Tải bản đầy đủ (.docx) (10 trang)

Bước đầu tìm hiểu phong cách thơ inrasara

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (74.3 KB, 10 trang )

Bước đầu tìm hiểu phong cách thơ Inrasara
Nhà thơ Inrasara tên thật là Phú Trạm, sinh ngày 20 tháng 9 năm 1957 tại làng Chakleng - Mỹ
Nghiệp, thị trấn Phước Dân, huyện Ninh Phước, tỉnh Ninh Thuận, Việt Nam. Nhắc đến Inrasara
có người cho rằng Inrasara là nhà thơ“cách tân nhất hiện nay”, là một “thiên tài”, là “kỳ nhân”.
Ông là đứa con của dân tộc Chăm nên thơ ông chuyên chở một hồn Chăm đầy thiêng liêng, bí ẩn
với những cách tân nghệ thuật độc đáo. Với tập thơ đầu tay Tháp nắng đoạt giải thưởng của Hội
nhà văn, Inrasara đã để lại dấu ấn trên thi đàn và được nhiều nhà phê bình, nhà báo, nhà thơ
trong và ngoài nước quan tâm, đánh giá rất cao. Inrasara là người đóng góp không nhỏ vào việc
khẳng định tiếng nói của dân tộc Chăm trên thế giới cũng như ở Việt Nam, qua các giải thường
sau đây (theo trang web inrasara.com):
1.
CHCPI

Sorbonne
(Pháp):
Văn
học
Chăm
I
(1995).
2. Hội đồng Dân tộc – Quốc hội khóa IX: Văn học Chăm II (1996).
3. Hội Nhà văn Việt Nam: Tháp nắng (1997), Lễ Tẩy trần tháng Tư (2003).
4. Hội Văn học – Nghệ thuật các Dân tộc thiểu số Việt Nam: Sinh nhật cây xương rồng (1998),
Văn hóa – Xã hội Chăm, nghiên cứu & đối thoại (2003), Ca dao – tục ngữ – thành ngữ – câu đố
Chăm
(2006).
5. Giải thưởng Văn học Đông Nam Á: Lễ Tẩy trần tháng Tư (2005).
6. Giải thưởng Sách Việt Nam: Từ điển Việt – Chăm dùng trong nhà trường (2006).
7.
Tặng
thưởng


Work
of
the
Month:
Tienve.org,
tháng
9-2006.
8. Hội Văn nghệ Dân gian Việt Nam: Văn học Chăm – Trường ca (2006).
9. Giải thưởng Văn hóa Phan Châu Trinh (lĩnh vực nghiên cứu), 2009.
Đến nay, có không ít công trình nghiên cứu về thơ Inrasara. Tiêu biểu, có thể kể đến công trình
nghiên cứu của Lê Thị Việt Hà với đề tài Hành trình cách tân thơ của Inrasara. Chị đã tìm hiểu
khá đầy đủ các phương diện sáng tạo nghệ thuật thơ Inrasara trong sự vận động phát triển thơ ca
Việt Nam đương đại. Với Võ Thị Hạnh Thủy trong Thế giới nghệ thuật của Inrasara, chị đã tìm
hiểu “quan niệm nghệ thuật của Inrasara”, “các phương tiện cái tôi trữ tình”, “những đặc sắc
nghệ thuật” dưới cái nhìn hậu hiện đại. Đến Trần Hoài Nam trong Inrasara từ quan niệm đến
phong cách, anh đã tìm hiểu được cái hay cái mới trong thơ Inrasara xuất phát từ quan niệm nghệ
thuật của nhà thơ… Như vậy, vấn đề về phong cách nghệ thuật thơ Inrasara đã từng được bàn
đến, nên với đề tài Tìm hiểu phong cách nghệ thuật thơ Inrasara này, chúng tôi muốn đi sâu vào
thế giới nghệ thuật thơ Inrasara hơn dưới cái nhìn tổng diện về những yếu tố ảnh hưởng và hình
thành phong cách nhà thơ – điều mà các công trình trên chưa nói đến. Với đề tài này, chúng tôi
mong muốn góp phần khẳng định tài năng và những đóng góp thơ ca của Inrasara trong bối cảnh
văn học đương đại Việt Nam nói chung và nền văn học dân tộc thiểu số nói riêng.
1. Yếu tố hình thành phong cách nhà thơ Inrasara
Phong cách là vấn đề có tính chất lí luận – thực tiễn quan trọng của sáng tạo nghệ thuật nói
chung. Phong cách nghệ thuật là một phạm trù thẩm mĩ, chỉ sự thống nhất tương đối ổn định của
hệ thống hình tượng, của các phương tiện biểu hiện nghệ thuật, nói lên cái nhìn độc đáo trong
sáng tác của nhà văn, trong tác phẩm riêng lẻ, trong trào lưu văn học hay văn học dân tộc
[8;255]. Việc nghiên cứu phong cách nghệ thuật trong sáng tác của tác gia văn học sẽ giúp người
nghiên cứu thấy được tài năng nghệ sĩ, những nét độc đáo trong sáng tác của họ, cũng như phần
nào thấy được sự vận động và phát triển của một nền văn học. Nghiên cứu phong cách nghệ

thuật thơ Inrasara giúp chúng tôi hiểu sâu hơn về vấn đề nghệ thuật và giá trị của tác phẩm cũng
như tài năng của tác giả, biết được những nét khái quát nhất để đánh giá tài năng nghệ thuật của
nhà thơ.
1.1 Yếu tố văn hóa - dân tộc


“Dân tộc là những cộng đồng người được hình thành trong quá trình lịch sử, trên cơ sở cộng
đồng về ngôn ngữ lãnh thổ, đời sống kinh tế và văn hóa đặc biệt là về truyền thống văn học. Dân
tộc là cộng đồng người ổn định làm thành nhân dân một nước, có ý thức về sự thống nhất của
mình, gắn bó với nhau bởi quyền lợi chính trị, kinh tế, truyền thống văn hóa và truyền thống đấu
tranh chung”.
Inrasara sinh ra trong một gia đình có sáu anh chị em tại làng Chakleng (Mỹ Nghiệp), làng
Chăm duy nhất có tên trên bia kí cổ Chămpa đã tồn tại hơn ngàn năm. Là đứa con của dân tộc
Chăm, được sinh ra và trưởng thành trong lòng văn hóa Chăm, Inrasara đã dành cho quê hương
một tình yêu thương sâu nặng, rộng lớn:
Mẹ nuôi tôi bằng bầu sữa ca dao buồn
Cha nuôi tôi bằng cánh tay săn Glơng Anak
Ông nuôi tôi bằng vầng trăng sương mù truyền thuyết
Plây nuôi tôi bằng bóng diều, hồn dế, tiếng mõ trâu
(Đứa con của Đất, Tháp nắng)
Chính nguồn sữa văn hóa dân tộc đã nuôi lớn tình yêu dành cho thi ca đó của nhà thơ.Gia đình
cũng vậy, là ngọn nguồn vun đắp tài năng cho nhà thơ. Cha Inrasara, ngoài đức tính cần cù chịu
khó, ông là con người khá đặc biệt bởi niềm đam mê sách cổ. Bản thân nhà thơ cũng thừa hưởng
niềm đam mê đó từ cha và đó cũng chính là cái duyên mở ra con đường văn chương cho
Inrasara. Với gia đình riêng, Inrasara là người chồng, người cha đầy trách nhiệm và dạt dào tình
cảm. Tình yêu ấy ẩn kín trong lớp vỏ cô đơn thầm lặng có giá trị sáng tạo nên nghệ thuật và cái
đẹp ở đời:
Dòng thơ câu vầng trán
Nhìn hoài vọng lang thang chuyện áo cơm
Cuộn tháng năm đổ vào biển cả

Đứa con chào đời
Khóc nức nở
Thức giấc người
Trong cô đơn
(Thực tại)
Với nhân loại nhà thơ hay động lòng trắc ẩn, thơ ông luôn là sự quan sát và nghe nhìn thế giới
xung quanh với tình tha nhân cao cả:
Giữa ban ngày, ông thấy Mĩ đánh nhau với Iraq
Cánh tay và mảnh sọ người văng tung tóe vào
bữa tiệc chiều nơi một làng nghèo và xa
(Thượng đế tụt hậu hay chuyện ông Klơng Man 2)
Có thể nói, Inrasara yêu dân tộc mình bằng tình yêu của một đứa con xa quê. Ông luôn tha
thiết hướng về quê hương trên mỗi bước đường phiêu bạt. Nỗi nhớ quê là niềm hoài bão và tơ
tưởng mà ông dành cho vùng đất sỏi khô cằn. “Quê hương là nơi trở về sau bao tháng ngày tha
hương… quê hương vẫn đón nhận trong tình yêu đối với đứa con dù đã một lần lầm lỡ”
(Inrasara). Quê hương đẹp đẽ bao dung như tâm hồn người, nên Inrasara luôn khắc khoải mơ
tưởng và tìm về. Trong đó, những biểu tượng của nền văn hóa dân tộc, những nét văn hóa phi vật
thể luôn tồn tại không thể xóa nhòa trong tiềm thức nhà thơ:
Biết mấy trăm năm rồi tháp nắng
Biển bên kia và cát bên này
(Tháp nắng)


Tháp bao đời vẫn sừng sững hồn quê, lung linh vẻ đẹp tiềm ẩn và thiêng liêng dưới nắng trong
đôi mắt tinh tế của thi nhân. Quả thật, quê hương Chăm, văn hóa Chăm chính là nguồn thi liệu
dồi dào cho sáng tác của Inrasara. Bên cạnh đó, hình ảnh con người của quê hương Chăm chính
là một trong những nguồn cảm hứng chủ đạo của thơ Inrasara. Đó là những con người cần cù,
thuần phác, chịu thương, chịu khó, vất vả mưu sinh cả đời trong nắng gió tháng tư…, những
nhân vật bình thường lam lũ quanh năm gieo gặt đợi mùa:
Khi niềm vui tan trong nỗi đau vỡ hoang ánh nắng

tôi mang hạt giống thu hoạch phương xa gieo cánh đồng làng
em nhân giống dân ca vào giai điệu mới
bờ cỏ vang vang ngôn ngữ được mùa
(Hạt mùa mới)
Niềm khát khao lớn lao của nhà thơ là luôn muốn mang đến cho quê hương và con người quê
mình những luồng sinh khí mới. Nên lời thơ, ý thơ luôn đong đầy niềm tin, hi vọng và giọng
điệu luôn đầy phấn chấn như thế. Phan Rang, nơi Inrasara sinh ra, là vùng đất đầy nắng gió khô
khan với những con người nghèo khổ, tội nghiệp. Ông là đứa con Chăm xa rời quê hương để tìm
những điều mới mẻ. Nhưng ở bất kì chân trời xa xôi nào, hình bóng quê hương vẫn canh cánh
bên lòng và nhà thơ luôn chờ ngày đoàn tụ về với quê nhà, làng xóm. Càng đi xa bao nhiêu, ông
càng nhìn thấy rõ quê hương hơn bấy nhiêu, cũng như càng nhận thức sâu sắc hơn và nhất là
thấy yêu quê hương mình da diết, mãnh liệt hơn. Với tình yêu quê hương thiêng liêng ấy, nhà thơ
đã “cúi xuống ghì ôm quê hương như là chưa từng có quê hương” để cảm nhận hơi ấm trong
từng miếng đất quê hương và hơn hết đó là nguồn cảm hứng sáng tạo mãnh liệt mà quê hương
đem lại. Không phải không lí do mà Ppo Klaung Girai (vị vua người Chăm) chọn Caiklaing làm
nơi sinh cho con dân Chăm sinh sống. Mảnh đất hãy còn hoang sơ khi xưa giờ là nơi mà bao thế
hệ Chăm đã dựng nên một làng dệt thổ cẩm sừng sững, tạo được tiếng vang trên thế giới cũng
như ở Việt Nam. Hơi thở cuộc sống của dân tộc Chăm thắm đượm qua từng trang thơ Inrasara,
nó mộc mạc, đơn sơ, tự nhiên hòa quyện chân thành như chính con người ông. Đó là giai điệu
náo nức đón chào các ngày lễ trong năm (lễ hội Katê, lễ hội Ramưvan, lễ hội Riya Nưngar), là sự
hòa điệu rộn ràng giữa tiếng trống Baranưng, tiếng kèn xaranai và hơn hết đó là nỗi lòng trắc ẩn,
tìm về những miền đất mới:
Em về / nắng hanh hao lối mòn
điệu đwa buk / triền vào / rung rinh
màu thổ cẩm / lời ca dao vợi buồn trong mắt
(Katê mới, Sinh nhật cây xương rồng)
Ông rất tự hào, hãnh diện và luôn tự tin khi khẳng định về bản sắc văn hóa độc đáo của dân
tộc mình. Nhà thơ coi nó như một phần không thể thiếu trong bức tranh văn hóa Việt Nam. Và
theo thi sĩ, bản sắc không chỉ là sự lưu giữ những nét truyền thống sẵn có mà còn phải được phát
huy, làm giàu có và tinh tế, phong phú lên mỗi ngày (như làng gốm Bầu Trúc, làng dệt thổ cẩm

Mĩ Nghiệp….). Vì vậy, thơ Inrasara mang đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc Chăm nói riêng dân
tộc Việt Nam nói chung từ nội dung trữ tình đến hình thức biểu đạt, từ mảnh đất Chăm nhỏ bé,
khiêm nhường cho tới dải đất chung hình chữ S lớn lao, vĩ đại này.
1.2. Yếu tố trào lưu
Inrasara là một nhà thơ đương đại mà ngay khi xuất hiện (tập thơ đầu tiên Tháp nắng xuất
bản 1996) ông đã được giới dư luận chuyên và không chuyên quan tâm và đánh giá như một hiện
tượng văn học mang dấu ấn của hậu hiện đại. Ông là nhà thơ, đồng thời là nhà lí luận – phê bình,
nhà nghiên cứu văn hóa Chăm, nhưng ông thành công hơn ở lĩnh vực thơ ca. Bởi thơ ca mới là
mảnh đất ông phát huy được hết nội lực văn chương cũng như phẩm chất con người mình, và


đồng thời đây là nơi ông bộc lộ và thể nghiệm những cái mới, sáng tạo đầy cá tính và phong cách
của bút lực.
Ở Việt Nam, sự đổi mới trong sáng tác văn chương thực sự rầm rộ từ những năm đầu thế kỉ
XX do tiếp thu làn sóng văn hóa mới phương Tây. Quan điểm cách tân thể hiện trên diện rộng
trong sáng tác và cả hoạt động phê bình với nhiều tên tuổi hàng đầu: Tản Đàn, Nguyễn Tuân,
Thế Lữ, Xuân Diệu, Nam Cao, Chế Lan Viên, Phạm Quỳnh, Thiếu Sơn, Hoài Thanh, Hải
Triều… Nam Cao từng thể hiện quan điểm nghệ thuật của mình trong truyện ngắn Đời thừa:
“Văn chương không cần những người thợ khéo tay làm theo một vài kiểu mẫu đưa cho. Văn
chương chỉ dung nạp những người biết đào sâu, biết tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi và
sáng tạo những gì chưa có”. Đặc biệt, trong bài viết “Một thời đại thi ca” mở đầu quyển “Thi
nhân Việt Nam”, nhà phê bình Hoài Thanh đã chỉ ra sự nở rộ của những cá tính và phong cách
trong phong trào Thơ mới 1932 – 1945… Inrasara là người được thừa hưởng quan điểm sáng tác
hiện đại của thế kỷ XX, kết hợp với truyền thống gia đình và dân tộc Chăm, lại là người luôn
năng động trong sáng tác nên ông đã tạo nên những tuyệt phẩm mang tính “đào sâu”, “khơi
những nguồn chưa ai khơi” và “sáng tạo những gì chưa có” (“Chuyện 40 năm mới kể và 18 bài
thơ tân hình thức” 2006 là một ví dụ tiêu biểu ). Ông quan niệm: “Con người mang tinh thần
sáng tạo luôn hướng vọng cái mới, phiêu lưu vào vùng chưa biết. Có thể trong phiêu lưu nặng
chất cá thể này, họ gặp nhau ở vài điểm, từ đấy phát sinh trường phái văn nghệ. Không nên biến
trường phái thành phe phái, phe phái luôn cực đoan, thiên lệch hoặc cào bằng. Trong khi nhà thơ

cần giữ tinh thần độc lập tuyệt đối, đồng thời khoan hòa trong thái độ với cộng đồng (khoan hòa
hãy thử hiểu bằng tinh thần Trang Tử). Bởi chỉ thế thôi, chúng ta mới hi vọng hòa giải được xung
đột muôn đời giữa con người – nghệ sĩ sáng tạo với con người công dân cư trú trong mỗi chúng
ta” [18]. Quả thực, đọc các tác phẩm của Inrasara trong hành trình mười sáu năm qua từ 1996 –
2011, chúng tôi nhận thấy con người nhà thơ luôn luôn biết cách làm mới mình về tư duy cũng
như lí luận thực tiễn. Ý thức tìm tòi, đổi mới trong sáng tác văn học của nhà thơ Inrasara luôn
thường trực mà không phải ở văn nghệ sĩ nào cũng có, thậm chí đòi hỏi người đọc phải cập nhật
kiến thức thì mới có thể thâm nhập vào thế giới văn chương của ông (nhất là tinh thần hậu hiện
đại). Mỗi tập thơ của ông ra đời là một niềm vui, một lần thử bút, một trải nghiệm mới, một bút
pháp mới. Ấy thế con người luôn ý thức tận hiến cho nghệ thuật như ông đó chưa bao giờ hài
lòng với chính mình hay bằng lòng với thực tại. Ông ham hiểu biết, làm việc say mê tích cực,
luôn ngụp lặn trong bể đời và biển chữ nghĩa hay còn gọi là “ăn chữ” (theo người Chăm) để sáng
tạo ra những đứa con tinh thần mang dấu ấn thời đại chất chứa những tâm tình sâu kín.
Ông còn ảnh hưởng trào lưu văn học hậu hiện đại ở thế giới cũng như bước đầu ở Việt Nam.
Càng đọc nhiều, đi nhiều, hiểu nhiều, tinh thần thơ của ông càng thông suốt, hòa nhập chứ không
hòa tan. Ông tìm thấy lối đi riêng cho mình, không bị trùng khớp, không bị gò bó mà trái lại khả
năng thi ca của ông càng vươn lên và vươn xa. Mỗi lần Inrasara thử bút theo một phong cách
mới là mỗi lần nhà thơ “thay da đổi thịt” cho sự nghiệp sáng tạo của mình. Nếu như phần lớn tác
giả khác vẫn chịu ảnh hưởng của truyền thống Thơ Mới với những vần thơ, lối thơ đẹp và kiểu
diễn đạt “làm dáng”(Trần Hoài Nam) hoặc nội dung rơi rớt nỗi buồn yếm thế thì nhà thơ Inrasara
đã khai vỡ một giọng điệu mới trong phong cách hậu lãng mạn (Tháp nắng, Sinh nhật cây xương
rồng, Hành hương em…). Như Trần Lê Văn nhận định, đó là “Cội nguồn cổ kính mà âm điệu tân
kì”. Theo con đường đó, nhà thơ Inrasara đã rất ý thức chuyển đổi từ phong cách hậu lãng mạn
sang hậu hiện đại, thay đổi về cảm thức nghệ thuật, về phương thức biểu đạt. Tất cả những điều
này ảnh hưởng trực tiếp đến việc hình thành phong cách thơ Inrasara đồng thời hứa hẹn, gợi mở
nhiều vấn đề nghiên cứu, khám phá mới về thơ ông trong thời gian tới.
2. Phong cách nghệ thuật thơ Inrasara


Nói đến phong cách thơ Inrasara, trước tiên chúng ta phải nói đến sự kết hợp nhuần nhuyễn

giữa truyền thống và hiện đại, giữa nội dung dân tộc và hình thức thơ tân kỳ, giữa ẩn ức linh hồn
Chăm và nhịp thở đương thời. Như chúng ta đã biết, Inrasara sinh ra và lớn lên trong lòng xã hội
Chăm và ra đi cũng từ Chăm. Vùng đất nhỏ bé còn nhiều khó khăn, khắc nghiệt ấy đã hun đúc
nên một con người cứng cỏi có làn da nâu, vầng trán rộng, đôi mắt tinh đẹp, hút hồn và một trái
tim hồn hậu, yêu đời, yêu người say đắm. Và xuất thân trong cái nôi gia đình am hiểu về văn học
cổ điển Chăm (như “Ariya Cam – Bini”, truyện thơ Chăm – Bani), Inrasara đã biến những cái
được thừa hưởng thành thế mạnh cho sáng tạo nghệ thuật của mình. Vì vậy, ông thường khai thác
các đề tài về dân tộc, qua đó khơi lên những nỗi niềm hoài bão, mơ mộng, khát vọng đối với quê
hương. Có lẽ vì thế, khi còn ngồi trên ghế giảng đường đại học, ông đã bỏ dở nửa chừng đi theo
tiếng gọi của hồn thơ, của dòng máu tự do, phóng khoáng đang chảy dào dạt trong tim mình.
Inrasara đã được tiếp xúc với tư tưởng tự do nền văn hóa phương Tây, ông say mê triết học
Heidegger…Tất cả đã làm ngời lên một nhà thơ Chăm tài hoa, cổ kính. Để hiểu về phong cách
của nhà thơ, chúng tôi đã đọc và rút ra những yếu tố tạo nên phong cách nghệ thuật trong những
tác phẩm của Inrasara đó là: đề tài, chủ đề, cảm hứng, thể loại, nhân vật, giọng điệu, ngôn ngữ…
2. 1. Mảng đề tài, chủ đề, cảm hứng, nhân vật về dân tộc Chăm
Theo tìm hiểu của chúng tôi, khám phá đời sống văn hóa dân tộc thiểu số, thơ Việt Nam trước
Inrasara đã có những thành công nhất định với Nông Quốc Chấn, Bàn Tài Đoàn, Y Phương…
Nhưng sau những nỗ lực đáng kể, những nhà văn dân tộc thiểu số này dần bị “hụt hơi” hay
“Kinh hóa”, thơ họ xa dần với lối nói, cách cảm, cách nghĩ của dân tộc mình. Song đối với
Inrasara, ông đã mang đến cho nền văn học của chúng ta một thế giới Chăm đầy bản sắc và hoan
ca. Inrasara đã gieo trồng và chăm sóc cho những hạt giống thanh cao nảy nở trên vùng đất
Chăm bằng nước Chăm, hơi thở Chăm, văn hóa Chăm, trí tuệ Chăm, triết học Chăm…Ảnh
hưởng sâu xa từ thể xác đến linh hồn, dân tộc Chăm là ngọn nguồn của hồn thơ ông, là đề tài, là
dòng hiện thực, dòng cảm hứng không bao giờ vơi cạn trong sáng tác của Inrasara.
Đề tài quê hương hiện lên tha thiết, đẹp đẽ, duyên dáng. Quê hương là nguồn đề tài bất tận
trong văn học đông, tây, kim, cổ. Quê hương không đơn thuần là nơi mỗi người sinh ra, lớn lên,
nảy sinh tình cảm tự nhiên, không chỉ là nơi chôn nhau cắt rốn…mà còn là “hoài vọng”. Trong
thơ Việt Nam thế kỉ XX, quê hương vừa đau khổ vừa vĩ đại. Đặc biệt, quê hương thường mang
vóc dáng của một đất nước mà không phải một vùng miền cụ thể nào đó.Chúng ta biết đến
những bài thơ hay viết về quê hương như “Quê hương” (Giang Nam), “Quê hương” (Đỗ Trung

Quân), “Quê hương” (Tế Hanh), “Việt Nam quê hương ta” (Nguyễn Đình Thi), “Bài thơ quê
hương” (Nguyễn Bính)… Trong thơ Inrasara cũng vậy, ta bắt gặp một không gian văn hóa Chăm
rực rỡ màu sắc, đó là tiếng trống Gineng giục giã, đó là điệu múa Apsara say đắm hồn người, đó
là tháp Chàm cổ kính với bao nỗi niềm dâu bể, là lễ hội Katê tưng bừng, lễ tẩy trần linh thánh.
Đề tài quê hương trong thơ Inrasara là sự mới mẻ cụ thể về hình ảnh, hình tượng phong phú gắn
với đời sống thực tế văn hóa và lịch sử dân tộc Chăm.
Hình ảnh quê hương “trầm luân nhưng tự hào” luôn dập dềnh trong thơ ông. Thiên nhiên
Chăm có những nét đặc sắc riêng, phong vị riêng, trù phú, xanh đẹp và hấp dẫn:
Tháng Tư khô – bờ xanh xương rồng xanh
tháng Bảy mưa – bằng lăng rừng nở tím
chạp lạnh sang – đồi mai rực sắc vàng
quê ta ba mùa, đủ ba mùa phiêu lãng
(Ngụ ngôn viết cho mình)


Chúng ta còn bắt gặp hình ảnh quê hương trong Trường ca Quê hương - Tháp nắng (413 dòng
thơ). Trường ca chia làm chín trường đoạn, chín cung tình cảm, thể hiện rõ hình ảnh quê hương
trong tấm lòng sâu nặng của nhà thơ:
Ôi, quê hương! Quê hương
Quê hương gầy, quê hương xanh xao
Quê hương không có rặng dừa của ca dao
Quê hương không có cánh cò xa, không có bản tình ca thôn dã
Mây trắng, Mặt trời. Gió trùng dương Đất đá
Quê hương cần khô, nóng bức, nghèo nàn
Quê hương buồn. Quê hương yêu thương
Và dù đi đâu về đâu, Katê vẫn là nơi những đứa con Chăm luôn hướng về quê nhà mỗi mùa lễ
hội. Với Inrasara đó là mùa khát khao luyến ái, khát khao sum họp, đây là lễ hội lớn nhất của
người Chăm:
Mỗi tháng mỗi mùa em về chẳng được
đành mong em về chỉ mỗi katê sang

(Tứ tuyệt buồn)
Và quê hương vẫn là nơi vẫy gọi bước chân lãng du, phiêu bạt trở về, là nỗi niềm canh cánh nhớ
mong của nhà thơ:
Hôm nay về với nước mắt chảy dài
Em nhìn quê hương, quê hương nhìn em thầm lặng
Trên vầng trán chờ đợi đã hằn sâu, im lặng
(Trường ca quê hương)
Tiếp sau đề tài về văn hóa Chăm là nhân vật Chăm trong thơ Inrasara. Phải kể đến anh Đạm,
người thơ tấp tểnh đi buôn, lận lưng ít nắng với gương mặt đặc thù, đó là Trà Ma Hani với điệu
múa say đắm lòng người…Hoặc những cuộc đời không có tên tuổi cho riêng mình như Người
chị Chakleng hay Những người mẹ Hamu Chauk (làng Bầu Trúc) cũng thế…Tên họ lẫn vào tên
làng xóm hay tên của quê hương. Cảm thức về con người trong thơ Inrasara mang một dấu ấn
riêng đậm nét. Đó là những con người hiện đại mang nỗi niềm tha hương, họ rời bỏ quê hương,
cất bước chân lãng du nhọc nhằn nơi đất khách quê người với những khắc khoải khôn nguôi
ngày tháng:
Rời bỏ ruộng đồng quen thuộc, ngọn đồi thân thương
Dong buồm vào hải đảo mù khơi bất trắc
Người thủy thủ già không chở về mùa vàng thu hoạch
Chỉ thấy bay lả trên cánh buồm khoảng nắng khoan dung
(Ngụ ngôn viết cho mình)
Tất cả những gì thuộc về quê hương đều gợi cảm hứng cho nhà thơ. Một đóa hoa, một ánh
mắt, một dáng gầy lam lũ, một nụ cười trẻ thơ, một con người tha hương đều được Inrasara chú ý
vẽ nên những nét đẹp giản dị trong sáng tác của mình. Đó là những vết “chân trần”, những gót
giày nện vào hẻm phố, là bàn chân chưa quên lối đi riêng cùng những “con đường lửa thiêng”,
“con đường mịt mùng bão lốc”… Quê hương trong thơ Inrasara là một sinh thể đầy cảm xúc, đầy
trăn trở, dằn vặt vì những vết thương quá khứ chưa lành. Quê hương của Inrasara là một quê
hương khát niềm vui, ôm nỗi buồn chờ đợi những đứa con xa trở về:
Quê hương ôm sầu to lớn khôn khuây
Quê hương đợi em về mang theo niềm vui nho nhỏ
Quê hương của Inrasara gắn với danh lam thắng cảnh, mà mỗi danh thắng là những cuộc chia

lịch sử. Linh hồn nhà thơ tan nát theo chiều gió, trái tim yêu lịch sử luôn luôn hiện lên:


Lịch sử chia phân hai định mệnh kì lạ
Kẻ xuôi Nam, người ngược Bắc
Cửa biển thùy gió Lào thổi rát
Thổi rát đau hai mảnh linh hồn
Với chủ đề tình yêu quê hương, tình yêu văn hóa Chăm, thơ Inrasara mang một chất men Chăm
rất riêng, làm say lòng người đọc, có khả năng quyến gọi và khai mở những tâm tình sâu kín phía
sau những nụ cười xót xa phồn hậu:
Văn hóa Champa là văn hóa đùa vui
chịu chơi cả trong đau khổ
(Ẩn ngữ Pauh Catwai)
Và nói đến nền văn hóa vật thể và phi vật thể Chăm trước hết là phải nhớ đến Tháp
Chăm. Tháp Chàm không chỉ là hiện thân của quê hương Chăm mà còn là hiện thân của nền văn
hóa Chăm. Tháp Chàm luôn ẩn chứa nhiều bí ẩn trong thơ Inrasara. Nó trường tồn, vĩnh cửu
cùng thời gian, cô độc và mặc tưởng:
700 năm tháp thét gào với bão
300 năm tháp lãng du thế giới cỏ cây
Ngàn năm sau tháp chuyện trò cát bụi
(Tháp Chàm muôn mặt)
Có thể thấy, cảm hứng chính trong thơ Inrasara là ca ngợi quê hương. Mỗi bài thơ là một khúc
ca bi tráng thể hiện lòng tự hào dân tộc và ẩn chứa những nỗi niềm khắc khoải, yêu thương, khát
vọng đối với quê hương của một người con xa xứ. Nên thơ ông hướng đến cái đẹp truyền thống
và sinh hoạt thường nhật của người Chăm. Cái gì có trong văn hóa đời sống Chăm, mặc dù nhỏ
bé, ta có thể thấy trong thơ Inrasara – một hồn thơ lấy trái tim dân tộc làm ngọn lửa phát tỏa tài
năng chính mình.
2. 2. Ngôn ngữ thơ Inrasara
Ngôn ngữ là công cụ, là chất liệu cơ bản của văn học.Gơ rơ ki khẳng định “ngôn ngữ là
yếu tố thứ nhất của văn học”. Trong tác phẩm văn học, ngôn ngữ văn học là một trong những yếu

tố quan trọng thể hiện cá tính sáng tạo, phong cách, tài năng của nhà văn: “vấn đề ngôn ngữ
trong thơ ca của từng tác giả rõ ràng lại phụ thuộc vào phong cách sáng tạo và bút pháp độc đáo
riêng của từng nhà thơ”[8;215]. Ngôn ngữ thơ Inrasara vừa đẹp, vừa sang trọng, lại tinh tế, thơ
mộng, vừa truyền thống, kín đáo lại vừa hiện thực, gần gũi. Cách sử dụng ngôn ngữ của nhà thơ
mang đậm dấu ấn thời gian, tạo ra mạch cảm xúc thơ liền lạc trôi chảy từ quá khứ đến hiện tại,
xóa nhòa ranh giới giữa ánh sáng thực tại và hào quang xưa cũ:
Ngủ quên trong kiếp đá
Bàn tay nghệ sĩ hoài thai
Trăm năm làm một thưở
Nỗi mơ nung nấu ngàn đời chưa nguôi
(Apsara, Vũ nữ Chăm)
Nhà thơ thường xuyên sử dụng từ Hán Việt vừa gợi không khí cổ xưa của xứ Chăm lại vừa
gợi tâm trạng hỗn mang của lòng người trước sự vô tận của vũ trụ, đời người. Ngôn ngữ giàu
tính tạo hình và biểu cảm qua việc sử dụng nhiều biện pháp tu từ, nghệ thuật so sánh. Tất cả
được nhà thơ vận dụng linh hoạt và đa dạng, tạo ra những nét mới độc đáo, vừa ví von, duyên
dáng lại không đánh mất chiều sâu và sức gợi tả:
Em như con ma hỏng chân chập chờn nhẹ bổng
(Trường ca quê hương)
Lổm ngổm bò dậy làm người [như] một phép lạ


(Tam tấu trước ngưỡng thế kỉ XXI)
Ngôn ngữ là tiếng nói của dân tộc, mang bản sắc văn hóa dân tộc. Với nhà thơ Inrasara, con
người đứng giữa đường biên văn hóa Chăm – Việt đã sử dụng ngôn ngữ của dân tộc mình để làm
nổi bật văn hóa dân tộc Chăm, tạo nên sức hút kì diệu của ngôn từ. Với tiếng Chăm ông rất yêu
quí, say mê như máu mủ của mình, với tiếng Việt ông luôn tha thiết, trau giồi. Inrasara quả là nhà
thơ dân tộc thiểu số biết dung hợp cả hai yếu tố Chăm - Việt để làm sáng lên ánh hào quang văn
hóa của cả hai dân tộc Chăm – Việt. Mặt khác, đọc thơ Inrasara, ta còn thấy được sự phong phú
đa dạng của ngôn ngữ dân tộc trong việc tạo hình:
Tháp Xa nư sống đời độc thân

Có lứa có bạn là tháp Đôi
lũng Mĩ Sơn tháp ở đại gia đình
làm tam nhân hành thì Ba tháp
đủ đầy cả thôi mà cứ muốn thất truyền
(Tháp Chàm muôn mặt)
Những hình ảnh ẩn dụ xuất hiện trong thơ ông với mật độ rất dày dặn, ngay từ những nhan đề bài
thơ Tháp nắng, Tháp Chàm muôn mặt, Màu cứu độ…đến những hình tượng lặp đi lặp lại trong
thơ như ngôi nhà, mặt đất, con đường, cánh đồng, những ngày rỗng. Trong đó, hình tượng tháp
Chàm dường như được tác giả gửi gắm toàn bộ thế giới tâm hồn, tâm linh mình với những chiêm
nghiệm về xưa và nay ẩn chìm trong tiềm thức. Rồi nghệ thuật hoán dụ cũng được nhà thơ sử
dụng khéo léo:
Tôi không cùng
hai mươi năm tác miền tha hương
trở lại quê nhà, mùa đã vãn
Đàn trâu tuổi thơ đi vắng
(Sông Lu và tôi)
Những câu thơ trong “Chuyện 40 năm mới kể &18 bài thơ tân hình thức” là những lời kể về
chuyện thường nhật, gần gũi, mang tính dân dã, dung dị (tro vòm vú, xà lỏn, chửi, nhăn răng…)
kết hợp với tân hình thức.
Tóm lại, ngôn ngữ thơ Inrasara độc đáo ở sự cách tân và hồn thơ Inrasara luôn đậm đà tính dân
tộc. Tất cả đã hình thành nên phong cách khác lạ, hiếm có ở nhà thơ.
2. 3. Giọng điệu trong thơ Inrasara
Giọng điệu là một phạm trù thẩm mĩ của tác phẩm văn học, là yếu tố quan trọng góp phần tạo
nên phong cách nhà văn, và là phương tiện biểu hiện giá trị của tác phẩm văn học. Theo Lâm Gia
Tiến: “Với một giọng thơ tâm tình sâu sắc, Inrasara thể hiện rất rõ cá tính bản lĩnh. Thơ anh đầy
suy tư và chính vì anh cũng hay triết lí về con người, cuộc sống. Bút pháp phóng khoáng nhưng
lúc nào cũng chốt lại một tâm trạng, một cảm xúc về mình, về con người, cuộc sống dân tộc quê
hương mình”[19]. Còn theo Vĩnh Nguyên thì ngôn ngữ thơ Inrasara đầy tính nhạc: “Tập thơ với
những câu, bài thơ dài, không vần về mà chòng chành chữ nghĩa và đôi khi bồng bềnh nhạc tính
như một lời kinh, một bài thánh ca”… Như vậy, có thể thấy nét nổi bật trong sáng tác của

Inrasara là giọng điệu tâm tình, đối thoại. Inrasara thường nêu ra những vấn đề để người đọc
cùng chia sẻ và suy ngẫm, Inrasara đối thoại để bày tỏ nỗi niềm Chăm của mình, ông đối thoại
với thời gian một cách thường trực và ám ảnh. Vì thế giọng thơ ông thường trầm buồn với triết lí
sâu xa, ví như sự đối thoại với tương lai của nhà thơ sau đây :
Tôi đã nuôi hi vọng cuối cùng
Vào lộ trình đêm tịch mịch
Mai rồi trôi về đâu – không biết


(Hành trình)
Nhà thơ còn đối thoại với những con người xa lạ, đối thoại với quê hương bằng với giọng yêu
thương, chia sẻ, ăm ắp tình cảm của mình :
“Ai đang đi kia
Băng cánh đồng khô chân trần hối hả
Đội giành gốm to đi giữa trưa nắng hạ
Có kịp bữa cơm, đêm con đói lao nhao”
(Trường ca quê hương)
Nhiều lúc nhà thơ còn tự đối thoại với bản thân. Với giọng điệu suy ngẫm, ông luôn trầm tư sâu
lắng suy nghĩ chuyện đời qua văn thơ của mình:
Anh có hẹn mùa sau hái tuyệt tác trần
ngày đi, ngày qua – hơi thở anh hiu hắt
(Ngụ ngôn viết cho mình)
Kết hợp giọng điệu tâm tình, đối thoại trên là nhịp điệu thơ nhẹ nhàng, trầm mượt đã được
nhà thơ sử dụng hợp lý ở nhiều tập: Sinh nhật cây xương rồng, Hành hương em, Lễ tẩy trần
tháng Tư (69 bài / 78 bài / 138 bài). Nhưng bên cạnh, ta còn bắt gặp một giọng điệu mạnh mẽ
khác rất rõ nét trong thơ Inrasara, đó là nhịp điệu trầm hùng, bi tráng, tinh tế mang âm hưởng sử
thi, tiêu biểu trong trường ca Tháp nắng:
Tôi, đứa con của ngọn gió lang thang cánh đồng
miền Trung nhỏ hẹp
Đứa con của biển khơi trùng trùng bão thét

Và đôi mắt tháp Chàm mất ngủ xanh xao
(Đứa con của đất)
Ngoài ra chúng tôi còn bắt gặp nhịp thơ đứt gãy, ngắt quãng của câu chữ diễn tả tâm thế hậu hiện
đại trong thơ Inrasara. Những nhịp điệu này có khi xuất hiện riêng lẻ, có khi lại kết hợp với nhau
trong một bài thơ hay một trường ca cụ thể đã tạo nên một luồng gió mới thổi vào lòng thời đại
và làm nên phong cách của một Inrasara đầy trăn trở hôm nay:
Như ngọn gió nồng mùa xuân
bất ngờ em
thổi vào cánh đồng ta
mát rượi (Em - loài nắng hạ)
Inrasara là một nhà thơ luôn luôn trăn trở về đời, về nghề, ông là gương mặt nổi bật trong nền
thơ đương đại Việt Nam. Ông là nhà thơ tài hoa, có giọng điệu riêng, có phong cách nghệ thuật
độc đáo, phong cách thơ Inrasara có thể khái quát một cách ngắn gọn đó là vừa giàu cảm xúc,
vừa giàu chất trí tuệ, vừa giàu bản sắc lại vừa hiện đại… Trong đó yếu tố dân tộc vượt trội lên
hàng đầu. Ông là một đứa con Chăm, luôn khát vọng giữ gìn và phát huy vốn ngôn ngữ quí báu
của người Chăm để truyền lại cho thế hệ sau. Và dù viết nghiên cứu, phê bình, viết tiểu thuyết
hay sáng tác thơ đi chăng nữa thì cuối cùng đích đến của nhà thơ vẫn là bản sắc, văn hóa Chăm
và tình yêu của ông dành cho dân tộc Chăm nói riêng, đất nước nói chung. Con đường thơ của
Inrasara còn dài ở phía trước, ông luôn ý thức lặn sâu vào tâm thức, tâm linh văn hóa Chăm để
xây thêm những tháp thơ thanh cao, sáng đẹp cho mình và cho dân tộc. Chúng ta hoàn toàn có
thể chờ đợi những thành tựu mới của nhà thơ trong tương lai.
Lưu Tấn Thành
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Inrasara, Hàng mã kí ức, tiểu thuyết, NXB Văn học, H. &Cty Phương Nam, 2011.
2. Inrasara, Hành hương em – thơ, NXB Trẻ, TP Hồ Chí Minh, 1999.


3. Inrasara, Lễ tẩy trần tháng Tư – thơ và trường ca, NXB Hội Nhà văn, H.,2002.
4. Inrasara, Chuyện 40 năm mới kể & 18 bài thơ tân hình thức, NXB Hội Nhà văn, H.,2006.
5. Inrasara, Tháp nắng – thơ và trường ca, NXB Thanh niên, H., 1996.

6. Inrasara, Sinh nhật cây xương rồng – thơ song ngữ Việt – Chăm, NXB Văn hóa Dân tộc, H.,
1997.
7. Lê Thị Việt Hà, Hành trình cách tân thơ của Inrasara, Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn, Ngành lí
luận văn học, Trường Đại học Vinh, 2009.
8. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (2007), Từ điển thuật ngữ văn học, NXB Giáo
dục.
9. Inrasara (chủ biên), Tagalau 12, NXB Văn học, 2011.
10. Inrasara, Chân dung Cát – tiểu thuyết, NXB Hội Nhà văn, H., 2006.
11. Website Inrasara.com.
12. Inrasara, Văn học Chăm I – Khái luận – Văn tuyển, NXB Văn hóa Dân tộc, H., 1994.
13. Phương Lựu (chủ biên, 2002), Lý luận văn học, NXB Giáo dục.
14. Trần Đình Sử, Dẫn luận thi pháp học, NXB Giáo dục, 1998.
15. Website Hội nhà văn Thành phố Hồ Chí Minh.
16. Website Hội nhà văn Việt Nam.
17. Viện ngôn ngữ học, Từ điển tiếng Việt, NXB Đà Nẵng, 2006.
18. Inrasara, Chưa đủ cô đơn cho sáng tạo, NXB Văn nghệ, Hà Nội, 2006.
19. Website : Vietbao.vn.



×