Tải bản đầy đủ (.doc) (104 trang)

Tài chính tiền tệ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (452.01 KB, 104 trang )

TÓM TẮT NỘI DUNG MÔN TÀI CHÍNH TIỀN TỆ
CHƯƠNG 1: ĐẠI CƯƠNG VỀ TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ
1.1. Những vấn đề lý luận cơ bản về tài chính
1.1.1. Khái quát sự ra đời và phát triển của tài chính
Phạm trù tài chính ra đời và tồn tại trong điều kiện kinh tế - xã hội khi mà ở đó
xuất hiện nền sản xuất hàng hóa. Trong lịch sử phát triển của xã hội, khi xã hội có sự
phân công về lao động thì chế độ tư hữu xuất hiện, con người có nhu cầu trao đổi hàng
hóa và tiền tệ ra đời. Tiền tệ đóng vai trò là vật ngang giá chung trong quá trình trao đổi.
Khi tiền tệ lưu thông sẽ thúc đẩy các hoạt động giao lưu về kinh tế, đồng thời làm nên
cuộc cách mạng trong công nghệ phân phối: từ phân phối bằng hiện vật sang phân phối
bằng giá trị. Hàng hóa khi trao đổi trên thị trường cần phải biểu thị giá cả của nó. Hàng
hóa đem bán trên thị trường sẽ tạo nên thu nhập cho người cung cấp hàng hóa. Các khoản
thu nhập này, trải qua quá trình phân phối, tạo ra nguồn tài chính hay các quỹ tiền tệ của
các chủ thể kinh tế. Sự liên tục của quá trình sản xuất hàng hóa luôn luôn đòi hỏi các quỹ
tiền tệ được tạo lập, phân phối, sử dụng và đây chính là cơ sở làm nảy sinh phạm trù tài
chính.
Tài chính là phạm trù kinh tế, phản ánh các quan hệ phân phối của cải xã hội
dưới hình thức giá trị. Phát sinh trong quá trình hình thành, tạo lập, phân phối các quỹ
tiền tệ của các chủ thể trong nền kinh tế nhằm đạt mục tiêu của các chủ thể ở mỗi điều
kiện nhất định.
1.1.2. Bản chất và chức năng của tài chính
1.1.2.1. Bản chất của tài chính
Để hiểu được bản chất của tài chính trước hết ta cần hiểu được nguồn tài chính là gì.
Nguồn tài chính: Là khối lượng tiền tệ để thực hiện một giao dịch tài chính
- Theo nghĩa hẹp: Nguồn tài chính là khối lượng t iền tệ có tính lỏng cao được biểu
hiện thông qua các quỹ tiền tệ như là:
+ Quỹ tiền tệ tập trung của nhà nước
+ Các quỹ tiền tệ của doanh nghiệp
+ Các quỹ tiền tệ của các định chế tài chính
+ Quỹ tiền tệ của các hộ gia đình và các tổ chức xã hội
- Theo nghĩa rộng: Ngoài khối tiền tệ có tính lỏng cao, nguồn tài chính còn bao gồm


khối tiền tệ có tính lỏng thấp như:
1


+ Các loại tài sản tài chính hay các loại chứng khoán
+ Ngoài ra, nguồn tài chính còn bao gồm dạng tài sản như bất động sản, sở hữu trí
tuệ và các tài sản vô hình khác có khả năng tiền tệ hóa
Từ khái niệm về tài chính và tìm hiểu về nguồn tài chính ta có thể rút ra được bản
chất của tài chính là gì
Bản chất tài chính: phản ánh ràng buộc về quan hệ kinh tế giữa các chủ thể với
nhau trong quá trình phân phối và sử dụng các nguồn tài chính hay nói cách khác nó phản
ánh các quan hệ trong quá trình phân phối sản phẩm xã hội dưới hình thức tổng giá trị
thông qua đó tạo lập các quỹ tiền tệ nhằm đáp ứng yêu cầu tiêu dùng và tích lũy của các
chủ thể trong nền kinh tế.
Phân biệt giữa tài chính và tiền tệ
Phạm trù tiền tệ
Phạm trù tài chính
Tiền tệ đóng vai trò và vật ngang giá chung Tiền tệ đóng vai trò là phương tiện để phân
để thực hiện trao đổi hàng hóa theo nguyên phối nguồn tài chính (vốn và thu nhập) giữa
tắc ngang giá

các chủ thể kinh tế xã hội dưới hình thức

giá trị
Vận động của tiền gắn liền với sự vận động Vận động của tiền độc lập với sự vận động
của hàng hóa
1.1.2.2. Chức năng của tài chính

của hàng hóa


a. Huy động nguồn taì chính
b. Phân bổ nguồn tài chính
c. Kiểm tra tài chính
- Chủ thể kiểm tra: Là những chủ thể có quyền sở hữu hay quyền sử dụng nguồn
tài chính
- Đối tượng kiểm tra: Là quá trình huy động, phân bổ và sử dụng các nguồn lực tài
chính
- Cơ sở kiểm tra: Các chuẩn mực làm cơ sở để thực hiện kiểm tra tài chính như
chế độ kế toán, hệ thống pháp luật tài chính.
- Phương pháp kiểm tra:Là những cách thức mà chủ thể kiểm tra sử dụng để kiểm
tiến hành kiểm tra
- Báo cáo và đánh giá kiểm tra
Đặc điểm của kiểm tra tài chính: Kiểm tra tài chính được thực hiện thông qua các
chỉ tiêu tài chính là các chỉ tiêu phản ánh quá trình tạo lập, phân bổ và sử dụng nguồn lực
2


tài chính .Kiểm tra tài chính được thực hiện một cách thường xuyên qua tất cả các bước
theo chu trình, từ việc tạo lập, phân bổ đến sử dụng nguồn tài chính
1.1.3. Vai trò của tài chính
a. Đảm bảo nhu cầu về vốn
b. Tăng cường hiệu quả sử dụng vốn
1.1.4. Hệ thống tài chính
1.1.4.1. Khái niệm và cơ cấu hệ thống tài chính
Khái niệm: Hệ thống tài chính là một hệ thống có thị trường tài chính và các chủ
thể tài chính thực hiện chức năng gắn kết cung - cầu về vốn lại với nhau. Cơ cấu hệ
thống tài chính bao gồm:
- Thị trường tài chính
- Các chủ thể tài chính
- Cơ sở hạ tầng của thị trường tài chính

Hệ thống tài chính tạo ra kênh truyền dẫn vốn từ người thừa vốn đến người thiếu
vốn. Khi hệ thống tài chính hoạt động có hiệu quả sẽ góp phần thúc đầy kinh tế phát
triển, gia tăng phúc lợi xã hội. Thông qua hệ thống tài chính, người thừa vốn có cơ hội
đầu tư để thu lợi, người thiếu vốn có cơ hội tiếp cận các nguồn vốn nhanh chóng hơn, an
toàn hơn và tiết kiệm hơn.
Sơ đồ 1.1. Cấu trúc hệ thống tài chính
Các định chế
tài chính

Vốn

Vốn
Vốn
Các chủ thể
thừa vốn

Vốn

Thị trường
tài chính

Các chủ thể
thiếu vốn
Vốn

1.4.1.2. Đặc điểm các bộ phận của hệ thống tài chính
a. Thị trường tài chính
- Khái niệm: Thị trường tài chính là nơi tổng hòa các mối quan hệ về vốn, diễn ra
dưới hình thức vay mượn, mua bán về vốn, tiền tệ và các chứng từ có giá nhằm chuyển
dịch nguồn vốn từ nơi thừa đến nơi thiếu.

3


- Cơ cấu của thị trường tài chính: Thị trường tiền tệ và thị trường vốn
b. Các chủ thể tài chính
- Khái niệm: Các chủ thể tài chính bao gồm các thể nhân và pháp nhân ở khu vực
công và khu vực tư hoạt động theo những nguyên tắc và cơ chế nhất định
- Các khâu tài chính cấu thành các chủ thể tài chính: Tài chính công, tài chính
doanh nghiệp, các định chế tài chính, tài chính cá nhân và hộ gia đình
c. Cơ sở hạ tầng
- Khái niệm: Cơ sở hạ tầng là những nền tảng qua đó doanh nghiệp, nhà đầu tư, cá
nhân lập kế hoạch và thực hiện các giao dịch tài chính với các định chế tài chính và thị
trường tài chính.
- Các thành phần của cơ sở hạ tầng: Hệ thống luật pháp và quản lý nhà nước; Hệ thống
thông tin; Hệ thống giám sát; Hệ thống thanh toán, Hệ thống dịch vụ chứng khoán; Nguồn nhân
lực.

1.1.5. Các định chế tài chính trung gian
1.1.5.1. Các tổ chức nhận tiền gửi
Ngân hàng thương mại : Huy động vốn từ tiền gửi thanh toán, tiền gửi có kỳ hạn,
tiền gửi tiết kiệm và sử dụng để cấp tín dụng thông qua các hoạt động cho vay thương
mại, cho vay tiêu dùng, cho vay bất động sản, mua chứng khoán...
Các hiệp hội tiết kiệm và cho vay: Nguồn vốn huy động chủ yếu từ tiền gửi không
kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm. Phần còn lại huy động từ việc vay các
nguồn khác, vay từ chính quyền địa phương, vay từ trung ương. Tiền vốn thu được chủ
yếu để cho vay bất động sản. Sau này mới phát triển mở rộng để cho vay tiêu dùng và các
hoạt động khác giống như NHTM ( từ năm 1980)
Ngân hàng tiết kiệm: Huy động các khoản tiết kiệm từ các cá nhân trong xã hội.
Chủ nhân của ngân hàng chính là những người gửi tiết kiệm và những người này sau này
cũng trở thành khách hàng. Ngân hàng không mở rộng cổ đông, chỉ những người ban đầu

gửi tiết kiệm thì sau này mới được vay từ ngân hàng. Hoạt động của ngân hàng vì múc
đích tương trợ là chủ yếu.
Quỹ tín dụng: Được thanh lập trên hình thức góp vốn cổ phần và hoạt động theo
nguyên tắc tập thể, tự nguyện, hợp tác và bình đẳng. Các thành viên của quỹ sẽ tham gia
quỹ bằng cách mua các thẻ thành viên có mệnh giá bằng nhau và họ cùng nhau trở thành

4


người quản lý. Các thành viên được quyền vay tiền từ quỹ. Quỹ muốn mở rộng, huy động
thêm vốn thì sẽ phát hành thêm thẻ thành viên.
1.1.5.2. Các công ty tài chính
Công ty tài chính bán hàng: Các công ty tài chính này gián tiếp cấp tín dụng cho
người tiêu dùng để mua các món hàng từ một nhà bán lẻ hoặc từ một nhà sản xuất nào
đó. Tín dụng được thực hiện dưới hình thức là các doanh nghiệp bán hàng trả góp cho
khách hàng theo hợp đồng mẫu do công ty tài chính cung cấp, sau đó hợp đồng này được
bán lại cho công ty tài chính. Các công ty tài chính này thường do các công ty sản xuất
hay các nhà phân phối bán lẻ hình thành nhằm hỗ trợ hoạt động tiêu thụ hàng hóa của
mình.
Công ty tài chính tiêu dùng: công ty tài chính này cung ứng phần lớn nguồn vốn
của mình cho các cá nhân và gia đình vay vào mục đích mua sắm hàng hóa tiêu dùng như
các đồ đạc nội thất, đồ gia dụng...và thường là hình thức vay trả góp. Các khoản cho vay
thường nhỏ và lãi suất cao hơn lãi suất thị trường vì độ rủi ro cao.
Công ty tài chính kinh doanh: Công ty tài chính này cung ứng nguồn vốn cho các
doanh nghiệp dưới hình thức như bao thanh toán ( mua lại các khoản phải thu của doanh
nghiệp bằng việc chiết khấu); cho thuê tài chính ( công ty mua các máy móc thiết bị do
khách hàng yêu cầu và cho khách hàng thuê lại)...
1.1.5.3. Một số định chế tài chính khác
Công ty bảo hiểm: Công ty bảo hiểm có chức năng chủ yếu là cung cấp phương
tiện để bảo vệ các hộ gia đình hoặc các hãng kinh doanh trước những tổn thất về tài chính

do những rủi ro nhất định gây ra thông qua việc cung cấp hợp đồng bảo hiểm cam kết sẽ
bồi thường cho người mua một khoản tiền nhất định trong trường hợp rủi ro xảy ra. Các
công ty bảo hiểm thu phí bảo hiểm để hình thành nên quỹ bảo hiểm. Trong quá trình quỹ
này tạm thời nhàn rỗi thì công ty có thể sử dụng để cho vay và đầu tư thu lợi
Các quỹ trợ cấp hưu trí: Các quỹ trợ cấp hưu trí thành lập nhằm đảm bảo cho
người lao động khi về hưu có được một khoản thu nhập ổn định thông qua cung cấp các
chương trình lương hưu
1.2. Những vấn đề lý luận cơ bản về tiền tệ
1.2.1. Lịch sử ra đời và phát triển của tiền tệ
1.2.1.1. Khái quát quá trình hình thành và phát triển của tiền tệ

5


Sự ra đời của tiền tệ gắn liền với quát trình phát triển và lưu thông hàng hóa. Để có
được những nhận thức và tính hệ thống như ngày nay, tiền tệ đã trải qua một lịch sử hoàn
thiện rất lâu dài.Trong thời kỳ đầu của công xã nguyên thủy, con người sống thành bầy
đàn, tự cung tự cấp. Các sản phẩm dư thừa được đem cất giữ hoặc đem cho mà chưa có
hoạt động trao đổi. Khi xã hội phát triển, bắt đầu có sự phân công lao động trong xã hội,
hàng hóa dư thừa được đem ra trao đổi.Trong giai đoạn này hàng hóa được trao đổi mang
tính ngẫu nhiên, và được thực hiện trực tiếp bằng cách hàng đổi hàng ( H-H’). Tuy nhiên
hoạt động trao đổi này phải có sự thống nhất về nhu cầu giữa người mua và người bán,
thỏa thuận về tỷ lệ giá trị của hàng hóa, số lượng hàng hóa...nên nó chỉ phù hợp với nền
sản xuất sơ khai, chưa mở rộng. Khi xã hội ngày càng phát triển, sự phân công lao động
ngày càng sâu sắc hơn, nhu cầu của con người cao hơn và hàng hóa cũng phong phú đa
dạng hơn thì hình thức trao đổi hàng hóa trực tiếp sẽ trở nên bất tiện và không còn phù
hợp: Ví dụ người có vải muốn đổi lấy thóc nhưng người có thóc lại muốn đổi lấy cừu.
Như vậy để thỏa mãn nhu cầu của mình họ sẽ phải trải qua rất nhiều quá trình trao đổi,
mất thời gian, tốn công sức để có được thứ mình muốn. Để khắc phục khó khăn này,
người ta đã đặt ra vật trung gian làm phương tiện trao đổi ( H - Vật trung gian - H’). Vật

trung gian được lựa chọn từ những hàng hóa mang nét phổ biến đặc trưng của từng vùng,
lãnh thổ. Có thể nói sự ra đời của vật trung gian trao đổi đánh dấu giai đoạn mở đầu cho
sự xuất hiện của tiền tệ. Có câu hỏi cần đặt ra: đã có rất nhiều vật được chọn làm tiền tệ
từ gia súc, chuỗi vò sò, vải, lụa đến các kim loại quý... Tại sao những vật đó được lựa
chọn làm tiền tệ, tiền tệ thực chất là gì, tại sao có sự thay đổi các hình thái tiền tệ qua các
giai đoạn như vậy? Để giải đáp vấn đề này, chúng ta sẽ xem xét trong nội dung tiếp theo
sau đây.
1.2.1.2. Các thời kì phát triển của tiền tệ
Thời kỳ phát triển của tiền tệ:
- Hóa tệ (tiền phi kim loại và tiền kim loại)
- Tín tệ (tiền kim loại và tiền giấy do Nhà nước phát hành)
- Bút tệ (tiền tín dụng và tiền điện tử)
a. Tiền tệ phi kim loại
Tiền tệ phi kim loại là loại tiền tệ tồn tại dưới dạng các hàng hóa ( trừ kim loại).
Những hàng hóa được chọn làm tiền tệ có giá trị sử dụng cần thiết chung cho nhiều

6


người, có thể bảo tồn lâu và mang tính chất phổ biến, đặc trừn cho địa phương, khu vực
diễn ra trao đổi
Bảng 1.1. Một số tiền tệ bằng hàng hóa trên thế giới
Các loại hình khác nhau của
tiền tệ bằng hàng hóa
Răng cá voi
Gỗ hương
Lưỡi câu cá
Vỏ sò
Lông chim cắt đỏ
Lúa, gạo

Muối
Hạt tiêu
Đường
Trà
Nô lệ
Hươu
Đồng
Vải lụa

Da
Rượu vang
Con bò
Bất lợi của tiền tệ phi kim loại:

Nơi đã sử dung
Fiji
Hawai
Gibert Islands
Marianas
Đaoe santa cruz
Phillipins
Rất nhiều nơi
Quần đảo sumatra
Barbados
Nhiều vùng ở châu á
Lục địa châu Phi –Nigeria-Ireland
Một số vùng ở nước Nga
Ai cập, Việt Nam, Trung Quốc
Trung Quốc
Norway

Pháp và Ý
Úc
Ấn Độ

-Tính không đồng chất
- Dễ hư hỏng
- Khó phân chia hay gộp lại
- Khó bảo quản cũng như vận chuyển
- Mang tính khu vực, địa phương...
b. Tiền tệ kim loại
Tiền kim loại là tiền tệ dưới dạng kim loại. Kim loại được chọn làm bản vị cho chế
độ tiền tệ các nước được thay thế từ những kim loại kém giá ( sắt, đồng, kẽm...) đến
những kim loại có giá trị cao ( bạc, vàng). Kim loại có nhiều ưu điểm hơn so với các
hàng hóa khác khi được sử dung làm tiền tệ: chất lượng và trọng lượng có thể xác định
chính xác, dễ dàng hơn, bền, dễ chia nhỏ, giá trị tương đối ổn định...
Những đặc tính ưu việt của vàng
7


- Vàng là một kim loại quý hiếm, có sức hấp dẫn lớn nên được nhiều người ưa thích
và được chấp nhận trên phạm vi rộng lớn. Điều này tạo điều kiện rất thuận lợi cho việc
vàng làm vật trung gian trao đổi.
- Vàng là kim loại bền, không chịu tác động của môi trường nên tiện cho việc cất
trữ. Khi cất trữ vàng sẽ không lo việc thay đổi về màu sắc và chất lượng.Vàng có thể chia
nhỏ mà không ảnh hưởng đến chất lượng.
- Giá trị của vàng ổn định trong thời gian tương đối dài, ít chịu ảnh hưởng bởi năng
suất lao động tăng lên giống như các hàng hóa khác. Ví dụ: Khi người nông dân trồng lúa
mà được mùa, năng suất lao động tăng thì giá gạo sẽ rẻ hơn. Nhưng đối với vàng thì
khác, dù có áp dụng khoa học kỹ thuật tiên tiến vào khai thác vàng, lượng vàng khai thác
có tăng lên nhưng giá trị của vàng vẫn không bị giảm vì vàng là kim loại quý hiếm và có

hạn nên giá trị của vàng vẫn cao.
Những bất tiện khi sử dụng vàng
- Nền sản xuất hàng hóa phát triển, lượng hàng hóa sản xuất ra ngày càng tăng
nhưng lượng vàng sản xuất ra không đủ để đáp ứng nhu cầu về tiền tệ của nền kinh tế vì
vàng là kim loại quý hiếm, là tài nguyên có hạn.
- Giá trị của vàng quá lớn ( dù đã chia nhỏ vàng) sẽ không phù hợp làm vật ngang
giá chung trong một số lĩnh vực có lượng giá trị trao đổi nhỏ như mua bán dịch vụ hoặc
hàng hóa tiêu dùng. ( ví dụ: không thể dùng vàng để mua rau..)
- Thêm vào đó, khi những giao dịch quá lớn thì việc vận chuyển vàng lại trở nên
quá cồng kềnh, mất an toàn, tốn chi phí vận chuyển, chi phí bảo đảm.
- Khi sử dụng vàng làm tiền tệ thì sẽ hạn chế việc dùng vàng vào các công dụng
khác. Ví dụ dùng vàng làm đồ trang sức.Đây là một sự lãng phí về tài nguyên khi sử dụng
quá nhiều.
Với nhứng lý do như vậy, vàng đã được thay thế bằng hình thái tiền tệ khác phù hợp
hơn đó chính là tiền giấy
c. Tiền giấy
Tiền giấy là một dạng tiền dấu hiệu. Tiền giấy chỉ có giá trị đại diện, cho nên để
được sử dụng làm phương tiện trao đổi thì nó phải dựa vào sự tín nhiệm của con người.
Lịch sử phát triển tiền giấy có thể nói là trải qua hai gia đoạn: Giai đoạn tiền giấy khả
hoán và giai đoạn tiền giấy bất khả hoán.

8


- Giai đoạn tiền giấy khả hoán ( có thể chuyển đổi ra vàng):Tiền giấy xuất hiện đầu
tiên dưới dạng các giấy chứng nhận có khả năng đổi ra bạc hoặc vàng do các ngân hàng
phát hành. Người nắm giữ giấy chứng nhận này khi đến ngân hàng phát hành sẽ được rút
ra số lượng vàng, bạc ghi trên giấy. Dần dần, giấy chứng nhận này được chuẩn hóa thành
các tờ tiền giấy ( giấy bạc ngân hàng) có in mệnh giá và có khả năng đổi ra vàng một
cách tự do theo hàm lượng vàng quy định cho đồng tiền đó. Để siết chặt quản lý và ổn

định giá trị của tiền giấy, việc phát hành giấy bạc được quy định do một ngân hàng suy
nhất có thể phát hành đó là NHTW. Tiền giấy bạc được NHTW phát hành ra gọi là tiền
pháp định. Tuy nhiên do ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế và chiến tranh nên dần dần
tiền giấy mất khả năng được đổi ngược lại ra vàng. Tiền giấy bạc chuyển sang giai đoạn
thứ 2, giai đoạn tiền giấy bất khả hoán
- Giai đoạn tiền giấy bất khả hoán: là giai đoạn tiền giấy không có khả năng đổi ra
vàng.
Ngày nay các nước đều áp dụng chế độ lưu thông tiền giấy. Tiền giấy do NHTW
thống nhất phát hành là đồng tiền hợp pháp được lưu hành với giá trị bắt buộc và nhà
nước không thực hiện chuyển đổi tiền giấy ra vàng.
Ưu điểm của tiền giấy:
- Tiền giấy nhẹ, dẽ vận chuyển và cất trữ
- Tiền giấy có đầy đủ các mệnh giá, có thể sử dụng trong các giao dịch mua bán giá
trị nhỏ
- Phát hành tiền giấy chính phủ tốn ít chi phí hơn.
Nhược điểm của tiền giấy:
- Không bền ( dễ rách, nhàu, mủn khi gặp nước, dễ cháy...)
- Tiền giấy vẫn khá cồng kềnh khi giao dịch với khối lượng lớn. Chi phí vận chuyển
vẫn có và vẫn dễ gặp rủi ro trong quá trình vận chuyển.
- Có thể bị làm giả
- Dễ rơi vào tình trạng bất ổn ( đồng tiền bị mất giá)
d. Tiền tín dụng
Tiền tín dụng là tiền nằm trên các tài khoản mở ở ngân hàng và được hình thành
trên cơ sở các khoản tiền gửi vào ngân hàng. Khi khách hàng mở tài khoản tại ngân hàng,
ngân hàng sẽ cho phép người sở hữu tài khoản được rút một lượng tiền tối đa bằng số dư
có khi trên tài khoản.
9


Do tiền tín dụng thực chất chỉ là con số khi trên tài khoản nên để sử dụng tiền tín

dụng, những người chủ tài khoản phải sử dụng các lệnh thanh toán
e. Tiền điện tử
Tiền điện tử là tiền đã được số hóa. Tiền điện tử chỉ được sử dụng trong môi trường
điện tử phục vụ cho những thanh toán điện tử thông qua hệ thống thông tin bao gồm hệ
thống mạng máy tính, internet và các phương tiện điện tử được lưu trong cơ sở dữ liệu
của tổ chức phát hành và được biểu hiện dưới dạng bút tệ trên tài khoản mà khách hàng
mở tại ngân hàng phát hành.
1.2.2.2. Bản chất của tiền tệ
Bản chất của tiền tệ được thể hiện rõ qua hai thuộc tính: Giá trị sử dụng của tiền
và giá trị của tiền.
- Giá trị sử dụng của tiền:là khả năng thỏa mãn nhu cầu sử dụng làm vật trung
gian trong trao đổi. Giá trị sử dụng của một loại tiền tệ là do xã hội quy định. Ví dụ thời
kỳ xa xưa, xã hội Trung Quốc chấp nhận lấy vải lụa là vật trung gian trao đổi nhưng ở Úc
họ không chấp nhận vải lụa mà họ dùng rượu vang làm vật trung gian trao đổi hay ở Ấn
Độ họ lại sử dụng bò.Mỗi nơi họ có quan niệm riêng về vật được chọn làm tiền tệ (vật
trung gian trao đổi). Khi sau này các loại tiền tệ mới được phát hiện, có tính ưu việt hơn
thì xã hội loại bỏ loại tiền tệ cũ, chấp nhận loại tiền tệ mới vì nó có khả năng thỏa mãn
nhu cầu sử dụng cao hơn.Vậy nếu xã hội vẫn còn chấp nhận loại tiền đó làm vật trung
gian trao đổi để mua bán hàng hóa thì giá trị sử dụng của loại tiền đó vẫn còn tồn tại..
Tiền tệ cũng là một hàng hóa nhưng là hàng hóa đặc biệt. Hàng hó thông thường cũng có
giá trị sử dụng nhưng nó khác giá trị sử dụng của tiền như thế nào?
Bảng 1.2. So sánh giá trị sử dụng của hàng hóa thông thường và tiền tệ
Giá trị sử dụng của

Yếu tố quy định
Thời gian tồn tại

Hàng hóa thông thường
Do đặc tính tự nhiên của hàng


Giá trị sử dụng Tiền tệ
( Hàng hóa đặc biệt)

Do xã hội quy định
hóa quy định
Tồn tại vĩnh viễn với đặc tính tự Mang tính lịch sử, tồn tại trong

nhiên
những giai đoạn nhất định
- Giá trị của tiền được thể hiện qua sức mua của tiền, đó là khả năng đổi được

nhiều hay ít hàng hóa khác trong trao đổi. Sức mua của tiền là sức mua tổng hợp của tất
cả các hàng hóa trên thị trường. Sức mua đối nội phản ánh số lượng hàng hóa mua được

10


ở trong nước bằng 1 đơn vị nội tệ. Sức mua đối ngoại phản ánh số lượng hàng hóa mua
được ở nước ngoài khi chuyển đổi một đơn vị nội tệ ra ngoại tệ
1.2.2.3. Chức năng của tiền tệ
a. Phương tiện trao đổi
Phương tiện trao đổi là chức năng cơ bản của tiền tệ, nó giúp chúng ta phân biệt
được tiền tệ với các dạng tài sản khác như chứng khoán, bất động sản... Chức năng
phương tiện trao đổi của tiền đã tạo điều kiện giúp cho quá trình trao đổi hàng hóa được
diễn ra thuận tiện hơn, tiết kiệm được chi phí về thời gian và công sức.Nó đã khắc phục
được những hạn chế của trao đổi hàng hóa trực tiếp
Bàng 1.3. So sánh giữa trao đổi hàng hóa trực tiếp và gián tiếp
Trao đổi hàng hóa trực tiếp ( H-H’)
Trao đổi hàng hóa gián tiếp (H-T-H’)
Hai người trao đổi phải có nhu cầu phù Có thể trao đổi giữa những người không có

hợp( Người có vải phải cần thóc và ngươi nhu cầu phù hợp (Người có vải bán cho
có thóc cũng phải cần vải thì hai người người cần vải lấy tiền, và người bán vải có
mới trao đổi được)

thể dung tiền để mua những thứ mà mình

cần)
Việc mua và bán phải diễn ra đồng thời vì Việc mua và bán không cần phải diễn ra
là trao đổi trực tiếp
đồng thời
Việc mua và bán phải diễn ra tại cùng một Việc mua và bán không cần diễn ra tại cùng
địa điểm
một địa điểm
Để thực hiện chức năng phương tiện trao đổi tiền phải có những tiêu chuẩn nhất
đinh:
- Được chấp nhận rộng rãi: nó phải được con người chấp nhận rộng rãi trong lưu
thông vì khi đó người có hàng hóa mới đồng ý đổi hàng hóa của mình lấy tiền;
- Dễ nhận biết: Con người phải nhận biết được nó dễ dàng thì nó mới có thể được
sử dụng làm vật trung gian trao đổi. Nếu vật được chọn làm tiền mà không dễ nhận biết
thì sẽ khiến cho hoạt động hàng hóa diễn ra không suôn sẻ. Con người sẽ mất thời gian
để nhận biết về vật được chọn làm tiền tệ đó;
- Có thể chia nhỏ được: để tạo điều kiện thuận lợi cho việc đổi chác giữa các hàng
hóa có giá trị khác nhau.
-Dễ vận chuyển: Tiền tệ phải gọn nhẹ để dễ dàng trong việc trao đổi hành hóa ở
khoảng cách xa
- Bền, không dễ bị hư hỏng
11


- Được tạo ra hàng loạt một cách dễ dàng

- Có tính đồng nhất: các đồng tiền có cùng mệnh giá phải có sức mua ngang nhau.
Theo sự phát triển của kinh tế, xã hội thì các hình thái tiền tệ sau này càng ngày
càng đáp ứng được đầy đủ các tiêu chuẩn trên. Các hình thái tiền tệ trước đây bị thay thế
vì chưa đáp ứng được hoàn hảo các tiêu chí trên.
b. Thước đo giá trị
Tiền tệ được sử dụng làm đơn vị để đo giá trị của các hàng hóa, dịch vụ trong nền
kinh tế. Qua việc thực hiện chức năng này, giá trị của các hàng hóa, dịch vụ được biểu
hiện ra bằng tiền. Khi đó tiền tệ đã trở thành phương tiện để biểu thị, đo lường giá trị của
các hàng hóa đem ra trao đổi. Biểu thị bằng tiền của giá trị hàng hóa được gọi là giá cả
hàng hóa.
Việc dùng tiền để đo giá trị hàng hóa đã khiến cho việc so sánh giá trị của các mặt
hàng trở nên dễ dàng hơn rất nhiều.
c. Cất trữ giá trị
Đồng tiền không chỉ được sử dụng để chi tiêu mà còn được sử dụng để tích lũy
dành cho những nhu cầu giao dịch trong tương lai. Khi đó tiền có tác dụng như là một nơi
chứa giá trị, nơi chứa sức mua hàng hóa qua thời gian. Việc cất trữ tiền sẽ tiện dụng hơn
rất nhiều so với việc ta cất trữ hàng hóa. Nếu ta cất trữ hàng hóa thì sẽ rất bất tiện khi ta
cần tiền để mua hàng hóa khác ta sẽ mất công bán hàng hóa ta đang cất trữ và việc bán
hàng hóa cũng không dễ dàng nhanh chóng bằng việc ta dùng ngay tiền ta đang cất trữ để
đi mua hàng hóa.
Khi cất trữ tiền, điều quan trọng là giá trị của tiền phải ổn định, nếu như tiền mất
giá thì việc cất trữ tiền sẽ thực sự rất rủi ro.
Tiền tệ không phải nơi cất trữ giá trị duy nhất. Ngoài tiền ta còn có thể cất trữ
nhiều tài sản có giá trị khác như: Cổ phiếu, trái phiếu, vàng, kim cương... Tiền tệ cũng
không phải là nơi cất trữ giá trị tốt nhất. Khi giữ cổ phiếu, trái phiếu có thể sinh lời. Xây
nhà vừa để ở vừa để cất trữ giá trị (bán nhà được tiền)... nhưng người ta lại vẫn thích cất
trữ tiền. Điều này được giải thích bởi tính lỏng (khả năng chuyển đổi nhanh chóng và dễ
dàng một loại tài sản thành tiền mặt). Dù có cất trữ tài sản có giá trị đến đâu thì khi cần
sử dụng tiền người sở hữu vấn phải đem tài sản đó đi bán. Sẽ tốn thời gian, công sức, chi
phí để có thể bán được tài sản. Nhưng nếu cất trữ tiền mặt thì khi cần ta chỉ cần đem ra sử


12


dụng. Tuy nhiên tiền không phải là cách lựa chọn tốt nhất để cất trữ trong dài hạn vì tiền
có thể bị mất giá mà không có khả năng sinh lời thêm.
1.2.3. Các chế độ tiền tệ
1.2.3.1. Khái niệm và các yếu tố cấu thành chế độ tiền tệ
a. Khái niệm chế độ lưu thông tiền tệ
Chế độ lưu thông tiền tệ là hình thức tổ chức lưu thông tiền tệ của một quốc gia đã
được quy định thành luật pháp, trong đó các nhân tố hợp thành của lưu thông tiền tệ được
kết hợp thành một khối thống nhất
b. Các yếu tố cấu thành của chế độ lưu thông tiền tệ
Bản vị tiền tệ: chính là cái được sử dụng làm căn cứ để định giá đồng tiền. Có thể
chọn một kim loại hoặc có thể lấy ngoại tệ hay sức sản xuất trong nước để làm bản vị tiền
tệ.
Đơn vi tiền tệ :Mỗi một quốc gia có một đơn vị tiền tệ khác nhau. Việt Nam
( VND), Mỹ ( USD), Nhật Bản ( JPY)...
Công cụ lưu thông tiền tệ:là những phương tiện lưu thông và phương tiện thanh
toán được sử dụng: tiền giấy, tiền xu, tiền tín dụng, tiền điện tử...
1.2.3.2. Các chế độ tiền tệ
a. Chế độ đơn kim bản vị
Đây là chế độ chỉ sử dụng một kim loại làm vật ngang giá chung, được tư do đúc
thành tiền và có khả năng miễn trái vô hạn.Cùng với sự phát triền của nền kinh tế hàng
hóa, vàng hoặc bạc là kim loại được chọn. Tự do đúc thành tiền nghĩa là người dân có thể
biến đổi nhứng thỏi kim khí thành tiền bằng cách mang đến những nơi đúc tiền. Khả
năng miễn trái vô hạn nghĩa là bắt buộc mọi người phải nhận tiền kim khí pháp định, mặc
dù số lượng là bao nhiêu. Có chế độ đơn kim bản vị bạc ( nước dùng bạc để đúc tiền) và
chế độ đơn kim bản vị vàng ( nước dùng vàng để đúc tiền).
b. Chế độ lưỡng kim bản vị

Đây là chế độ trong đó hai thứ kim loại quý là bạc và vàng được chọn làm vật
ngang giá chung, đều được đúc thành tiền. Trước đây người ta chọn bạc vì mỏ bạc nhiều
hơn mỏ vàng, vàng lại đắt đỏ hơn. Nhưng sau này người ta khai thác được nhiều mỏ vàng
hơn và những giao dịch lớn người ta có xu hướng sử dụng kim loại quý hơn nên người ta
chọn sử dụng cả vàng làm tiền tệ.

13


Việc quy định tỷ giá pháp định giữa vàng và bạc được nhà nước quy định trong một
khoảng thời gian nhưng trên thị trường quan hệ này lại do quy luật giá trị chi phối. Việc
sử dụng đồng tiền vàng hay đồng tiền bạc phụ thuộc vào giá vàng hay giá bạc lên xuống
trên thị trường. Việc này dẫn đến xáo trộn trong đời sống kinh tế. Sau này bạc được sản
xuất nhiều dẫn đến đồng tiền bạc bị mất giá, chế độ lưỡng kim bản vị dần dần bị thay thế
bởi chế độ bản vị vàng.
c. Chế độ bản vị vàng và các chế độ vàng biến thể
- Chế độ bản vị tiền vàng: là chế độ trong đó tiền giấy khả hoán được chuyển đổi
thành tiền vàng theo định nghĩa chính thức
- Chế độ bản vị vàng thoi hay chế độ kim định bản vị, theo chế độ này tiền giấy
không được tự do đổi ra tiền vàng mà phải có một khối lượng tiền giấy nhất định mới đổi
ra được một thoi vàng.
- Chế độ bản vị hối đoái vàng hay chế độ kim hoàn bản vị. Đây là chế độ tiền giấy
không được trực tiếp đổi ra vàng. Muốn đổi ra vàng thì phải thông qua một đồng tiền
trung gian khác. Thông thường đồng tiền trung gian là đồng tiền có quan hệ chuyển đổi
ra vàng.
d. Chế độ ngoại tệ bản vị
Đây là chế độ tiền tệ mà trong đó đơn vị tiền tệ của một nước được định nghĩa theo
một ngoại tệ nhất định, thường là ngoại tệ mạnh. Khác với chế độ bản vị hối đoái
vàng.Ngoại tệ bản vị không có liên hệ gì với vàng. Trong chế độ ngoại tệ bản vị chỉ có
mối liên hệ giữa đơn vị tiền tệ này với đơn vị tiền tệ khác được chọn làm bản vị tiền tệ

theo giá trị chính thức được cố định. Đơn vị ngoại tệ mạnh được chọn là để làm phương
tiện thanh toán trong các giao dịch quốc tế.
1.2.4. Cung - cầu tiền tệ và quy luật lưu thông tiền tệ
1.2.4.1. Lý thuyết về cầu tiền tệ
Có hai nhu cầu lớn chi phối đời sống xã hội là nhu cầu đầu tư và nhu cầu tiêu dùng
- Nhu cầu đầu tư: Doanh nghiệp muốn mở rộng sản xuất, muốn sử dụng hiệu quả
nguồn vốn nhàn rỗi. Các cá nhân muốn kiếm lợi nhuận từ đồng tiền tiết kiệm của mình.
Các doanh nghiệp và các cá nhân cần tiền để mua sắm hàng hóa-dịch vụ, thanh toán công
nợ, nộp thuế hoặc dành một phần thu nhập của mình đem cất trữ để phòng ngừa rủi ro, bù

14


đắp những tổn thất có thể gặp phải trong tương lai... Chính phủ muốn thực hiện các
chương trình cải cách kinh tế hay thực hiện các chính sách xã hội...
Nhân tố ảnh hưởng đến nhu cầu đầu tư: lãi suất tín dụng của ngân hàng và mức lợi
nhuận.
+ Lãi suất tín dụng ngân hàng là mức thu nhập mang tính bình quân của các phương
án đầu tư trong nền kinh tế, là cột mốc để so sánh với các mức tỷ suất lợi nhuận của các
ngành khác và nó cũng là nhân tố kích thích dân cư đi tìm những hoạt động đầu tư như
sản xuất, kinh doanh dịch vụ hoặc những hoạt động đầu tư tài chính như kinh doanh địa
ốc, kinh doanh chứng khoán, kinh doanh ngoại hối...,cũng là nhân tố kích thích những
nguồn tiết kiệm trong dân cư đi tìm nơi trú ngụ an toàn cho mình
+ Mức lợi nhuận từ những hoạt động đầu tư cũng là nhân tố tác động đến nhu cầu
đầu tư. Người dân sẽ lựa chọn đầu tư vào những khoản mục có lợi nhuận cao nhưng dĩ
nhiên sẽ phải chấp nhận rủi ro cao.
- Nhu cầu tiêu dùng: Là nhu cầu sử dụng tiền để đáp ứng các nhu cầu chi tiêu cho
tiêu dùng Nhu cầu tiêu dùng cũng ảnh hưởng bởi rất nhiều yếu tố
+ Yếu tố đầu tiên phải kể đến là mức thu nhập: Nền kinh tế có tăng trưởng, mức thu
nhập quốc dân tăng, mức thu nhập bình quân đầu người tăng thì mức cầu về tiêu dùng

mới có cơ sở nâng cao. Người dân mới có nhu cầu về tiền dành cho tiêu dùng. Dĩ nhiên
khi thu nhập quốc dân giảm, thu nhập bình quân đầu người giảm thì việc hạn chế mua
sắm, kiểm soát chi tiêu và thực hiện tiết kiệm là điều tất yếu
+ Yếu tố thứ hai ảnh hưởng đến nhu cầu tiêu dùng đó là giá trị của những hoạt động
giao dịch: Khi giá cả hàng hóa, dịch vụ biến động thì sẽ ảnh hưởng đến nhu cầu tiêu
dùng. Bên cạnh đó khi thị trường không ổn định thì nhu cầu tiêu dùng để lập quỹ dự
phòng là cần thiết để phòng ngừa các sự cố xảy ra.
Xem xét về phương diện lý thuyết, chúng ta sẽ xét một số học thuyết về số lượng
tiền tệ, đây là những học thuyết có ý nghĩa quan trọng, đánh dấu các bước phát triển
trong lịch sử kinh tế học tiền tệ.
a. Quy luật lưu thông tiền tệ của K.Marx
- Quan điểm của K. Marx: Số lượng tiền cần thiết cho lưu thông nhiều hay ít là do
số lượng hàng hóa lưu thông nhiều hay ít, mức giá cả hàng hóa cao hay thấp và tốc độ
lưu thông tiền tệ nhanh hay chậm. Số lượng hàng hóa và mức giá cả của hàng hóa gộp
lại thành tổng giá cả hàng hóa và tỷ lệ thuận với lượng tiền cần thiết. Số vòng lưu thông
15


của một số lượng tiền tệ nhất định trong một thời gian nhất định gọi là tốc độ lưu thông
tiền tệ và nó tỷ lệ nghịch với số lượng tiền cần thiết
- Nội dung quy luật
KC = H/V
Trong đó
KC : Khối lượng tiền cần thiết cho lưu thông
H: Tổng giá cả hàng hóa ( = P.Q)
V: Tốc độ lưu thông tiền tệ
-Ý nghĩa: Nếu gọi KT là số tiền thực có trong lưu thông. Ta phải đảm bảo cân đối
giữa KC và KT. Nếu KC > KT thì dẫn tới dư thiếu tiền còn nếu K C < KT thì dẫn tới dư thừa
tiền. Hay nói cách khác để đảm bảo cho đời sống kinh tế xã hội ổn định và phát triển
chúng ta cần nắm bắt lượng tiền trong lưu thông và điều chỉnh chúng phù hợp với nhu

cầu cần thiết.
b. Thuyết số lượng tiền tệ
- Quan điểm của Fisher: Sức mua của tiền tệ được đo bằng gía P. Nếu P tăng tức
sức mua của đồng tiền giảm và P giảm thì sức mua của đồng tiền tăng. Ông cho rằng tốc
độ lưu thông của tiền tệ V gần như bất biến vì trong thời gian ngắn nó phụ thuộc vào thói
quen của người dân trong giao dịch. Số lượng thu nhập danh nghĩa được quyết định bởi
số lượng tiền tệ và nó tỷ lệ thuận với số lượng tiền tệ.
- Nội dung học thuyết:
MV=P.Q
Trong đó:
M: Tổng khối lượng tiền lưu hành bao gồm cả tiền mặt và các phương tiện thanh
tóa trên các tài khoản séc.
V: Tốc độ lưu thông của tiền tệ
P: Mức giá trung bình
Q: Tổng lượng hàng hóa và dịch vụ được trao đổi
- Ý nghĩa: V là một hằng số ta có M = (1/V). P.Q = K.Q ( K là thời gian trung bình
mà người dân nắm giữ tiền mặt). Như vậy, cầu về tiền tệ sẽ phụ thuộc vào
+ Mức thu nhập danh nghĩa ( P.Q)
+ Thói quen tiến hàng các giao dịch của dân chúng và nguồn cung ứng vào lưu
thông tăng hay giảm là do chính sách phát hành của ngân hàng.
16


Từ học thuyết của Fisher được Cambridge phát triển thành
MV= Y = GNP
Trong đó
Y là thu nhập
V = Y/M
Ở đây nhà kinh tế học cho rằng V có thay đổin nhưng rất chậm và sẽ xác dịnh qua
thống kê Y và M của nhà nước. Nếu V và Q ổn định hoặc thay đổi chậm thì P sẽ chịu ảnh

hưởng bởi M
c. Thuyết ưa thích thanh khoản của Keynes
- Quan điểm của Keynes:Tiền tệ là tài sản linh hoạt nhất và khi đưa vào cho vay thì
lãi suất là phần mà người cho vay được hưởng. Lãi suất tỷ lệ nghịch với lượng tiền đưa
vào lưu thông. Muốn giảm lãi suất để kích thích đầu tư thì nhà nước cần in thêm tiền đưa
vào lưu thông. Lãi suất cung chịu ảnh hưởng từ sự yêu thích tiền mặt ( xuất phát từ động
cơ giao dịch, dự phòng hay đầu cơ). Ông cho rằng sự ưa thích tiền mặt là hàm số của lãi
suất.
- Nội dung học thuyết:
M = L(r) = M1+M2= L1(R)+ L2(r)
Trong đó
M: Sự ưa thích tiền mặt
M1: Số tiền mặt dùng cho động cơ giao dịch và động cơ dự phòng
M2: Số tiền mặt dùng cho động cơ đầu tư
L1( R): Hàm số tiền mặt xác định M1 tương ứng với mức lãi suất R
L2(r): Hàm số tiền mặt xác định M2 tương ứng với mức lãi suất r
- Ý nghĩa:Nhà nước có thể dùng chính sách điều chỉnh lãi suất như một chính ách vĩ
mô để tác động vào cầu tiền nói riêng và đến nền kinh tế nói chung
d. Thuyết số lượng tiền tệ của Milton – Friedman

- Quan điểm của Friedman: Cung tiền được xác định bằng số lượng tiền kim loại
được đưa vào lưu thông hoặc là số tiền do nhà nước, hệ thống ngân hàng tạo ra. Nhu cầu
về tiền là hàm số với nhiều biến số như: thu nhập, giá cả, lãi suất cơ cấu tài sản, sự ưa
thích cá nhân...
- Nội dung:

Md = f (yn, i)

Trong đó
17



yn: Thu nhập danh nghĩa
i: Lãi suất danh nghĩa
- Ý nghĩa: Mức cầu tiền là một hàm về thu nhập. Mức cầu tiền phụ thuộc nhiều vào
quyết định chủ quan của cơ quan quản lý kinh tế vĩ mô nên mang tính không ổn định
1.2.4.2. Các khối tiền tệ trong lưu thông
a. Các loại tiền tệ trong nền kinh tế hiện đại
- Tiền có tính lỏng cao: Đây là loại tiền được sử dụng phổ biến trong các quan hệ trao
đổi vì tính thuận tiện của nó hơn các loại tiền tài sản. Tiền có tính lỏng cao gồm có:
+ Tiền pháp định: Bao gồm tiền giấy và tiền kim khí do nhà nước phát hành. Loại
tiền này được nhà nước thống nhất phát hành và được phép lưu thông với mệnh giá được
in trên đồng tiền theo quy định của pháp luật Nhà nước có thể điều tiết lưu thông tiền
pháp định thông qua việc phát hành hoặc thu hồi từ lưu thông nhằm những mục đích nhất
định của chính phủ. Tiền pháp định thể hiện quyền lực cũng như chủ quyền quốc gia khi
mỗi quốc gia có một loại tiền pháp định khác nhau. Tuy nhiên việc nắm giữ tiền pháp
định có mức sinh lời thấp nhất vì việc nắm giữ tiền mặt sẽ bỏ qua các cơ hội đầu tư sinh
lời trong nền kinh tế
+ Tiền gửi không kỳ hạn hay các khoản tiền gửi trên các tài khoản thanh toán tại
các ngân hàng: Đây cũng là một loại tiền có quyền lực cao nhưng tính lỏng thấp hơn tiền
pháp định. Tiền gửi thanh toán giúp việc thanh toán qua ngân hàng trở nên tiện ích, tiết
kiệm chi phí, thời gian, công sức và đảm bảo an toàn hơn khi giao dịch bằng tiền mặt.
Một số ngân hàng còn trả lãi mặc dù lãi suất không cao cho khoản tiền gửi thanh toán này
nên nó cũng tạo ra mức sinh lời cho tiền gửi thanh toán cao hơn là tiền pháp định
- Các loại tiền tài sản: Đây không phải là tiền giao dịch nhưng nó có thể chuyển
thành tiền mặt thông qua hoạt động của thị trường tài chính. Tiền tài sản được nắm giữ
như một hình thức đầu tư sinh lợi song chúng lại có khả năng hoán chuyển linh hoạt sang
tiền mặt trong một thời gian ngắn. Các loại tiền tài sản bao gồm:
+ Các loại tiền gửi có kỳ hạn: Tiền gửi tiết kiệm của công chúng tại ngân hàng, quỹ
tiết kiệm. Tiền gửi có kỳ hạn của cá nhân và doanh nghiệp tại các tổ chức tín dụng. Loại

tiền gửi này mạng lại cho người sở hữu mức sinh lời ổn định.
+ Tài khoản tiền gửi ở TTTT: Người sở hữu tài khoản này vừa được hưởng lãi cao
vừa có thể viết séc thanh toán từ tài khoản của mình hoặc chuyển nhượng dễ dàng các
chứng thư của tài khoản tiền gửi trên thị trường tiền tệ.
18


+ Các chứng từ nợ ngắn hạn, trung hạn được mua bán trên TTTT: Tín phiếu Kho bạc,
trái phiếu tiết kiệm...
+ Các loại tài sản khác.
b. Phép đo tổng lượng tiền trong nền kinh tế hiện đại
- Theo quan điểm của nhà kinh tế học PA Samuelson chia khối tiền trong lưu thông
thành hai bộ phận
M1
-

Tiền kim khí, tiền giấy do NHTW phát hành

-

Tiền ký gửi trên các tài khoản séc: Đây là tiền qua ngân hàng, số tiền ký gửi trên
tài khoản séc có thể được rút ra để thanh toán

M2
-

Khối M1

-


Các loại tài sản là tiền thay thế rất gần với tiền giao dịch như tài khoản tiền tiết
kiệm tiền gửi có kỳ hạn

- Tại các nước phát triển phép đo tổng lượng tiền được NHTW công bố thường có 3
khối tiền chính
M1
-

Tiền pháp định

-

Tiền gửi thanh toán

-

Séc du lịch

-

Khối M1

-

Các loại tiền gửi có kỳ hạn loại nhỏ

-

Tiền gửi tiết kiệm


-

Các chứng từ nợ ngắn hạn

-

Tiền gửi thị trường tiền tệ ngắn hạn

-

M2

-

Các loại tiền gửi có kỳ hạn loại lớn

-

Các chứng từ nợ, tiền gửi thị trường tiền tệ dài hạn

M2

M3

1.2.4.3. Các chủ thể cung ứng tiền trong nền kinh tế
19


a. Ngân hàng trung ương
b.Ngân hàng trung gian

c. Các chủ thể khác
Trong điều kiện thị trường tài chính phát triển, các chứng từ có giá thanh khoản cao
thì nhà nước, các doanh nghiệp cũng được coi là các chủ thể cung ứng tiền cho nền kinh
tế.
CHƯƠNG 2: TÀI CHÍNH CÔNG VÀ NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC
2.1. Nội dung cơ bản về tài chính công
2.1.1. Lịch sử ra đời và phát triển của tài chính công
Khi nhà nước ra đời, tài chính công bắt đầu hình thành. Tài chính công phản ánh
những hoạt động tài chính gắn liền với chủ thể nhà nước. Qua quá trình phát triển, tài
chính công trải qua hai giai đoạn: tài chính công cổ điển và tài chính công hiện đại:
- Tài chính công cổ điển: Nhà nước không can thiệp vào hoạt động kinh tế mà hoàn
toàn do khu vực tư nhân quyết định. Nhà nước chỉ thực hiện các chức năng cơ bản,
truyền thống như cảnh sát, tư pháp, quốc phòng và ngoại giao. Với chế độ tài chính công
cổ điển, nhà nước chỉ điều hành được về chính trị, bảo đảm an sinh, xã hội mà không
điều tiết được nền kinh tế. Xét về mặt tích cực, khu vực tư nhân sẽ phát huy được năng
lực một cách tối đa trong kinh doanh khi không bị gò ép trong chế độ chính sách của nhà
nước tuy nhiên điều này cũng là bất lợi cho nhà nước khi không kiểm soát được hoạt
động của khu vực ngoài nhà nước. Điều này có thể dẫn đến sự mất cân bằng trong nền
kinh tế.
- Tài chính công hiện đại: Nhà nước vừa thực hiện các nhiệm vụ truyền thống và
vừa tham gia quản lý điều tiết nền kinh tế bằng luật pháp và các công cụ kinh tế. Trong
chế độ tài chính công hiện đại, nhà nước phát huy đầy đủ được vai trò của mình trong cả
hai lĩnh vực kinh tế và xã hội. Nhà nước sẽ căn cứ vào thực tiễn để đưa ra các chính sách
để điều tiết.
2.1.2. Khái niệm tài chính công
Để tiếp cận khái niệm tài chính công trước hết ta cần làm rõ về khu vực công. Khi
nói đến chữ “công” người ta thường nghĩ đến nhà nước, đến tính chất chung, không thuộc
sở hữu của cá nhân, là hoạt động mang tính xã hội, cộng đồng (Ví dụ: Trường Công lập

20



và trường Dân lập khác nhau về quyền sở hữu và quản lý tài chính). Ta có sơ đồ về khu
vực công như sau:

Khu vực công

Các DN/ Tổ chức công
Chính quyền trung ương

Chính quyền địa phương

Các DN/ Tổ chức
công tài chính

Các DN/ Tổ chức
công phi tài chính

Các DN/ Tổ chức công
tài chính- tiền tệ,
gồm NHTW
Các DN/ Tổ chức công
tài chính phi tiền tệ

Khu vực chính phủ

Khu vực công ty công

Tài chính công theo nghĩa rộng chính là tài chính khu vực công (tài chính nhà
nước).Tài chính công theo nghĩa hẹp: Tài chính công là hoạt động thu chi tiền tệ của nhà

nước nhằm thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của nhà nước trong việc cung cấp hàng
hóa công cho xã hội
Như vậy ta có thể khái quát lại bằng mối quan hệ sau:
TÀI CHÍNH KHU VỰC CÔNG = TÀI CHÍNH CÔNG + TÀI CHÍNH DNNN
21


Mục đích cuối cùng của hoạt động tài chính công là cung cấp hàng hóa công cho xã
hội. Vậy hàng hóa công là gì? Nó khác với hàng hóa thông thường ở điểm nào? Những
hàng hóa như thế nào sẽ được xếp vào hàng hóa công?
Hàng hóa công là hàng hóa có thể phục vụ lợi ích, đáp ứng nhu cầu cho nhiều
người và việc một cá nhân sử dụng lợi ích của hàng hóa này thì không hề ngăn cản hay
làm ảnh hưởng đến việc những người khác cũng đồng thời hưởng lợi ích từ hàng hóa đó.
Chi phí để nhận dịch vụ đối với mỗi người là bằng 0. Ai cũng cũng có quyền sử dụng.
Hàng hóa công có hai thuộc tính cơ bản khác với các hàng hóa thông thường khác
đó là: Không có tính cạnh tranh và không có tính loại trừ
- Không có tính cạnh tranh: Điều này có thể hiểu hàng hóa công có thể phục vụ lợi
ích cho nhiều người, không hạn chế về số người sử dụng. Điều đó không có nghĩa mọi
người sử dụng hàng hóa công thì lợi ích mang lại là như nhau. Việc lợi ích không giống
nhau này không dẫn đến sự cạnh tranh vì nó mang tính khách quan chứ không phải do
mọi người tranh giành lợi ích của nhau. Mỗi người có nhu cầu sử dụng hàng hóa công
khác nhau, bên cạnh đó còn tùy thuộc vào điều kiện, hoàn cảnh của người sử dụng hàng
hóa này. Ví dụ: Xe chữa cháy giúp dập tắt ngọn lửa cũng có thể tránh được việc lan sang
các khu vực khác chưa bị cháy.
- Không có tính loại trừ: Có nghĩa là không thể ngăn cản người khác cùng sử dụng
hàng hóa công. Người tiêu dùng không bị cản trở khi có nhu cầu sử dụng hàng hóa công.
Hàng hóa công được phân thành nhiều loại
- Hàng hóa công thuần túy có đủ cả hai thuộc tính trên: Ví dụ Quốc phòng, phát
thanh, đèn báo giao thông,... là hàng hóa công thuần túy. Quốc phòng bảo vệ cho tất cả
mọi người dân, không có việc quốc phòng chỉ bảo vệ những người dân đóng thuế còn

những người chưa đóng thuế sẽ không được bảo vệ. Đèn báo giao thông thì bất kỳ người
dân nào đi trên đường có quyền được hưởng lợi ích từ nó, không có đèn báo giao thông
nào giới hạn một số người nhất định được sử dụng.
- Hàng hóa công không thuần túy: Chỉ có một trong hai thuộc tính trên. Ví dụ các
khu vực cầu, đường có các trạm thu phí. Hàng hóa công này không có tính cạnh tranh
nhưng lại có tính loại trừ. Bất kỳ ai cũng có quyền đi trên đường, cầu nhưng phải đóng
phí. Những người không muốn bị thu phí có thể lựa chọn đi đường khác. Điều này sẽ hạn
chế người đi qua, giảm tắc nghẽn.

22


- Hàng hóa công có thể tắc nghẽn: Ví dụ vào giờ cao điểm gây ách tắc giao thông.
Đường giao thông là hàng hóa công nhưng do mật độ người sử dụng nhiều, những người
sử dụng trước đã gây tắc nghẽn cho những người kế tiếp. Nhưng điều này chỉ mang tính
chất tạm thời.
2.1.3. Đặc điểm của tài chính công ( Đọc giáo trình)
2.1.4. Vai trò của tài chính công (Đọc giáo trình)
Thứ nhất, tài chính công huy động nguồn tài chính đáp ứng nhu cầu chi tiêu
của nhà nước
Thứ hai, tài chính công có vai trò điều tiết vĩ mô nền kinh tế - xã hội
Thứ ba, vai trò kiểm tra của tài chính công
2.2. Ngân sách Nhà nước (NSNN)
2.2.1. Khái niệm NSNN
Ngân sách nhà nước là toàn bộ các khoản thu chi của nhà nước trong dự toán đã
được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền quyết định và được thực hiện trong một năm để
đảm bảo thực hiện các chức năng và nhiệm vụ của nhà nước. (Luật NSNN của Việt Nam
16/12/2002).
Về bản chất, NSNN phản ánh các quan hệ kinh tế giữa nhà nước và các chủ thể
kinh tế - xã hội trong quá trình phân phối và sử dụng các nguồn tài chính. Các quan hệ

kinh tế cụ thể bao gồm:
- Quan hệ nhà nước và công dân
- Quan hệ Nhà nước với doanh nghiệp
- Quan hệ Nhà nước với tổ chức xã hội
- Quan hệ Nhà nước với quốc tế
NSNN bao gồm Ngân sách TW và Ngân sách địa phương
- NSTW bao gồm một số đơn vị dự toán thuộc cấp TW ( bộ, ngành, cơ quan TW).
NSTW cung cấp tài chính cho các nhiệm vụ chung của đất nước như Kinh tế, chính trị,
văn hóa, xã hội, Quốc phòng, an ninh, ngoại giao..
- NSĐP bao gồm các cấp NS của chính quyền địa phương do một số đơn vị dự toán
hợp thành ( trừ NS xã, phường, thị trấn). NSĐP cung cấp tài chính cho các nhiệm vụ của
chính quyền nhà nước ở địa phương và hỗ trợ chuyển giao nguồn tài chính cho cấp dưới.

23


2.2.2. Thu NSNN
2.2.2.1. Khái niệm thu NSNN
Thu NSNN là việc nhà nước dùng quyền lực của mình để tập trung một phần nguồn
tài chính quốc gia hình thành quỹ ngân sách nhà nước nhằm thỏa mãn nhu cầu của Nhà
nước.
Thu NSNN chỉ bao gồm khoản tiền Nhà nước huy động vào ngân sách mà không bị
ràng buộc bởi trách nhiệm hoàn trả trực tiếp cho đối tượng nộp. Theo Luật NSNN hiện
hành, nội dung các khoản thu NSNN bao gồm:
- Thuế, phí, lệ phí do các tổ chức và cá nhân nộp theo quy định của pháp luật
- Các khoản thu từ hoạt động kinh tế của Nhà nước
- Các khoản đóng góp của các tổ chức và cá nhân
- Các khoản viện trợ
- Các khoản thu khác theo quy định của Pháp luật
2.2.2.2. Đặc điểm của thu NSNN (Đọc giáo trình)

2.2.3.3. Nội dung thu NSNN
a. Thu thuế
Thuế là một khoản đóng góp bắt buộc cho nhà nước do luật định đối với pháp nhân
và thể nhân nhằm đáp ứng nhu cầu chi tiêu của nhà nước
Từ khái niệm về thuế ta rút ra được một số đặc điểm của thuế như sau:
- Thuế có tính bắt buộc
- Thuế có tính không hoàn trả trực tiếp
- Thuế có tính pháp lý cao.
Sơ đồ: Hệ thống thuế ở Việt Nam

24


Theo tính chất điều tiết, hệ thống thuế trong xã hội được phân thành thuế trực thu và thuế
gián thu
- Thuế trực thu: Đây là loại thuế mà nhà nước thu trực tiếp từ các thể nhân và pháp
nhân khi có thu nhập hoặc tài sản được quy định đánh thuế. Người chịu thuế và người
nộp thuế là một

Nộp thuế
Thể nhân/pháp nhân
( cá nhân, hộ gđ,
doanh nghiệp)

NHÀ NƯỚC
Đánh thuế

Thuế trực thu bao gồm: thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế thu nhập cá nhân và thuế
sử dụng đất nông nghiệp.
Bằng thuế trực thu nhà nước thực hiện phân phối và điều tiết thu nhập của người

nộp thuế vào lúc phát sinh thu nhập. Thuế trực thu thường ảnh hưởng đến lợi ích của
người nộp thuế nên dễ gây tâm lý bất bình, chậm nộp thuế của người dân, thậm chí là
25


Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×