Tải bản đầy đủ (.docx) (21 trang)

mot so van de thao luan mon lich su dang cong san VN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (422.37 KB, 21 trang )

VẤN ĐỀ 1: NHỮNG NGUYÊN LÝ VỀ ĐẢNG
KIỂU MỚI CỦA LENIN? TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ
ĐẢNG CỘNG SẢN ?
I. NHỮNG NGUYÊN LÝ VỀ ĐẢNG KIỂU MỚI
CỦA LÊNIN
1. Hoàn cảnh lịch sử cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX
1.1 Chủ nghĩa tư bản chuyển sang giai đoạn chủ
nghĩa đế quốc
- Khi Chủ nghĩa tư bản chuyển sang chủ nghĩa đế quốc,
giai cấp tư bản tăng cường bộ máy nhà nước tư sản, phát triển
quân đội để chống lại giai cấp công nhân và Nhân dân lao động.
Nhà nước tư bản- đế quốc ra sức đàn áp và thủ tiêu nền dân chủ,
mặc dù đó là nền dân chủ giả dối và bị cắt xén.
- Chủ nghĩa tư bản chuyển sang giai đoạn chủ nghĩa đế
quốc, mâu thuẫn giữa giai cấp tư sản với giai cấp công nhân ngày
càng gay gắt hơn; mâu thuẫn giữa tư bản độc quyền với tư bản
không độc quyền trong một nước và các nước; mâu thuẫn giữa tư
bản độc quyền với nhân dân lao động ở các nước nô dịch xuất
hiện và tăng lên.
- Chủ nghĩa tư bản chuyển sang giai đoạn chủ nghĩa đế
quốc tạo điều kiện phát triển sự liên minh giữa giai cấp công nhân
với Nhân dân lao động ở chính quốc với các nước thuộc địa.
Đồng thời, xuất hiện sự phân chia thế giới thành hai khu vực ảnh
hưởng của các tổ chức tư bản độc quyền. Từ đó, nổ ra Chiến
tranh thế giới lần thứ nhất (1914-1918), tạo điều kiện thuận lợi
cho cách mạng vô sản nổ ra và cho giai cấp công nhân, nhân dân
lao động giành chính quyền.
1.2 Các đảng của Quốc tế thứ hai không đủ uy tín và
năng lực lãnh đạo cách mạng vô sản giành chính quyền, để
cách mạng vô sản thắng lợi phải có đảng kiểu mới lãnh đạo
Sau khi Ph. Ăngghen qua đời, trong những năm thế kỷ


XIX đầu thế kỷ XX, những người lãnh đạo Quốc tế thứ hai, tiêu
biểu là Bécxtanh và Cauxky đã phản bội giai cấp công nhân theo
đuôi giai cấp tư sản, đã biến nhiều đảng lớn của Quốc tế thứ hai ở
Tây Âu thành đảng cải lương, phụ thuộc vào giai cấp tư sản. Các
đảng ấy, không đủ uy tín và năng lực lãnh đạo cách mạng vô sản
giành thắng lợi. cách mạng vô sản sắp nổ ra, nhiệm vụ lãnh đạo
cách mạng vô sản giành chính quyền ngày càng đến gần. Nhiệm
vụ to lớn và cấp thiết là phải xây dựng đảng khác hẳn về chất với
các đảng của Quốc tế thứ hai khi đó. Nhiệm vụ này đã được đặt
lên vai V.I.Lênin. V.I.Lênin đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ đó,
đã thừa kế, phát triển những tư tưởng của C.Mác, Ph. Ăngghen về
Đảng cộng sản đưa ra các nguyên lý về đảng kiểu mới của giai
cấp công nhân và trực tiếp đam áp dụng vào nước Nga, xây dựng
thành công đảng kiểu mới làm nên thắng lợi vĩ đại trong Cách
mạng Tháng Mười Nga.
2. Những nguyên lý về đảng kiểu mới của V.I.Lê nin.
2.1 Chủ nghĩa Mác là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam
cho mọi hoạt động của Đảng Cộng sản.
- V.I.Lênin viết: “Học thuyết của Mác là học thuyết vạn
năng vì nó là một học thuyết chính xác. Nó là một học thuyết
hoàn bị và chặt chẽ; nó cung cấp cho người ta một thế giới quan
hoàn chỉnh, không thỏa hiệp với bất cứ một sự mê tín nào, một
hành vi nào bảo vệ sự áp bức của tư sản. Nó là người thừa kế
chính đáng của tất cả những cái tốt đẹp nhất mà loài người tạo ra
hồi thế kỷ XIX, đó là triết học Đức, kinh tế chính trị học Anh và
chủ nghĩa xã hội pháp”. Học thuyết đó là lý luận có vai trò đặc
biệt quan trọng đối với phong trào công nhân và hoạt động của
Đảng. Đối với Đảng cộng sản, V.I.Lênin khẳng định: “trước hết
và trên hết phải xem xét lý luận là kim chỉ nam cho hành động”.
- Người nhấn mạnh, chúng ta hoàn toàn đứng trên cơ sở

lý luận của Mác: lý luận đó là lý luận đầu tiên đã biến Chủ nghĩa
xã hội từ không tưởng trở thành khoa học,… lý luận đó đã chỉ rõ
nhiệm vụ thật sự của đảng xã hội chủ nghĩa cách mạng, nhiệm vụ
đó là: Tổ chức cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp vô sản và lãnh
đạo cuộc đấu tranh đó là mục tiêu cuối cùng là giai cấp vô sản
giành lấy chính quyền và tổ chức xã hội xã hội chủ nghĩa V.I.Lê
nin còn lưu ý các Đảng cộng sản phải phát triển lý luận của C.

Mác và vận dụng lý luận ấy phù hợp với điều kiện cụ thể của mỗi
nước.
2.2 Đảng cộng sản là đội tiên phong chính trị có tổ
chức và là đội ngũ có tổ chức chặt chẽ nhất, cách mạng nhất
và giác ngộ nhất của giai cấp công nhân.
- Đảng là tập hợp những người tiên tiến, ưu tú của giai
cấp công nhân, thể hiện ở sự tiên phong về hành động và tiên
phong về lý luận.
- Trong tác phẩm Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản,
C.Mác, Ph. Ăngghen cho rằng, Đảng cộng sản là tổ chức gồm
những người tiên tiến, ưu tú của giai cấp công nhân- đó là những
người tiên phong về hành động và tiên phong về lý luận. Hai ông
khẳng định: Về mặt thực tiễn, những người cộng sản là bộ phận
kiên quyết nhất trong các đảng công nhân ở các nước, là bộ phận
luôn thúc đẩy phong trào tiến lên; về mặt lý luận, họ hơn bộ phận
còn lại của giai cấp vô sản ở chỗ là họ hiểu rõ những điều kiện,
tiến trình và kết quả chung của phong trào vô sản.
- Đảng là tổ chức được tổ chức rất chặt chẽ, có kỷ luật
cao, tự giác, nghiêm minh thống nhất ý chí và hành động. Đó là
tổ chức của những người giác ngộ cao về mục tiêu, lý tưởng của
giai cấp công nhân, triệt để cách mạng, kiên quyết đấu tranh cho
lý tưởng đó. Trong thực tiễn Đảng luôn đi tiên phong và giáo dục

lôi cuốn quần chúng thực hiện lý tưởng cộng sản. Đảng phải được
vũ trang bằng lý luận cách mạng thì mới có thể thực hiện được lý
tưởng cộng sản. Lênin viết: Chỉ đảng nào được một lý luận tiền
phong hướng dẫn thì mới có khả năng làm tròn vai trò người
chiến sĩ tiền phong.
- Đảng cộng sản là đảng của giai cấp công nhân nhưng
không phải là toàn bộ giai cấp công nhân. V.I.Lênin chỉ rõ: “
không được lẫn lộn đảng, tức là đội tiền phong của giai cấp công
nhân với toàn bộ giai cấp, và khẳng định: Đảng là đội tiền phong
giác ngộ của giai cấp vô sản.
2.3 Giành được chính quyền, Đảng là hạt nhân lãnh
đạo hệ thống chuyên chính vô sản và là một bộ phận của hệ
thống ấy.
- Trở thành đảng cầm quyền lãnh đạo xây dựng chủ
nghĩa xã hội, Đảng lập nên hệ thống hệ thống chuyên chính vô
sản, khác về chất với hệ thống chính trị tư bản chủ nghĩa. Đảng
lãnh đạo hệ thống ấy để thực hiện cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã
hội mới. V.I.Lênin viết: không thông qua Đảng cộng sản thì
không thể thực hành chuyên chính vô sản được.
- Đảng là hạt nhân chính trị của hệ thống chính trị xã hội
chủ nghĩa, Đảng lãnh đạo, đồng thời là một bộ phận của hệ thống
ấy. sự lãnh đạo của Đảng đảm bảo cho hệ thống chính trị xã hội
chủ nghĩa hoạt động đúng đường lối, quan điểm của đảng, thực
hiện mục tiêu, lý tưởng của Đảng.
- Đó là điều kiện tiên quyết bảo đảm sự thành công của
công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội.
2.4 Tập trung dân chủ là nguyên tắc cơ bản xây dựng
tổ chức, sinh hoạt và hoạt động của Đảng.
- Đảng là tổ chức tự nguyện của những người cùng
chung lý tưởng cộng sản, quyết tâm thực hiện lý tưởng đó, đồng

thời là một tổ chức chiến đấu.
- Để thực hiện lý tưởng của mình, một mặt Đảng phải
thực hiện tốt dân chủ để phát huy cao độ trí tuệ, tính sáng tạo của
đảng viên trong hoạt động, đồng thời đảng phải hoạt động một
cách tập trung thống nhất. Vì thế, Đảng phải xây dựng tổ chức,
sinh hoạt và hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ để
thống nhất ý chí và hành động. Đó là vấn đề thuộc bản chất của
Đảng, phân biệt đảng kiểu mới của giai cấp công nhân với đảng
kiểu cũ- đảng cải lương. Xa rời nguyên tắc này Đảng sẽ giảm sức
mạnh và không tránh khỏi tan rã. Lênin viết: chúng tôi luôn bảo
vệ dân chủ trong nội bộ đảng. Nhưng chúng tôi không bao giờ
phản đối chế độ tập trung của đảng. chúng tôi chủ trương chế độ
tập trung dân chủ. “Các đảng gia nhập Quốc tế Cộng sản phải xây
dựng theo nguyên tắc tập trung dân chủ”.
- Tập trung dân chủ đối lập với tập trung quan liêu, gia
trưởng độc đoán và dân chủ hình thức, dân chủ không lãnh đạo.

1


2.5 Đoàn kết thống nhất là sức mạnh vô địch của
Đảng, tự phê bình và phê bình là quy luật phát triển của Đảng.
- V.I. Lênin khẳng định, để lãnh đạo cách mạng giành
thắng lợi, Đảng phải có một sự thống nhất ý chí hết sức chặt chẽ,
tuyệt đối. Người chỉ rõ: Đoàn kết thống nhất là sức mạnh to lớn
của Đảng. Đó là sự đoàn kết của những người cùng chung lý
tưởng cộng sản, chung mục đích và có lợi ích chung. sự đoàn kết
đó dựa trên cơ sở cương lĩnh chính trị và các nguyên tắc tổ chức,
kỷ luật sắt của Đảng.
- Đoàn kết thống nhất trong Đảng là cơ sở và điều kiện

để đoàn kết giai cấp công nhân. Trong điều kiện đảng cầm quyền
sự đoàn kết thống nhất của Đảng lại càng đặc biệt quan trọng,
nhất là ở những nước giai cấp công nhân chiếm tỷ lệ nhỏ bé trong
dân cư. Từng cán bộ đảng viên và các tổ chức đảng phải giữ gìn
sự đoàn kết thống nhất trong Đảng.
- Tự phê bình và phê bình là biện pháp căn bản để xây
dựng, củng cố sự đoàn kết thống nhất của Đảng, là quy luật phát
triển của Đảng. Một chính đảng thẳng thắn tự phê bình sai lầm
khuyết điểm, đó là Đảng trưởng thành. V.I.Lênin viết: Nếu một
chính đảng nào không dám nói thật bệnh tật của mình ra, không
dám chẩn đoán bệnh một cách thẳng tay, và tìm phương cứu chữa
bệnh đó, thì đảng đó không xứng đáng được người ta tôn trọng.
2.6 Gắn bó mật thiết với nhân dân, đấu tranh kiên
quyết ngăn chặn và loại trừ bệnh quan liêu.
- Cách mạng là sự nghiệp của Nhân dân do Đảng lãnh
đạo. song để lãnh đạo cách mạng giành thắng lợi Đảng phải gắn
bó với nhân dân, được nhân dân ủng hộ. Gắn bó chặt chẽ với
nhân dân Đảng sẽ có sức mạnh vô địch và thực sự trở thành
người lãnh đạo nhân dân. V.I.Lênin khẳng định: Muốn trở thành
một Đảng dân chủ xã hội, thì cần phải được sự ủng hộ của chính
giai cấp.
- V.I.Lênin còn chỉ rõ, chỉ một mình Đảng sẽ không thể
thực hiện thắng lợi nhiệm vụ cách mạng, để thực hiện được điều
đó, Đảng phải gắn bó chặt chẽ với Nhân dân, được Nhân dân ủng
hộ và tham gia.
- Gắn bó mật thiết với Nhân dân là vấn đề thuộc về bản
chất của Đảng. Quan liêu xa dân, Đảng không tránh khỏi tan rã,
thậm chí mất chính quyền. Quan liêu xa dân là một nguy cơ lớn
của Đảng Cộng sản quyền đã được V.I.Lênin cảnh báo.
2.7 Đảng kết nạp những người ưu tú của giai cấp

công nhân, nhân dân lao động vào Đảng, kịp thời đưa những
người không đủ tiêu chuẩn đảng viên ra khỏi Đảng.
- Để Đảng ngày càng phát triển làm tròn nhiệm vụ của
mình thì một mặt, Đảng phải tích cực kết nạp những người ưu tú
vào Đảng; mặt khác, Đảng cũng không thể để ở trong Đảng
những người thoái hóa, biến chất, những phần tử cơ hội.
V.I.Lênin viết: Chúng ta cần có những đảng viên mới không phải
để quảng cáo mà để làm việc thật sự. Những người đó chúng ta
kêu gọi họ vào hàng ngũ đảng ta. Chúng ta mở rộng cửa để đón
những người lao động. Đồng thời, Người cũng nhấn mạnh: cần
phải đuổi ra khỏi đảng những kẻ gian giảo, những đảng viên cộng
sản đã quan liêu hóa, không trung thực, nhu nhược.
- Đảng Cộng sản là đảng của giai cấp công nhân, song
Đảng không chỉ kết nạp những người ưu tú xuất thân từ giai cấp
công nhân vào Đảng mà Đảng còn kết nạp những người ưu tú
xuất thân từ các giai cấp, các tầng lớp lao động khác vào Đảng.
Đối với những người này phải đặc biệt coi trọng giáo dục, rèn
luyện họ theo lập trường, quan điểm của giai cấp công nhân.
2.8 Cương lĩnh, đường lối và hoạt động của Đảng
phải quán triệt chủ nghĩa quốc tế vô sản.
Tính quốc tế của Đảng Cộng sản bắt nguồn từ tính chất
quốc tế của giai cấp công nhân. Điều này lại bắt nguồn từ sứ
mệnh lịch sử thế giới của họ. Tính quốc tế của Đảng Cộng sản
không chỉ thể hiện trong lời nói mà còn trong hành động, tức là
Đảng phải xây dựng và hoạt động theo các nguyên lý học thuyết
Mác; đường lối của Đảng phải thể hiện chủ nghĩa đế quốc vô sản.
Đảng phải giáo dục đảng viên và Nhân dân về chủ nghĩa đế quốc
vô sản, đồng thời V.I.Lênin nhấn mạnh, Đảng phải tích cực chống

những biểu hiện sôvanh nước lớn và chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi.

Người viết: kẻ nào không chứng tỏ được bằng hành động rằng
mình sẵn sàng để cho Tổ quốc mình chịu phần hi sinh lớn nhất,
miễn sao cho sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa thực sự tiến
lên, thì kẻ đó không phải là người xã hội chủ nghĩa.
II. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẢNG CỘNG
SẢN
1.1. Đảng cộng sản là nhân tố hàng đầu quyết định
thắng lợi của cách mạng
Trong tác phẩm Đường Cách mệnh, Hồ Chí Minh đặt
câu hỏi Cách mệnh trước hết phải có cái gì? Và Người khẳng
định: trước hết phải có đảng cách mệnh, để trong thì vận động và
tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô
sản giai cấp mọi nơi. Đảng có vững cách mệnh mới thành công,
cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy. Người còn
khẳng định, Đảng muốn vững thì phải lấy chủ nghĩa Mác- Lênin
làm cốt, đó là bàn chỉ nam cho hành động của Đảng. Đảng là
người đề ra đường lối, chủ trương cách mạng, là người tập hợp,
tuyên truyền giáo dục, giác ngộ quần chúng, đưa đường lối, chủ
trương vào quần chúng, tổ chức quần chúng đấu tranh đấu tranh
giải phóng dân tộc và xây dựng xã hội mới. Nếu không có Đảng
lãnh đạo thì cách mạng Việt Nam không thể giành thắng lợi. Điều
đó đã được lịch sử cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của
Đảng khẳng định.
1.2. Đảng cộng sản Việt Nam là kết quả của sự kết
hợp chủ nghĩa Mác- Lênin với phong trào công nhân và
phong trào yêu nước
Chủ nghĩa Mác lenin về Đảng Cộng sản đã chỉ ra quy
luật ra đời, tồn tại, phát triển của Đảng là chủ nghĩa xh khoa học
kết hợp với phong trào công nhân. Đối với Việt Nam, một nước
thuộc địa nửa phong kiến, kinh tế nông nghiệp lạc hậu, giai cấp

công nhân còn nhỏ bé, phong trào công nhân đã phát triển, phong
trào yêu nước rất mạnh mẽ, đồng chí Nguyễn Ái Quốc thấy rất rõ:
để thành lập Đảng phải làm cho phong trào công nhân và phong
trào yêu nước chuyển biến về chất và phải được chủ nghĩa MácLênin soi sáng, các yếu tố đó phải được kết hợp với nhau. Trong
suốt quá trình chuẩn bị thành lập Đảng, Người đã tích cực thực
hiện và thực hiện thành công điều đó, dẫn tới sự ra đời của Đảng
Cộng sản Việt Nam vào ngày 3-2-1930. sau đó, chủ tịch Hồ Chí
Minh khái quát: “chủ nghĩa Mác- Lênin kết hợp với phong trào
công nhân và phong trào yêu nước đã dẫn tới việc thành lập Đảng
Cộng sản Đông Dương vào đầu năm 1930”.
1.3 Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng của giai cấp
công nhân đồng thời là Đảng của dân tộc Việt Nam
Chủ nghĩa Mác- Lênin về Đảng Cộng sản đã chỉ rõ,
Đảng Cộng sản là Đảng của giai cấp công nhân, đây là vấn đề
thuộc bản chất của Đảng. Điều đó có nghĩa là, về lập trường,
quan điểm, hệ tư tưởng của Đảng là của giai cấp công nhân; về
lợi ích thì Đảng đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công
nhân, Nhân dân lao động và cả dân tộc. luận điểm cuả Hồ Chí
Minh: Đảng ta là Đảng của giai cấp, đồng thời cũng là của dân
tộc, không thiên tư, thiên vị, cũng thể hiện những nội dung đó.
Nó hoàn toàn khác với quan điểm Đảng toàn dân của những
người xét lại, muốn hòa tan Đảng trong Nhân dân, thực chất là
hòng làm giảm và đi tới thủ tiêu vai trò lãnh đạo của Đảng.
1.4. Đảng Cộng sản Việt Nam phải được xây dựng
theo các nguyên lý đảng kiểu mới của giai cấp công nhân.
Vận dụng các nguyên lý đảng kiểu mới chủ nghĩa MácLênin về Đảng Cộng sản vào xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam,
Hồ Chí Minh đã khái quát thành những nguyên lý chủ yếu như:
tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách; tự phê bình
và phê bình; kỷ luật nghiêm túc và tự giác; đoàn kết thống nhất
trong Đảng; đức và tài, quan hệ giữa đức và tài của cán bộ; liên

hệ mật thiết với Nhân dân; xây dựng chi bộ, đảng bộ cơ sở và đội
ngũ đảng viên; lề lối, phong cách làm việc…, đồng thời, Người
cũng chỉ ra việc thực hiện các nguyên lý đó đối với Đảng Cộng
sản Việt Nam.

2


1.5. Đảng vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ
trung thành của Nhân dânĐảng lãnh đạo, Nhân dân làm chủ,
Đảng liên hệ mật thiết với Nhân dân, Đảng phải thường xuyên
chăm lo đổi mới và chỉnh đốn Đảng.
Để lật đổ chế độ áp bức bóc lột, xây dựng thành công
chủ nghĩa xã hội Đảng phải lãnh đạo Nhân dân tiến hành cách
mạng, đưa Nhân dân thoát khỏi kiếp nô lệ, trở thành người tự do,
đem lại cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho mọi người dân và độc
lập. theo ý nghĩa đó, Đảng vừa là người nhân văn sâu sắc nhất, là
người phục vụ đắc lực Nhân dân, vừa là người lãnh đạo, vừa là
người đầy tớ thật trung thành của Nhân dân. Muốn thực hiện
được điều đó, Đảng phải tôn trọng nhân dân, phát huy vai trò làm
chủ của nhân dân và liên hệ mật thiết với nhân dân. Đây là sự
sống còn, sự phát triển của Đảng.
1.6 Đảng cộng sản Việt Nam phải thường xuyên
chăm lo xây dựng và chỉnh đốn đảng
Trong quá trình vận động, phát triển và lãnh đạo cách mạng
bên cạnh những ưu điểm, tiến bộ, trong Đảng cũng thường xuất
hiện những hạn chế, một số cán bộ, đảng viên có biểu hiện tiêu
cực, thoái hóa biến chất, một số tổ chức đảng mắc sai lầm khuyết
điểm. Vì vậy, để Đảng ngày càng lớn mạnh lãnh đạo cách mạng
giành thắng lợi, Đảng phải thường xuyên chăm lo xây dựng,

chỉnh đốn Đảng. Công việc này được Hồ Chí Minh nhắc đi nhắc
lại nhiều lần. Theo Hồ Chí Minh “xây dựng” và “chỉnh đốn”
Đảng là hai vấn đề quan hệ biện chứng với nhau. Phải trên cơ sở
xây dựng Đảng mà chỉnh đốn Đảng; đồng thời, “chỉnh đốn”
Đảng đều nhằm làm cho Đảng ngày càng vừng mạnh, có năng
lực lãnh đạo và sức chiến đấu cao, hoàn thành mục tiêu, nhiệm
vụ của từng giai đoạn cách mạng, đưa cách mạng nước ta đến
thắng lợi.
Hồ Chí Minh cũng nhấn mạnh, khi cách mạng chuyển sang
giai đoạn mới và khi Đảng phải lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ
nặng nề, trong những điều kiện phức tạp phải chỉnh đôn lại
Đảng.
Trong di chúc, Người đã căn dặn “ Việc cần phải làm trước
tiên là chỉnh đốn lại đảng, làm cho mỗi đảng viên, mỗi đoàn viên,
mỗi chi bộ điều ra sức làm tròn nhiệm vụ Đảng giao phó cho
mình, toàn tâm toàn ý phục vụ nhân dân”.
NỘI DUNG DỰ PHÒNG: Ý NGHĨA CỦA HỌC
THUYẾT MÁC-LÊNIN, TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ
ĐẢNG CỘNG SẢN
1.
1. Học thuyết Mác-Lênin về Đảng Cộng sản
là cơ sử lý luận cho sự ra đòi, phát triển của
các Đảng Cộng sản trên thế giói
Học thuyết Mác-Lênin về Đảng Cộng sản là cơ sở lý luận
cho sự ra đời, phát triển của các Đảng Cộng sản trên thế giới
trong gần 170 năm qua. Được học thuyết này soi sáng, các Đảng
Cộng sản đã xây dựng ngày càng lớn mạnh đưa cách mạng vô
sản và cách mạng xã hội chủ nghĩa giành thắng lợi to lớn, đưa
chủ nghĩa xã hội từ lý thuyết trở thành hiện thực và đã từng trở
thành một hệ thống hùng mạnh, đối lập và song song tồn tại với

hệ thống tư bản chủ nghĩa, đạt thành tựu to lớn về phát triển toàn
diện, nhiều mặt đứng đầu thế giới.
Mặc dù gần đây, một số Đảng Cộng sản cầm quyền ở các
nước xã hội chủ nghĩa Liên Xô và Đông Âu tan rã, mất chính
quyên, chế độ xã hội chủ nghĩa theo mô hình hành chính, tập
trung, bao cấp sụp đổ, song không vì thế mà học thuyết MácLênin về Đảng Cộng sản giảm vai trò và ý nghĩa. Học thuyết ấy,
đòi hỏi nghiêm ngặt ở sự vận dụng và vận dụng sáng tạo. Các
Đảng Cộng sản không tuân thủ điều này sẽ khó tránh khỏi tan rã.
Sự tan rã của các Đảng Cộng sản cầm quyền ở các nước xã hội
chủ nghĩa Liên Xô và Đông Âu trong thế kỷ trước là sự minh
chứng điển hình cho điều này. Học thuyết Mác-Lênin về Đảng
Cộng sản vẫn còn nguyên giá trị và có ý nghĩa lớn, tiếp tục là cơ
sở lý luận cho sự phát triển của các Đảng Cộng sản trên thế giới
trong thời đại ngày nay. Các Đảng Cộng sản sẽ vượt qua khủng
hoảng tạm thời, ngày càng vừng mạnh, chủ nghĩa xã hội hiện
thực sẽ tiếp tục phát triển.

2.

2. Hồ Chí Minh vận dụng sáng tạo học
thuyết Mác-Lênin về Đảng Cộng sản, xây
dựng thành công một đảng kiểu mới ở Việt
Nam
Vận dụng sáng tạo học thuyết Mác-Lênin về Đảng Cộng
sản phù hợp với nước ta, Hồ Chí Minh đã xây dựng thành công
một đảng kiểu mới ở Việt Nam đưa cách mạng nước ta đi từ
thắng lợi này đến thắng lợi khác.
Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam là sự sáng tạo độc
đáo của Hồ Chí Minh về vận dụng học thuyết Mác-Lênin về
Đảng Cộng sản. Chủ nghĩa Mác-Lênin về Đảng Cộng sản đã chỉ

ra quy luật ra đời, tồn tại, phát triển của Đảng là chủ nghĩa xã hội
khoa học kết họp với phong trào công nhân. Đối với nước ta một
nước thuộc địa nửa phong kiến, kinh tế nông nghiệp lạc hậu, giai
cấp công nhân còn nhỏ bé, phong trào công nhân đã phát triển,
phong trào yêu nước rất mạnh mẽ, đồng chí Nguyễn Ái Quốc
(Hồ Chí Minh) thấy rất rõ: Để thành lập Đảng phải làm cho
phong trào công nhân và phong trào yêu nước chuyên biến về
chất và phải được chủ nghĩa Mác-Lênin soi sáng, các yếu tố đó
phải được kết hợp với nhau. Trong suốt quá trình chuẩn bị thành
lập Đảng, Người đã tích cực thực hiện và thực hiện thành công
điều đó, dẫn tới sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam vào ngày
3-2-1930ề
Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo học thuyết đó vào xây
dựng Đảng ta vững mạnh về chính trị, thể hiện ở việc xác định
cương lĩnh chính trị, đường lối cách mạng đúng đắn của Đảng,
xây dựng Đảng vừng mạnh về tư tưởng, luôn trung thành tuyệt
đối với chủ nghĩa Mác-Lênin; về giữ vừng và tăng cường bản
chất giai cấp công nhân của Đảng.
Học thuyết Mác-Lênin về Đảng Cộng sản có vai trò, ý
nghĩa to lớn đối với xây dựng Đảng ta vững mạnh về tổ chức
trong các thời kỳ cách mạng.
3.
3. Ý nghĩa của học thuyết Mác-Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản đối
với việc xây dựng, chỉnh đốn Đảng ta hiện
nay
Trong công cuộc đổi mới hiện nay, Đảng ta luôn xác định
phát triển kinh tế là nhiệm vụ trọng tâm, xây dựng Đảng là nhiệm
vụ then chốt, phát triển văn hóa nền tảng tinh thần của xã hội,
song suy đến cùng xây dựng Đảng có vai trò quyết định nhất. Học

thuyết Mác-Lênin về Đảng Cộng sản vẫn là cẩm nang có giá tri
nhât, là ngọn đuốc soi đường để Đảng và nhân dân Việt Nam tiên
hành công tác xây dựng Đảng để Đảng có đủ năng lực lãnh đạo
thăng lợi công cuộc đôi mới, đưa đất nước Việt Nam đên mục tiêu
dân giàu nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, xây dựng
thành công chủ nghĩa xã hội.
(Dự đoán câu hỏi thi sẽ chia nhỏ một trong hai nội
dung này, và có thể hỏi thêm một trong những nội dung dự
phòng).

3


VẤN ĐỀ 2: NỘI DUNG, BẢN CHẤT VÀ NHỮNG GIẢI
PHÁP THỰC HIỆN TỐT NGUYÊN TẮT TẬP TRUNG
DÂN CHỦ TRONG CÁC TỔ CHỨC CƠ SỞ ĐẢNG
HIỆN NAY?
Trước khi đi vào nội dung, bản chất của nguyên tắc
tập trung dân chủ chúng ta cùng điểm qua sự hình thành và
phát triển cũng như vị trí, vai trò của nguyên tắt này:
- Khái niệm “tập trung dân chủ” được Lenin sử dụng
lần đầu tiên tại Hội nghị Tammecpho (1905), sau đó đưa vào
điều lệ đảng công nhân dân chủ-xã hội Nga (Đại hội IV,
1906), được các Đảng trong Quốc tế III thừa nhận và khẳng
định: Các đảng gia nhập Quốc tế cộng sản phải được xây
dựng theo nguyên tắt tập trung dân chủ.
- Cuốn sách Thường thức chính trị của Hồ Chí Minh
(1953) đánh dấu sự hoàn thiện từng bước tư tưởng của Người
về nguyên tắc tập trung dân chủ, nguyên tắc đó có nghĩa là:
“có đảng chương thống nhất, kỷ luật thống nhất, cơ quan lãnh

đạo thống nhất. Cá nhân phải phục tùng đoàn thể, số ít phải
phục tùng số nhiều, cấp dưới phải phục tùng cấp trên, địa
phương phải phục tùng Trung ương”
Vị trí, vai trò của nguyên tắc tập trung dân chủ:
- Nguyên tắc tập trung dân chủ có vị trí và tầm quan
trọng hàng đầu trong tổng thể các nguyên tắc tổ chức và sinh
hoạt của Đảng Cộng sản.
- Nguyên tắc tập trung dân chủ có vai trò quan ứọng
hàng đầu trong việc bảo đảm sự vững mạnh về chính trị, tư
tưởng và tổ chức của Đảng Cộng sản.
A. Nội dung cơ bản của nguyên tắc tập trung, dân
chủ:
Trên cơ sở quan điểm của chủ nghĩa Mác-lenin, Hồ
Chí Minh đã khái quát nội dung của nguyên tắc tập trung dân
chủ co nghĩa là:
1. Các cơ quan lãnh đạo đều do quần chúng đảng
viên bầu cử lên.
2. Phương châm, chính sách, nghị quyết của Đảng
đều do quần chúng đảng viên tập trung kinh nghiệm và ý
kiến lại mà thành. Rồi lại do các cuộc hội nghị của Đảng thảo
luận giải quyết, chứ không ai được tự ý độc đoán.
3. Quyền lực của cơ quan lãnh đạo là do quần
chúng đảng viên giao phó cho, chứ không phải tự ai tranh
giành được. Vì vậy, người lãnh đạo phải gần gũi và học hỏi
quần chúng đảng viên, nghe ngóng ý kiến của họ. Nếu lên
mặt với quần chúng, lạm dụng quyền lực - thế là sai lầm.
4. Trật tự của Đảng là: cá nhân phải phục tùng tổ
chức; số ít phải phục tùng số nhiều; cấp dưới phải phục tùng
cấp trên; các địa phương phải phục tùng Trung ương”1.
Còn đối với dân chủ dưới sự chỉ đạo tập trung, Hồ Chí

Minh cho rằng:
“Ở trong Đảng, mọi đảng viên có quyền nêu ý kiến, đặt
đề nghị, tham gia giải quyết vấn đề. Nhưng quyết không
được trái sự lãnh đạo tập trung của Đảng, trái nghị quyết và
trái kỷ luật của Đảng. Quyết chống: không xét thời gian, địa
điểm, điều kiện mà nói lung tung; tự do hành động; dân chủ
quá trớn.
1. Chỉ có cơ quan lãnh đạo có quyền khai thác các cuộc
hội nghị.
2. Tất cả các nghị quyết của Đảng phải do cơ quan lãnh
đạo chuẩn bị kỹ càng, rồi giao cho các cấp thảo luận. Không
được làm qua loa, sơ sài.
3. Khi bầu cử các cơ quan lãnh đạo trong Đảng, phải
xem xét rất kỹ lưỡng để lập danh sách những đảng viên ứng
cử.

4. Toàn thể đảng viên phải theo đúng đảng chương thống
nhất, kỷ luật thống nhất của Đảng. Toàn thể đảng viên phải
theo sự lãnh đạo thống nhất của Trung ương”1.
Hiện nay, nước ta bước vào thời kỳ mới, đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa trong bối cảnh tình hình quốc
tế,trong nước có nhiều biến đổi sâu sắc, nội dung cơ bản của
nguyên tắc tập trung dân chủ đã được Đảng ta chỉ rõ trong
Điều 9 Điều lệ Đảng do Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI
của Đảng thông qua:
1. Cơ quan lãnh đạo các câp của Đảng do bâu cử lập ra,
thực hiện tập thể lãnh đao, cá nhân phu trách.
2. Cơ quan lãnh đạo cao nhât của Đảng là Đại hội đại
biêu toàn quôc. Cơ quan lãnh đạo ở mỗi cấp là đại hội đại
biểu hoặc đại hội đảng viên. Giữa hai kỳ đại hội, cơ quan lãnh

đạo của Đảng là Ban Chấp hành Trung ương, ở mỗi cấp là
ban chấp hành đảng bộ, chi bộ (gọi tắt là cấp ủy).
3. Cấp ủy các cấp báo cáo và chịu trách nhiệm về hoạt
động của mình trước đại hội cùng cấp, trước cấp ủy cấp trên
và cấp dưới; định kỳ thông báo tình hình hoạt động của mình
đên các tô chức đảng trực thuộc, thực hiện tự phê bình và phê
bình.
4. Tổ chửc đảng và đảng viên phải chấp hành nghị quyết
của Đảng. Thiểu sổ phục tùng đa số, cấp dưới phục tùng cấp
trên, cá nhân phục tùng tổ chức, các tổ chức trong toàn Đảng
phục tùng Đại hội đại biểu toàn quốc và Ban Chấp hành
Trung ương.
5. Nghị quyêt của các cơ quan lãnh đạo của Đảng chỉ có
giá trị thi hành khi có hơn một nửa số thành viên trong cơ
quan đó tán thành. Trước khi biểu quyết, mỗi thành viên được
phát biểu ý kiến của minh. Đảng viên có ý kiến thuộc về thiểu
số được quyền bảo lưu và báo cáo lên cấp ủy cấp trên cho đến
Đại hội đại biểu toàn quốc, song phải chấp hành nghiêm chỉnh
nghị quyết, không được truyền bá ý kiến trái với nghị quyết
của Đảng, cấp ủy có thẩm quyền nghiên cứu xem xét ý kiến
đó; không phân biệt đối xử với đảng viên có ý kiến thuộc về
thiểu số.
6. Tổ chức đảng quyết định các vấn đề thuộc phạm vi
quyền hạn của mình, song không được trái với nguyên tắc,
đường lối,chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước và
nghị quyết của Cấp trên.
B. Sự thống nhất giữa tập trung và dân chủ trong
nguyên tắc tập trung dân chủ
1. Tập trung trên nền tảng dân chú
Nghiên cứu nội dung nguyên tắc tập trung dân chủ cho

thấy:
Các cơ quan lãnh đạo đều do đảng viên bầu cử lên.
Phương châm, chính sách, nghị quyết của Đảng đều do đảng
viên tập trung kinh nghiệm và ý kiến lại mà thành. Các văn
kiện đó lại do các cuộc hội nghị của Đảng thảo luận giải
quyết, chứ không ai được tự ý độc đoán quyết định. Quyền
lực của cơ quan lãnh đạo là do đảng viên giao phó cho, không
phải tự ai tranh giành được. Vì vậy người lãnh đạo phải gần
gũi và học hỏi quần chúng đảng viên, lắng nghe ý kiến của
họ. Nếu lên mặt với quần chúng đảng viên, lạm dụng quyền
lực - như thế là sai lầm và đưa tới hệ lụy cực kỳ nguy hiểm.
Trật tự của Đảng là: cá nhân phải phục tùng tổ chức; số ít phải
phục tùng số nhiều; cấp dưới phải phục tùng cấp trên; các địa
phương phải phục tùng Trung ương.
Tập trung dân chủ là một nguyên tắc thống nhất, chứ
không phải là sự kết hợp giữa hai mặt tập trung và dân chủ.
Tập trung dân chủ là nguyên tắc hướng tới sự tập trung,
thống nhất, nhưng đó là sự tập trung trên cơ sở dân chủ, mọi
quyết định đều phải được thảo luận trên cơ sở dân chủ, toàn
bộ quá trình đi tới sự tập trung phải là một quá trình dân chủ.

4


Tập trung theo nguyên tắc tập trung dân chủ đối lập
hoàn toàn với tập trung quan liêu, tập trung độc đoán, cá
nhân người lãnh đạo hay cơ quan lãnh đạo áp đặt ý kiến, ý
chí của mình cho tổ chức đảng và cấp dưới. Ở đây, mọi quyết
định tập trung đều phải được hình thành và tổ chức thực hiện
thông qua con đường dân chủ, bằng việc phát huy tối đa mọi

sự sáng tạo. Việc chấp hành các nghị quyết, quyết định của
cấp trên và kỷ luật của Đảng đều phải dựa trên cơ sở tự giác.
2. Dân chủ dưới sự chỉ đạo tập trung
Tập trung và dân chủ tác động cùng chiều theo tỷ lệ
thuận, đòi hỏi và bảo vệ lẫn nhau. Thực hiện đúng tập trung
dân chủ thì cả tính tập trung và tính dân chủ đều được bảo
đảm. Khi tập trung đã trên cơ sở dân chủ thì tập trung càng
cổ vũ cho dân chủ, trở thành đòi hỏi của dân chủ, càng thúc
đẩy dân chủ rộng rãi và có chất lượng hơn. Tập trung là tập
trung trí tuệ, tập trung lực lượng, tập trung sức mạnh, tập
trung ý chí, tập trung hành động. Bản chất sự tập trung của
Đảng đối lập với tập trung quan liêu. Vì tập trung của Đảng
gắn liền với dân chủ, tập trung trên cơ sở dân chủ. Tập trung
càng cao thì dân chủ càng phải rộng, và dân chủ càng rộng
thì tập trung càng cao. Nếu tập trung càng cao mà dân chủ bị
hạn chế thì tức là tập trung đó không trên cơ sở dân chủ, trở
thành tập trung quan liêu, hình thức hoặc độc đoán. Neu mở
rộng dân chủ mà dẫn tới làm lỏng lẻo, suy giảm tập trung,
mất đoàn kết nội bộ, không đi tới quyết định chung buộc mọi
người tuân theo thì tức là dân chủ vô tổ chức, vô kỷ luật, mất
kỷ cương. Thứ dân chủ đó hoàn toàn xa lạ với nguyên tắc tập
trung dân chủ.
LIÊN HỆ THỰC TẾ CƠ QUAN, ĐƠN VỊ:
Việc thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ tại
Chi bộ A:
Thành tựu:
Thực tiễn việc thực hiện nguyên tắt này tại Chi bộ A
thời gian qua đạt được những kết quả nhất định, cụ thể:

-


Đồng chí Bí thư đã thể hiện được vai trò
người đứng đầu trong việc ra nghị quyết chỉ
đạo thực hiện nhiệm vụ từng năm, Nghị
quyết chuyên đề.

-

Đã phát huy được vai trò của mỗi đảng viên
trong thực hiện nhiệm vụ chung của Chi bộ.

-

Thực hiện tốt kiểm điểm tự phê bình và phê
bình.

Hạn chế:
Bên cạnh, kết quả đạt được việc thực hiện nguyên tắt
tập trung dân chủ tại Chi bộ A còn những hạn chế nhất
định:
- Trong bố trí, đề bạch, sử dụng cán bộ còn
trường hợp thiếu sự bàn bạc của tập thể Chi ủy.
.- Hiện tượng chê trách “sau lưng”, chỉ phê bình
những cái thứ yếu vẫn còn.
Giải pháp:
Một là, xây dựng đội ngũ đảng viên của Chi bộ
vững mạnh, có chất lượng cao, số lượng phù hợp
(tránh chạy theo chỉ tiêu trong kết nạp)

Đảng viên là thành viên của chi bộ, sự vững mạnh

của đội ngũ đảng viên ảnh hưởng trực tiếp đến sự trong
sạch, vững mạnh của chi bộ. Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Chi b ộ
tốt là do các đảng viên đều tốt”(2) và “muốn có Đảng bộ
tốt, chi bộ tốt, phải có đảng viên tốt”(3).
Đại hội XI của Đảng nhấn mạnh: “Đổi mới, tăng
cường công tác phát triển đảng viên, bảo đảm chất lượng
đảng viên theo yêu cầu của điều lệ Đảng. Xây dựng các
tiêu chí, yêu cầu cụ thể về tư tưởng, chính trị, trình độ,
năng lực, phẩm chất, đạo đức, lối sống của đảng viên đáp
ứng yêu cầu giai đoạn cách mạng mới; phát huy tính ti ền
phong gương mẫu, chủ động, sáng tạo của đội ngũ đảng
viên trong thực hiện nhiệm vụ được giao. Kiên quy ết đưa
ra khỏi Đảng những người không đủ tư cách đảng viên”.
Hai là, phải triệt để thực hành dân chủ, thực
hiện tốt tự phê bình và phê bình để xây dựng chi bộ
trong sạch, vững mạnh
Theo Hồ Chí Minh: “Để làm cho Đảng mạnh, thì
phải mở rộng dân chủ”, phát huy tự phê bình và phê bình,
bởi vì: “Tự phê bình và phê bình là thứ vũ khí sắc bén
nhất, nó giúp cho Đảng ta mạnh và ngày càng thêm m ạnh.
Nhờ nó mà chúng ta sửa chữa khuyết điểm, phát triển ưu
điểm, tiến bộ không ngừng”(5).
Dân chủ trong chuẩn bị nghị quyết, ra nghị quyết
và thực hiện nghị quyết; giữ vững nguyên tắc, đặc biệt là
nguyên tắc tập trung dân chủ trong sinh hoạt chi bộ. Tập
trung trên cơ sở dân chủ, dân chủ dưới sự lãnh đạo, được
sự bảo đảm của tập trung. Thực hiện nghiêm túc nguyên
tắc tập trung dân chủ gồm nhiều khâu, nhiều mặt, mỗi
chi bộ cần nắm chắc đặc điểm, tình hình, nhiệm v ụ của
đơn vị mình để có nội dung, biện pháp cụ thể, gắn liền

với đổi mới, chỉnh đốn Đảng. Kiên quy ết đấu tranh khắc
phục bệnh quan liêu, độc đoán, dân chủ hình thức cũng
như mọi biểu hiện phân tán cục bộ, bản vị, địa phương
chủ nghĩa, vô tổ chức, vô kỷ luật.
Ba là, giữ vững chế độ và nâng cao chất lượng
sinh hoạt chi bộ
Sinh hoạt chi bộ có vị trí quan trọng trong việc
nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của chi bộ.
Sinh hoạt chi bộ được duy trì đều đặn, thường xuyên có
chất lượng sẽ làm cho đường lối, chính sách của Đảng, chỉ
thị, nghị quyết của cấp trên được quán triệt, thực hiện
nghiêm túc; trí tuệ và trách nhiệm của đảng viên được
nâng cao, kỷ luật của Đảng được tăng cường, quan hệ
giữa Đảng với quần chúng được củng cố, phát triển; nội
bộ chi bộ đoàn kết, thống nhất cao. Nâng cao chất lượng
sinh hoạt chi bộ cần thường xuyên cải tiến và đổi mới nội
dung sinh hoạt. Có thể phân loại hình thức sinh hoạt chi
bộ thành ba vấn đề: sinh hoạt chính trị: bàn và ra các ngh ị
quyết, quyết định lãnh đạo; sinh hoạt học tập: nghiên
cứu, quán triệt, thảo luận các chỉ thị, nghị quyết của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước, nghe thông tin, thời
sự trong nước và quốc tế; sinh hoạt tự phê bình và phê
bình. Tùy nội dung sinh hoạt mà lựa chọn hình thức sinh
hoạt cho phù hợp. Đảng ta thống nhất một quan điểm là
lấy nhiệm vụ xây dựng Đảng làm then chốt, vì vậy, mỗi

5


chi bộ, đảng bộ cơ sở cần phải ra sức tìm tòi, đổi mới n ội

dung sinh hoạt Đảng, cho phù hợp với thực tiễn của chi
bộ mình, nhằm thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị mà
Đảng, Nhà nước và nhân dân giao cho.
Bốn là, phát huy vai trò của quần chúng nhân
dân trong xây dựng chi bộ
Hồ Chí Minh khẳng định: “Sức mạnh của Đảng là
sự gắn bó mật thiết với nhân dân. Quan liêu, mệnh lệnh,
xa rời nhân dân sẽ đưa đến những tổn thất không
lường…”, bởi vì, “Chi bộ là đồn lũy của Đảng chiến đấu ở
trong quần chúng”(8). Xa dân, không gắn bó với dân chúng
trở thành nguy cơ lớn đối với bất kỳ một đảng cầm quyền
nào.
Trong giai đoạn hiện nay, khi cả nước đứng trước
những vận hội mới và thách thức mới, tiếp tục s ự nghiệp
đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, hơn bao
giờ hết, chúng ta phải giữ vững và tăng cường vai trò lãnh
đạo của Đảng, xây dựng các tổ chức chi bộ vững mạnh, rèn
luyện tư cách đảng viên với phẩm chất, năng lực ngang
tầm nhiệm vụ. Việc nghiên cứu, học tập và làm theo t ư
tưởng Hồ Chí Minh trong công tác xây dựng Đảng nói
chung, trong xây dựng chi bộ nói riêng có ý nghĩa vô cùng
quan trọng.

VẤN ĐỀ 3: KHÁI NIỆM ĐẢNG CỐNG SẢN CẦM
QUYỀN? NỘI DUNG, PHƯƠNG THỨC LÃNH
ĐẠO CỦA ĐẢNG TRONG ĐIỀU KIỆN ĐẢNG
CỘNG SẢN CẦM QUYỀN?
I. Khái niệm Đảng Cộng sản cầm quyền
Đảng Cộng sản cầm qưyền là khái niệm đế chỉ
một giai đoạn mới, một thời kỳ mới của cách mạng. Đó

là thời kỳ mà chủ nghĩa xã hội không còn đơn thuần chỉ
là một mục đích, cương lĩnh, học thuyết nữa, mà trở
thành công việc phấn đấu hàng ngày của Đảng. Đó là
thời kỳ mà nhiệm vụ chiến lược hàng đầu, chủ yếu và
trọng tâm là tổ chức xây dựng đất nước; nhiệm vụ bảo
vệ Tổ quốc là nhiệm vụ chiến lược quan trọng.
II. NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG THỨC LÃNH
ĐẠO CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN TRONG ĐIỀU KIỆN
ĐẢNG CẦM QUYỀN

Những đặc điểm của Đảng Cộng sản cầm quyền nói
trên là những yếu tố chi phối nội dung và phương thức
lãnh đạo của Đảng ta hiện nay. Trong hệ thống chính
trị, Đảng đóng vai trò là hạt nhân lãnh đạo. Do đó,
Đảng phải xác định rõ nội dung và phương thức hoạt
động đảm bảo vừa giữ vững được vai trò lãnh đạo của
Đảng, đồng thời phát huy được hiệu lực quản lý, điều
hành của Nhà nước và hoạt động có hiệu quả của các
đoàn thể nhân dân.
1. Nội dung lãnh đạo của Đảng Cộng sản
trong điều kiện đảng cầm quyền
Đảng phải lãnh đạo toàn diện đốị với các lĩnh
vực của đời sống xã hội và toàn bộ hệ thống chính trị,
các đoàn thể nhân dân, các tổ chức xã hội hợp pháp.
Không một tổ chức, một lĩnh vực nào của đời sống xã
hội mà Đảng không lãnh đạo, không phải chịu trách
nhiệm. Đảng phải chịu trách nhiệm trước nhân dân,
trước dân tộc. Tuy nhiên, do đã có Nhà nước và các đoàn
thể nhân dân thực hiện các công việc quản lý và hoạt
động theo chức năng của mỗi tổ chức, cho nên Đảng tập

trung thực hiện tốt các nội dung lãnh đạo chủ yếu sau:
1.1 Xây dựng chủ trương, đường lối
Đảng đề ra cương lĩnh chính trị, chiến lược, đường
lối, chính sách lớn trên các lĩnh vực như kinh tế, văn
hóa, xã hội, khoa học, giáo dục, an ninh, quốc phòng,
V.V.. Đây được coi là những quan điêm, nguyên tắc, tư
tưởng chỉ đạo của Đảng để Nhà nước và các tổ chức
khác trong hệ thống chính trị vận dụng, thể chế hóa
thành Hiến pháp, pháp luật, chính sách, cụ thể hóa thành
chương trình, kế hoạch công tác và tổ chức thực hiện
phù hợp với chức năng của từng tổ chức. Đảng tôn trọng
tính độc lập, sáng tạo và quy chế hoạt động của từng tổ
chức.
VD: Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm
2011) đã đưa ra NHỮNG ĐỊNH HƯỚNG LỚN Về
PHÁT TRIỂN KINH TẾ, VĂN HÓA, XÃ HỘI, QUỐC
PHÒNG, AN NINH, ĐỐI NGOẠI,…
1.2 Lãnh đạo xây dựng nhà nước
Đảng lãnh đạo xây dựng bộ máy nhà nước trong
sạch, vững mạnh, đủ năng lực và hoạt động có hiệu quả,
thực sự là nhà nước của dân, do dân và vì dân; chăm lo
xây dựng và củng cố các đoàn thể nhân dân đủ sức tập
họp được rộng rãi quần chúng nhân dân và phát huy
quyền làm chủ của nhân dân trên các lĩnh vực của đời
sống xã hội. Trên lĩnh vực này, sự lãnh đạo của Đảng
thể hiện ở việc đề ra các quan điểm, nguyên tắc, tư
tưởng chỉ đạo việc xây dựng tổ chức và hoạt động của
các tổ chức; giúp đỡ các tổ chức này xác định mục tiêu,
chức năng, nhiệm vụ trong thời kỳ mới. Đảng không

can thiệp vào công việc cụ thể, quy tắc, quy chế hoạt
động của các thành viên khác trong hệ thống chính trị.
VD: Với vai trò là hạt nhân chính trị trong hệ
thống chính trị, Đảng Cộng sản Việt Nam thực
hiện sự lãnh đạo chính trị đối với toàn bộ tổ chức
và hoạt động của hệ thống chính trị, trong đó có
Nhà nước. Sự lãnh đạo chính trị của Đảng được
thể hiện thông qua quyền quyết định và quyền
kiểm tra, giám sát việc thực hiện đường lối chính

6


trị. Vài trò này, cũng được khẳng định tại Điều 4,
Hiến pháp 2013. Nghị quyết số 12-NQ/TW - Nghị
quyết Hội nghị lần thứ 4 Ban Chấp hành Trung ương
Đảng (khóa XI): Một số vấn đề cấp bách về xây dựng
Đảng hiện nay.
1.3 Lãnh đạo công tác cán bộ
Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản
lý đội ngũ cán bộ theo nguyên tắc tập trung dân chủ,
nhất là cán bộ chủ chốt trong hệ thống chính trị. Trên
lĩnh vực này, nội dung lãnh đạo của Đảng thể hiện ở
việc Đảng đề ra các quan điêm, chủ trương về công tác
cán bộ từ khâu đào tạo, bồi dưỡng, bố trí, đánh giá, sử
dụng, tuân chuyển cán bộ, V.V.. Đảng quyết định những
chính sách lớn về cán bộ. Đảng trực tiếp bố trí và quản
lý cán bộ của các tổ chức đảng trong các cơ quan nhà
nước và các đoàn thể nhân dân.
VD: Thông qua Điều lệ Đảng, quy chế bầu cử

trong Đảng, bằng các quy định của Đảng,…. Như cán
bộ bầu cử trong nhiệm kỳ 2015-2020, việc bầu cử tại
đại hội đảng các cấp thực hiện theo Quy chế bầu cử
trong Đảng kèm theo Quyết định 244-QĐ/TW, ngày 9-62014 của Ban chấp hành Trung ương,…
1.4 Kiểm tra, giám sát đối với Nhà nước và các
tổ thức trong hệ thống chính trị
Đảng tiến hành kiểm tra, giám sát đối với Nhà nước
và các tổ chức trong hệ thống chính trị. Nội dung kiểm
tra, giám sát của Đảng chủ yếu tập trung vào việc quán
triệt và tổ chức thực hiện các quan điểm, nguyên tắc, tư
tưởng chỉ đạo của Đảng, việc chấp hành pháp luật và
tinh thần trách nhiệm trước nhân dân. Đảng vừa trực
tiếp kiểm tra, giám sát vừa tổ chức phối kết hợp hoạt
động kiểm tra, giám sát của cả hệ thống kiểm tra, giám
sát của Đảng, thanh tra nhà nước, kiểm tra, giám sát của
các đoàn thể nhân dân.
VD: Ban Chấp hành Trung ương khoá X đã ra
Nghị quyết về “Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát
của Đảng” và Bộ Chính trị ban hành Kết luận
về “Chiến lược công tác kiểm tra, giám sát của Đảng
đến năm 2020”để giải quyết những vấn đề vừa trước
mắt, vừa lâu dài trong công tác này của toàn Đảng,…
2. Phương thức lãnh đạo của Đảng Cộng
sản trong điều kiện đảng cầm quyền
Phưong thức lãnh đạo của Đảng là các hình
thức, phương pháp, biện pháp, quy trình, lề lối làm
việc, tác phong công tác mà Đảng sử dụng để tác
động vào đối tượng nhằm thực hiện tốt nội dung
lãnh đạo.
2.1 Lãnh đạo bằng cương lĩnh, chiến lược,

chủ trương, đường lối
Đảng xây dựng các cương lĩnh chính trị, đường
lối quan điêm, chủ trương, các nghị quyết có tính
nguyên tắc nhằm giải quyêt các vân đê lớn, có ý
nghĩa chính trị quan trọng.
Đảng lãnh đạo Nhà nước thông qua phương
thức này, làm cho hệ tư tưởng, đường lối, chủ
trương, nghị quyết của Đảng được thể chế hóa
thành luật pháp và chính sách. Mọi hoạt động của
Nhà nước phải thể hiện được đường lối chính trị của
Đảng.

Bằng các chủ trương, nghị quyết, quan điểm Đảng
xây dựng, Nhà nước sẽ thể chế hóa thành các kế hoạch,
chương trình phát triển kinh tế - xã hội 10 năm, 5 năm,
V.V.. Các kế hoạch kinh tế - xã hội hằng năm, kế hoạch
phát triển từng ngành, từng lĩnh vực đời sống xã hội.
Với Mặt trận và các tổ chức chính trị-xã hội, Đảng
lãnh đạo bằng chính việc hoạch định được đường lối,
chủ trương quyết định định hướng cho phong trào hoạt
động của Mặt trận và các tổ chức chính trị - xã hội; lãnh
đạo, cụ thể hóa các chủ trương, quyết định đó. Để làm
cho Mặt ừận và các tổ chức chính trị - xã hội phải thực
sự đoàn kết, tập hợp lực lượng, gây dựng các phong
trào xã hội để thực hiện nghị quyết của Đảng, chấp
hành luật pháp của Nhà nước, phát huy dân chủ và
quyền làm chủ của dân.
Đảng lãnh đạo nhưng Đảng không áp đặt, không
bao biện làm thay, nhất là không can thiệp tùy tiện vào
các hoạt động của chính quyền, đoàn thể, không trái với

luật pháp.
VD: Nghị quyết Trung ương khóa 8, khóa XI
(nghị quyết số 29-NQ/TW) về đổi mới căn bản, toàn
diện giáo dục và đào tạo. Chính phủ ban hành Nghị
quyết số 44/NQ-CP của Chính phủ : Ban hành
Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện
Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 04 tháng 11 năm
2013 Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung
ương khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo
dục và đào tạo.
2.2 Lãnh đạo bằng giáo dục, thuyết phục
Đảng lãnh đạo Nhà nước và các tổ chức trong hệ
thống chính trị bằng công tác tư tưởng, bằng các
phương thức giáo dục, thuyết phục đối với mọi đảng
viên và nhân dân trong thực hiện đúng theo cương lĩnh,
đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà
nước; làm cho các chủ trương, chính sách, chương
trình, kế hoạch, mục tiêu hoạt động của Nhà nước và
các tổ chức trong hệ thống chính trị được phổ biến rộng
rãi trong nhân dân, làm cho mọi người hiểu đúng, tự
giác, nghiêm chỉnh chấp hành một cách có hiệu quả.
Thông qua việc sinh hoạt và hoạt động của các tổ
chức đảng và đảng viên trong hệ thống chính trị, Đảng
luôn giáo dục, thuyết phục từng cán bộ, đảng viên hoàn
thành nhiệm vụ chính trị, đồng thời nâng cao nhận thức
chính trị, bồi dưỡng tình cảm, giáo dục đạo đức cách
mạng, lối sống lành mạnh, v.v. đảm bảo sự đồng thuận
trong xã hội, sự tin tưởng của nhân dân, sự tiền phong
gương mẫu của đảng viên trong điều kiện đảng cầm
quyền, định hướng đi lên chủ nghĩa xã hội.

VD: Tuyên truyền Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh
Hậu Giang lần thứ 13 (2015-2020): Lãnh đao tỉnh đã
chỉ đạoc các ngành, các cáp in và lắp pano trên tuy ến
đường nối Vị Thanh – Cần Thơ. In và phát hành tranh
cổ động tới các cơ quan, ban, ngành và địa phương.
2.3 Lãnh đạo bằng công tác tổ chức, cán bộ
Đảng nắm chắc công tác cán bộ và đội ngũ cán bộ
của Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội. Đảng
nắm chắc các tổ chức đảng và đội ngũ đảng viên trong
hoạt động của Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã
hội.

7


Đảng đề ra đường lối về công tác cán bộ và thống
nhất quản lý cán bộ, đồng thời tôn trọng quyền hạn và
trách nhiệm của Nhà nước và các tổ chức. Đảng giới
thiệu và tạo mọi điều kiện cần thiết để những cán bộ,
đảng viên có trình độ, năng lực, phẩm chất chính trị
vững vàng được giữ những vị trí quan trọng, chủ chốt
trong cơ quan nhà nước và trong các tổ chức của hệ
thống chính trị. Các tổ chức và đội ngũ cán bộ chủ chốt
phải chịu trách nhiệm trước Đảng về việc thể chế hóa
đường lối, chủ trương của Đảng thành các nghị quyết cụ
thể, thành các văn bản pháp quy, thành kê hoạch, chỉ
tiêu, chính sách cụ thể.
Đảng lãnh đạo Nhà nước và các tổ chức của hệ
thống chính trị bằng việc nắm chắc và thường xuyên rà
soát, kiện toàn tổ chức bộ máy của Đảng và của cả hệ

thống chính trị; xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, cơ cấu
bộ máy, từ đó bố trí tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên phù
hợp với mô hình, tổ chức, V.V..
VD: Ban Tổ chức Trung ương Đảng đã ban hành
Hướng dẫn số 26-HD/BTCTW năm 2014 về Công tác
nhân sự cấp ủy tại đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng. Quy định
rõ về tiêu chuẩn cấp ủy viên, độ tuổi, cơ cấu,…Số lượng
cấp ủy viên, số lượng ủy Ban Thường vụ,…
2.4 Lãnh đạo bằng công tác kiểm tra, giám sát
Đảng lãnh đạo Nhà nước và các tổ chức trong hệ
thống chính trị, các lĩnh vực của xã hội bằng việc
thường xuyên kiếm tra, giám sát các tổ chức đảng và
đảng viên như:
- Lãnh đạo, chỉ đạo các cơ quan chức năng của
các tổ chức này tiến hành thanh tra, kiểm soát, kiểm tra
các hoạt động cả tổ chức và cán bộ, đảng viên, công
chức đảm bảo thực hiện đúng các nguyên tắc của Đảng.
- Xây dựng chương trình và triển khai thực hiện
công tác giám sát thường xuyên và đột xuất đối với các
tổ chức đảng và đảng viên.
VD: Hướng dẫn số 27-HD/BTCTW ngày
25/9/2014 của Ban Tổ chức Trung ương kiểm điểm
tập thể, cá nhân và đánh giá, phân lo ại ch ất l ượng t ổ
chức cơ sở đảng, đảng viên hằng năm ; hướng dẫn cụ
thể về Kiểm điểm tập thể, cá nhân và đánh giá,
phân loại chất lượng tổ chức cơ sở đảng, đảng
viên nhằm để các cấp ủy, tổ chức đảng, tập thể
lãnh đạo cơ quan, đơn vị,..
2.5 Lãnh đạo bằng phát huy vai trò làm chủ của nhân

dân
Đảng lãnh đạo Nhà nước và các tổ chức trong hệ
thống chính trị còn thể hiện bằng việc phát huy vai trò
làm chủ của nhân dân: đó là việc tôn trọng và phát huy
vai trò của các tổ chức quần chúng theo quy định của
Hiến pháp và pháp luật; là việc hỗ trợ, tạo điều kiện
thuận lợi cho các tổ chức quần chúng hoạt động, khơi
dậy được tính chủ động sáng tạo của quần chúng.
Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội
phải trở thành lực lượng tham mưu, nòng cốt trong việc
nắm bắt dư luận xã hội, phát huy dân chủ. Đảng tạo điều
kiện cho Mặt trận và các tổ chức đoàn thể tăng thêm
tính tự chủ, năng động, sáng tạo hơn trong hoạt động để
gần dân, sát dân hơn; phát huy vai trò của người có uy

tín trong cộng đồng.
Động viên, tạo điều kiện thuận lợi để các đoàn thể
nhân dân và nhân dân tham gia và thực hiện việc giám
sát, phản biện xã hội đối với mọi hoạt động của tổ chức
đảng, cán bộ, công chức một cách có chất lượng và hiệu
quả.

»

8


VẤN ĐỀ 4: HỘI NGHỊ THÀNH LẬP ĐẢNG ? Ý
NGHĨA LỊCH SỬ CỦA SỰ KIỆN THÀNH LẬP ĐẢNG
?

1. Bối cảnh, yêu cầu cho sự ra đời của Đảng
Cộng sản
Sự chuyển biến mạnh mẽ các phong trào đấu tranh của
các tầng lớp nhân dân ngày cảng lên cao, nhu cầu thành lập
một chính đảng cách mạng có đủ khả năng tập hợp lực
lượng toàn dân tộc và đảm nhiệm vai trò lãnh đạo dự
nghiệp giải phòng dân tộc ngày càng trở nên bức thiết đối
với cách mạng Việt Nam lúc bấy giờ.

Đen năm 1929, trước sự phát triển mạnh mẽ của
phong trào cách mạng nước ta, tổ chức Hội Việt Nam Cách
mạng Thanh niên không còn thích hợp và đủ sức lãnh đạo
phong trào. Trước tình hình 'đó, tháng 3-1929, những
người lãnh đạo Kỳ bộ Bắc Kỳ quyết định lập Chi bộ cộng
sản đầu tiên ở Việt Nam.
Ngày 17-6-1929, Đông Dương Cộng sản Đảng được
thành lập thông qua Tuyên ngôn, Điều lệ và quyết định
xuất bản báo Búa liềm.
Trước ảnh hưởng của Đông Dương Cộng sản Đảng,
Kỳ bộ Nam Kỳ quyết định thành lập An Nam Cộng sản
Đảng (11-1929), xuất bản tờ báo Đỏ làm cơ quan ngôn
luận.
Tại Trung Kỳ, Tân Việt Cách mạng Đảng (một tổ chức
thanh niên yêu nước) chịu tác động của Hội Việt Nam
Cách mạng Thanh niên - đã thành lập Đông Dương Cộng
sản liên đoàn vào ngày 1-1-1930 tại Hà Tĩnh.
Ba tổ chức cộng sản ra đời đã khẳng định bước phát
triển quan trọng của phong trào cách mạng Việt Nam. Sự
ra đời ba tổ chức cộng sản ở ba miền đều tuyên bố ủng hộ
Quốc tế Cộng sản, kêu gọi Quốc tế Cộng sản thừa nhận tổ

chức của mình và đều tự nhận là đảng cách mạng chân
chính, tuy nhiên không tránh khỏi phân tán về lực lượng và
thiếu thống nhất về tổ chức. Trước tình hình đó, ngày 2710-1929, trong tài liệu của Quốc tế Cộng sản gửi những
người cộng sản Đông Dương nêu rõ: “Nhiệm vụ quan
trọng nhất và cấp bách nhất của tất cả những người cộng
sản Đông Dương là thành lập một đảng cách mạng có tính
chất giai cấp của giai cấp vô sản, nghĩa là một Đảng Cộng
sản có tính chất quần chúng ở Đông Dương. Đảng đó phải
chỉ có một và là tổ chức duy nhất ở Đông Dương”1.
Yêu cầu cấp thiết đặt ra là chấm dứt hiện tượng biệt
phái, chia rẽ giữa các nhóm cộng sản, phải thống nhất các
tổ chức cộng sản thành một chính đảng duy nhất ở Việt
Nam.
2. Hội nghị thành lập Đảng và nội dung Cương
lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng
2.1 Hội nghị thành lập Đảng
Trước nhu cầu cấp bách của phong trào cách mạng
trong nước, Nguyễn Ái Quốc đã đến Hương Cảng (Trung
Quốc) triệu tập Hội nghị họfp nhất các tổ chức cộng sản lại
thành một chính đảng duy nhất của Việt Nam. Trong Bảo
cảo gửi Quốc tế Cộng sản, ngày 18-2-1930, Nguyễn Ái
Quốc viết: “Lập tức tôi đi Trung Quốc, tới đó vào ngày 2312. Sau đó, tôi triệu tập các đại biểu của hai nhóm (Đông
Dương và An Nam). Chúng tôi họp vào ngày mồng 6-1.
Với tư cách là phái viên của Quốc tế Cộng sản có đầy đủ
quyền quyết định mọi vấn đề liên quan đến phong trào
cách mạng ở Đông Dương, tôi nói cho họ biết những sai
lầm và họ phải làm gì. Họ đồng ý thống nhất vào một
đảng. Chúng tôi cùng nhau xác định cương lĩnh và chiến
lược theo đường lối của Quốc tế Cộng sản... Các đại biểu
trở về An Nam ngày 8-2”1.

Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc nêu ra năm điểm lớn cần
thảo luận và thống nhất, trước hết là: “bỏ mọi thành kiến
xung đột cũ, thành thật hợp tác để thống nhất các nhóm
cộng sản Đông Dương”3. Hội nghị thảo luận, tán thành ý
kiến chỉ đạo của Nguyễn Ái Quốc, hợp nhất các tổ chức
cộng sản thành một đảng, lấy tên là Đảng Cộng sản Việt
Nam. Hội nghị thông qua các văn kiện do lãnh tụ Nguyễn
Ái Quốc soạn thảo. Đó là các văn kiện: Chánh cương vắn
tắt của Đảng, Sách lược van tắt của Đảng, Chương trình

9


tóm tắt của Đảng, Điều lệ vắn tắt của Đảng Cộng sản
Việt Nam.
Trong Điều lệ vắn tắt của Đảng Cộng sản Việt Nam xác
định rõ tôn chỉ mục đích của Đảng: Đảng Cộng sản Việt
Nam tổ chức ra đê lãnh đạo quân chúng lao khô làm giai
câp tranh đâu đê tiêu trừ tư bản đế quốc chủ nghĩa, làm cho
thực hiện xã hội cộng sản. Quy định điều kiện vào Đảng là
những người: “Tin theo chủ nghĩa cộng sản, chương trình
đảng và Quốc tế Cộng sản, hăng hái tranh đấu và dám hi
sinh phục tùng mệnh lệnh Đảng và đóng kinh phí, chịu
phấn đấu trong một bộ phận đảng”1.
Chủ trương của Hội nghị là các đại biểu về nước phải
tổ chức một Trung ương lâm thời gồm 7 ủy viên chính thức
và 7 ủy viên dự khuyết để lãnh đạo cách mạng Việt Nam.
Hệ thống tổ chức đảng từ chi bộ, huyện bộ, thị bộ hay khu
bộ, tỉnh bộ, thành bộ hay đặc biệt bộ và Trung ương. Đảng
viên có trách nhiệm:

- Tuyên truyền chủ nghĩa cộng sản và cổ động quần
chúng theo Đảng.
- Tham gia mọi sự tranh đấu về chính trị và kinh tế
của công nông.
- Phải thực hành cho được chính sách và nghị quyết
của Đảng về Quốc tế Cộng sản.
- Điều tra các việc.
- Kiểm và huấn luyện Đảng viên mới”2.
Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam dưới sự
chủ trì của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc có giá trị như một đại
hội Đảng. Những văn kiện được thông qua trong Hội nghị
họp nhất dù “vắt tắt”, nhưng đã phản ánh những vấn đề cơ
bản trước mắt và lâu dài cho cách mạng Việt Nam, đưa
cách mạng Việt Nam sang một bước ngoặt lịch sử vĩ đại.
Tố chức Đông Dương Cộng sản liên đoàn (tổ chức
cộng sản được thành lập ở Trung Kỳ) đến ngày 24-2-1930
xin gia nhập Đảng Cộng sản Việt Nam.
2.1 Nội dung cơ bản của cương lĩnh chính trị đầu tiên
của Đảng
Chánh cương vắn tắt của Đảng, Sách lược vắn tắt
của Đảng được thông qua tại Hội nghị thành lập Đảng đã
phản ánh về đường hướng phát triển và những vấn đề cơ
bản về chiến lược và sách lược của cách mạng Việt Nam.
Vì vậy, có thể khẳng định rằng Chánh cương vắn tắt của
Đảng, Sách lược vắn tắt của Đảng là Cương lĩnh chính trị
đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Chánh cương vắn tắt của Đảng phân tích, đánh giá
khái quát đặc điểm cơ bản nhất của kinh tế - xã hội Việt
Nam dưới chế độ thuộc địa nửa phong kiến. Đặc biệt phân
tích tính chất độc quyền khai thác thuộc địa của tư bản

Pháp, gây nên hậu quả kìm hãm sự phát triển kinh tế của
Việt Nam. Từ đó, Chánh cương xác định:
- Đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam
“chủ trương làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa
cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”.
- Về nhiệm vụ và mục tiêu cụ thể, chủ yếu trước mắt
của cách mạng Việt Nam: “Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa
Pháp và bọn phong kiến”, “làm cho nước Nam được hoàn
toàn độc lập”. Cương lĩnh đã xác định: Chống đế quốc và
chống phong kiến là nhiệm vụ cơ bản để giành độc lập cho
dân tộc và ruộng đất cho dân cày, trong đó chống đé quốc,
giành độc lập cho dân tộc đưọc đặt ở vị trí hàng đầu. Để
sau đó: “Dựng ra chính phủ công nông binh”, “thâu hết sản
nghiệp lớn (như công nghiệp, vận tải, ngân hàng, v.v.) của
tư bản đế quốc chủ nghĩa Pháp để giao cho Chính phủ

công nông binh quản lý”. Trong đó, trước hết là “thâu hết
ruộng đất của đế quốc chủ nghĩa làm của công chia cho
dân cày nghèo”.
- về lực lượng cách mạng: Xác định lực lượng cách
mạng phải đoàn kết công nhân, nông dân - đây là lực
lượng cơ bản, trong đó giai cấp công nhân lãnh đạo; đồng
thời chủ trương đoàn kết tất cả các giai cấp, các lực lượng
tiến bộ, yêu nước để tập trung chống đế quốc và tay sai.
- về phương pháp tiến hành cách mạng giải phóng
dân tộc, Cương lĩnh khẳng định phải bằng con đường bạo
lực cách mạng chứ không thể là con đường cải lương thỏa
hiệp - “không khi nào nhượng một chút lợi ích gì của công
nông mà đi vào đường thỏa hiệp”1. Có sách lược đấu tranh
cách mạng thích hợp để lôi kéo tiểu tư sản, trí thức, trung

nông về phía giai cấp vô sản, còn “bộ phận nào đã ra mặt
phản cách mạng (Đảng Lập hiến, v.v.) thì phải đánh đổ”.
- Về quan hệ quốc tế: Phát huy tinh thần tự lực tự
cường, đồng thời tranh thủ sự đoàn kết, ủng hộ của các dân
tộc bị áp bức và giai cấp vô sản thế giới, nhất là giai cấp vô
sản Pháp. Cương lĩnh nêu rõ cách mạng Việt Nam liên lạc
mật thiết và là một bộ phận của cách mạng vô sản thế giới.
- về vai trò lãnh đạo của Đảng: với tư cách là đội
tiên phong của giai cấp vô sản, Sách lược vắn tắt của
Đảng ghi rõ: “Đảng là đội tiên phong của vô sản giai cấp
phải thu phục cho được đại bộ phận giai cấp mình, phải
làm cho giai cấp mình lãnh đạo được sản gồm một số lớn
của giai cấp công nhân và làm cho họ có đủ năng lực lãnh
đạo quần chúng”.
3. Ý NGHĨA LỊCH sử CỦA sự KIỆN THÀNH LẬP
ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VÀ CƯƠNG LĨNH
CHÍNH TRỊ ĐẦU TIÊN CỦA ĐẢNG
3.1 Ý nghĩa lịch sử của sự kiện thành lập Đảng
Cộng sản Việt Nam
- Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là bước ngoặt quan
trọng trong lịch sừ cách mạng Việt Nam. Sự kiện lịch sử vĩ
đại ấy đã chấm dứt sự khủng hoảng về đường lối cứu nước
và tổ chức lãnh đạo phong trào yêu nước Việt Nam đầu thế
kỷ XX.
- Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam là sản phẩm
của sự kết hợp chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh với phong trào công nhân và phong trào yêu nước
Việt Nam. Đó là sự phản ánh quy luật ra đời và cội nguồn
sức mạnh của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đồng thời là sự
vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác- Lênin vào đặc điểm của

dân tộc Việt Nam và là công lao to lớn của lãnh tụ Nguyễn
Ái Quốc - Hồ Chí Minh trong công cuộc vận động thành
lập một chính đảng vô sản ở Việt Nam - một nước thuộc
địa nửa phong kiến.
- Đảng Cộng sản Việt Nam thành lập đã khẳng định
dứt khoát nội dung, xu hướng phát triển của xã hội Việt
Nam là gắn liền độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội. Sự
lựa chọn con đường cách mạng vô sản phù họp với nội
dung và xu thế của thời đại mới được mở ra từ Cách mạng
Tháng Mười Nga vĩ đại: “Đối với nước ta, không còn con
đường nào khác để có độc lập dân tộc thật sự và tự do,
hạnh phúc cho nhân dân. cần nhấn mạnh rằng đây là sự lựa
chọn của chính lịch sử, sự lựa chọn đã dứt khoát từ năm
1930 với sự ra đời của Đảng ta”1. Với sự ra đời của Đảng
Cộng sản Việt Nam, cách mạng Việt Nam trở thành một bộ
1

10


phận khăng khít của cách mạng vô sản thế giới.
- Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là một bước ngoặt
quyết định trong sự phát triển của dân tộc ta, tạo những
tiền đề và nhân tố hàng đầu quyết định đưa cách mạng Việt
Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.
3.2 Ý nghĩa cương lĩnh chính trị đầu tiên đối với
tiến trình cách mạng Việt Nam
- Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng đã phản ánh
một cách súc tích các luận điểm cơ bản về đường lối chiến
lược và sách lược của cách mạng Việt Nam. Trong đó, thể

hiện bản lĩnh chính trị độc lập, tự chủ, sáng tạo trong việc
đánh giá đặc điểm, tính chất xã hội thuộc địa nửa phong
kiến Việt Nam trong những năm 20 của thế kỷ XX, chỉ rõ
những mâu thuẫn cơ bản và chủ yếu của dân tộc Việt Nam
lúc đó, đặc biệt là việc đánh giá đúng đắn, sát thực thái độ
các giai tầng xã hội đối với nhiệm vụ giải phóng dân tộc.
- Cương lĩnh chính trị phản ánh được quy luật khách
quan của xã hội Việt Nam, đáp ứng những nhu cầu cơ bản
và cấp bách của xã hội Việt Nam, phù họp với xu thế của
thời đại, định hướng chiến lược đúng đắn cho tiến trình
phát triển của cách mạng Việt Nam.
- Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng là sự vận
dụng đúng đăn, sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào hoàn
cảnh cụ thê của một nước thuộc địa nửa phong kiến. Đó
chính là giải quyết đúng đắn các mối quan hệ cốt lõi trong
cách mạng Việt Nam: Kết hợp đúng đắn vấn đề giai cấp và
vấn đề dân tộc; kết hợp truyền thống yêu nước và tinh thần
cách mạng của nhân dân ta với những kinh nghiệm của
cách mạng thế giới; kết họp chủ nghĩa yêu nước với chủ
nghĩa quốc tế trong sáng; đặc biệt là sự kết hợp nhuân
nhuyễn và đầy sáng tạo, đặc điểm thực tiễn, yêu cầu của
cách mạng Việt Nam với tư tưởng tiên tiến cách mạng của
thời đại. Vận dụng chủ nghĩa Mác-Lênin vào thực tiễn
cách mạng Việt Nam một cách đúng đắn, sáng tạo và có
phát triển trong điều kiện lịch sử mới.
- Cương lĩnh chính trị đầu tiên đã khẳng định dứt
khoát nội dung, xu hướng phát triển của xã hội Việt Nam
là gắn liền độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội. Sự lựa
chọn con đường xã hội chủ nghĩa là phù hợp với nội dung
và xu thế cách mạng của thời đại mới được mở ra từ Cách

mạng Tháng Mười Nga vĩ đại.

VẤN ĐỀ 5: NHỮNG CHỦ TRƯƠNG VÀ BIỆN
PHÁP LỚN CỦA ĐẢNG ĐỂ XÂY DỰNG VÀ BẢO
VỆ CHÍNH QUYỀN CÁCH MẠNG? Ý NGHĨA
LỊCH SỬ VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM CỦA
CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ CỨU NƯỚC?

I. NHỮNG CHỦ TRƯƠNG VÀ BIỆN PHÁP
LỚN CỦA ĐẢNG ĐỂ XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ
CHÍNH QUYỀN CÁCH MẠNG
1.
1. Tình
hình thế giới
và Việt Nam
sau
Cách
mạng Tháng
Tám năm 1945
1.1 Tình hình thế giới
- Hệ thống xã hội chủ nghĩa đã hình thành. Uy tín
và ảnh hưởng của Liên Xô không ngừng được mở rộng.
- Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, lực lượng
cách mạng Trung Quốc đã giải phóng phần lớn phía Bắc
với gần 100 triệu dân.
- Phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân và
nhân dân lao động ở các nước tư bản chủ nghĩa đòi tự
do, dân chủ, đòi cải thiện đời sống đã diễn ra sôi nổi và
rộng lớn. Ở một số nước như Italia, Pháp, Đảng Cộng
sản có vị trí quan trọng trong đời sống chính trị của đất

nước.
- Các nước đế quốc chủ nghĩa đang bị chấn động:
Những hậu quả chiến tranh để lại rất nặng nề, bị kiệt
quệ về kinh tế và tiềm lực quốc phòng; chính trị, xã hội
rối ren, khủng hoảng nghiêm trọng; đời sống nhân dân
vô cùng khó khăn.
- Lực lượng hòa bình, dân tộc, dân chủ trên thế giới
đang trên đà tiến công mạnh mẽ vào chủ nghĩa đế quốc
và thế lực phản cách mạng dưới nhiều hình thức và tính
chất khác nhau. Song các lực lượng đế quốc và các thế
lực phản cách mạng cũng đang tìm mọi cách để phục
hồi và phát triển vai trò của mình, phản kích mạnh mẽ
các lực lượng hòa bình, dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã
hội.
Những mâu thuẫn trên thế giới đang diễn biến khá
phức tạp và ngày càng gay gắt, mà chủ yếu là mâu thuẫn
giữa các lực lượng hòa bình, dân tộc, dân chủ và chủ
nghĩa xã hội (do Liên Xô là trụ cột) với các nước đế
quốc và lực lượng phản động do Mỹ cầm đầu.
1.2 Tình hình trong nước
Thuận lợi
- Sau CMT8 đất nước VN có những thay đổi sâu
sắc, chính quyền cách mạng được thiết lập có hệ thống
từ trung ương đến địa phương;
- Có sự lãnh đạo của Đảng và chủ tịch HCM;
- Có khối đoàn kết toàn dân;
- Có đội quân chính quy để bảo vệ nhà nước.
Khó khăn: Bên cạnh những thuận lợi, Nhà nước
Việt Nam trẻ tuổi và cả dân tộc phải đương đầu với
muôn vàn khó khăn, thách thức.

- Đất nước bị chiến tranh tàn phá nặng nề. Kinh tế
xã hội hết sức nghèo nàn và lạc hậu. Ngân khố quốc gia
sau tổng khởi nghĩa chỉ còn 1.233.000 đồng, trong đó
hơn một nửa là tiền rách không thể lưu hành được.
Ngân hàng Đông Dương vẫn nằm trong tay thực dân đế
quốc. Việc buôn bán, giao lưu trao đổi với nước ngoài
bị đình trệ, nền tài chính trong tình trạng gần như trống
rỗng.
- về tình hình xã hội, hơn 90% dân số Việt Nam mù

11


chừ, các tệ nạn xã hội, hủ tục lạc hậu của chế độ cũ thực
sự là gánh nặng cho chính quyền cách mạng non trẻ.
- Sau Cách mạng Tháng Tám các thế lực chính trị
phản động chống phá cách mạng rất quyết liệt.
- Thù trong, giặc ngoài cấu kết hòng tiêu diệt nhà
nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á. Vận
mệnh dân tộc như “ngàn cân treo sợi tóc”.
2. Những chủ trương và biện pháp lớn của Đảng
1
2.1 Xây dựng, củng cố,
bảo vệ chính quyền cách
mạng và chế độ xã hội
mới
- Ngày 3-9-1945 tại Bắc Bộ phủ, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã chủ trì phiên họp đầu tiên của Chính phủ lâm
thời. Người đã thay mặt Chính phủ nêu lên “những
nhiệm vụ cấp bách của Nhà nước Việt Nam Dân chủ

Cộng hòa”: giải quyết nạn đói, nạn dốt; tổ chức tổng
tuyển cử, giáo dục tinh thần tiết kiệm của nhân dân
bằng cách thực hiện: Cần, kiệm, liêm, chính; bỏ những
thứ thuế vô nhân đạo; cấm hút thuốc phiện và đề nghị
Chính phủ tuyên bố “tín ngưỡng tự do và lương giáo
đoàn kết”.
- Ngày 25-11-1945, Trung ương Đảng ra Chỉ thị
“Kháng chiến, kiến quốc”, trong đó xác định nhiệm vụ
trước mắt: “Nhiệm vụ riêng trong nước là phải củng cố
chính quyền, chống thực dân Pháp xâm lược, bài trừ
nội phản, cải thiện đời sống cho nhân dân”.
Ngày 6-1-1946, cuộc Tổng tuyển cử toàn quốc đã
thu được thắng lợi to lớn. Chủ tịch Hồ Chí Minh trúng
cử tại Hà Nội với số phiếu cao nhất 98,4%. Ngày 2-31946 tại phiên họp đầu tiên, Quốc hội khóa I đã chỉ định
Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu Chính phú liên hiệp
kháng chiến gồm 12 thành viên. Ỏ các địa phương, nhân
dân đã bầu ra Hội đồng nhân dân các cấp. Hội đồng
nhân dân cử ra ủy ban hành chính thay cho ủy ban lâm
thời được thành lập trong tổng khởi nghĩa. Ngày 9-111946 tại kỳ họp thứ hai, Quốc hội đã thông qua bản
Hiến pháp dân chủ đầu tiên của nước ta. Với sự ra đời
của Hiến pháp năm 1946, tính hợp hiến và hợp pháp của
Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được xác lập.
Nhằm tăng cường sức mạnh về chính trị, Đảng
Cộng sản Đông Dương và Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ
trương mở rộng khối đoàn kết toàn dân. Ngày 29-51946, Hội Liên hiệp quốc dân Việt Nam được thành lập.
Đảng Xã hội Việt Nam ra đời ngày 22-7-1946 các đoàn
thể như công thương cứu quốc, sinh viên cứu quốc, công
nhân cứu quốc, thanh niên cứu quốc lần lượt mở hội
nghị để thống nhất tổ chức và hành động. Để mở rộng
Mặt trận đoàn kết, Nha dân tộc thiểu số được thành lập.

Hội nghị các dân tộc thiểu số toàn quốc được tổ chức
tháng 12-1945 và Hội nghị đại biểu các dân tộc thiểu số
khu vực miền Nam họp tháng 4-1946.
1
Khối đại đoàn kết toàn
dân mà nòng cốt là Mặt
trận Việt Minh và Hội
Liên hiệp quốc dân Việt
Nam là cơ sở chính trị xã hội rộng lớn, là chồ
dựa cho chính quyền

nhân dân trong những
năm tháng đầu tiên
quản lý đất nước,
chống thù trong, giặc
ngoài.
2.2 Khắc phục những khó khăn về kinh tế, văn hóa,
xã hội
Phong trào diệt giặc đói được phát động trên cả
nước. Trong thư gửi nhân dân toàn quốc về việc chống
giặc đói, Chủ tịch Hồ Chí Minh đề nghị: líCứ mười
ngày nhịn ăn một bừa, mỗi tháng nhịn ba bừa. Đem
gạo đó (mỗi bừa một bơ) để cứu dân nghèo” 1. Cả nước
dấy lên nhiều phong trào: “Hũ gạo tiết kiệm”, “ngày
đồng tâm”, “tăng gia sản xuất”, “tấc đất, tấc vàng”, khai
hoang phục hóa, khôi phục hầm mỏ, xí nghiệp, nhà
máy, V.V.. Đồng thời, Chính phủ lâm thời ký một loạt
các sắc lệnh quan trọng: sắc lệnh ngày 7-9-1945, bãi bỏ
thuế thân; ngày 26-10-1945, Chính phủ ban hành nghị
định giảm thuế 20% và miễn thuế hoàn toàn cho đồng

bào vùng bị lụt bão; ngày 16-11-1945, Chính phủ ra
thông tư về việc tạm chia ruộng đất công cho dân cày
nghèo. Đen cuối 1945, đầu năm 1946 nạn đói về cơ bản
bị đẩy lùi, đời sổng nhân dân bước đầu ổn định.
Để khắc phục khó khăn cho nền tài chính quốc gia,
Chính phủ phát động “tuần lễ vàng”, “quỹ độc lập” và
“quỹ đảm phụ quốc phòng”. Trong tuần lễ vàng tò ngày
17 đến ngày 24-9-1945 nhân dân đóng góp 370 kg vàng
và 60 triệu đồng.
Để chống lại nạn dốt, ngày 8-9-1945 Chính phủ ra
sắc lệnh thành lập Nha bình dân học vụ. Trong lời kêu
gọi Chống nạn thất học, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ:
“Muốn giữ vững nền độc lập, muốn làm cho dân mạnh
nước giàu. Mọi người Việt Nam phải hiểu biết quyền lợi
của mình, bổn phận của mình, phải có kiến thức mới để
có thể tham gia vào công việc xây dựng nước nhà, và
trước hết phải biết đọc, biết viết chữ quốc ngữ”1.
Hưởng ứng lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh,
phong trào xóa mù chữ đã phát triển rộng khắp cả nước.
Chỉ trong một thời gian ngắn đã có 2,5 triệu người biết
đọc, biết viết. Thắng lợi của diệt giặc đói và diệt giặc
dốt có ý nghĩa to lớn về mặt chính trị, xã hội và văn hóa.
Đây là một trong những nhân tố chủ yếu đầu tiên tạo
nên sự ổn định chính trị, niềm tin của nhân dân vào
Đảng và Chính phủ do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu.
2.3 Tiến hành kháng chiến chống thực dân Pháp & Nam Bộ
Ngày 23-9-1945, thực dân Pháp nổ súng đánh chiếm Nam Bộ,
mở đầu cuộc xâm lược nước ta lần thứ hai.
- Cuối tháng 10-1945, quân Pháp được tăng viện đã phá vỡ
vòng vây Sài Gòn - Chợ Lớn và mở rộng đánh chiếm toàn

miền Nam. Ngày 25-10-1945, Xứ ủy Nam Bộ họp tại Thiên
Hộ (Mỹ Tho) đã kiểm điểm tình hình cuộc kháng chiến và đề
ra các biện pháp về quân sự, chính trị, xây dựng chính quyền,
v.v. để tiếp tục đẩy mạnh kháng chiến. Bản Chỉ thị về Kháng
chiến kiến quốc của Ban Chấp hành Trung ương Đảng ngày
25-11-1945 nêu rõ: “Cuộc cách mạng Đông Dương lúc này
vẫn là cuộc cách mạng dân tộc giải phóng... Khẩu hiệu vẫn là
“dân tộc trên hết” “tổ quốc trên hết”. Kẻ thù chính của ta lúc
này là thực dân Pháp xâm lược. Phải tập trung ngọn lửa đấu
tranh vào chúng”1. Tháng 12-1945, ủy ban kháng chiến miền

12


Nam Việt Nam được thành lập.
2.4 Đẩu tranh trên mặt trận ngoại giao
Để tránh đương đầu với nhiều kẻ thù cùng một lúc,
Đảng ta đã có những đối sách hòa hoãn thích hợp với
từng kẻ thù và lợi dụng mâu thuẫn giữa các kẻ thù để
phân hóa, loại bỏ chúng.
1
- Tạm hòa với Tưởng
ở miền Bắc để tập
trung chống Pháp ở
miền Nam (từ tháng 91945 đến tháng 31946):
Mục tiêu nhân nhượng: Tạm hòa hoãn với Tưởng
để có thời gian xây dựng lực lượng về mọi mặt, chuẩn
bị cho kháng chiến toàn quốc.
Nguyên tắc nhân nhượng: Giữ vững vai trò lãnh
đạo của Đảng, chính quyền cách mạng và mục tiêu độc

lập dân tộc thống nhất đất nước.
Nội dung hòa hoãn, nhân nhượng với Tưởng:
về kinh tế, ta cung cấp lương thực, thực phẩm cho
20 vạn quân Tưởng, thỏa mãn các nhu cầu tối thiểu về
nhà ở, điều kiện sinh hoạt cho quân đội Tưởng, cho lưu
hành đồng tiền quan kim trên thị trường.
về chính trị, ta chấp nhận mở rộng thành phần
Chính phủ liên hiệp lâm thời cho Việt Quốc, Việt Cách
tham gia và chấp nhận dành 70 ghế trong Quốc hội cho
Việt Quốc, Việt Cách tham gia không qua bầu cừ.
về quân sự, tránh mọi xung đột với quân đội
Tưởng. Sách lược tạm hòa hoãn với Tưởng đã làm thất
bại âm mưu lật đổ chính quyền dân chủ nhân dân Việt
Nam của Quốc dân Đảng Trung Hoa, tạo điều kiện cho
nhân dân ta có thêm thời gian củng cố và xây dựng lực
lượng về mọi mặt, chuẩn bị bước vào cuộc kháng chiến
chống thực dân Pháp xâm lược.
2
- Hòa hoãn với thực
dân Pháp, xây dựng
và phát triển lực
lượng cách mạng,
chuẩn bị mọi mặt cho
cuộc kháng chiến toàn
quốc (từ thảng 3-1946
đến tháng 12-1946):
Ngày 28-2-1946, chính quyền Tưởng và thực dân
Pháp ký kết Hiệp ước Hoa - Pháp, theo đó Tưởng tạo
điều kiện cho Pháp đưa quân ra miền Bắc nước ta thay
thế quân Tưởng. Trước sự thay đổi của tình hình, Đảng

chủ trương chuyển sang thực hiện sách lược hòa hoãn,
nhân nhượng với Pháp.
Mục đích của sách lược nhằm đuổi ngay quân
Tưởng về nước, tránh cùng lúc đối phó nhiều kẻ thù và
bảo toàn thực lực, tranh thủ thời gian hòa hoãn để chuẩn
bị cho cuộc chiến đấu mới.
Ngày 6-3-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Vũ Hồng
Khanh đã ký vói đại diện Chính phủ Pháp J.Xanhtomy
Hiệp định sơ bộ về quan hệ Việt - Pháp.
Ngày 9-3-1946, Ban Thường vụ Trung ương Đảng
ra Chỉ thị Hòa để tiến nêu rõ ý nghĩa quan trọng của
việc ký hiệp định với Pháp nhằm thống nhất tư tưởng
trong toàn Đảng, đồng thời nhấn mạnh việc cảnh giác

đề phòng, chuẩn bị sẵn sàng chiến đấu nếu Pháp bội
ước.
Sau Hiệp định sơ bộ 6-3, nhiều hoạt động trên mặt trận
ngoại giao được đẩy mạnh nhằm đi đến một hội nghị
chính thức. Ngày 24-3-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
có cuộc hội đàm với Đắcgiăngliơ - Cao ủy Pháp ở Đông
Dương tại Hạ Long quyết định họp Hội nghị trù bị tại
Đà Lạt trước khi tiến hành đàm phán chính thức tại Pari.
Ngày 16-4-1946, phái đoàn Quốc hội Việt Nam do đồng
chí Phạm Văn Đồng dẫn đầu sang thăm nước Pháp.
Hội nghị trù bị diễn ra tại Đà Lạt từ ngày 19-4-1946
đến ngày 11-5-1946 thì bế tắc do thực dân Pháp vẫn cố
tình chia cắt đất nước ta.
Ngày 31-5-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh và phái
đoàn Việt Nam lên đường thăm chính thức Pháp theo lời
mời của Chính phủ Pháp.

Hội nghị Việt - Pháp diễn ra tại Phôngtennơblô từ
ngày 6-7-1946 đến ngày 10-9-1946 thì bế tắc. Ngày 149-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký với M.Mute Bộ
trưởng Hải ngoại Pháp bản Tạm ước nhằm tiếp tục tìm
một giải pháp hòa bình cho cuộc xung đột Pháp - Việt.
Các nỗ lực ngoại giao của Chính phủ Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa sau Tạm ước 14-9-1946 đều bị tư tưởng
hiếu chiến của các thế lực thực dân phá bỏ. Đêm 19-121946, cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ, sự hòa hoãn
với thực dân Pháp chấm dứt.
1
Những kinh
nghiệm của Đảng về
xây dựng và bảo vệ
chính quyền cách mạng
Quá trình xây dựng và bảo vệ chính quyền nhà
nước trong những năm 1945-1946 đã để lại những kinh
nghiệm có ý nghĩa căn bản đối với sự nghiệp cách mạng
của toàn Đảng, toàn dân.
Nhanh chóng xác lập cơ sở pháp lý và tính hợp hiến
của chính quyền nhà nước, chăm lo xây dựng và củng
cố bộ máy chính quyền nhân dân tò Trung ương đến tận
cơ sở.
Xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân, phát huy sức
mạnh của toàn dân để xây dựng và bảo vệ những thành
quả chính quyền cách mạng. Đồng thời tranh thủ thời
gian chuẩn bị những điều kiện thiết yếu để sẵn sàng đối
phó với cuộc chiến tranh có thể xảy ra.
Triệt để lợi dụng mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ thù,
thực hiện sự nhân nhượng có nguyên tắc về chính sách
ngoại giao thêm bạn bớt thù.
Đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước

trong mọi hoàn cảnh, nhất là trong tình hình có nhiều
đảng phái đối lập và sự chống phá của các loại kẻ thù.
Sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Nhà nước Việt Nam
trong những năm 1945-1946 đã khẳng định được sức
mạnh và tính ưu việt của một thể chế chính trị mới
trong lịch sử phát triển của đất nước và con người Việt
Nam.
II. Ý NGHĨA LỊCH SỬ VÀ BÀI HỌC KINH
NGHIỆM CỦA CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG
MỸ CỨU NƯỚC?
1
Ý nghĩa lịch sử, kỉnh
nghiệm
của
cuộc

13


kháng chiến
Mỹ, cứu nước

chống

1. Ý nghĩa lịch sử
- Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu
nước là đỉnh cao của bản anh hùng ca về lòng yêu nước
và tự hào dân tộc. Đây là một trong những chiến thắng
vĩ đại nhất trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc
Việt Nam, một trong những thắng lợi vĩ đại của dân tộc

Việt Nam trong thế kỷ XX. Thắng lợi đó đã chấm dứt
117 năm chống lại các thế lực thực dân, đế quốc xâm
lược, hoàn thành sự nghiệp giải phóng miền Nam, kết
thúc cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trên cả
nước, thu giang sơn về một mối, hoàn thành sự nghiệp
thống nhất Tổ quốc.
- Dân tộc Việt Nam đã làm phá sản chủ nghĩa thực
dân kiểu mới của đế quốc Mỹ, mở ra một kỷ nguyên
mới cho dân tộc Việt Nam: kỷ nguyên cả nước hòa bình,
độc lập, thống nhất và đi lên chủ nghĩa xã hội. Thắng lợi
của nhân dân Việt Nam đã góp phần làm thay đổi tương
quan lực lượng có lợi cho chủ nghĩa xã hội, cổ vũ động
viên phong trào đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân
kiểu mới của Mỹ trên phạm vi thế giới.
- Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu
nước khẳng định tính đúng đắn, khoa học và sáng tạo
của đường lối chiến tranh nhân dân dưới ánh sáng lý
luận Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Đó là đường
lối kháng chiến độc lập, tự chủ của Đảng Cộng sản Việt
Nam, là sự hiện thực hóa của sợi chỉ đỏ: kết hợp mục
tiêu độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội, tạo nên xung
lực cho sự nghiệp thống nhất Tổ quốc. Lý luận cách
mạng sáng tạo, đường lối đúng đắn đã trở thành ngọn cờ
tập hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, kết
họp yếu tố trong nước với quốc tế, phối hợp nhịp nhàng
sức mạnh của hai miền Nam - Bắc để đi tới thăng lợi
cuối cùng.
- Chính sức mạnh của chủ nghĩa xã hội, sức mạnh
của chính nghĩa, sức mạnh của các dân tộc đang đấu
tranh cho hòa bình, độc lập đã góp phần vào thắng lợi

của cuộc kháng chiến.
- Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu
nước đã mở ra một thời kỳ mới cho dân tộc Việt Nam,
thời kỳ cả nước thống nhất đi lên chủ nghĩa xã hội. Việt
Nam trở thành ngọn cờ tiêu biểu cho phong trào đấu
tranh vì độc lập dân tộc, hòa bình và tiến bộ xã hội.
Một số kinh nghiệm
- Kiên định mục tiêu, giữ vững độc lập tự chủ, xây
dựng đường lối và phương pháp cách mạng đúng đắn,
sáng tạo, phù họp với thực tiễn Việt Nam.
- Đó là đường lối tiến hành đồng thời hai chiến lược
cách mạng ở hai miền đất nước nhằm thực hiện mục
tiêu chung là hoàn thành sự nghiệp cách mạng dân tộc
dân chủ, thống nhất Tổ quốc và đi lên chủ nghĩa xã hội.
Nhờ sự kết họp này đã động viên, tập họfp sức mạnh
của chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa yêu nước, sức mạnh của
hậu phương và tiền tuyến tạo nên sức mạnh cả nước
đánh Mỹ.
- Cùng với sự đúng đắn của đường lối kháng chiến,
phương pháp cách mạng trong chống Mỹ rất sáng tạo:
nhiều cách đánh, nhiều hình thức đấu tranh, nhiều lực

lượng phối họp, nhiều vùng chiến lược tạo nên sức
mạnh tổng hợp để đánh thắng.
Xây dựng căn cứ địa cách mạng và hậu phương chiến
tranh vững chắc cho sự nghiệp giải phóng miền Nam,
thống nhất đất nước.
- Từ đầu cuộc kháng chiến, Đảng xác định miền
Bắc là hậu phương của cách mạng cả nước. Đồng thời,
Đảng chủ trương xây dựng một hệ thống các căn cứ địa

tại chỗ ở miền Nam và hệ thống giao thông trên bộ, trên
biển nối liền Bắc - Nam với Lào và Campuchia. Nghị
quyết Đại hội IV của Đảng nhấn mạnh: “Không thể nào
có thắng lợi của sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu
nước nếu không có miền Bắc xã hội chủ nghĩa” 1. Từ hậu
phương miền Bắc, hệ thống căn cứ địa cách mạng đã
nối thông, liên hoàn với các chiến trường và với hệ
thống các nước xã hội chủ nghĩa. Đây là nguồn sức
mạnh, là nguồn gốc của chiến thắng.
- Thực hiện đoàn kết dân tộc với đoàn kết quốc tế
trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền, lợi ích của
các nước ừong cộng đồng thế giới.
- Trên cơ sở sự đoàn kết của dân tộc, của Đảng, của
các giai cấp, tầng lớp vì mục tiêu đánh Mỹ và thắng Mỹ,
Việt Nam đã mở rộng đoàn kết với các nước láng giềng,
bè bạn khắp thế giới. Đó là liên minh với Lào và
Campuchia trên cơ sở Đông Dương là một chiến trường.
Tranh thủ sự ủng hộ, giúp đỡ của các nước xã hội chủ
nghĩa, bè bạn yêu hòa bình, chống chiến tranh trên khắp
thế giới, kể cả nhân dân tiến bộ Mỹ. Vừa khai thác hiệu
quả sức mạnh quốc tế, thời đại, Đảng ta đã phát huy cao
nhất sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc để nhân lên sức
mạnh đánh thắng đế quốc Mỹ.
- Xây dựng Đảng và đội ngũ cán bộ ngang tầm với
nhiệm vụ và yêu cầu của cuộc kháng chiến.
- Vừa hoạch định đường lối, Đảng vừa chỉ đạo trực
tiếp cuộc kháng chiến trên từng thời điểm, từng giai
đoạn, từng quyết định. Để hoàn thành trọng trách lớn lao
đó của lịch sử, Đảng đã luôn coi trọng công tác xây
dựng Đảng, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ vừa

hồng, vừa chuyênỄ Đảng gắn bó với nhân dân, với dân
tộc, với phong trào cách mạng của nhân dân. Ở trong
môi trường đó, Đảng đã trưởng thành, hoàn thành xuất
sắc vai trò là người lãnh đạo cuộc kháng chiến đi tới
thắng lợi.
- Cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc, thống nhất
Tổ quốc diễn ra suốt ba mươi năm. Với sức mạnh của
toàn dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng, chiến thắng đã
thuộc về nhân dân ta vì đó là quy luật của lịch sử, là sự
tiếp nối truyền thống dựng nước và giữ nước của dân
tộc Việt Nam.

14


VẤN ĐỀ 5: NHỮNG CHỦ TRƯƠNG VÀ BIỆN
PHÁP LỚN CỦA ĐẢNG ĐỂ XÂY DỰNG VÀ BẢO
VỆ CHÍNH QUYỀN CÁCH MẠNG? Ý NGHĨA
LỊCH SỬ VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM CỦA
CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ CỨU NƯỚC?
I. NHỮNG CHỦ TRƯƠNG VÀ BIỆN PHÁP
LỚN CỦA ĐẢNG ĐỂ XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ
CHÍNH QUYỀN CÁCH MẠNG
2.
1. Tình
hình thế giới
và Việt Nam
sau
Cách
mạng Tháng

Tám năm 1945
1.1 Tình hình thế giới
- Hệ thống xã hội chủ nghĩa đã hình thành. Uy tín
và ảnh hưởng của Liên Xô không ngừng được mở rộng.
- Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, lực lượng
cách mạng Trung Quốc đã giải phóng phần lớn phía Bắc
với gần 100 triệu dân.
- Phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân và
nhân dân lao động ở các nước tư bản chủ nghĩa đòi tự
do, dân chủ, đòi cải thiện đời sống đã diễn ra sôi nổi và
rộng lớn. Ở một số nước như Italia, Pháp, Đảng Cộng
sản có vị trí quan trọng trong đời sống chính trị của đất
nước.
- Các nước đế quốc chủ nghĩa đang bị chấn động:
Những hậu quả chiến tranh để lại rất nặng nề, bị kiệt
quệ về kinh tế và tiềm lực quốc phòng; chính trị, xã hội
rối ren, khủng hoảng nghiêm trọng; đời sống nhân dân
vô cùng khó khăn.
- Lực lượng hòa bình, dân tộc, dân chủ trên thế giới
đang trên đà tiến công mạnh mẽ vào chủ nghĩa đế quốc
và thế lực phản cách mạng dưới nhiều hình thức và tính
chất khác nhau. Song các lực lượng đế quốc và các thế

15


lực phản cách mạng cũng đang tìm mọi cách để phục
hồi và phát triển vai trò của mình, phản kích mạnh mẽ
các lực lượng hòa bình, dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã
hội.

Những mâu thuẫn trên thế giới đang diễn biến khá
phức tạp và ngày càng gay gắt, mà chủ yếu là mâu thuẫn
giữa các lực lượng hòa bình, dân tộc, dân chủ và chủ
nghĩa xã hội (do Liên Xô là trụ cột) với các nước đế
quốc và lực lượng phản động do Mỹ cầm đầu.
1.2 Tình hình trong nước
Thuận lợi
- Sau CMT8 đất nước VN có những thay đổi sâu
sắc, chính quyền cách mạng được thiết lập có hệ thống
từ trung ương đến địa phương;
- Có sự lãnh đạo của Đảng và chủ tịch HCM;
- Có khối đoàn kết toàn dân;
- Có đội quân chính quy để bảo vệ nhà nước.
Khó khăn: Bên cạnh những thuận lợi, Nhà nước
Việt Nam trẻ tuổi và cả dân tộc phải đương đầu với
muôn vàn khó khăn, thách thức.
- Đất nước bị chiến tranh tàn phá nặng nề. Kinh tế
xã hội hết sức nghèo nàn và lạc hậu. Ngân khố quốc gia
sau tổng khởi nghĩa chỉ còn 1.233.000 đồng, trong đó
hơn một nửa là tiền rách không thể lưu hành được.
Ngân hàng Đông Dương vẫn nằm trong tay thực dân đế
quốc. Việc buôn bán, giao lưu trao đổi với nước ngoài
bị đình trệ, nền tài chính trong tình trạng gần như trống
rỗng.
- về tình hình xã hội, hơn 90% dân số Việt Nam mù
chừ, các tệ nạn xã hội, hủ tục lạc hậu của chế độ cũ thực
sự là gánh nặng cho chính quyền cách mạng non trẻ.
- Sau Cách mạng Tháng Tám các thế lực chính trị
phản động chống phá cách mạng rất quyết liệt.
- Thù trong, giặc ngoài cấu kết hòng tiêu diệt nhà

nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á. Vận
mệnh dân tộc như “ngàn cân treo sợi tóc”.
2. Những chủ trương và biện pháp lớn của Đảng
2
2.1 Xây dựng, củng cố,
bảo vệ chính quyền cách
mạng và chế độ xã hội
mới
- Ngày 3-9-1945 tại Bắc Bộ phủ, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã chủ trì phiên họp đầu tiên của Chính phủ lâm
thời. Người đã thay mặt Chính phủ nêu lên “những
nhiệm vụ cấp bách của Nhà nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa”: giải quyết nạn đói, nạn dốt; tổ chức tổng
tuyển cử, giáo dục tinh thần tiết kiệm của nhân dân
bằng cách thực hiện: Cần, kiệm, liêm, chính; bỏ những
thứ thuế vô nhân đạo; cấm hút thuốc phiện và đề nghị
Chính phủ tuyên bố “tín ngưỡng tự do và lương giáo
đoàn kết”.
- Ngày 25-11-1945, Trung ương Đảng ra Chỉ thị
“Kháng chiến, kiến quốc”, trong đó xác định nhiệm vụ
trước mắt: “Nhiệm vụ riêng trong nước là phải củng cố
chính quyền, chống thực dân Pháp xâm lược, bài trừ
nội phản, cải thiện đời sống cho nhân dân”.
Ngày 6-1-1946, cuộc Tổng tuyển cử toàn quốc đã
thu được thắng lợi to lớn. Chủ tịch Hồ Chí Minh trúng
cử tại Hà Nội với số phiếu cao nhất 98,4%. Ngày 2-3-

1946 tại phiên họp đầu tiên, Quốc hội khóa I đã chỉ định
Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu Chính phú liên hiệp
kháng chiến gồm 12 thành viên. Ỏ các địa phương, nhân

dân đã bầu ra Hội đồng nhân dân các cấp. Hội đồng
nhân dân cử ra ủy ban hành chính thay cho ủy ban lâm
thời được thành lập trong tổng khởi nghĩa. Ngày 9-111946 tại kỳ họp thứ hai, Quốc hội đã thông qua bản
Hiến pháp dân chủ đầu tiên của nước ta. Với sự ra đời
của Hiến pháp năm 1946, tính hợp hiến và hợp pháp của
Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được xác lập.
Nhằm tăng cường sức mạnh về chính trị, Đảng
Cộng sản Đông Dương và Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ
trương mở rộng khối đoàn kết toàn dân. Ngày 29-51946, Hội Liên hiệp quốc dân Việt Nam được thành lập.
Đảng Xã hội Việt Nam ra đời ngày 22-7-1946 các đoàn
thể như công thương cứu quốc, sinh viên cứu quốc, công
nhân cứu quốc, thanh niên cứu quốc lần lượt mở hội
nghị để thống nhất tổ chức và hành động. Để mở rộng
Mặt trận đoàn kết, Nha dân tộc thiểu số được thành lập.
Hội nghị các dân tộc thiểu số toàn quốc được tổ chức
tháng 12-1945 và Hội nghị đại biểu các dân tộc thiểu số
khu vực miền Nam họp tháng 4-1946.
3
Khối đại đoàn kết toàn
dân mà nòng cốt là Mặt
trận Việt Minh và Hội
Liên hiệp quốc dân Việt
Nam là cơ sở chính trị xã hội rộng lớn, là chồ
dựa cho chính quyền
nhân dân trong những
năm tháng đầu tiên
quản lý đất nước,
chống thù trong, giặc
ngoài.
2.2 Khắc phục những khó khăn về kinh tế, văn hóa,

xã hội
Phong trào diệt giặc đói được phát động trên cả
nước. Trong thư gửi nhân dân toàn quốc về việc chống
giặc đói, Chủ tịch Hồ Chí Minh đề nghị: líCứ mười
ngày nhịn ăn một bừa, mỗi tháng nhịn ba bừa. Đem
gạo đó (mỗi bừa một bơ) để cứu dân nghèo” 1. Cả nước
dấy lên nhiều phong trào: “Hũ gạo tiết kiệm”, “ngày
đồng tâm”, “tăng gia sản xuất”, “tấc đất, tấc vàng”, khai
hoang phục hóa, khôi phục hầm mỏ, xí nghiệp, nhà
máy, V.V.. Đồng thời, Chính phủ lâm thời ký một loạt
các sắc lệnh quan trọng: sắc lệnh ngày 7-9-1945, bãi bỏ
thuế thân; ngày 26-10-1945, Chính phủ ban hành nghị
định giảm thuế 20% và miễn thuế hoàn toàn cho đồng
bào vùng bị lụt bão; ngày 16-11-1945, Chính phủ ra
thông tư về việc tạm chia ruộng đất công cho dân cày
nghèo. Đen cuối 1945, đầu năm 1946 nạn đói về cơ bản
bị đẩy lùi, đời sổng nhân dân bước đầu ổn định.
Để khắc phục khó khăn cho nền tài chính quốc gia,
Chính phủ phát động “tuần lễ vàng”, “quỹ độc lập” và
“quỹ đảm phụ quốc phòng”. Trong tuần lễ vàng tò ngày
17 đến ngày 24-9-1945 nhân dân đóng góp 370 kg vàng
và 60 triệu đồng.
Để chống lại nạn dốt, ngày 8-9-1945 Chính phủ ra
sắc lệnh thành lập Nha bình dân học vụ. Trong lời kêu

16


gọi Chống nạn thất học, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ:
“Muốn giữ vững nền độc lập, muốn làm cho dân mạnh

nước giàu. Mọi người Việt Nam phải hiểu biết quyền lợi
của mình, bổn phận của mình, phải có kiến thức mới để
có thể tham gia vào công việc xây dựng nước nhà, và
trước hết phải biết đọc, biết viết chữ quốc ngữ”1.
Hưởng ứng lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh,
phong trào xóa mù chữ đã phát triển rộng khắp cả nước.
Chỉ trong một thời gian ngắn đã có 2,5 triệu người biết
đọc, biết viết. Thắng lợi của diệt giặc đói và diệt giặc
dốt có ý nghĩa to lớn về mặt chính trị, xã hội và văn hóa.
Đây là một trong những nhân tố chủ yếu đầu tiên tạo
nên sự ổn định chính trị, niềm tin của nhân dân vào
Đảng và Chính phủ do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu.
2.3 Tiến hành kháng chiến chống thực dân Pháp & Nam Bộ
Ngày 23-9-1945, thực dân Pháp nổ súng đánh chiếm Nam Bộ,
mở đầu cuộc xâm lược nước ta lần thứ hai.
- Cuối tháng 10-1945, quân Pháp được tăng viện đã phá vỡ
vòng vây Sài Gòn - Chợ Lớn và mở rộng đánh chiếm toàn
miền Nam. Ngày 25-10-1945, Xứ ủy Nam Bộ họp tại Thiên
Hộ (Mỹ Tho) đã kiểm điểm tình hình cuộc kháng chiến và đề
ra các biện pháp về quân sự, chính trị, xây dựng chính quyền,
v.v. để tiếp tục đẩy mạnh kháng chiến. Bản Chỉ thị về Kháng
chiến kiến quốc của Ban Chấp hành Trung ương Đảng ngày
25-11-1945 nêu rõ: “Cuộc cách mạng Đông Dương lúc này
vẫn là cuộc cách mạng dân tộc giải phóng... Khẩu hiệu vẫn là
“dân tộc trên hết” “tổ quốc trên hết”. Kẻ thù chính của ta lúc
này là thực dân Pháp xâm lược. Phải tập trung ngọn lửa đấu
tranh vào chúng”1. Tháng 12-1945, ủy ban kháng chiến miền
Nam Việt Nam được thành lập.
2.4 Đẩu tranh trên mặt trận ngoại giao
Để tránh đương đầu với nhiều kẻ thù cùng một lúc,

Đảng ta đã có những đối sách hòa hoãn thích hợp với
từng kẻ thù và lợi dụng mâu thuẫn giữa các kẻ thù để
phân hóa, loại bỏ chúng.
8
- Tạm hòa với Tưởng
ở miền Bắc để tập
trung chống Pháp ở
miền Nam (từ tháng 91945 đến tháng 31946):
Mục tiêu nhân nhượng: Tạm hòa hoãn với Tưởng
để có thời gian xây dựng lực lượng về mọi mặt, chuẩn
bị cho kháng chiến toàn quốc.
Nguyên tắc nhân nhượng: Giữ vững vai trò lãnh
đạo của Đảng, chính quyền cách mạng và mục tiêu độc
lập dân tộc thống nhất đất nước.
Nội dung hòa hoãn, nhân nhượng với Tưởng:
về kinh tế, ta cung cấp lương thực, thực phẩm cho
20 vạn quân Tưởng, thỏa mãn các nhu cầu tối thiểu về
nhà ở, điều kiện sinh hoạt cho quân đội Tưởng, cho lưu
hành đồng tiền quan kim trên thị trường.
về chính trị, ta chấp nhận mở rộng thành phần
Chính phủ liên hiệp lâm thời cho Việt Quốc, Việt Cách
tham gia và chấp nhận dành 70 ghế trong Quốc hội cho
Việt Quốc, Việt Cách tham gia không qua bầu cừ.
về quân sự, tránh mọi xung đột với quân đội
Tưởng. Sách lược tạm hòa hoãn với Tưởng đã làm thất
bại âm mưu lật đổ chính quyền dân chủ nhân dân Việt

Nam của Quốc dân Đảng Trung Hoa, tạo điều kiện cho
nhân dân ta có thêm thời gian củng cố và xây dựng lực
lượng về mọi mặt, chuẩn bị bước vào cuộc kháng chiến

chống thực dân Pháp xâm lược.
9
- Hòa hoãn với thực
dân Pháp, xây dựng
và phát triển lực
lượng cách mạng,
chuẩn bị mọi mặt cho
cuộc kháng chiến toàn
quốc (từ thảng 3-1946
đến tháng 12-1946):
Ngày 28-2-1946, chính quyền Tưởng và thực dân
Pháp ký kết Hiệp ước Hoa - Pháp, theo đó Tưởng tạo
điều kiện cho Pháp đưa quân ra miền Bắc nước ta thay
thế quân Tưởng. Trước sự thay đổi của tình hình, Đảng
chủ trương chuyển sang thực hiện sách lược hòa hoãn,
nhân nhượng với Pháp.
Mục đích của sách lược nhằm đuổi ngay quân
Tưởng về nước, tránh cùng lúc đối phó nhiều kẻ thù và
bảo toàn thực lực, tranh thủ thời gian hòa hoãn để chuẩn
bị cho cuộc chiến đấu mới.
Ngày 6-3-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Vũ Hồng
Khanh đã ký vói đại diện Chính phủ Pháp J.Xanhtomy
Hiệp định sơ bộ về quan hệ Việt - Pháp.
Ngày 9-3-1946, Ban Thường vụ Trung ương Đảng
ra Chỉ thị Hòa để tiến nêu rõ ý nghĩa quan trọng của
việc ký hiệp định với Pháp nhằm thống nhất tư tưởng
trong toàn Đảng, đồng thời nhấn mạnh việc cảnh giác
đề phòng, chuẩn bị sẵn sàng chiến đấu nếu Pháp bội
ước.
Sau Hiệp định sơ bộ 6-3, nhiều hoạt động trên mặt trận

ngoại giao được đẩy mạnh nhằm đi đến một hội nghị
chính thức. Ngày 24-3-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
có cuộc hội đàm với Đắcgiăngliơ - Cao ủy Pháp ở Đông
Dương tại Hạ Long quyết định họp Hội nghị trù bị tại
Đà Lạt trước khi tiến hành đàm phán chính thức tại Pari.
Ngày 16-4-1946, phái đoàn Quốc hội Việt Nam do đồng
chí Phạm Văn Đồng dẫn đầu sang thăm nước Pháp.
Hội nghị trù bị diễn ra tại Đà Lạt từ ngày 19-4-1946
đến ngày 11-5-1946 thì bế tắc do thực dân Pháp vẫn cố
tình chia cắt đất nước ta.
Ngày 31-5-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh và phái
đoàn Việt Nam lên đường thăm chính thức Pháp theo lời
mời của Chính phủ Pháp.
Hội nghị Việt - Pháp diễn ra tại Phôngtennơblô từ
ngày 6-7-1946 đến ngày 10-9-1946 thì bế tắc. Ngày 149-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký với M.Mute Bộ
trưởng Hải ngoại Pháp bản Tạm ước nhằm tiếp tục tìm
một giải pháp hòa bình cho cuộc xung đột Pháp - Việt.
Các nỗ lực ngoại giao của Chính phủ Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa sau Tạm ước 14-9-1946 đều bị tư tưởng
hiếu chiến của các thế lực thực dân phá bỏ. Đêm 19-121946, cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ, sự hòa hoãn
với thực dân Pháp chấm dứt.
10
Những kinh
nghiệm của Đảng về
xây dựng và bảo vệ
chính quyền cách mạng

17



Quá trình xây dựng và bảo vệ chính quyền nhà
nước trong những năm 1945-1946 đã để lại những kinh
nghiệm có ý nghĩa căn bản đối với sự nghiệp cách mạng
của toàn Đảng, toàn dân.
Nhanh chóng xác lập cơ sở pháp lý và tính hợp hiến
của chính quyền nhà nước, chăm lo xây dựng và củng
cố bộ máy chính quyền nhân dân tò Trung ương đến tận
cơ sở.
Xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân, phát huy sức
mạnh của toàn dân để xây dựng và bảo vệ những thành
quả chính quyền cách mạng. Đồng thời tranh thủ thời
gian chuẩn bị những điều kiện thiết yếu để sẵn sàng đối
phó với cuộc chiến tranh có thể xảy ra.
Triệt để lợi dụng mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ thù,
thực hiện sự nhân nhượng có nguyên tắc về chính sách
ngoại giao thêm bạn bớt thù.
Đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước
trong mọi hoàn cảnh, nhất là trong tình hình có nhiều
đảng phái đối lập và sự chống phá của các loại kẻ thù.
Sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Nhà nước Việt Nam
trong những năm 1945-1946 đã khẳng định được sức
mạnh và tính ưu việt của một thể chế chính trị mới
trong lịch sử phát triển của đất nước và con người Việt
Nam.
II. Ý NGHĨA LỊCH SỬ VÀ BÀI HỌC KINH
NGHIỆM CỦA CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG
MỸ CỨU NƯỚC?
11
Ý nghĩa lịch sử, kỉnh
nghiệm

của
cuộc
kháng chiến chống
Mỹ, cứu nước
1. Ý nghĩa lịch sử
- Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu
nước là đỉnh cao của bản anh hùng ca về lòng yêu nước
và tự hào dân tộc. Đây là một trong những chiến thắng
vĩ đại nhất trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc
Việt Nam, một trong những thắng lợi vĩ đại của dân tộc
Việt Nam trong thế kỷ XX. Thắng lợi đó đã chấm dứt
117 năm chống lại các thế lực thực dân, đế quốc xâm
lược, hoàn thành sự nghiệp giải phóng miền Nam, kết
thúc cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trên cả
nước, thu giang sơn về một mối, hoàn thành sự nghiệp
thống nhất Tổ quốc.
- Dân tộc Việt Nam đã làm phá sản chủ nghĩa thực
dân kiểu mới của đế quốc Mỹ, mở ra một kỷ nguyên
mới cho dân tộc Việt Nam: kỷ nguyên cả nước hòa bình,
độc lập, thống nhất và đi lên chủ nghĩa xã hội. Thắng lợi
của nhân dân Việt Nam đã góp phần làm thay đổi tương
quan lực lượng có lợi cho chủ nghĩa xã hội, cổ vũ động
viên phong trào đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân
kiểu mới của Mỹ trên phạm vi thế giới.
- Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu
nước khẳng định tính đúng đắn, khoa học và sáng tạo
của đường lối chiến tranh nhân dân dưới ánh sáng lý
luận Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Đó là đường
lối kháng chiến độc lập, tự chủ của Đảng Cộng sản Việt
Nam, là sự hiện thực hóa của sợi chỉ đỏ: kết hợp mục

tiêu độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội, tạo nên xung
lực cho sự nghiệp thống nhất Tổ quốc. Lý luận cách

mạng sáng tạo, đường lối đúng đắn đã trở thành ngọn cờ
tập hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, kết
họp yếu tố trong nước với quốc tế, phối hợp nhịp nhàng
sức mạnh của hai miền Nam - Bắc để đi tới thăng lợi
cuối cùng.
- Chính sức mạnh của chủ nghĩa xã hội, sức mạnh
của chính nghĩa, sức mạnh của các dân tộc đang đấu
tranh cho hòa bình, độc lập đã góp phần vào thắng lợi
của cuộc kháng chiến.
- Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu
nước đã mở ra một thời kỳ mới cho dân tộc Việt Nam,
thời kỳ cả nước thống nhất đi lên chủ nghĩa xã hội. Việt
Nam trở thành ngọn cờ tiêu biểu cho phong trào đấu
tranh vì độc lập dân tộc, hòa bình và tiến bộ xã hội.
Một số kinh nghiệm
- Kiên định mục tiêu, giữ vững độc lập tự chủ, xây
dựng đường lối và phương pháp cách mạng đúng đắn,
sáng tạo, phù họp với thực tiễn Việt Nam.
- Đó là đường lối tiến hành đồng thời hai chiến lược
cách mạng ở hai miền đất nước nhằm thực hiện mục
tiêu chung là hoàn thành sự nghiệp cách mạng dân tộc
dân chủ, thống nhất Tổ quốc và đi lên chủ nghĩa xã hội.
Nhờ sự kết họp này đã động viên, tập họfp sức mạnh
của chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa yêu nước, sức mạnh của
hậu phương và tiền tuyến tạo nên sức mạnh cả nước
đánh Mỹ.
- Cùng với sự đúng đắn của đường lối kháng chiến,

phương pháp cách mạng trong chống Mỹ rất sáng tạo:
nhiều cách đánh, nhiều hình thức đấu tranh, nhiều lực
lượng phối họp, nhiều vùng chiến lược tạo nên sức
mạnh tổng hợp để đánh thắng.
Xây dựng căn cứ địa cách mạng và hậu phương chiến
tranh vững chắc cho sự nghiệp giải phóng miền Nam,
thống nhất đất nước.
- Từ đầu cuộc kháng chiến, Đảng xác định miền
Bắc là hậu phương của cách mạng cả nước. Đồng thời,
Đảng chủ trương xây dựng một hệ thống các căn cứ địa
tại chỗ ở miền Nam và hệ thống giao thông trên bộ, trên
biển nối liền Bắc - Nam với Lào và Campuchia. Nghị
quyết Đại hội IV của Đảng nhấn mạnh: “Không thể nào
có thắng lợi của sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu
nước nếu không có miền Bắc xã hội chủ nghĩa” 1. Từ hậu
phương miền Bắc, hệ thống căn cứ địa cách mạng đã
nối thông, liên hoàn với các chiến trường và với hệ
thống các nước xã hội chủ nghĩa. Đây là nguồn sức
mạnh, là nguồn gốc của chiến thắng.
- Thực hiện đoàn kết dân tộc với đoàn kết quốc tế
trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền, lợi ích của
các nước ừong cộng đồng thế giới.
- Trên cơ sở sự đoàn kết của dân tộc, của Đảng, của
các giai cấp, tầng lớp vì mục tiêu đánh Mỹ và thắng Mỹ,
Việt Nam đã mở rộng đoàn kết với các nước láng giềng,
bè bạn khắp thế giới. Đó là liên minh với Lào và
Campuchia trên cơ sở Đông Dương là một chiến trường.
Tranh thủ sự ủng hộ, giúp đỡ của các nước xã hội chủ
nghĩa, bè bạn yêu hòa bình, chống chiến tranh trên khắp
thế giới, kể cả nhân dân tiến bộ Mỹ. Vừa khai thác hiệu

quả sức mạnh quốc tế, thời đại, Đảng ta đã phát huy cao
nhất sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc để nhân lên sức

18


mạnh đánh thắng đế quốc Mỹ.
- Xây dựng Đảng và đội ngũ cán bộ ngang tầm với
nhiệm vụ và yêu cầu của cuộc kháng chiến.
- Vừa hoạch định đường lối, Đảng vừa chỉ đạo trực
tiếp cuộc kháng chiến trên từng thời điểm, từng giai
đoạn, từng quyết định. Để hoàn thành trọng trách lớn lao
đó của lịch sử, Đảng đã luôn coi trọng công tác xây
dựng Đảng, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ vừa
hồng, vừa chuyênỄ Đảng gắn bó với nhân dân, với dân
tộc, với phong trào cách mạng của nhân dân. Ở trong
môi trường đó, Đảng đã trưởng thành, hoàn thành xuất
sắc vai trò là người lãnh đạo cuộc kháng chiến đi tới
thắng lợi.
- Cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc, thống nhất
Tổ quốc diễn ra suốt ba mươi năm. Với sức mạnh của
toàn dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng, chiến thắng đã
thuộc về nhân dân ta vì đó là quy luật của lịch sử, là sự
tiếp nối truyền thống dựng nước và giữ nước của dân
tộc Việt Nam.

VẤN ĐỀ 6: ĐẠI HỘI ĐẠI BIỂU TOÀN QUỐC LẦN THỨ
VI CỦA ĐẢNG (THÁNG 12/1986) QUYẾT ĐỊNH

19



ĐƯỜNG LỐI ĐỔI MỚI? THÀNH TỰU, HẠN CHẾ, KINH
NGHIỆM CỦA 25 NĂM ĐỔI MỚI?
I. ĐẠI HỘI VI
1. Bối cảnh lịch sử:
* Tình hình thế giới:
Sự phát triển mạnh mẽ của cuộc CM KH&CN
tạo điều kiện để phát triển nhanh nền kinh tế của
nhiều nước, đặc biệt là các ngành điện tử, tin học, năng
lượng, vật liệu mới, công nghệ sinh học,…Tuy nhiên,
diễn biến phức tạp diễn ra tại Liên Xô và các nước
XHCN tại Đông Âu gây nhiều bất lợi của CMVN. Hơn
nữa, cuộc khủng hoảng dầu mỏ năm 1975 củng ảnh
hưởng không nhỏ đến các nước.
* Tình hình trong nước:
SX kém phát triển, tăng trưởng bình quân
(1975 – 1980) là 1,6%, dân số tăng nhanh 4,5 triệu
người, 5 năm tiếp theo tăng trưởng kinh tế tăng 6,4%,
dân số 2,3 triệu người, SX cung không đủ cầu.
Phân phối lưu thông có nhiều rối ren do nhà
nước áp dụng chính sách ngăn sông cách chợ, ch ất
lượng hàng hoá kém. Chính sách của nhà nước về giá,
lương, tiền không phát huy được tác dụng dẫn đến lạm
phát ở VN tăng cao 313% (1981) siêu lạm phát, năm
1986 lạm phát tăng cao 774% (lạm phát phi mã) làm
mất cân đối nền kinh tế VN. Xã hội xuất hiện nhiều
tiêu cực, công bằng xã hội bị vi phạm, pháp luật, kĩ
cương không nghiêm, một bộ phận CB –CNV nhà nước
lộng quyền, tham nhũng. Đời sống nhân dân cực kì khó

khăn, nhiều nhu cầu ăn, mặt, ở,….thiếu thốn. Niềm tin
của nhân dân vào Đảng, NN giảm súc nghiêm tr ọng.
Mặt khác, chiến tranh biên giới Tây Nam và phía Bắc
càng làm cho đất nước khó khăn chồng chất khó khăn.
* Nguyên nhân:
- Nen kinh tế sản xuất lạc hậu vốn không đủ sức
đáp ứng được những nhu cầu nhiều mặt của xã hội, lại
bị chiến tranh kéo dài nhiều năm tàn phá. Hậu quả của
30 năm chiến tranh, chủ nghĩa thực dân mới và cuộc
chiến tranh ở hai đầu biên giới diễn ra gây hậu quả
hết sức nặng nề về kinh tế - xã hội.
- Mỹ xiết chặt bao vây cấm vận nước ta. Các thế
lực thù địch cùng với Mỹ phá hoại nước ta nhiều mặt.
- Duy trì quá lâu cơ chế cũ: Kế hoạch hóa, tập
trung quan liêu, bao cấp trong sản xuất cũng như trong
tiêu dùng nên đã không kích thích người lao động.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI Đảng
Cộng sản Việt Nam họp từ ngày 15 đến ngày 18-121986 tại Thủ đô Hà Nội. Dự Đại hội có 1.129 đại
biểu thay mặt cho gần 1,9 triệu đảng viên.
Đại hội đề ra đường lối đổi mới toàn diện, gồm
những nội dung cơ bản sau:
1. Đổi mới cơ cấu kinh tế
Có chính sách sử dụng và cải tạo đúng đắn các
thành phần kinh tế khác ngoài kinh tế xã hội chủ nghĩa
theo quan điểm của Lênin: “Cỡỉ nền kinh tế có cơ cấu
nhiều thành phần là một đặc trưng của thời kỳ
quá độ”x. Các thành phần đó là: kinh tế xã hội chủ
nghĩa (quốc doanh, tập thể); kinh tế tiểu sản xuất
hàng hóa; kinh tế tư bản tư nhân; kinh tế tư bản nhà
nước; kinh tế tự nhiên tự túc tự cấp. Nhận thức và vận

dụng đúng quy luật quan hệ sản xuất phải phù họp
với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất.

Bố trí lại cơ cấu sản xuất, điều chỉnh lại cơ cấu
đầu tư, tập trung thực hiện ba chương trình kinh tế
lớn.
2. Đổi mới cơ chế quản lý kinh tế.
Kiên quyết xóa bỏ cơ chế quản lý tập trung quan
liêu hành chính bao cấp; đổi mới kế hoạch hóa, kết
hợp kế hoạch hóa với thị trường, từng bước đưa nền
kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý
của Nhà nước. Phương hướng đổi mới cơ chế quản lý
kinh tế là “xóa bỏ tập trung quan liêu, bao cấp, xây
dựng cơ chế mới phù hợp với quy luật khách quan và
với trình độ phát triển của nền kinh tế. Trong cơ ch ế
quản lý đó, tính kế hoạch là đặc trưng số một và sử
dụng đúng đắn quan hệ hàng hóa - tiền tệ là đặc trưng
thứ hai. Thực chất của cơ chế mới về quản lý kinh tế
là cơ chế kế hoạch hóa theo phương thức hạch toán
kinh doanh xã hội chủ nghĩa, đúng nguyên tắc tập
trung dân chủ1.
3. Đổi mới và tăng cường vai trò quản lý, điều
hành của Nhà nước về kinh tế.
Tăng cường bộ máy nhà nước tò Trung ương đến
địa phương thành một thể thống nhất, có sự phân biệt
rành mạch nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm tùy cấp
theo nguyên tắc tập trung dân chủ: “Phân biệt rõ ch ức
năng quản lý hành chính - kinh tế của các cơ quan nhà
nước Trung ương và địa phương với chức năng với
quản lý sản xuất - kinh doanh của các đon vị kinh tế cơ

sở”2. Thực hiện chức năng quản lý nhà nước về kinh
tế - xã hội, thực hiện cơ chế “Quản lý đất nước bằng
pháp luật, chứ không chỉ bằng đạo lý”3.
4. Đổi mới hoạt động kinh tế đối ngoại.
Đổi mới hoạt động kinh tế đối ngoại trên cơ sở
mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại. Mở
rộng hợp tác đầu tư với nước ngoài thông qua việc
công bố chính sách khuyến khích đầu tư với nhiều
hình thức, nhất là những ngành đòi hỏi kỳ thuật cao và
sản xuất hàng xuất khẩu. Bên cạnh đó, tạo điều kiện
cho người nước ngoài và Việt kiều về nước đầu tư,
họp tác kinh doanh.
5. Đổi mới tư duy lý luận và phong cách lãnh
đạo của Đảng.
Đổi mới sự lãnh đạo của Đảng trên cơ sở nâng cao
nhận thức lý luận, khắc phục bệnh chủ quan, duy ý chí
hoặc bảo thủ trì trệ. Đổi mới bắt đầu từ đổi mới tư
duy, trước tiên là đổi mới tư duy kinh tế trên cơ sở
nắm vững bản chất cách mạng, khoa học của chủ
nghĩa Mác-Lênin, kế thừa tư tưởng cách mạng của Chủ
tịch Hồ Chí Minh. “Đảng phải quán triệt tư tưởng “lấy
dân làm gốc”, phải nắm vững thực tiễn và không
ngừng nâng cao trình độ trí tuệ và đổi mới phong cách,
phương pháp làm việc.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng có
ý nghĩa lịch sử trọng đại, đánh dấu bước ngoặt trong
sự nghiệp quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Đại
hội đã tìm lối thoát cho cuộc khủng hoảng kinh tế - xã
hội bằng việc đề ra đường lối đổi mới, đặt nền tảng
cho việc tìm ra con đường lên chủ nghĩa xã hộiỗ Đường

lối đổi mới là sản phẩm của tư duy khoa học của toàn
Đảng, toàn dân, thể hiện quyết tâm đổi mới của Đảng.
1 II. NHỮNG THÀNH Tựu, HẠN CHẾ VÀ KINH

20


NGHIỆM QUA 25 NĂM TIẾN HÀNH CÔNG
cuộc ĐỔI MÓI
1. Thành tựu
Sau hom 25 năm tiến hành sự nghiệp đổi mới,
nhận thức của Đảng về chủ nghĩa xã hội và con đường
đi lên chủ nghĩa xã hội ngày càng sáng tỏ hơn; hệ
thống luận điểm lý luận về công cuộc đổi mới, về xã
hội xã hội chủ nghĩa và con đường đi lên chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam đã hình thành trên những nét cơ bản.
Những thành tựu đạt được chưa tương xứng với
tiềm năng của đất nước. Kinh tế phát triển chưa bền
vững, sức cạnh tranh của nền kinh tế còn th ấp. Những
tiêu cực và tệ nạn xã hội ngày càng diễn biến phức tạp,
phân hóa giàu nghèo ngày càng tăng. An ninh chính trị
còn tiềm ẩn những yếu tố gây mất ổn định chính trị xã hội, đe dọa chủ quyền quốc gia. Hiệu lực, hiệu quả
quản lý, điều hành của Nhà nước và chính quyền các
cấp chưa cao, gây bức xúc trong nhân dân. Tệ quan
liêu, tham nhũng, lãng phí đang gây bất bình trong xã
hội, làm suy giảm lòng tin của nhân dân với Đảng và
Nhà nước.
- về thực tiễn.
+ Công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch

sử:
Tăng trưởng kinh tế khá cao và tương đối ổn định:
7,5% những năm 1991-2000 và 7,25% những năm
2001-2010; (hiện nay, giai đoạn 2010-2015 là khoảng
5.8%). Phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành
phần, định hướng xã hội chủ nghĩa. Từng bước hình
thành các loại thị trường: thị trường dịch vụ hàng hóa,
thị trường sức lao động, thị trường tài chính - tiền tệ,
thị trường bất động sản, thị trường khoa học - công
nghệ. Sự nghiệp công nghiệp hóa được đẩy mạnh trên
cơ sở hình thành các vùng kinh tế trọng điểm và các
khu công nghiệp, khu chế xuất. Sản xuất nông nghiệp
phát triển đã đưa Việt Nam nhiều năm liền tr ở thành
nước xuất gạo đứng thứ hai trên thế giới và nhiều mặt
hàng nông sản xuất khẩu đứng trong tốp đầu thế giới
như: hạt tiêu, cà phê, cao su.
Văn hóa xã hội đạt được nhiều thành tựu quan
trọng. Đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân
được cải thiện rõ rệt. Đến năm 2013, thu nhập đầu
người đạt khoảng 1.800USD, (năm 2014 thu nhập bình
quân đầu ngườ 2.000 USD và dự kiến năm 2015 là
khoảng 2.300USD). Những giá trị văn hóa tốt đẹp của
dân tộc được bảo tồn và phát huy. Đến năm 2013, Việt
Nam có 17 di sản văn hóa thế giới, hàng chục di s ản
văn hóa cấp quốc gia đặc biệt. Phong trào toàn dân
đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa được đẩy mạnh
trong cả nước. Thực hiện có hiệu quả các chính sách xã
hội. Việt Nam trở thành điểm sáng về xóa đói giảm
nghèo và là một trong những nước sớm hoàn thành
mục tiêu thiên niên kỷ.

Chính trị - xã hội ổn định. Hệ thống chính trị và
khối đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố và tăng
cường. Sự nghiệp xây dựng Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa được đẩy mạnh. Bộ máy hành chính nhà
nước được cải cách một bước. Mặt trận Tổ quốc và các
tổ chức chính trị - xã hội từng bước đổi m ới nội dung

và phương thức hoạt động. Công tác xây dựng chỉnh
đốn Đảng được tăng cường nhằm nâng cao năng lực
lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, đáp ứng yêu cầu
của tình hình mới.
An ninh - quốc phòng được củng cố. Trước những
diễn biến phức tạp của tình hình thế giới và trong
nước, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ được giữ vững.
Lực lượng vũ trang ngày càng vững mạnh, được xây
dựng theo hướng chính quy và từng bước hiện đại.
Quan hệ đối ngoại ngày càng mở rộng. Vị thế của Việt
Nam được nâng cao trên trường quốc tế.
2. Hạn chế
Bên cạnh những thành tựu đạt được, quá trình
tiến hành công cuộc đổi mới còn một số hạn chế:
Những thành tựu đạt được chưa tương xứng với
tiềm năng của đất nước. Kinh tế phát triển chưa b ền
vững, sức cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp. Những
tiêu cực và tệ nạn xã hội ngày càng diễn biến ph ức
tạp, phân hóa giàu nghèo ngày càng tăng. An ninh
chính trị còn tiềm ẩn những yếu tố gây mat on định
chính trị - xã hội, đe dọa chủ quyền quốc gia. Hiệu lực,
hiệu quả quản lý, điều hành của Nhà nước và chính
quyền các cấp chưa cao, gây bức xúc trong nhân dân.

Tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí đang gây bất bình
trong xã hội, làm suy giảm lòng tin của nhân dân v ới
Đảng và Nhà nước.
- về lý luận
Một số vấn đề lý luận về chủ nghĩa xã hội và con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam chưa được
làm sáng tỏ, đặc biệt là trong mối quan hệ giữa tăng
trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội. Lý
luận về các bước đi của công nghiệp hóa, hiện đại hóa
và những vấn đề về thể chế kinh tế thị trường; về
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam; về
đảng cầm quyền trong điều kiện kinh tế thị trường,
dân chủ và mở cửa, hội nhập quốc tế chưa được làm
sáng tỏ.
3. Bài học kinh nghiệm qua 25 năm đổi mói
Trong bất kỳ điều kiện và tình huống nào, phải
kiên trì thực hiện đường lối đổi mới, kiên định và vận
dụng sáng tạo, phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc
và chủ nghĩa xã hộiỗ
Đổi mới toàn diện, đồng bộ, có kế thừa với những
bước đi thích hợp. Tích cực, chủ động hội nhập kinh
tế quốc tế nhưng luôn đảm bảo độc lập, chủ quyền,
tự chủ, giữ vững truyền thống và bản sắc văn hóa dân
tộc.
Kết hợp chặt chẽ giữa tăng trưởng kinh tế với
thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. Coi trọng chất
lượng, hiệu quả tăng trưởng và phát triển bền vững.
Đổi mới phải vì lợi ích của nhân dân, dựa vào nhân
dân, phát huy vai trò chủ động, sáng tạo của nhân dân,

xuất phát từ thực tiễn, nhạy bén với cái mới.
Phát huy cao độ nội lực, đồng thời ra sức khai thác
ngoại lực, kết hợp chặt chẽ sức mạnh dân tộc với sức
mạnh thời đại. Củng cố quốc phòng - an ninh, thực
hiện tốt hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc.
Đặc biệt chăm lo củng cố, xây dựng Đảng vững
mạnh cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức. Không

21


ngừng đổi mới tổ chức và hoạt động của hệ thống
chính trị.

22



×