất quan
trọng trong việc phát triển cá nhân. Đến năm 1979, Gilbert Botvin ( tiến sĩ người
Mỹ - nhà khoa học hành vi và giáo sư tâm thần học) đã công bố một chương trình
đào tạo KNS có hiệu quả cao cho thanh thiếu niên từ lớp 7 tới lớp 9.
Chương trình Giáo dục và phát triển KNS với tài trợ của các tổ chức quốc tế (
UNICEF, UNESCO, UNFPA, WHO) được phát triển rộng khắp. Thông qua mạng

3


lưới toàn cầu các tổ chức đã mở các cuộc hội thảo, cung cấp vật liệu, đồng thời phối
hợp với nhau để đẩy mạnh hoạt động phát triển KNS trong thanh thiếu niên thông
qua nhiều cách tiếp cận khác nhau. Chương trình đã được thực hiện và phát triển
mạnh trong khu vực Mĩ Latinh và Caribe, khu vực Nam Phi và Botswana, khu vực
Châu Á.[4, tr.24-26].

Tại Mỹ Latinh, năm 1996 một hội thảo về KNS được tổ chức tại Costa
Ricanhằm đẩy mạnh giáo dục sức khỏe thông qua giáo dục kỹ năng sống trong các
trường học và coi đó như những ưu tiên của mạng lưới y tế tại Mỹ Latinh.
Như vậy, trên thế giới cũng như ở Việt Nam đã có nhiều hoạt động nghiên cứu
và thực hành nhằm giáo dục, phát triển kỹ năng sống cho trẻ em nói chung và một
số nhóm xã hội có hoàn cảnh khó khăn nói riêng song chưa đi sâu phân tích, vận
dụng tiến trình CTXH nhóm trong việc giải quyết vấn đề cho nhóm thân chủ mà
hầu như chỉ đưa ra những khái niệm, phương pháp phát triển kỹ năng sống . Tuy
vậy, giá trị tham khảo ở các nghiên cứu này rất hữu ích và thiết thực vì đây là sự bổ
sung cho những khía cạnh còn thiếu của đề tài nghiên cứu này.
2.2. Tình hình nghiên cứu trong nước.
Vịêc đào tạo CTXH nhóm đã được thực hiện từ những năm đầu thập kỷ 90
của thế kỷ XX. Đầu tiên là trường Đại học Mở bán công Thành phố Hồ Chí Minh
và Trường Cao đẳng Lao động – Xã hội, và đến năm 2004 học phần đã được chính
thức đưa vào Chương trình khung của Bộ giáo dục và Đào tạo áp dụng cho tất cả
các trường trong cả nước được phép đào tạo ngành CTXH. Đến nay sự hình thành
và phát triển CTXH nhóm đang dần phát triển theo xu thế chung và đã xuất hiện
nhiều sách giáo khoa về vấn đề này. Chẳng hạn công trình “ Công tác xã hội nhóm”
( 2002)của tác giả Nguyễn Thị Oanh , công trình “ Công tác xã hội nhóm” ( 2006)
của tác giả Nguyễn Ngọc Lâm, công trình “ Giáo trình công tác xã hội nhóm”(2008)
của tác giả Nguyễn Thị Thái Lan.
Vê các công trình nghiên cứu ở Việt Nam những năm gần đây đã có một số
bài viết, dự án, nghiên cứu khoa học về quyền trẻ em, trẻ em mồ côi, TECHCĐB.
Về thuật ngữ Kỹ năng sống được người Việt Nam biết đến bắt đầu từ chương
trình của UNICEF ( 1996) “ GD KNS để bảo vệ sức khỏe và phòng chống
HIV/AIDS cho thanh thiếu niên trong và ngoài nhà trường” do các chuyên gia
Australia tập huấn. Quan niệm KNS được giới thiệu trong chương trình này chỉ bao
gồm những KNS cốt lõi như: KN tự nhận thức, KN giao tiếp, KN xác định giá trị,
KN ra quyết định, KN kiên định, KN đặt mục tiêu…Qua hơn 10 năm có mặt tại


4


Việt Nam, chương trình giáo dục KNS đã dần dần thu hút sự quan tâm của dư luận,
không chỉ là sự quan tâm của các tổ chức phi chính phủ mà còn có sự quan tâm của
Bộ Giáo dục – Đào tạo, Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam, Bộ Y tế, Ủy ban dân số,
gia đình và trẻ em…
Năm 2003, hội thảo “Chất lượng GD và KNS”( UNESCO hỗ trợ tổ chức) đã
làm rõ hơn khái niệm về KNS. KNS được tiếp cận dựa trên bốn trụ cột của việc
học: “Học để biết, học để làm, học để cùng chung sống, học để tự khẳng định”.
Bên cạnh đó, có một số tác giả đã tổng hợp các lý luận về KNS và tình hình
thực tiễn của việc giáo dục KNS, thể hiện qua một số bài viết trên tạp chí, sách như
bài viết “Khái niệm kỹ năng sống nhìn từ góc độ tâm lý học” của tác giả Nguyễn
Quang Uẩn đăng trên Tạp chí Tâm lý học số 6 (6-2008), hay cuốn “Vấn đề nhân
cách trong tâm lý học ngày nay” do tác giả Đào Thị Oanh chủ biên, và bộ sách giáo
dục KNS gồm 2 tập do tác giả Nguyễn Thị Oanh viết, có tên “Kỹ năng sống cho
tuổi vị thành niên”và“10 cách thức rèn luyện kỹ năng sống cho tuổi vị thành niên”
Ngoài ra, mới đây, tác giả Huỳnh Văn Sơn, ĐH Sư phạm TPHCM đã tập trung
các bài viết, ví dụ thực tế về các KNS cụ thể dựa trên đúc kết kinh nghiệm nghiên
cứu và giảng dạy để xuất bản cuốn “Bạn trẻ và kỹ năng sống”, cung cấp cho các bạn
trẻ những kỹ năng cần thiết trước ngưỡng cửa vào đời: kỹ năng tự đánh giá bản
thân, kỹ năng tư duy sáng tạo, phát huy nội lực của bản thân, kỹ năng tác động đến
tâm lý người khác, kỹ năng lắng nghe, kỹ năng thuyết trình, kỹ năng hợp tác… ứng
dụng trực tiếp trong học học tập, công việc và cuộc sống. Đa phần trẻ em Việt Nam
nói chung và trẻ em mồ côi nói riêng kiến thức cuộc sống xung quanh của các em
hầu như không có. Có những em đến độ tuổi đi học, mà ngay những hoạt động
thường nhật như tự mặc quần áo, buộc dây giày chuẩn bị đồ dùng học tập, nấu đồ
ăn sáng…vẫn chưa tự làm được. Bên cạnh đó, nếu xét thêm những kỹ năng liên
quan đến sinh tồn, giao tiếp, ứng xử, đạo đức, dường như trẻ em Việt Nam còn phải
chạy dài theo sau bạn bè cùng trang lứa ở nhiều nước khác. Sự yếu kém về kỹ năng

giao tiếp, khả năng tự giải quyết công việc của mình, tự làm lấy việc của mình ở trẻ
cũng là vấn đề đáng quan tâm, phần lớn trẻ phụ thuộc bố mẹ, người nuôi dưỡng,
thậm chí vào lớp 1 rồi vẫn bắt bố mẹ, người thân bón cơm, không ít trẻ em trong độ
tuổi học sinh trung học cơ sở chưa tự thực hiện được một số hành động vệ sinh cá
nhân. Những kỹ năng sống cơ bản, hàng ngày nhất ở nhiều trẻ em còn chưa có chứ
chưa nóigì đến kỹ năng chia sẻ và trình bày trước đám đông. Đặc biệt đối với
TEMC kỹ năng sống về sự tự tin và giao tiếp, hòa nhập cộng đồng còn hạn chế do

5


mặc cảm về sự tự ti, nguyên nhân phần lớn do xuất phát từ hoàn cảnh của bản thân.
Có thể nói những yếu tố dẫn đến tình trạng thiếu kỹ năng sống ở trẻ em phần lớn là
do được quá nuông chiều và bố mẹ không để con tự lập, luôn xem con còn bé và
bao bọc, ngại việc con bị va chạm, ngại cho con tiếp xúc người lạ, môi trường sống
khép kín chỉ trong gia đình bởi vậy các em thường tìm niềm vui nơi điện tử, ít được
tham gia hoạt động tập thể.
Nhìn chung ở Việt Nam tuy đã có các hoạt động nghiên cứu và thực hành
CTXH nhóm dưới nhiều hình thức khác nhau, song vẫn còn thiếu những nghiên cứu
can thiệp vừa mang ý nghĩa thực tiễn ( trợ giúp thân chủ) vừa mang ý nghĩa lý luận
( bổ sung, làm rõ lý thuyết, phương pháp và kỹ năng can thiệp trong thực tiễn).
Tuy giáo dục và phát triển kỹ năng sống xuất hiện ở nước ta cách đây hơn 10
năm nhưng cho đến nay, việc đưa KNS đến các thế hệ đặc biệt là lứa tuổi thanh
thiếu niên mới được thực hiện còn sơ sài, chưa có sự quản lý về nội dung cũng như
nhất quán trong mục tiêu và chương trình đào tạo giáo dục và phát triển kỹ năng
sống đặc biệt là đối với đối tượng là trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt được nuôi dưỡng
tại các Trung tâm BTXH, các ngôi nhà tình thương.
3. Mục đích vànhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
- Mô tả nhóm thân chủ ( đặc điểm tâm sinh lý và vấn đề mà nhóm thân chủ

đang gặp phải), đánh giá nhu cầu, nguyện vọng của nhóm thân chủ
- Nghiên cứu cơ sở lý luận về trẻ em mồ côi (đặc biệt về trẻ em mồ côi ở trong
các cơ sở Bảo trợ Xã hội, các Làng trẻ...) và những yếu tố ảnh hưởng tới việc
phát triển kỹ năng sống. Trên cơ sở đó vận dụng tiến trình CTXH nhóm có sử
dụng hình thức nghệ thuật kịch sáng tạo nhằm phát triển kỹ năng sống cho
nhóm trẻ em mồ côi tại trung tâm BTXH III Tây Mỗ, Từ Liêm, Hà Nội.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Nghiên cứu cơ sở lý luận vận dụng CTXH nhóm vào việc phát triển kỹ năng
sống cho trẻ em mồ côi.
Mô tả nhóm thân chủ, đánh giá nhu cầu, nguyện vọng của nhóm thân chủ.
Nghiên cứuthực trạng công tác xã hội nhóm trong việc phát triển kỹ năng sống
cho trẻ em mồ côi tại Trung tâm BTXH III, Tây Mỗ, Từ Liêm, Hà Nội
Vận dụng tiến trình CTXH nhóm, lựa chọn một nhóm đối tượng thân chủ cụ
thể tiến hành can thiệp nhằm giải quyết vấn đề của nhóm và phát triển kỹ năng sống
cho nhóm.

6


4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1 Đối tượng nghiên cứu
Ứng dụng phương pháp CTXH nhóm nhằm phát triển kỹ năng sống cho trẻ
em mồ côi.
4.2. Khách thể nghiên cứu
Nhóm trẻ em mồ côi trong trung tâm BTXH III Tây Mỗ, Từ Liêm, Hà Nội: 14
thành viên có độ tuổi từ 6 đến 14 tuổi.
Cán bộ, nhân viên tại Trung tâm Bảo trợ xã hội III, Tây Mỗ, Từ Liêm, Hà Nội:
42 cán bộ, nhân viên tại Cơ sở 1 ( cơ sở chính của trung tâm tại thôn Miêu Nha, Tây
Mỗ, Từ Liêm, Hà Nội)
4.3. Phạm vi nghiên cứu

o

Không gian: Trung tâm BTXH III Tây Mỗ, Từ Liêm, Hà Nội

Qua đó vận dụng phương pháp CTXH nhóm lên nhóm đối tượng trẻ em mồ côi
nhằmphát triển kỹ năng sống cho trẻ tại Trung tâm Bảo trợ xã hội III, Tây Mỗ, Từ
Liêm, Hà Nội.
- Phạm vi nghiên cứu về không gian: Đề tài được thực hiện nghiên cứu tại
Trung tâm Bảo trợ xã hội III, Tây Mỗ, Từ Liêm, Hà Nội
- Phạm vi nghiên cứu về thời gian: tiến hành nghiên cứu từ 11/2017 – 02/2018
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận nghiên cứu
Nghiên cứu trên cơ sở phương pháp phân tích-tổng hợp, so sánh đánh giá, xem
xét thực trạng và nhu cầu phát triển kỹ năng sống của trẻ em mồ côi tại Trung tâm
Bảo trợ xã hội III, Tây Mỗ, Từ Liêm, Hà Nội
Nghiên cứu vấn đề lý luận trong hệ thống: Nghiên cứu hệ thống các lý thuyết
trong nghiên cứu xã hội họcvà CTXH như: Lý thuyết hệ thống sinh thái, lý thuyết
học tập xã hội để tìm hiểu ,đánh giá nhu cầu phát triển kỹ năng sống của trẻ em mồ
côi tại Trung tâm Bảo trợ xã hội III.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
5.2.1. Phương pháp phân tích tài liệu
Sử dụng phương pháp này tác giả nhằm thu thập các bài viết, các mẫu báo cáo,
sách, hay các nghiên cứu liên quan đến hoạt động hỗ trợ phát triển kỹ năng sống
cho nhóm đối tượng hoặc tài liệu mà Trung tâm BTXH cung cấp về nhóm thân chủ
để đáp ứng cho mục tiêu nghiên cứu của đề tài một cách tốt nhất.

7


5.2.2. Phương pháp phỏng vấn sâu

Phỏng vấn sâu là phương pháp thu thập thông tin mà trong đó người ta xác
định sơ bộ những vấn đề cần thu thập thông tin cho đề tài nghiên cứu. Mục tiêu của
phỏng vấn sâu không phải để hiểu một cách đại diện, khái quát về tổng thể, mà giúp
chúng ta hiểu sâu, hiểu kỹ về một vấn đề nhất định. [17, tr.280]. Trong đề tài này,
phương pháp phỏng vẩn sâu được tiến với những đối tượng sau:
o

Phỏng vấn sâu cán bộ quản lý trung tâm (Giám đốc trung tâm; Trưởng

phòng hành chính tổng hợp) nhằm thu thập thông tin về lịch sử hình thành và phát
triển của trung tâm, mô hình nuôi dưỡng và giáo dục trẻ ở trung tâm hiện nay, qua
đó tìm hiểu những khó khăn và thuận lợi trong hoạt động của trung tâm hiện nay.
Bên cạnh đó, phỏng vấn cán bộ phụ trách tiếp nhận đối tượng trẻ em mồ côi nhằm
tìm hiểu về chính sách, thủ tục tiếp nhận trẻ mồ côi vào trung tâm.
o

Phỏng vấn sâu với cán bộ trực tiếp nuôi dạy trẻ mồ côi (Trưởng phòng

chăm sóc giáo dục; Trưởng phòng y tế) nhằm thu thập thông tin về các hoạt động
sinh hoạt, học tập, giải trí, chăm sóc sức khỏe và lao động của trẻ. Đặc biệt chú
trọng tới thu thập thông tin sâu về đặc điểm tâm lý của trẻ; nhu cầu và nguyện vọng
của các em dưới góc nhìn của người quản lý, chăm sóc; những vấn đề khó khăn
trong cuộc sống mà các em đang gặp phải.
o

Phỏng vấn sâu 5 em mồ côi, thu thập thông tin sâu về những khó khăn

trong cuộc sống cũng như nhu cầu, nguyện vọng của các em. Tìm hiểu mong muốn
được tham gia các hoạt động vui chơi, giải trí và học tập của nhóm trẻ.
5.2.3. Phương pháp quan sát

Phương pháp quan sát là một phương pháp cụ thể cho việc thu thập các thông
tin cá biệt về đối tượng nghiên cứu, được sử dụng rộng rãi trong các ngành khoa học.
Trong nghiên cứu này, phương pháp quan sát là phương pháp thu thập thông tin quan
trọng được sử dụng trong suốt quá trình nghiên cứu, được chia thành những giai đoạn
chính sau đây:
(i) Giai đoạn khảo sát trung tâm BTXH III, Tây Mỗ, Từ Liêm, Hà Nội: Trong
giai đoạn này NVCTXH tập trung quan sát những hoạt động hàng ngày của trẻ, các
hành vi ứng xử, thái độ của nhóm trẻ với nhau và với các cán bộ trung tâm, đặc biệt
là quan sát các hoạt động, các biểu hiện, thái độ, hành vi ứng xử của trẻ khi tham
gia các hoạt động nhóm. Những quan sát này nhằm mô tả chi tiết về nhóm thân chủ
(hành vi, thái độ, đặc điểm của từng cá nhân và đặc điểm nhóm) từ đó làm cơ sở dữ
liệu để NVCTXH lập kế hoạch hoạt động cụ thể và phù hợp với đặc điểm tâm sinh

8


lý của nhóm.Quan sát cơ sở vật chất của trung tâm, thái độ, hành vi chăm sóc của
cán bộ trung tâm với trẻ và cách thức, phương pháp quản lý, giáo dục trẻ của cán bộ
trung tâm.
(ii) Giai đoạn tiến hành các hoạt động can thiệp với nhóm thân chủ.
NVCTXH tập trung quan sát tỉ mỉ những hoạt động của nhóm thân chủ: sự tham gia
của thành viên nhóm vào các hoạt động nhóm, sự mâu thuẫn, xung đột cũng như
hợp tác trong nhóm, những biểu hiện và thay đổi về cảm xúc và hành vi khi tham
gia các hoạt động nhóm…NVCTXH dựa trên những quan sát đó sẽ điều chỉnh, bổ
sung kế hoạch hoạt động sau từng buổi can thiệp nhằm đạt được mục tiêu của tiến
trình hoạt động.
Bảng 1: Đề cương quan sát
STT
1


2

3

4

5

Nội dung chính
Tiêu chí quan sát
Hoạt động hàng Hoạt động học tập
ngày của trẻ
Hoạt động lao động
Hoạt động vui chơi giải trí
Hành vi ứng xử của trẻ với nhau trong các hoạt động vui
chơi, học tập và lao động
Hành vi, thái độ Với các cán bộ trực tiếp nuôi dạy trẻ
ứng xử của trẻ với Với các cán bộ không trực tiếp nuôi dạy trẻ
cán bộ trung tâm
Hành vi thái độ Trong hoạt động học tập
ứng xử của cán bộ Trong hoạt động lao động
trung tâm với trẻ
Trong hoạt động vui chơi, giải trí
Trong hoạt động chăm sóc, nuôi dưỡng
Trẻ khi tham gia Sự chia sẻ, giúp đỡ giữa các thành viên trong nhóm
hoạt động CTXH Sự hợp tác cũng như xung đột, mâu thuẫn giữa các thành
nhóm
viên trong nhóm
Sự tự tin (hay không tự tin) thực hiện các hoạt động nhóm
của từng thanh viên

Sự thay đổi về hành vi và thái độ của các thành viên nhóm
Cơ sở vật chất Cơ sở vật chất: phòng ăn, nghỉ, bếp, phòng điều hành
trung tâm, các Phân công công việc giữa các cán bộ trung tâm, sự hỗ trợ,
thức quản lý đối giúp đỡ lẫn nhau, trao đổi, truyền đạt kinh nghiệm của cán
tượng
bộ trung tâm với nhau trong việc chăm sóc, giáo dục và
quản lý đối tượng

9


5.2.4.Phương pháp thảo luận nhóm tập trung
Phương pháp thảo luận nhóm tập trung là tập hợp một nhóm nhỏ các cá nhân
để tiến hành một cuộc thảo luận tập trung vào một vấn đề đã được lựa
chọn.[17,tr.287]. Trong đề tài này, thảo luận nhóm tập trung là một phương pháp
thu thập thông tin quan trọng, không chỉ cung cấp những thông tin cần thiết cho các
hoạt động của tiến trình CTXH nhóm mà còn góp phần tạo dựng mối quan hệ tốt
đẹp mang tính chất nghề nghiệp giữa NVCTXH và nhóm thân chủ. Nghiên cứu tiến
hành thảo luận nhóm có sự tham gia của 14 thành viên nhóm theo các nội dung
chính sau đây:
o Cuộc sống của các em hiện nay: các mối quan hệ với bạn bè và cán bộ cơ
sở, sự liên hệ với gia đình, hoạt động học tập và hòa nhập xã hội…
o Những niềm vui, kỷ niệm đẹp và đáng nhớ của các em từ khi vào trung tâm
đến nay.
o Những khó khăn mà các em gặp phải trong quá trình sinh hoạt, học tập và
lao động tại trung tâm.
o Đánh giá nhu cầu, nguyện vọng tham gia các hoạt động vui chơi, giải trí và
học tập của các em.
Trong hoạt động thảo luận nhóm tập trung, NVCTXH giới thiệu và giải thích
về nội dung và mục tiêu các hoạt động CTXH nhóm dự định được tổ chức trong

thời gian nghiên cứu ở trung tâm.Sau đó, để nhóm trẻ tự quyết định có tham gia hay
không.
Phương pháp thảo luận nhóm trong nghiên cứu sử dụng nhiều công cụ bổ trợ:
vẽ tranh, phiếu đánh giá nhu cầu, hình vẽ,…nhằm tạo sự hứng thú và thoải mái, các
em có thể tự do nói lên những ý kiến của bản thân nhằm đạt được những thông tin
sâu phục vụ cho quá trình can thiệp, tạo nên sự đồng thuận ban đầu trong nhóm thân
chủ. Thông tin thu được từ các buổi thảo luận nhóm là dữ liệu quan trọng để
NVCTXH quyết định có thực hiện các hoạt động nhóm can thiệp hay không và thiết
kế các hoạt động nhóm chi tiết phù hợp. Trong quá trình thảo luận nhóm trẻ em mồ
côi, NVCTXH và các thành viên nhóm luôn thực hiện nguyên tắc tôn trọng lẫn
nhau và nguyên tắc tự quyết, thể hiện thái độ lắng nghe tích cực và đóng góp cho
các hoạt động nhóm.
6. Ỹ nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
6.1. Ý nghĩa lý luận
Nghiên cứu vận dụng lý thuyết (lý thuyết Hệ thống sinh thái và lý thuyết Học

10


tập xã hội) và một số kỹ năng chuyên nghiệp trong CTXH kết hợp nhằm phân tích
và giải thích vấn đề của các thành viên trong nhóm và vấn đề chung của cả nhóm trẻ
em mồ côi tại Trung tâm BTXH III Tây Mỗ, Từ Liêm, Hà Nội. Trên cơ sở đó tiến
hành thực hiện các biện pháp can thiệp cụ thể giải quyết một số vấn đề của nhóm và
vấn đề của từng cá nhân trong nhóm.
Nghiên cứu ứng dụng phương pháp CTXH nhóm - một trong những phương
pháp cơ bản của CTXH trong quá trình nghiên cứu và thực hành , bổ sung về khía
cạnh lý luận cho việc ứng dụng phương pháp nghiên cứu và thực hành với trẻ em
nói chung và trẻ em mồ côi nói riêng.
Nghiên cứu cũng hướng tới phân tích khả năng ứng dụng các tri thức liên ngành
hiệu quả (cụ thểtrong nghiên cứu này là ứng dụng phương tiện nghệ thuật kịch sáng

tạo) vào thực hành CTXH với nhóm trẻ em mồ côi để từ đó phát triển kỹ năng sống
cho các em cụ thể đó là kỹ năng giao tiếp cơ bản, kỹ năng chia sẻ, thuyết trình, kỹ năng
làmviệc nhóm
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Nghiên cứu và thực hành CTXH nhóm nhằm phát triển kỹ năng sống cho
nhóm trẻ em mồ côi tại trung tâm BTXH III, Tây Mỗ, Từ Liêm, Hà Nội. Cụ thể:
 Nâng cao sự cố kết nhóm
 Nâng cao sự tự tin của các thành viên trong nhóm
 Nâng cao một số kỹ năng sống của các thành viên trong nhóm, bao gồm:
o

Kỹ năng chia sẻ

o

Kỹ năng làm việc theo nhóm

o

Kỹ năng làm trình bày

7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, luận văn
được kết cấu thành 3 chương.
Chương 1: Những vấn đề lý luận về Công tác xã hội nhóm trong việc phát
triển kỹ năng sống cho trẻ em mồ côi tại Trung tâm Bảo trợ xã hội III, Tây Mỗ, Từ
Liêm, Hà Nội
Chương 2:Thực trạng Công tác xã hội nhóm trong việc phát triển kỹ năng sống
cho trẻ em mồ côi tại Trung tâm Bảo trợ xã hội III, Tây Mỗ, Từ Liêm, Hà Nội
Chương 3: Tiến trình Công tác xã hội nhóm với trẻ em mồ côi tại Trung tâm

Bảo trợ xã hội III, Tây Mỗ, Từ Liêm, Hà Nội.

11


Chương1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CÔNG TÁC XÃ HỘI NHÓM TRONG
VIỆC PHÁT TRIỂN KỸ NĂNG ỐNG CHO TRẺ EM MỒ CÔI
1.1. Các khái niệm công cụ
1.1.1. Công tác xã hôi nhóm
1.1.1.1. Khái niệm Công tác xã hội
Có rất nhiều khái niệm được đưa ra để định nghĩa về CTXH, từ các tổ chức, cá
nhân trong nước và quốc tế.
Theo Hiệp hội các nhân viên xã hội Mỹ - NASW đưa ra năm 1970: CTXH là
một hoạt động mang tính chuyên môn nhằm giúp đỡ những cá nhân, nhóm và cộng
đồng trong hoàn cảnh khó khăn để họ tự phục hồi chức năng xã hội và tạo racác
điều kiện thuận lợi cho họ đạt được những mục đích cá nhân.
Theo định nghĩa của Liên đoàn chuyên nghiệp xã hội quốc tế - IFSW ( tại đại
hội Montrean tháng 7/2000): “CTXH chuyên nghiệp thúc đẩy sự thay đổi xã hội,
việc giải quyết các vấn đề trong các mối quan hệ con người, sự tăng quyền lực và
giải phóng người dân giúp cuộc sống của họ ngày càng thoải mái, dễ chịu. Vận
dụng các lí thuyết về hành vi con người và hệ thống xã hội, CTXH can thiệp ở các
điểm tương tác giữa con người và môi trường của họ. Nhân quyền và công bằng xã
hội là các nguyên tắc căn bản của nghề”.[8, tr.10]
Ở luận văn này, tác giả xin lựa chọn và trích dẫn khái niệm của tác giả Bùi Thị
Xuân Mai ( 2012): “ CTXH là một nghề, một hoạt động chuyên nghiệp, nhằm trợ
giúp các cá nhân, gia đình và cộng đồng nâng cao năng lực đáp ứng nhu cầu và
tăng cường chức năng xã hội đồng thời thúc đẩy môi trường xã hội về chính sách,
nguồn lực và dịch vụ nhằm giúp cá nhân, gia đình, cộng đồng giải quyếtvà phòng
ngừa các vấn đề xã hội góp phần đảm bảo an sinh xãhội”[12, tr.19]

1.1.1.2. Khái niệm nhóm và nhóm xã hội
 Nhóm
Định nghĩa về nhóm có rất nhiều quan điểm dựa trên các cách tiếp cận và lĩnh
vực nghiên cứu khác nhau. Nghiên cứu lựa chọn khái niệm Nhóm theo quan điểm
của Xã hội học: “Nhóm là một hệ thống xã hội mà mối quan hệ ý nghĩa của nó được
xác định qua những quan hệ thành viên trực tiếp và phân tán cũng như qua tính bền
lâu tương đối”.[3,tr.299]

12


 Nhóm xã hội
“Nhóm xã hội là một tập hợp những cá nhân được gắn kết với nhau bởi những
mục đích nhất định. Những cá nhân có những hoạt động chung với nhau trên cơ sở
cùng chia sẻ và giúp đỡ lẫn nhau nhằm đạt được những mục đích cho mọi thành
viên”. [5,tr.21]
1.1.1.3. Khái niệm Công tác xã hội nhóm
Ở luận văn này tác giảvận dụng khái niệm Công tác xã hội nhóm được tác giả
Nguyễn Thị Thái Lan trình bày: “Công tác xã hội nhóm trước hết phải được coi là
một phương pháp can thiệp của công tác xã hội. Đây là một tiến trình trợ giúp mà
trong đó các thành viên trong nhóm được tạo cơ hội và môi trường có các hoạt
động tương tác lẫn nhau, chia sẻ những mỗi quan tâm hay những vấn đề chung,
tham gia vào các hoạt động nhóm nhằm đạt được tới mục tiêu chung của nhóm và
hướng dẫn giải quyết những mục đích của cá nhân thành viên giải tỏa những vấn
đề khó khăn. Trong hoạt động công tác xã hội nhóm, một nhóm thân chủ được
thành lập, sinh hoạt thường kỳ dưới sự điều phối của người trưởng nhóm( có thể là
nhân viên xã hội và có thể là thành viên của nhóm) và đặc biệt là sự trợ giúp, điều
phối của nhân viên xã hội ( trong trường hợp trưởng nhóm là thành viên của
nhóm)”[5,tr.34]
1.1.2. Trẻ em mồ côi

1.1.2.1. Khái niệm trẻ em
Về mặt luật pháp, theo Điều 1 của Công ước Quốc tế về Quyền trẻ em (1989)
quy định: “ Trẻ em có nghĩa là bất kỳ người nào dưới 18 tuổi, trừ trường hợp luật
pháp áp dụng với trẻ em đó quy định tuổi thành niên sớm hơn”
Ở Việt Nam theo quy định tại điều 1 Luật Trẻ emsố 102/2016/QH 13 ban hành
ngày 05 tháng 04 năm 2016 thì: “Trẻ em là người dưới 16 tuổi”.[11]
1.1.2.2. Khái niệm trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt
Theo quy định tại Khoản 10 Điều 4 Luật Trẻ em năm 2016 thì: “Trẻ em có
hoàn cảnh đặc biệt là trẻ em không đủ Điều kiện thực hiện được quyền sống, quyền
được bảo vệ, quyền được chăm sóc, nuôi dưỡng, quyền học tập, cần có sự hỗ trợ,
can thiệp đặc biệt của Nhà nước, gia đình và xã hội để được an toàn, hòa nhập gia
đình, cộng đồng.”[11]
Trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt bao gồm các nhóm sau đây:

13


a) Trẻ em mồ côi cả cha và mẹ;
b) Trẻ em bị bỏ rơi;
c) Trẻ em không nơi nương tựa;
d) Trẻ em khuyết tật;
đ) Trẻ em nhiễm HIV/AIDS;
e) Trẻ em vi phạm pháp luật;
g) Trẻ em nghiện ma túy;
h) Trẻ em phải bỏ học kiếm sống chưa hoàn thành phổ cập giáo dục trung học cơ sở;
i) Trẻ em bị tổn hại nghiêm trọng về thể chất và tinh thần do bị bạo lực;
k) Trẻ em bị bóc lột;
l) Trẻ em bị xâm hại tình dục;
m) Trẻ em bị mua bán;
n) Trẻ em mắc bệnh hiểm nghèo hoặc bệnh phải Điều trị dài ngày thuộc hộ

nghèo hoặc hộ cận nghèo;
o) Trẻ em di cư, trẻ em lánh nạn, tị nạn chưa xác định được cha mẹ hoặc
không có người chăm sóc.
1.1.2.3. Khái niệm Trẻ em mồ côi
Theo Luật Trẻ em năm 2016thì “Trẻ em mồ côi là trẻ em dưới 16 tuổi mồ côi
cả cha lẫn mẹ hoặc bị bỏ rơi, bị mất nguồn nuôi dưỡng và không còn người thân
thích ruột thịt ( ông, bà nội ngoại; bố mẹ nuôi hợp pháp, anh chị) để nương
tựa”[11]
1.1.3.4.Công tác xã hội nhóm với trẻ em mồ côi
Công tác xã hội với trẻ em: “ CTXH với trẻ em là CTXH có đối tượng tác động
là trẻ em, nhằm phát hiện và can thiệp để ngăn ngừa các em tránh rơi vàohoàn
cảnh đặc biệt hoặc trợ giúp các em đã rơi vào hoàn cảnh đặcbiệt vượt qua hoàn
cảnh của mình để có thể hòa nhập với gia đình và cộng đồng”.[6, tr.10]
Công tác xã hội nhóm với trẻ em mồ côi: Từ những khái niệm được đưa ra về
Công tác xã hội nhóm và TEMC, cũng như CTXH với trẻ em thì ở nghiên cứu này
tác giả đưa ra khái niệm cụ thể về CTXH nhóm với TEMC như sau: Công tác xã hội
nhóm với trẻ em mồ côi là quá trình nhân viên xã hội sử dụng phương pháp công tác
xã hội nhóm tác động đến nhóm đối tượng là trẻ em mồ côi. Thông qua tiến trình trợ
giúp mà trong đó các thành viên nhóm là trẻ em mồ côi ( có đặc điểm, vấn đề và nhu
14


cầu giống nhau) được tạo cơ hội và môi trường có các hoạt động tương tác lẫn nhau,
chia sẻ những mối quan tâm hay những vấn đề chung, tham gia vào các họat động
nhóm và hướng đến giúp đỡ nhóm và từng cá nhân tăng cường khả năng tự giải quyết
vấn đề nhằm thỏa mãn nhu cầu.
1.1.3. Khái niệm phát triển
Từ trước đến nay, có nhiều định nghĩa, khái niệm khác nhau về phát triển.
Trong luận văn này tôi vận dụng khái niệm “ phát triển” được nêu ra trong tài liệu
“Phát triển xã hội - Một số quan điểm và Kinh nghiệm từ Châu Âu”:“Phát

triển được hiểu là một phạm trù của triết học, là quá trình vận động tiến lên từ thấp
đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn của một
sự sự vật. Quá trình trình vận động đó đó diễn ra vừa dần dần, vừa nhảy vọt để đưa
tới sự ra đời của cái mới thay thế cái cũ. Sự phát triển là kết quả của quá trình thay
đổi dần về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất, quá trình diễn ra theo đường xoáy ốc
và hết mỗi chu kỳ sự vật lặp lại dường như sự vật ban đầu nhưng ở mức (cấp độ)
cao hơn”[23, tr.1]
1.1.4. Khái niệm kỹ năng sống
Kỹ năng sống chính là năng lực của mỗi người giúp giải quyết những nhu cầu
và thách thức của cuộc sống một cách có hiệu quả.
Hiện nay chưa có một khái niệm nào thống nhất trên toàn thế giới về KNS.
KNS được tiếp cận theo nhiều quan điểm khác nhau, và điều này cũng ảnh hưởng
đến cách phân loại các KNS.
Theo Quỹ cứu trợ nhi đồng Liên Hiệp Quốc (UNICEF),“KNS là những kỹ
năng tâm lý xã hội có liên quan đến tri thức, những giá trị và thái độ, cuối cùng thể
hiện ra bằng những hành vi làm cho các cá nhân có thể thích nghi và giải quyết có
hiệu quả các yêu cầu và thách thức của cuộc sống”.
Tuy có sự khác biệt về quan niệm về KNS nhưng các tổ chức UNESCO,
WHO và UNICEF đã thống nhất 10 kỹ năng sống cơ bản, được xem như cần thiết
nhất cho tất cả mọi người.
1.

Kỹ năng trình bày

2.

Kỹ năng giải quyết vấn đề

3.


Kỹ năng tư duy sáng tạo

4.

Kỹ năng tư duy phê phán/suy nghĩ có phán đoán

15


5.

Kỹ năng truyền thông có hiệu quả

6.

Kỹ năng giao tiếp giữa người và người

7.

Kỹ năng tự nhận thức bản thân, sự tự tin

8.

Khả năng thấu cảm, chia sẻ

9.

Kỹ năng ứng phó với cảm xúc

10.


Kỹ năng ứng phó với stress

Đối với TEMC ở Trung tâm, qua khảo sát thì phần lớn các em còn hạn chế về
kỹ năng giao tiếp, kỹ năng chia sẻ, kỹ năng trình bày trước đám đông. Do đó ở luận
văn này tác giả tập trung đi sâu phát triển những kỹ năng sống này cho các em.
1.1.5. Khái niệm phát triển kỹ năng sống
Phát triển kỹ năng sống có thể nói đó là một quá trình tác động có mục đích,
có kế hoạch nhằm hình thành năng lực hành động tích cực, có liên quan tới kiến
thức và thái độ, giúp cá nhân có ý thức về bản thân, giao tiếp, quan hệ xã hội, thực
hiện công việc, ứng phó hiệu quả với các yêu cầu thách thức của cuộc sống hàng
ngày…
Kỹ năng sống được hình thành theo nhiều cách khác nhau, tùy vào môi trường
sống và giáo dục…
PTKNS là rất quan trọng và cần thiết cho trẻ nhỏ đặc biệt là nhóm trẻ em mồ
côi. Giáo dục kỹ năng sống giúp cho trẻ phát triển nhân cách, thể chất, tình cảm,
giao tiếp, ngôn ngữ, tư duy một cách toàn diện, là nền tảng để trẻ tự tin trước mọi
hoàn cảnh sống.
Như vậy, tác giả nhận thấy, phát triển kỹ năng sống là giúp trẻ làm chủ bản thân,
ứng xử phù hợp với cộng đồng và xã hội, thích nghi, học tập hiệu quả, nâng cao sức
khỏe tinh thần và thể chất, ứng phó tích cực trong các tình huống của cuộc sống.Đó là
một quá trình vận động, sự thay đổi hay phảt triển hành vi theo hướng tích cực, tốt dần
lên về các kỹ năng sống cơ bản nhất như kỹ năng về tự lo vệ sinh cá nhân, kỹ năng giao
tiếp, kỹ năng chia sẻ, kỹ năng trình bày và kỹ năng làm việc nhóm.
1.2. Tiến trình Công tác xã hội nhóm và kỹ thuật tác nghiệp
1.2.1. Tiến trình Công tác xã hội nhóm
Tiến trình CTXH nhóm là quá trình tương tác giữa hỗ trợ giữa các thành viên
của nhóm CTXH có thể là nhóm thân chủ và NVCTXH trong nhóm can thiệp hoặc
các nhà chuyên môn/ tình nguyện viên/ nhà chức trách và NVCTXH trong nhóm


16


nhiệm vụ, ở đó diễn ra các hoạt động chuyên môn nhằm hỗ trợ thân chủ đạt được
mục đích, mục tiêu hoặc các thành viên nhóm nhiệm vụ hoàn thành công việc được
giao. Diễn đạt theo các đơn giản hơn, thì đây là trình tự các bước hoạt động của
CTXH nhóm thực hiện trong quá trình giúp đỡ nhóm thân chủ hoặc hoành thành
nhiệm vụ được giao.
Có nhiều cách phân chia về các giai đoạn của một tiến trình nhóm, trong đề tài
này tác giả phân chia tiến trình CTXH nhóm với nhóm trẻ em mồ côi theo 4 giai
đoạn: Giai đoạn chuẩn bị và thành lập nhóm; Giai đoạn nhóm bắt đầu hoạt động;
Giai đoạn can thiệp/ thực hiện nhiệm vụ và Giai đoạn kết thúc.
1.2.1.1 Giai đoạn chuẩn bị và thành lập nhóm
a) Giai đoạn chuẩn bị thành lập nhóm.
Giai đoạn chuẩn bị và thành lập nhóm là giai đoạn đầu tiên trong tiến trình
CTXH nhóm. Đây là giai đoạn NVCTXH sau khi nhận được một số trường hợp cần
hỗ trợ do yêu cầu của tổ chức hay do các NVCTXH khác giời thiệu/ chuyển giao
đến; hoặc là sau quá trình giúp đỡ cá nhân thân chủ, NVCTXH nhận thấy cần phải
có những hoạt động nhóm CTXH cho thân chủ. Giai đoạn này bao gồm các bước
hoạt động: xác định mục đích hỗ trợ của CTXH nhóm, đánh giá khả năng thành lập
nhóm và sau khi hội tụ đủ điều kiến tiến tới thành lập nhóm.
 Xác định mục đích hỗ trợ nhóm.
Nhân viên xã hội cần trả lời cho các câu hỏi: CTXH nhóm có thực sự cần
thiết cho các thân chủ hay không? Những lợi ích đem lại cho thân chủ, cho phát
triển nghề nghiệp là gì?Từ đó xác định mục đích hỗ trợ thân chủ.Đó là việc
NVCTXH xây dựng những đích hướng tới cuối cùng của quá trình trợ giúp và các
mục tiêu cụ thể trong từng hoạt động.Từ đó lựa chọn mô hình nhóm phù hợp.
 Đánh giá khả năng thành lập nhóm.
NVCTXH cần đánh giá khả năng về những nguồn lực hỗ trợ thành lập nhóm,
bao gồm: tài chính, cơ sở vật chất, hỗ trợ từ cộng đồng, đoàn thể, chính quyền… Để

có được sự hỗ trợ nào đó, NVCTXH cần đối chiếu mục đích của nhóm với các
chương trình dịch vụ, chính sách và quy định của tổ chức.
Đánh giá khả năng tham gia của các thành viên trong nhóm.Trước hết là
đánh giá nhu cầu và điều kiện thực tế của thân chủ, xem xét động cơ và mong muốn
của họ tham gia vào nhóm.Việc đánh giá được thực hiện thông qua những buổi tiếp

17


xúc trực tiếp, phỏng vấn trong vãng gia. Đồng thời đánh giá thành viên tương lai:
xác định những thành viên tương lai có cùng quan niệm về nhiệm vụ nhóm phải đối
mặt. Đồng thời NVXH cũng cần phải đánh giá những khó khăn và rào cản khi thành
viên tương lai tham gia vào nhóm.
 Định hướng cho các thành viên trong nhóm.
Sau khi các thành viên trong nhóm đã được Lựa chọn, NVCTXH cần có
những định hướng ban đầu cho các thành viên như việc: cung cấp thông tin về
nhóm và tiến trình hoạt động nhóm; giải đáp những thắc mắc của các thành viên về
nhóm, các hoạt động sẽ diễn ra trong các giai đoạn sinh hoạt của nhóm, cách thức
quản lý và nhiệm vụ của NVCTXH và nhóm trưởng.
Một lần nữa xem xét lại nhu cầu thân chủ có phù hợp với mục đích của nhóm
hay không. NVCTXH thực hiện bằng phương pháp quan sát, thu thông tin về thân
chủ, sự cam kết và các điều kiện thực tiễn để thân chủ có thể tham gia vào các hoạt
động nhóm. Những khó khăn cản trở đối với thân chủ cũng cần được nhìn nhận.
Sau khi các đánh giá được hoàn thành, NVCTXH sẽ đưa ra quyết định có thành lập
nhóm hay không trên cơ sở những thông tin đã thu thập được.
b) Giai đoạn thành lập nhóm.
 Lựa chọn nhóm viên.
Có nhiều phương pháp và cách thức Lựa chọn thành viên trong nhóm: (1)
NVXH liên hệ trực tiếp với những thành viên tương lai; (2) qua gửi thư, gửi thông
báo tới thân chủ; (3) thông qua phương tiện thông tin đại chúng.

Trong nghiên cứu này tác giả lựa chọn cách liên hệ trực tiếp với thân
chủ.Đây cũng là phương pháp lựa chọn hiệu quả nhất.Cách thức này dựa trên những
đánh giá đã được thực hiện và hồ sơ sổ sách lưu lại.Sau đó hẹn gặp trực tiếp thân
chủ và giới thiệu với thân chủ về việc thành lặp nhóm.
Quy mô thành viên nhóm tuỳ thuộc vào những mục tiêu của nhóm và đặc điểm
của các thành viên trong nhóm.Số lượng thành viên phải làm sao đảm bảo được
tương tác trong nhóm và học hỏi từ sự đa dạng của các thành viên khác.
 Thoả thuận nhóm.
Đầu tiên là thoả thuận về cách thức làm việc nhóm (quy định, số lần sinh
hoạt, thời gian, địa điểm).Cần nêu rõ vai trò và trách nhiệm của người nhóm trưởng.

18


Thoả thuận về các mục tiêu cá nhân nhằm giúp cá nhân định hướng mục tiêu giải
quyết vấn đề của mình trong định hướng chung của cả nhóm.
 Chuẩn bị môi trường.
Chuẩn bị về cơ sở vật chất gồm có: địa điểm sinh hoạt, không gian, cách bài
trí sao cho ấm cúng, an toàn và thoải mái cho các thành viên nhóm. Địa điểm cũng
cần tính toán đến sự thuận lợi cho việc đi lại của các thành viên và một số các yếu
tố khác.
Chuẩn bị các nguồn hỗ trợ tài chính cho các hoạt động đó là nguồn kinh phí nhất
định cho các hoạt động bắt buộc phải có như văn phòng phẩm, liên lạc…
 Viết đề xuất nhóm.
Đây là bước cuối cùng của giai đoạn chuẩn bị.Đề xuất nhóm là văn bản để xin
tài trợ hoạt động nhóm, hỗ trợ quá trình hoạt động.Có thể coi đây là công việc bắt
buộc để nhóm được phép hoạt động.Bản kế hoạch cần nêu rõ mục đích, mục tiêu,
đối tượng hưởng lợi, phương pháp thực hiện, những yêu cầu hỗ trợ… và những tiêu
chí khác.
 Như vậy quá trình chuẩn bị và lên kế hoạch cần bám sát mục đích của nhóm và

nhu cầu của các thành viên. Tuy nhiên trong quá trình hoạt động sẽ cần có
những thay đổi nhất định cho phù hợp thực tiễn. Sau khi hoàn thành giai đoạn
chuẩn bị thành lập, nhóm sẽ chuyển tiếp sang giai đoạn bắt đầu hoạt động.
1.2.1.2. Giai đoạn nhóm bắt đầu hoạt động
Là giai đoạn các thành viên trong nhóm bắt đầu có những buổi sinh hoạt
chung. Đây được coi là giai đoạn có nhiều khó khăn bởi ở thời điểm mới bắt đầu,
các thành viên có những thăm dò, tìm hiểu nhau. Họ có nhiều kì vọng vào nhóm và
những thành viên khác trong nhóm cũng như vào NVXH.Họ có thể còn nhiều e
ngại.Vì thế nhiệm vụ chính của NVXH là giúp các thành viên quen với cách thức
làm việc cùng các thành viên khác trên tinh thần hợp tác.Đồng thời tạo bầu không
khí cởi mở, chan hoà, tin cậy trong nhóm.

19


Hình1.1: Hoạt động chính trong giai đoạn nhóm bắt đầu hoạt động
Giới thiệu các thành viên trong nhóm
Làm rõ các mục đích hỗ trợ nhóm của NVCTXH
Xác định mục tiêu
Thảo luận và đưa ra giới hạn để bảo mật thông tin
Giúp các thành viên trong nhóm cảm thấy họ là một phần của nhóm
Hướng dẫn sự phát triển của nhóm
Cân bằng giữa nhiệm vụ và những khía cạnh tình cảm xã hội của nhóm
Thoả thuận công việc của nhóm
Khích lệ động cơ thực của các thành viên nhóm hiện các mục tiêu nhóm
Dự đoán về khó khăn, cản trở để đạt được mục tiêu cho thành viên và nhóm

1.2.1.3. Giai đoạn can thiệp/thực hiện nhiệm vụ
Giai đoạn can thiệp/thực hiện nhiệm vụ là giai đoạn tập trung vào các hoạt
động hỗ trợ, trị liệu và triển khai thực hiện hướng tới hoàn thành các mục đích, mục

tiêu và nhiệm vụ đã được các thành viên nhóm đặt ra ở giai đoạn trước. Nhiệm vụ
chính của NVCTXH trong giai đoạn này là giúp đỡ các thành viên vượt qua rào cản,
khó khăn; điều phối các hoạt động nhóm để hỗ trợ các thành viên đạt được mục
tiêu, mục đích của nhóm; thúc đẩy các tổ chức, cộng đồng đáp ứng lại những nỗ lực
cố gắng của các thành viên nhóm.
Như đã xác định từ các giai đoạn trước, nhóm trẻ em mồ côi là nhóm can
thiệp vì thế nội dung của giai đoạn này sẽ trình bày theo các bước đặc thù của nhóm
can thiệp.

20


×