VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
HOÀNG THỊ MAI
NHU CẦU THAM VẤN TÂM LÝ CỦA CHA MẸ CÓ CON
CHẬM PHÁT TRIỂN NGÔN NGỮ Ở HÀ NỘI
LUẬN VĂN THẠC SĨ TÂM LÝ HỌC
HÀ NỘI - 2018
VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
HOÀNG THỊ MAI
NHU CẦU THAM VẤN TÂM LÝ CỦA CHA MẸ CÓ CON
CHẬM PHÁT TRIỂN NGÔN NGỮ Ở HÀ NỘI
Chuyên ngành: Tâm lý học
Mã số: 8 31 04 01
LUẬN VĂN THẠC SĨ TÂM LÝ HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. ĐỖ VĂN ĐOẠT
HÀ NỘI - 2018
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn này là công trình nghiên cứu khoa học độc lập
của tôi. Các tài liệu, tư liệu được sử dụng trong luận văn của tôi có nguồn dẫn rõ
ràng, các kết quả nghiên cứu là quá trình lao động trung thực của tôi.
Tác giả luận văn
Hoàng Thị Mai
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành tới các thầy cô trong Khoa Tâm lý Học Viện Khoa Học Xã Hội, đã được quan tâm giúp đỡ, tạo điểu kiện thuận lợi cho
tôi trong quá trình học tập và nghiên cứu.
Tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến thầy giáo, T.S. Nguyễn Văn Đoạt - người
đã tận tình hướng dẫn, chỉ bảo giúp đỡ tôi trong quá trình nghiên cứu và hoàn thành
luận văn.
Tôi cũng xin cám ơn tới các chuyên viên tâm lý, các giáo viên tại Trung tâm
Nghiên cứu và Hỗ trợ tâm lý giáo dục An Phước - Tây Hồ -Hà Nội, đã không
ngừng nỗ lực, nhiệt tình giúp đỡ tôi, đồng hành cùng tôi trong suốt quá trình nghiên
cứu và hoàn thành luận văn.
Đồng thời tôi cũng gửi lời cảm ơn sâu sắc tới phụ huynh đã tạo điều kiện,
cộng tác, giúp đỡ tôi trong quá trình hoàn thành luận văn.
Dù đã cố gắng thật nhiều, song do điều kiện và năng lực của bản thân còn
hạn chế nên luận văn chắc chắn không tránh khỏi thiếu sót. Kính mong được sự
nhận xét, góp ý chân thành của các nhà khoa học, các quý thầy cô.
Trân trọng cảm ơn!
Hà Nội, tháng 3 năm 2018
Học viên
Hoàng Thị Mai
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ NHU CẦU THAM VẤN TÂM LÝ CỦA
CHA MẸ CÓ CON CHẬM PHÁT TRIỂN NGÔN NGỮ ...................................12
1.1. Nhu cầu tham vấn tâm lí ....................................................................................12
1.2. Cha mẹ có con chậm phát triển ngôn ngữ ............................................................20
1.3. Nhu cầu tham vấn tâm lý của cha mẹ có con chậm phát triển ngôn ngữ .................23
1.4. Các yếu tố tác động đến nhu cầu tham vấn tâm lý của cha mẹ có con chậm phát
triển ngôn ngữ ...........................................................................................................32
CHƯƠNG 2: TỔ CHỨC VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU .......................37
2.1. Khách thể và địa bàn nghiên cứu ......................................................................37
2.2. Phương pháp nghiên cứu....................................................................................38
CHƯƠNG 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU THỰC TRẠNG NHU CẦU THAM
VẤN TÂM LÝ CỦA CHA MẸ CÓ CON CHẬM PHÁT TRIỂN NGÔN NGỮ
Ở HÀ NỘI ................................................................................................................44
3.1. Thực trạng khó khăn tâm lý của cha mẹ có con chậm phát triển ngôn ngữ ......44
3.2.Thực trạng nhu cầu tham vấn tâm lý của cha mẹ có con chậm phát triển ngôn
ngữ ở Hà Nội .............................................................................................................46
3.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến nhu cầu tham vấn tâm lý của cha mẹ có con chậm
phát triển ngôn ngữ ở Hà Nội....................................................................................62
3.4. Phân tích trường hợp điển hình về nhu cầu tham vấn tâm lý của cha mẹ có con
chậm phát triển ngôn ngữ ở Hà Nội ..........................................................................65
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ ................................................................................79
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...............................................................82
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
STT
Viết đầy đủ
Viết tắt
1
CPTNN
Chậm phát triển ngôn ngữ
2
ĐLC
Độ lệch chuẩn
3
ĐTB
Điểm trung bình
4
NCTV
Nhu cầu tham vấn
5
NCTVTL
Nhu cầu tham vấn tâm lý
6
NTV
Nhà tham vấn
7
TC
Thân chủ
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Bảng 3.1: Khó khăn của các bậc cha mẹ khi có con chậm phát triển ngôn ngữ .......44
Bảng 3.2. Đánh giá chung về nhu cầu tham vấn tâm lý của cha mẹ có con chậm phát
triển ngôn ngữ ở Hà Nội biểu hiện qua những mong muốn về nội dung tham vấn..46
Bảng 3.3. Đánh giá chung của giáo viên về nhu cầu tham vấn tâm lý của cha mẹ có
con chậm phát triển ngôn ngữ ở Hà Nội biểu hiện qua những mong muốn về nội
dung tham vấn ...........................................................................................................47
Bảng 3.4: Những mong muốn nhận được sự trợ giúp của các nhà tham vấn khi cha
mẹ gặp khó khăn trong giao tiếp với trẻ ...................................................................48
Bảng 3.5: So sánh giữa cha mẹ và giáo viên về những mong muốn nhận được sự
trợ giúp của các nhà tham vấn khi cha mẹ gặp khó khăn trong giao tiếp với trẻ......50
Bảng 3.6: Những mong muốn nhận được sự trợ giúp của các nhà tham vấn khi cha
mẹ gặp khó khăn trong nuôi dạy con ........................................................................51
Bảng 3.7: So sánh giữa cha mẹ và giáo viên về những mong muốn nhận được sự
trợ giúp của các nhà tham vấn khi cha mẹ gặp khó khăn trong nuôi dạy trẻ. ...........52
Bảng 3.8: Những mong muốn nhận được sự trợ giúp của các nhà tham vấn khi cha
mẹ gặp khó khăn khi giúp trẻ thiết lập các mối quan hệ ...........................................53
Bảng 3.9: Đánh giá của giáo viên về những mong muốn nhận được sự trợ giúp của
các nhà tham vấn khi cha mẹ gặp khó khăn trong việc giúp trẻ thiết lập các mối
quan hệ ......................................................................................................................54
Bảng 3.10: Những mong muốn nhận được sự trợ giúp của các nhà tham vấn khi cha
mẹ gặp khó khăn trong lựa chọn phương pháp .........................................................55
Bảng 3.11: Đánh giá của giáo viên về những mong muốn nhận được sự trợ giúp tâm
lý khi cha mẹ gặp khó khăn trong việc lựa chọn phương pháp ................................58
Bảng 3.12: Mong muốn được trợ giúp về hình thức tham vấn .................................59
Bảng 3.13: Mong muốn được trợ giúp của các nhà tham vấn về hình thức tham vấn
trực tiếp .....................................................................................................................60
Bảng 3.14. Các yếu tố ảnh hưởng tới NCTVTL của cha mẹ có con CPTNN ở Hà
Nội .............................................................................................................................62
Bảng 3.15. Đánh giá của giáo viên về các yếu tố ảnh hưởng tới nhu cầu tham vấn
tâm lý của cha mẹ có con chậm phát triển ngôn ngữ ở Hà Nội ................................64
Bảng 3.16: Kế hoạch Can thiệp cho bé G.M của con anh T.A .................................69
Bảng 3.17: Kế hoạch Can thiệp cho bé Đ.A con của chị M.P ..................................75
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ngày nay, sự hội nhập là một điều thiết yếu của cuộc sống. Việt Nam cũng
đã có sự hội nhập rất nhiều với bạn bè năm châu bằng việc mở cửa về mọi mặt.
Cuộc sống của người Việt dần dần được nâng cao hơn nhờ sự hội nhập này. Khi con
người đã thỏa mãn nhu cầu vật chất của bản thân thì đó cũng là lúc họ nhận ra mình
còn cần được chăm sóc về mặt tinh thần. Bởi hội nhập không chỉ mang lại những
lợi ích mà còn mang đến những tác động tiêu cực và vô cũng mạnh mẽ đến tầng lớp
trẻ hiện nay. Đã có rât nhiều công trình nghiên cứu trong nước chỉ ra một điều rằng
các bậc cha mẹ hiện nay đang gặp rất nhiều khó khăn trong việc nuôi dạy trẻ, đặc
biệt là trẻ chậm phát triển. Trước những khó khăn đó, họ muốn bộc lộ nhu cầu tham
vấn tâm lý. Tham vấn tâm lý là một hoạt động nhằm hộ trợ cho con người về tâm
lý, thể chất quan hệ, giao tiếp, … Trong sự phát triển của xã hội, tham vấn được du
nhập về Việt Nam như một nghề chuyên nghiệp để hộ trợ tâm lý cho con người
trước những khó khăn tâm lý như vậy.
Hiện tượng trẻ chậm phát triển ngôn ngữ ngày càng gia tăng, nó là một dạng
rối loạn phát triển tồn tại ở một số lượng khá lớn trẻ em. Vậy đối với các gia đình có
con chậm phát triển ngôn ngữ phải đối mặt với những điều gì và cách nuôi dạy trẻ ra
sao? Điều này đang là một câu hỏi lớn được đặt ra cho toàn xã hội.
Tuy xã hội rất phát triển, song ở phương Đông, đặc biệt là quốc gia Á Đông
như Việt Nam thì sự thừa nhận một chứng tâm lý là rất khó, hơn nữa đây lại là
chứng liên quan đến trẻ nhỏ. Do vậy hoạt động tham vấn cho cha mẹ có con chậm
phát triển ngôn ngữ lại càng mới mẻ, ít được quan tâm đúng mức. Cán bộ chuyên
sâu về tham vấn cho cha mẹ có con chậm phát triển ngôn ngữ lại càng ít. Tuy vậy
trong những năm gần đây, do nhu cầu được tham vấn tâm lý ngày càng cao nên
cũng đã có một số cơ sở tiến hành đào tạo và tham vấn các vấn đề liên quan đến
cách chăm sóc và nuôi dạy trẻ chậm phát triển ngôn ngữ. Tuy nhiên chỉ ở mức là tự
phát, nhỏ lẻ, do các cá nhân hoặc các tổ chức phi chính phủ tài trợ.
Trong thực tế, sự phát triển ngôn ngữ của trẻ không diễn ra một cách suôn sẻ.
Trong nhiều trường hợp, sự phát triển tâm lý không diễn ra theo quy luật chung,
hoặc gặp một số khó khăn, trở ngại trong quá trình phát triển, có thể gây ra chứng
1
chậm ngôn ngữ. Điều này không chỉ ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển bình
thường của ngôn ngữ, năng lực giao tiếp ở trẻ, mà còn có ảnh hưởng lớn tới sự phát
triển của các chức năng tâm lý khác.
Phần lớn trẻ chậm phát triển ngôn ngữ đều gặp khó khăn trong việc giao tiếp
với người khác và bày tỏ cảm xúc của mình. Nhiều cha mẹ cảm thấy không chấp
nhận được khi con mình học và chơi cùng với các trẻ chậm phát triển ngôn ngữ, các
bạn học cùng đôi khi trêu và không chơi cùng. Điều này khiến cho gia đình có con
chậm phát triển ngôn ngữ cảm thấy áp lực và kì thị. Vì vậy mà cũng gây ra nhiều áp
lực lớn cho việc tuyên truyền nâng cao nhận thức về chậm phát triển ngôn ngữ.
Xuất phát từ những lý do trên, việc nghiên cứu đề tài: “ Nhu cầu tham vấn
tâm lý của cha mẹ có con chậm phát triển ngôn ngữ ở Hà Nội”, là việc làm cần
thiết, không những có ý nghĩa về mặt lý luận mà còn có ý nghĩa thiết thực, giúp cha
mẹ, người thân có thể thích nghi và khắc phục được những trở ngại tâm lý để chăm
sóc và nuôi dạy trẻ chậm phát triển ngôn ngữ một cách tốt nhất, giúp trẻ chậm phát
triển ngôn ngữ có thể hòa nhập vào cuộc sống thường ngày.
2. Tình hình nghiên cứu vấn đề
2.1. Tình hình nghiên cứu nước ngoài
2.1.1. Các nghiên cứu về nhu cầu
Nhu cầu là những đòi hỏi tất yếu hợp quy luật, đảm bảo cho sự tồn tại và
phát triển của của cơ thể. Khi bàn đến nhu cầu, các triết đã viết như sau: bản thân
nhu cầu đầu tiên được thỏa mãn, hành động thỏa mãn và công cụ đã đạt được để
thỏa mãn nhu cầu ấy lại đưa tới những nhu cầu mới, vừa nảy sinh ra những nhu cầu
mới này là sự việc lịch sử đầu tiên [11].
Cuối thể kỷ XIX, S.Freud đã đưa ra vấn đề nhu cầu vào lý thuyết bản năng
của con người. Theo Freud, lực vận động hành vi con người đều hướng tới việc
mong muốn những nhu cầu cơ thể [ Dẫn theo 26].
Vào những năm của thế kỷ XX đã xuất hiện một loạt các nghiên cứu về nhu
cầu con người. Chẳng hạn như lý thuyết động cơ hệ của K.Lewin cho rằng, những
nhân tố thực của hoạt động tâm lý của con người không chỉ xuất phát từ nhu cầu cơ
thể mà còn xuất phát từ nhu cầu xã hội [ Dẫn theo 26].
Đến nửa cuối thế kỷ XX có rất nhiều quan niệm khác nhau về nhu cầu của
con người được bổ sung và được trình bày trong các công trình nghiên cứu của
2
Mc.Clelland, Carl Rogers, Rom Harre... Các tác giả này đều nhấn mạnh đến tầm
quan trọng của nhu cầu xã hội và khẳng định đây chính là tác nhân tích cực cho sự
phát triển cá nhân [ Dẫn theo 22].
Dựa trên quan điểm triết học Mác - Lênin, X.L.Rubinstein cho rằng, con
người có nhu cầu sinh vật nhưng bản chất con người là tổng thể hòa các mối quan
hệ xã hội, vì vậy cần xét đồng thời các vấn đề cơ bản của con người với nhân cách.
Ông nhấn mạnh sự cần thiết của con người về một “cái gì đó” nằm ngoài cơ thể.
“Cái gì đó” chính là đối tượng của nhu cầu, có khả năng đem lại sự thỏa mãn nhu
cầu thông qua sự hoạt động của chủ thể. Theo ông nhu cầu là một thành tố động cơ,
chính là hạt nhân cách cho nên nhu cầu xác định những biểu hiện khác nhau của
nhân cách, đó là xúc cảm, tình cảm, ý chí, hứng thú niềm tin. Từ quan niệm trên ta
thấy rằng, nhu cầu của con người vừa mang tính tích cực, vừa mang tính chủ động.
Cụ thể: nhu cầu là sự đòi hỏi cần được thỏa mãn ở chủ thể hay không thỏa mãn lại
phụ thuộc vào hệ thống các đối tượng trong điều kiện cụ thể ( tính thụ động của nhu
cầu); mặt khác nhu cầu sẽ thúc đẩy chủ thể tích cực tìm kiếm đối tượng, phương
thức, phương tiện để thỏa mãn nhu cầu – nhu cầu thúc đẩy hoạt động, kích thích
hoạt động ( tính tích cực của nhu cầu). Chính từ hai mặt này mà ta thấy được sự
hình thành và phát triển của nhu cầu. Đó là sự vận động bên trong của nhu cầu theo
giai đoạn, cấp độ nhất định [ 17, tr. 588] .
Khi đề cập tới A.N. Leonchiev đã xác định hai cấp độ của nó: là trạng thái
tâm lý bên trong, là điều kiện bắt buộc của hoạt động, nó thể hiện trạng thái thiếu
thốn của cơ thể, nhưng do chưa có đối tượng để thả mãn nên ở cấp độ này nhu cầu
chỉ mang tính phát động sức mạnh của các chức năng tâm lý và tạo ra sự kích thích
chung. Kết quả dẫn đến các hành vi tìm tòi vô hướng. Cấp độ thứ hai, cao hơn, nhu
cầu gặp gỡ đối tượng, ở cấp độ nhu cầu có khả năng kích thích, hướng dẫn và điều
chỉnh hoạt động theo một hướng rõ ràng: hướng đến các đối tượng thỏa mãn nhu
cầu. Như vậy, nhu cầu theo đúng nghĩa tâm lý học (ở cấp độ tâm lý) phải gắn liền
với đối tượng của nó. Nói cách khác nhu cầu phải được “ vật hóa”, “ đối tượng hóa”
vào trong thực thể khách quan, ở bên ngoài chủ thể, hướng dẫn và kích thích chủ
thể về phía đó. Sự phát triển của nhu cầu là sự phát triển nội dung của đối tượng
[17, tr. 589].
2.1.2. Các nghiên cứu về tham vấn tâm lý
3
Tham vấn tâm lý nó gắn liền với hướng nghiệp, nghề tham vấn thực ra xuất
hiện từ những buổi bình minh của nhân loại, song phải đến tận thế kỷ 19, hoạt động
tham vấn mấy được nhem nhóm coi như là một hoạt động chuyên môn một cách
chuyên nghiệp và bắt đầu được nhân rộng ra nhiều nước và vùng lãnh thổ.
Thực ra khởi nguồn của tham vấn là tham vấn hướng nghiệp. Nhờ tham vấn
hướng hướng nghiệp mà nghề tham vấn mới nhanh chóng lan sang được các lĩnh
vực khác và được xã hội thừa nhận.
Chủ yếu vào những năm cuối thế kỷ 19, có một tiền đề quan trọng khi xã hội
phải nhìn tham vấn như một nghề nghiệp quan trọng là do có cách tiếp cận rất nhân
đạo trong giáo dục cũng như cách tiếp cận cho những người tâm thần.Tiền đề quan
trọng nhất, người đặt nền móng chính xác cho nghề tham vấn nói chung là Frank
Parsons. Ông đã là cha đẻ của ngành tham vấn hướng nghiệp cũng như rất nhiều
nghiên cứu về tham vấn sau này.
P.K. Onner cho rằng tham vấn là một quá trình, vì nó đòi hỏi các nhà tham vấn
phải dành thời gian nhất định và sử dụng các kỹ năng một cách thuần thục để giúp đỡ
các đối tượng / thân chủ tìm hiểu, xác định vấn đề và triển khai các giải pháp trong điều
kiện cho phép. Ông cho rằng tham vấn là một khoa học thực hành nhằm giúp cho con
người ta vượt qua được những khó khăn của mình, giúp họ có khả năng hoạt động độc
lập trong xã hội, bằng chính kỹ năng sống và năng lực của mình [3, tr.18].
Richard Nelsson (1997) cũng cho rằng mục tiêu của tham vấn là hướng tới
thay đổi cách thức cảm nhận, suy nghĩ và hành động của con người để giúp họ tạo
nên một cuộc sống tốt đẹp hơn, do vậy theo ông, tham vấn là một quá trình can
thiệp giải quyết vấn đề với các mối quan hệ, một quá trình tương tác đặc biệt, giữa
người làm và thân chủ. Ông cho rằng tham vấn có thể được sử dụng ở những cấp độ
khác nhau. Nó có thể là dạng hoạt động mang tính chuyên sâu của các nhà tâm lý
học, cán sự xã hội. nhưng nó có thể là một phần của giáo viên, ý tá hay điều dưỡng,
các nhà tình nguyện viên [3, tr. 19].
Tham vấn với sự ứng dụng rộng rãi trong xã hội. nghề tham vấn được coi
như một nghề chuyên nghiệp với môi trường làm việc là ở các trường giáo dưỡng,
các trường dạy nghề, các trại giam, các bệnh viện, trường học…
Với một số nước phát triển như Thụy Điển, Mỹ, Canada….thì muốn làm
tham vấn cán bộ tham vấn cần phải có bằng thạc sĩ tham vấn độc lập ở các nước
4
phát triển như vậy đều có một hội đồng quốc gia với các quy định chặt chẽ để có thể
cấp bằng hành nghề [Dẫn theo 27, tr.25 - 49].
2.1.3. Các nghiên cứu về trẻ chậm phát triển ngôn ngữ
Đối với trẻ em, việc phát triển ngôn ngữ đóng vai trò hết sức quan trọng, cần
được quan tâm sớm. Ngôn ngữ không chỉ giúp trẻ giao tiếp với mọi người xung
quanh, tích lũy kiến thức, phát triển tư duy, làm phong phú đời sống tinh thần của
trẻ mà còn là phương tiện điều khiển, điều chỉnh hành vi, giúp trẻ lĩnh hội các giá
trị, chuẩn mực đạo đức.
Sự phát triển ngôn ngữ nói ở trẻ em là một trong những tiến trình phức tạp.
Một số nhà nghiên cứu như Mowrer (1960) cho rằng, “tiếng bập bẹ của trẻ chứa
đựng những âm thanh có trong hầu hết các ngôn ngữ trên thế giới và việc hình
thành lời nói là một quá trình chọn lọc, loại bỏ những âm thanh không có nghĩa và
giữ lại những âm thanh có nghĩa trong tiếng mẹ đẻ của trẻ” [Dẫn theo 31, tr.5-8].
Có một số quan điểm về sự phát triển ngôn ngữ ở trẻ em:
- Lý thuyết hành vi: O.P. Skinner trong tác phẩm Hành vi bằng lời cho rằng:
Ngôn ngữ của trẻ cũng như mọi hành vi khác được hình thành do thao tác quyết
định và sự “bắt chước” là rất quan trọng. Những thao tác về ngôn ngữ cùng với sự
giúp đỡ của người lớn sẽ giúp trẻ nhanh chóng trưởng thành về ngôn ngữ [Dẫn
Theo 25, tr.26].
- Lý thuyết tự nhiên: Noam Chomxky cho rằng, trẻ em đóng vai trò nhân tố
chính trong sự phát triển nhân ngôn ngữ của chính mình. Đây là thành tựu chỉ có ở
con người, con người có cơ quan sản sinh ngôn ngữ trong não bộ, chỉ cần có sự tác
động thêm từ bên ngoài là ngôn ngữ có cơ hội xuất hiện [Dẫn theo 25, tr. 27].
- Lý thuyết phát triển của ngôn ngữ dựa trên nhận thức của Piaget cho rằng,
ngôn ngữ không quan trọng lắm đối với sự phát triển của tư duy. Theo ông tư duy
phát triển được là nhờ trẻ hành động với các vật thể vật chất, phát hiện ra những
thiếu sót trong tư duy hiện có, luyện tập để sáng tạo ra phương thức tư duy phù hợp
với hiện thực. Ông cũng cho rằng mọi trẻ em đều trải qua quá trình phát triển như
nhau nhưng lại với tốc độ khác nhau, vì vậy giáo viên phải nỗ lực tổ chức hoạt động
cho từng trẻ, hoặc nhóm chứ không phải theo cả lớp [Dẫn theo 25,tr. 28 ].
- Lý thuyết về vùng phát triển gần Vugotxki đề cập đến một loại bài tập mà
trẻ không thể giải quyết được nếu không có sự giúp đỡ của người lớn hay bạn bè
5
lớn hơn. Khi tham gia vào hoạt động giao tiếp trẻ học được ngôn ngữ của bạn lớn,
người lớn và biến chúng thành ngôn ngữ cá nhân, lại dùng nó để tổ chức hành động
của cá nhân theo cách tương tự [Dẫn theo 25, tr. 28].
2.2. Tình hình nghiên cứu trong nước
2.2.1. Nghiên cứu về nhu cầu
Ở nước ta, những đề tài nghiên cứu về vấn đề nhu cầu đã được một số tác giả
thực hiện:
Nghiên cứu về “ Nhu cầu thành đạt nghề nghiệp của tri thức trẻ”, tác giả Lã
Thị Thu Thủy (2011) đã chỉ ra rằng: nhu cầu thành đạt là mong muốn của các nhân
nhằm hoàn thành tốt mục tiêu đặt ra trong hoạt động nghề nghiệp của mình, những
mục tiêu của nghề nghiệp đó phải phù hợp với chuẩn mực và giá trị xã hội. Nội
dung thể hiện của nhu cầu thành đạt, nghề nghiệp phụ thuộc vào sự biến đổi của xã
hội và phụ thuộc vào chính bản thân hoạt động nghề nghiệp. Nhu cầu thành đạt của
tri thức trẻ được đánh giá ở mức độ khá. Nhu cầu thành đạt của tri thức trẻ cũng
đươc thể hiện một cách khá đa dạng, phong phú ở nhiều nội dung thể hiện và có sự
khác biệt đáng kể về mức độ giữa các nội dung thể hiện, nhu cầu thành đạt nghề
nghiệp thể hiện qua nghề nghiệp thể hiện qua mong muốn phát triển chuyên môn
được tri thức trẻ đánh giá cao nhất, phương thức thỏa mãn thông qua nhiều hoạt
động đa dạng và phong phú: hoạt động đào tạo, tự đào tạo về chuyên môn nghệp vụ,
học hỏi kinh nghiệm từ đồng nghiệp [24].
Các tác giả Trương Bích Nguyệt (2003), đã tìm hiểu nhu cầu về nội dung và
hình thức tham vấn trong nhà trường cũng như yêu cầu về phẩm chất và năng lực
của nhà tham vấn, tác giả đã kết luận thành lập phòng tham vấn trong nhà trường là
việc cần thiết với yêu cầu phải có chuyên viên tham vấn có trình độ chuyên môn về
tâm lý giáo dục và phải có một số phẩm chất cần thiết như : dễ gần và thân thiện,
biết thông cảm và chia sẻ, tôn trọng và giữ bí mật [18].
Nghiên cứu về: “Nhu cầu được giáo dục sức khỏe sinh sản của học sinh
THPT” tác giả Nguyễn Hà Thành [2009] đã đưa ra kết luận : Tất cả học sinh THPT
đều có nhu cầu hiểu biết và được giáo dục về sức khỏe sinh sản. Học sinh THPT
mong muốn chương trình giáo dục sức khỏe sinh sản được chính thức đưa vào
trường học [22, tr. 39 - 44].
6
2.2.1. Nghiên cứu về tham vấn tâm lý
Trước năm 1945, gần như không có tư liệu nào về sự phát triển ngành tham
vấn nói riêng và ngành tâm lý học nói chung. Những bước đi đầu tiên của tham vấn
là các hình thức chia sẻ, tâm sự xin lời khuyên, qua báo đài ti vi,… các hình thức
tham vấn trực tiếp và tham vấn nhóm đã nhen nhóm nhưng vẫn còn nhiều hạn chế.
Tham vấn qua báo, đài …càng ngày càng nở rộ và được làm việc như một
ngành chính thức, được xã hội thừa nhận ngày càng nhiều bởi độ uy tín của nó, ví
dụ như chị Thanh Tâm, anh Đinh Đoàn.
Có nhiều quan điểm khác nhau về tham vấn tâm lý được in trên các sách, tạp
chí như: Bùi Thị Xuân Mai, Trường cao đẳng Lao động – Xã Hội, “Tham vấn một dịch vụ Xã Hội cần được phát triển ở Việt Nam” đăng trên tạp chí TLH, số 2 /
2005, chủ yếu bàn về các cách hiểu khác nhau của các khái niệm tham vấn và
những yếu tố cơ bản của tham vấn, qua đó cho thấy được sự cần thiêt của sự phát
triển ngành tham vấn ở Việt Nam [14].
Trần Thị Minh Đức , Khoa tâm lý học - Đại học Khoa học Xã hội & nhân
văn, “ Thực trạng tham vấn ở Việt Nam: từ lý thuyết đến thực tế”, Tạp chí TLH số 2
/ 2003, nhằm đánh giá hoạt động tham vấn và vai trò của các nhà tham vấn trong
giai đoạn hiện nay…[4].
Tìm hiểu về những yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động tham vấn tâm lý cho học
sinh ở các trường THPT tác giả Lê Thị Minh Loan (2010) cho biết hiện nay đã có
gần 50 trường phổ thông có phòng tham vấn tâm lý nhưng chủ yếu tập trung ở hai
thành phố lớn là Hà Nội vả Hồ Chí Minh. Tuy nhiên mức độ tiếp cận với hoạt động
này của học sinh còn khá khiêm tốn (chỉ có 0,3% học sinh thường xuyên đến phòng
tham vấn, số lượng học sinh đến tham vấn ở mức độ thỉnh thoảng và thường xuyên
chiếm chưa đến 7%). Nguyên nhân của tình trạng trên thì có nhiều nhưng có ba
nhóm yếu tố quan trọng, tác động trực tiếp xuất phát từ bản thân học sinh, những
người làm công tác tham vấn trong trường THPT và từ phía nhà trường, xã hội [10,
tr. 11-16].
Trong đề tài “Khó khăn tâm lý và nhu cầu tham vấn của học sinh phổ thông”
nhóm tác giả Dương Diệu Hoa, Vũ Khánh Linh, Trần Văn Thức (2007) đã chỉ ra
các khía cạnh thể hiện khó khăn tâm lý học sinh THPT là khó khăn trong việc xác
định lựa chọn nghề nghiệp cho tương lai, khó khăn trong học tập, băn khoăn về sự
7
phát triển tâm sinh lý của bản thân, khó khăn trong mối quan hệ với cha mẹ, thầy
cô. Nghiên cứu đã chỉ ra sự cần thiết của hoạt động tham vấn trong nhà trường và
những hình thức tham vấn mà học sinh quan tâm như tham vấn trực tiếp tại trường,
qua thư, qua điện thoại, internet [5, tr. 36 - 42].
2.2.2. Nghiên cứu về trẻ chậm phát triển ngôn ngữ
Ở Việt Nam, do nhu cầu kinh tế phát triển, xã hội phát triển, cha mẹ chạy
đua với công việc, không có thời gian, thiếu quan tâm, thiếu môi trường giao tiếp
dẫn đến có rất nhiều trẻ chậm nói, CPTNN… Chứng chậm ngôn ngữ gần đây đã
được các nhà tâm lý học, bác sĩ tâm thần ở Việt Nam quan tâm nghiên cứu. Dựa
trên một số nghiên cứu lâm sàng, các bác sĩ bệnh viện Nhi đồng , cho rằng: nguyên
nhân trẻ chậm nói là do trẻ bị mất thính lực, chậm phát triển tâm thần, rối loạn ngôn
ngữ, bệnh tự kỷ, nói lắp, loạn phát âm, hoặc chậm nói không rõ nguyên nhân thể
chất. Theo một số nghiên cứu tại Việt Nam, chứng chậm nói thường gặp ở độ tuổi
từ 24 - 36 tháng, trong đó 3/4 là bé trai. Chậm nói có nhiều mức độ: nhẹ là ít nói,
nói từng từ và thích đồ chơi; nặng là không nói được và không muốn chơi. Đặc biệt
1000 trẻ mới sinh ra có 1 trẻ mất thính lực. Trong 3 năm đầu đời, cứ 1000 trẻ thì có
2 trẻ mất thính lực. Trong đó, 1/3 trẻ do bệnh bẩm sinh, 1/3 do gene và 1/3 không rõ
nguyên nhân. Nguyên nhân không do gene là do mẹ bị nhiễm cytomegalovirus
(CMV) trong lúc mang thai. Trẻ sinh non dưới 36 tuần thai hoặc trẻ bị suy dinh
dưỡng bào thai (trẻ sinh đủ tháng nhưng cân nặng lúc sinh dưới 2.500g) cũng có
khả năng bị mất thính lực. Ngoài ra, bệnh viêm tai giữa cũng làm giảm thính lực.
Những trẻ bị chậm phát triển tâm thần, chiếm đến 3% trẻ mới sinh đều chậm nói.
Trẻ bị rối loạn phát triển ngôn ngữ cũng bị chậm nói. Tỉ lệ trong nhóm này chiếm
khoảng 5-10% ở lứa tuổi mẫu giáo và thường trẻ trai mắc nhiều hơn trẻ gái (tỉ lệ
3:1). Theo con số điều tra mới nhất hiện nay, nước ta có khoảng một triệu hai trăm
trẻ khuyết tật. Trong đó trẻ khuyết tật ngôn ngữ chiếm từ 17% đến 19%. Như vậy,
trẻ khuyết tật ngôn ngữ có khoảng hơn 200.000 em. Con số này đặt ra cho chúng ta
một nhiệm vụ quan trọng và cấp thiết về công tác chăm sóc và giáo dục. Cũng theo
các nghiên cứu này, trẻ khuyết tật ngôn ngữ có 8 dạng khác nhau. Do vậy, số lượng
này cũng nêu nhiệm vụ cần thiết trong việc phân loại khuyết tật để xác định mục
tiêu chăm sóc và giáo dục, đồng thời, cũng xác định mối quan hệ giữa các chuyên
ngành trong khoa học tật học và y học [7].
8
Các nghiên cứu tại Việt Nam đã chỉ ra một số lượng lớn các trẻ mắc chứng
chậm ngôn ngữ. Tuy nhiên vẫn chưa có nghiên cứu chuyên sâu nào về nhu cầu
TVTL của cha mẹ có con CPTNN, chủ yếu là các đề tài nghiên cứu về nhu cầu
tham vấn cho đối tượng là học sinh, sinh viên. Vì vậy cần phải có các nghiên cứu
chuyên sâu có tính quy mô và chuyên sâu về vấn đề này tại Việt Nam.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Xác định cơ sở lý luận và phân tích thực trạng nhu cầu tham vấn tâm lý của
cha mẹ có con chậm phát triển ngôn ngữ ở Hà Nội, trên cơ sở đó đề xuất một số
kiến nghị góp phần đáp ứng nhu cầu tham vấn tâm lý của cha mẹ có con chậm phát
triển ngôn ngữ ở Hà Nội.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Xác định một số vấn đề lý luận về nhu cầu tham vấn tâm lý của cha mẹ có
con chậm phát triển ngôn ngữ.
Phân tích chỉ ra thực trạng biểu hiện và mức độ của nhu cầu tham vấn tâm lý
của cha mẹ có con chậm phát triển ngôn ngữ ở Hà Nội.
Đề xuất một số kiến nghị nhằm đáp ứng nhu cầu về tham vấn tâm lý của cha
mẹ có con chậm phát triển ngôn ngữ ở Hà Nội.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Biểu hiện và mức độ nhu cầu tham vấn tâm lý của cha mẹ có con chậm phát triển
ngôn ngữ ở Hà Nội.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
4.2.1.Nội dung
Đánh giá thực trạng biểu hiện và các yếu tố khách quan và chủ quan tác
động đến nhu cầu tham vấn tâm lý của cha mẹ có con chậm phát triển ngôn ngữ
Cùng với đó là một số kiến nghị nhằm đáp ứng nhu cầu về tham vấn tâm lý của cha
mẹ có con chậm phát triển ngôn ngữ ở Hà Nội
4.2.2. Địa bàn nghiên cứu
Nghiên cứu được tiến hành ở Trung tâm An Phước – Tây Hồ - Hà Nội và các
gia đình có con chậm phát triển ngôn ngữ ở các quận Tây Hồ, Nam Từ Liêm, Hai
Bà Trưng của thành phố Hà Nội.
9
4.2.3. Khách thể nghiên cứu
Nghiên cứu được thực hiện trên 60 người là cha mẹ có con chậm phát triển
ngôn ngữ trong đó có 40 cha mẹ tại trung tâm An Phước – Tây Hồ - Hà Nội và 20
cha mẹ các gia đình khác có con chậm phát triển ngôn ngữ ở Hà Nội và 30 cán bộ
tham vấn tâm lý.
Trong thời gian từ : 9- 2017 đến 1-2018
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Nguyên tắc phương pháp luận
5.1.1. Nguyên tắc hoạt động
Nguyên tắc này khẳng định con người tham ra vào hoạt động, từ đó nhu cầu
được hình thành, biểu hiện, phát triển và tìm kiếm các phương thức để thảo mãn.
Nhu cầu tham vấn tâm lý của cha mẹ có con chậm phát triển ngôn ngữ được hình
thành thông qua quá trình chăm sóc, nuôi dạy trẻ chậm phát triển.
5.1.2. Nguyên tắc đảm bảo tính khách quan
Nhu cầu tham vấn tâm lý của cha mẹ có con chậm phát triển ngôn ngữ được
hình thành một cách khách quan khi các cha mẹ gặp khó khăn tâm lý trong quá trình
chăm sóc và nuôi dạy trẻ chậm phát triển ngôn ngữ và có nhu cầu cần hỗ trợ về mặt
tâm lý. Nguyên tắc này yêu cầu khi nghiên cứu về nhu cầu tham vấn tâm lý của cha
mẹ có con chậm phát triển ngôn ngữ cần phải đảm bảo tính trung thực, khách quan
khi nghiên cứu biểu hiện và mức độ của nhu cầu này.
5.1.3. Nguyên tắc phát triển
Bản chất của sự hình thành và phát triển tâm lý là quá trình liên tục tạo ra
những cấu tạo tâm lý mới. Vì vậy khi nghiên cứu về nhu cầu tham vấn tâm lý của
cha mẹ có con chậm phát triển ngôn ngữ cần nghiên cứu trong sự vận động, biến
đổi, tác động qua lại giữa nhu cầu này với các hiện tượng tâm lý khác.
Để thực hiện tốt nguyên tắc này trong nghiên cứu, cần:
Khi nghiên cứu đánh giá về nhu cầu tham vấn tâm lý của cha mẹ có con
chậm phát triển ngôn ngữ cần đặt ở giai đoạn phát triển tâm lý của lứa tuổi nhỏ,
thường là trước khi đi học hoặc tiểu học, trong môi trường gia đình.
Thấy được sự vận động, biến đổi phát triển nhu cầu tham vấn tâm lý của cha
mẹ có con chậm phát triển ngôn ngữ ở các nhóm tuổi khác nhau.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
10
Trong đề tài này chúng tôi sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau:
5.2.1. Phương pháp nghiên cứu tài liệu lí luận, văn bản
5.2.2. Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi
5.2.3. Phương pháp phỏng vấn sâu
5.2.4. Phương pháp quan sát
5.2.5. Phương pháp nghiên cứu trường hợp
5.2.6. Phương pháp xử lí số liệu bằng thống kê toán học
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Góp phần làm sáng tỏ và bổ sung thêm một số vấn đề lý luận về nhu cầu
tham vấn tâm lý nói chung và nhu cầu tham vấn tâm lý của cha mẹ có con chậm
phát triển ngôn ngữ nói riêng, biểu hiện và mức độ nhu cầu tham vấn tâm lý của
cha mẹ có con chậm phát triển ngôn ngữ, những yếu tố ảnh hưởng.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả nghiên cứu thực tiễn chỉ ra thực trạng nhu cầu tham vấn tâm lý của
cha mẹ có con chậm phát triển ngữ, chỉ ra các biểu hiện và các yếu tố ảnh hưởng
đến nhu cầu ấy, qua đó đề xuất một số kiến nghị nhằm đáp ứng nhu cầu tham vấn
tâm lý của cha mẹ có con chậm phát triển ngôn ngữ ở Hà Nội.
7. Cơ cấu luận văn
Cấu trúc luận văn bao gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về nhu cầu tham vấn tâm lý của cha mẹ có con
chậm phát triển ngôn ngữ
Chương 2: Tổ chức và phương pháp nghiên cứu
Chương 3: Kết quả nghiên cứu thực tiễn về nhu cầu tham vấn tâm lý của cha
mẹ có con chậm phát triển ngôn ngữ ở Hà Nội
11
CHƯƠNG 1:
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ NHU CẦU THAM VẤN TÂM LÝ CỦA CHA MẸ
CÓ CON CHẬM PHÁT TRIỂN NGÔN NGỮ
1.1. Nhu cầu tham vấn tâm lí
1.1.1. Nhu cầu
1.1.1.1. Khái niệm về nhu cầu
Từ lâu nhu cầu đã là đối tượng nghiên cứu của hầu hết các ngành khoa học
nghiên cứu sinh học và xã hội. Trong lĩnh vực kinh tế - xã hội vấn đề về nhu cầu
được tìm thấy trong nghiên cứu của các nhà khoa học tên tuổi như Jeremy Bentham,
Benfild, William Stanley Jevons, John Ramsay McCulloch, Edward S. Herman. Đó
là hiện tượng phức tạp, đa diện, đặc trưng cho mọi sinh vật.
Có nhiều quan niệm khác nhau về nhu cầu. Tác giả A.V.Daparogiet cho rằng
“Nhu cầu là sự phản ánh vào óc người sự cần thiết mà người đó cảm thấy đối với
một vật thể nào đó. Nhu cầu kích thích con người hành động, buộc con người phải
vươn tới một đối tượng nhất định” [Dẫn theo 29].
A.N.Leonchiev thì cho rằng, “Nhu cầu là một trạng thái của con người, cần một
cái gì đó cho cơ thể nói riêng, con người nói chung sống và hoạt động [Dẫn theo 29].
A.Maslow đã cho rằng nhu cầu và sự phát triển của con người theo một
chuỗi liên tiếp từ thấp đến cao, theo ông, sau khi nhu cầu bậc thấp được thỏa mãn
thì nảy sinh đòi hỏi thỏa mãn nhu cầu bậc cao hơn [Dẫn theo 29, tr. 12].
D.N. Uznetze người đầu tiên trong tâm lý học Xô viết nghiên cứu về nhu
cầu. Ông khám phá ra mối quan hệ giữa nhu cầu và hành vi. Tương ứng theo mỗi kiểu
hành vi là một nhu cầu. Ông cho rằng: Nhu cầu là yếu tố đặc trưng cho cở thể sống, là
cội nguồn của tính tích cực và nó phát triển tương ứng với sự phát triển của con người .
khi có một nhu cầu cụ thể nào đó xuất hiện, chủ thể hướng sức lực của mình vào hiện
thực khách quan nhằm thỏa mãn nhu cầu đó sự chiếm lĩnh ưu thế của nhu cầu cấp cao
hay cấp thấp ở mỗi các nhân là do điều kiện sống, điều kiện giáo dục, phụ thuộc vào sự
ấn tượng, sự thể nghiệm mà con người thấy có ý nghĩa [Dẫn theo 26].
Trong từ điển Tâm lý học tác giả Vũ Dũng đã định nghĩa, “Nhu cầu là trạng
thái của cá nhân, xuất phát từ chỗ nhận thấy cần những đối tượng cần thiết cho sự
tồn tại và phát triển của mình và đó là nguồn gốc tính tích cực của cá nhân”
[2].Theo tác giả Nguyễn Quang Uẩn định nghĩa “Nhu cầu là sự đòi hỏi tất yếu mà
12
con người cảm thấy cần được thỏa mãn để tồn tại và phát triển” [ 29, tr. 154]. Có rất
nhiều quan điểm khác nhau về nhu cầu nhưng có thể nhận định khái quát về nhu cầu
như sau:
Nhu cầu là nguyên nhân khởi đầu cho các hành động khác nhau của con
người, với tư cách là một hiện tượng tâm lý, nhu cầu chi phối mãnh liệt đến đời
sống tâm lý nói chung, đến hoạt động của con người nói riêng.
Nhu cầu là yếu tố cần thiết cho sự tồn tại và phát triển của cá nhân, trẻ em có
nhu cầu khác nhau với người lớn, nhu cầu ở nam giới khác nữ giới, nhu cầu của
người tri thức khác với người nông dân lao động và ở những vùng miền do điều
kiện phát triển khác nhau thì mức độ nhu cầu khác nhau.
Nhu cầu của con người luôn gắn với hoạt động. Nhu cầu và sự thỏa mãn nhu
cầu là sức mạnh nội tại, là động lực thúc đẩy con người hoạt động, điều chỉnh hành
vi, tạo nên tính tích cực bên trong của mỗi cá nhân nhằm đạt được mục tiêu đề ra.
Dựa vào cơ sở lý luận của nhu cầu được trình bày ở trên, theo chúng tôi:
“ Nhu cầu là một thuộc tính của nhân cách, biểu thị mối quan hệ tích cực
của cá nhân với hoàn cảnh, là những đòi hỏi mà cá nhân thấy cần phải được thỏa
mãn trong điều kiện nhất định có thể tồn tại và phát triển”.
1.1.1.2. Vai trò của nhu cầu
Nhu cầu được xem là nguồn gốc bên trong tao nên tính tích cực nhận thức
của con người, là động cơ thúc đẩy của con người, là động cơ thực sự của cá nhân.
Chính nhu cầu thúc đẩy con người tích cực hoạt động, tạo nên những điều kiện,
những phương tiện tương ứng để thỏa mãn đỏi hỏi của mình.
Nhu cầu là biểu hiện dầu tiên của tính tích cực cá nhân, nó có tác dụng xác
định xu hướng của cá nhân, xác định thái độ của người đó đối với hiện thực và đối
với bản thân, xét đến cùng nó xác định lối sống và hoạt động của cá nhân.
Nhu cầu là nguồn gốc của tính tích cực trong hoạt động.
Như vậy các nhu cầu của con người được thể hiện ở chủ thể dưới dạng ước
ao, chính nó điều chỉnh hoạt động của con người, làm xuất hiện các hoạt động của
con người.
1.1.1.3. Đặc điểm của nhu cầu
- Nhu cầu bao giờ cũng có tính đối tượng.
13
+ Nhu cầu bao giờ cũng là nhu cầu về một cái gì đó cụ thể, cũng là sự đòi hỏi
để thoả mãn nhu cầu nhưng ban đầu đối tượng có thể chưa cụ thể, chưa rõ ràng
+ Đối tượng của nhu cầu ở những người khác nhau là khác nhau.
+ Chính tính đối tượng của nhu cầu đã thúc đẩy con người hoạt động và sáng
tạo ra thế giới đối tượng để thỏa mãn những nhu cầu này ngày càng cao của con người.
- Nội dung của nhu cầu do những điều kiện và phương thức thỏa mãn nó
quy định
+ Chính điều kiện sống quy định nội dung đối tượng của nhu cầu hay nói
cách khác nhu cầu là sự phản ánh những điều kiện sống.
+ Nội dung của nhu cầu do điều kiện thỏa mãn nó quy định. Điều kiện thỏa
mãn nhu cầu của con người nằm trong xã hội, do đó nhu cầu của con người mang
tính xã hội.
+ Nội dung cụ thể của nhu cầu còn phụ thuộc vào phương thức thỏa mãn
C.Mác đã từng nói: “ Đói là đói, song cái đói được thỏa mãn bằng thịt chín
với cách dùng bằng dao và dĩa thì khác với cái đói buộc phải nuốt bằng thịt sống
với dùng tay, móng và răng ”.
- Nhu cầu của con người có tính chu kỳ.
+ Khi một nhu cầu được thỏa mãn, không có nghĩa là nhu cầu ấy chấm dứt
mà nó tiếp tục tái diễn, nếu người ta vẫn còn sống và phát triển trong điều kiện và
phương thức sinh hoạt như cũ. Sự tái diễn đó thường mang tính chu kỳ. Tính chu kỳ
này do sự biến đổi có tính chu kỳ của hoàn cảnh xung quanh và trạng thái của cơ
thể gây ra.
- Nhu cầu của con người mang bản chất xã hội: nhu cầu của con người khác
xa về chất so với con vật [29, tr. 154].
1.1.1.4. Các mức độ của nhu cầu
Mức độ của nhu cầu được thể hiện tăng dần, từ ý hướng lên ý muốn và cuối
cùng là ý định.
+ Ý hướng: ý hướng là khởi đầu của nhu cầu. Ở mức độ này nhu cầu chưa
được phản ánh đầy đủ, rõ ràng vào trong ý thức của con người.
+ Ý muốn: ý muốn là mức độ cao hơn của nhu cầu so với ý hướng. Ở đây,
chủ thể đã ý thức được đối tượng chứa đựng khản năng thỏa mãn nhu cầu, mục đích
của hành động thảo mãn nhu cầu.
14
+ Ý định: ý định là mức độ cao nhất của nhu cầu, lúc này chủ thể đã ý thức
đầy đủ cả về đối tượng cũng như cách thức điều kiện nhằm thỏa mãn nhu cầu, xác
định rõ khuynh hướng của nhu cầu và sẵn sàng hành động,
1.1.2. Tham vấn tâm lý
1.1.2.1. Khái niệm tham vấn tâm lý
Tham vấn ( Counseling Psychology) là một thuật ngữ không còn xa lạ ở Việt
Nam trong khoảng 10-15 năm lại đây, tuy nhiên cho đến nay vẫn còn đang tồn tại
nhiều cách hiểu khác nhau liên quan tới thuật ngữ này. Không riêng gì ở Việt Nam
mà tại các nước phương Tây và Bắc Mỹ, thuật ngữ tham vấn cũng được hiểu ở
nhiều mức độ khác nhau. Đôi khi nó chỉ là những hoạt động của người giúp đỡ
thông thường, hoặc của tình nguyện viên, họ được xem là người làm trợ giúp.
Hiệp hội các nhà tham vấn Hoa Kỳ (ACA, 1997) cho rằng: Tham vấn là sự
áp dụng nguyên tắc tâm lý, sức khỏe tinh thần hay nguyên tắc về sự phát triển con
người thông qua các chiếm lược can thiệp một cách có hệ thống về nhận thức, xúc
cảm, hành vi, tập trung vào sự lành mạnh, sự phát triển các nhân, phát triển nghề
nghiệp cũng như vấn đề về bệnh lý [3, tr. 18].
Theo như NAPS – hội tâm lý học Mỹ định nghĩa: “tham vấn tâm lý là một
quá trình giúp cá nhân khắc phục nhũng trở ngại tâm lý có thể gặp trong quá trình
trưởng thành, khiến con nguời phát triển một cách lý tưởng” [ 17]
Theo tổ chức tham vấn tâm lý thế giới, tham vấn là: “Tham vấn một quá trình
trợ giúp dựa trên các kỹ năng, trong đó, một người dành thời gian, sự quan tâm và sử
dụng thời gian một cách có mục đích để giúp đỡ thân chủ khai thác tình huống, xác
định và triển khai các giải pháp khả thi trong mọt thời gian cho phép [20, tr. 16].
Như vậy, có thể nói rằng, các nhà tâm lý học nước ngoài có nhiều quan điểm
khác nhau về tâm lý, tuy nhiên, trong khuôn khổ luận văn của mình, chúng tôi đồng
ý với quan điểm về cách tiếp cận của Mielke J (1999). Ông cho rằng: yếu tố tâm lý
là động cơ rõ rệt thúc đẩy con người tìm đến tham vấn [ 3, tr. 18].
Không chỉ ở nước ngoài, ở Việt Nam, tham vấn đã được rất nhiều các nhà
tâm lý học quan tâm và nghiên cứu cũng như đưa ra nhiều khái niệm khác nhau.
Theo như tác giả Trần Thị Minh Đức định nghĩa (2011): “Tham vấn là quá trình
tương tác giữa nhà tham vấn (người có chuyên môn và kỹ năng tham vấn, có phẩm chất
đạo đức của nhà tham vấn và được pháp luật thừa nhận) với thân chủ (còn gọi là khách
15
hàng – người đang có khó khăn về tâm lý muốn được giúp đỡ). Thông qua các kĩ năng
trao đổi và chia sẻ tâm tình (dựa trên các nguyên tắc đạo đức và mối quan hệ mang tính
chất chuyên nghiệp) thân chủ hiểu và chấp nhận thực tế của mình, tự tìm thấy tiềm năng
của bản thân để giải quyết các vấn đề của chính mình”. Thuật ngữ “tham vấn” miêu tả
một cách chính xác nhất bản chất của nghề là trợ giúp người khác khi gặp khó khăn chứ
không hướng họ theo cách giải quyết của nhà tham vấn [3, tr.18].
Cũng đưa ra định nghĩa về tham vấn, tác giả Bùi Thị Xuân Mai cho rằng
“tham vấn tâm lý là một hoạt động của nhà chuyên môn, bằng kiến thức, hiểu biết
và kỹ năng nghề nghiệp của mình, thấu hiểu những cảm xúc, suy nghĩ hành vi của
đối tượng (cá nhân, gia đình hay nhóm) giúp họ khai thác nguồn lực, tiềm năng cho
giải quyết vấn đề” [13, tr. 24 – 28]
Nhìn chung có nhiều thuật ngữ khác nhau về tham vấn, song hầu hết các tác
giả đều thống nhất ở các khía cạnh sau:
(1) Tham vấn tâm lý là một hoạt động hay là một quá trình trợ giúp
Đời sống tâm lý của con người vô cùng đa dạng, mỗi một các thể khác nhau
là một môi trường tâm lý khác nhau.Tham vấn vẫn diễn ra theo 6 bước cơ bản .
(2) Tham vấn là sự trợ giúp
Nhà tham vấn sẽ “trợ giúp” thân chủ để thân chủ giải quyết vấn đề, nhà tham
vấn sẽ đóng vai là một người lắng nghe tích cực, chia sẻ… với thân chủ, giúp thân
chủ nhìn lại bản thân, kiểm soát cảm xúc, củng cố lại niền tin cho thân chủ, để thân
chủ tự tin ứng phó với những khó khăn.
(3) Tham vấn là sự trợ giúp, củng cố niền tin cho thân chủ để thân chủ giải
quyết các vấn đề của mình.
(4) Đối với người trợ giúp
Các nhà tham vấn khi trợ giúp phải có những kiến thức chuyên môn, đặc biệt là
các kiên thức nền tảng về tâm lý học, có kỹ năng tham vấn tâm lý, được pháp luật công
nhận, dành sự quan tâm một thời gian nhất định đến vấn đề khó khăn của thân chủ.
Trong phạm vi của luận văn, từ những sự phân tích về tham vấn chúng tôi sử
dụng khái niệm tham vấn tâm lý như sau: “ Tham vấn tâm lý là một tiến trình trợ
giúp đối tượng ( người đang có khó khăn về tâm lý cần được giúp đỡ) nâng cao
nhận thức, duy trì sự thăng bằng về tâm lý, tăng cường khả năng ứng phó với các
vấn đề nảy sinh trong cuộc sống của bản thân, ra quyết định hợp với hoàn cảnh của
mình và thực hiện quyết định một cách hiệu quả”.
16
1.2.2.2.Đặc điểm của tham vấn tâm lý
Tham vấn tâm lý là một quá trình trợ giúp, nhằm giúp cho thân chủ chịu trách
nhiệm về cuộc đời của mình, nhà tham vấn tâm lý chỉ là người soi sáng vấn đề, giúp
về mặt thông tin, giải tỏa cảm xúc gây ảnh hưởng tiêu cực tới các quyết định của bản
thân, chứ không đưa ra lời khuyên hay quyết định hộ vấn đê cho thân chủ.
Phương thức thỏa mãn: tham vấn giúp cho thân chủ, khiến thân chủ tin
tưởng, hợp tác, nhằm mục đích khai thác tối đa tiềm năng hiện có để giải quyết vấn
đề của thân chủ [3, tr. 21].
1.2.2.3. Nhiệm của tham vấn tâm lý
Giúp thân chủ thay đổi trạng thái cảm xúc, hành vi tiêu cực, cải thiện và tăng
cường các tác động tích cực.
Giúp thân chủ tăng cường hiểu biết về chính bản thân họ và hoàn cảnh của
họ bằng cách cung cấp những thông tin có giá trị thích hợp những giải thích có cơ
sở, giúp thân chủ đưa ra nhiều hướng giải quyết có thể thực hiện được và từ đó giúp
họ lựa chọn giải pháp thích hợp nhất đối với hoàn cảnh và khả năng của họ.
Giúp thân chủ đưa ra được những quyết định đúng đắn, dựa trên những
thông tin mà nhà tham vấn cung cấp, dựa trên khả năng của đối tượng, cũng như
tiềm năng hộ trợ từ các nguồn lực bên ngoài.
Hỗ trợ cho thân chủ kịp thời trong thời gian khủng hoảng.
Hỗ trợ thân chủ thực hiện các quyết định và đi đến giải quyết mà họ đang
gặp phải [3, tr. 32-33].
1.2.2.4. Hình thức của tham vấn tâm lý
a. Hình thức tham vấn trực tiếp: thân chủ và nhà tham vấn đối thoại với nhau
một cách trực tiếp, nhà tham vấn dùng các kỹ năng của mình giúp than chủ hiểu,
nhìn nhận lại sự kiện một cách tích cực hơn, các nguyên nhân dẫn đến sự kiện đó
khơi dậy những tiềm năng của thân chủ, để họ tự lựa chọn giải pháp giải quyết vấn
đề của chính mình.
Đặc điểm: - Thông tin hai chiều trong một thời gian ngắn.
- Các kỹ năng tham vấn được sử dụng một cách có hiệu quả.
Loại hình: Tham vấn trực tiếp tại trung tâm, tham vấn trực tiếp tại nhà, văn
phòng...[3, tr 40-42].
17
b. Hình thức tham vấn gián tiếp: thân chủ và nhà tham vấn không đối thoại
trực tiếp với nhau, mà thương thông qua khâu trung gian như qua báo chí, qua đài,
qua điện thoại, qua internet.
Đặc điểm: - Thông tin một chiều.
- Các kỹ năng tham vấn không được sử dụng một cách có hiệu quả [3, tr.
40].
1.1.4. Nhu cầu tham vấn tâm lý
1.1.4.1.Khái niệm
Được xây dựng dựa trên cơ sở các khái niệm về nhu cầu, về tham vấn tâm
lý mà chúng tôi đưa ra được khái niệm về nhu cầu TVTL: “ Nhu cầu tham vấn tâm
lý là mong muốn được trợ giúp tâm lý của thân chủ khi gặp khó khăn tâm lý đối với
nhà tham vấn, để thân chủ nhận thức được chính xác vấn đề, khai thác được tiềm
năng của bản thân nhằm tìm kiếm và giải quyết khó khăn của mình một cách hiệu
quả nhất”.
Từ khái niệm trên chúng ta thấy rằng:
(1)Nhu cầu tham vấn tâm lý là loại nhu cầu đặc biệt của con người, nó thể
hiện ở chỗ đòi hỏi thân chủ tiếp cận dịch vụ tham vấn một cách chuyên nghiệp để
giải quyết các vấn đề nảy sinh trong cuộc sống.
(2)Khi gặp khó khăn tâm lý mà bản thân không tự giải quyết được, họ mới
nảy sinh nhu cầu tham vấn tâm lý.
(3)Nhu cầu tham vấn tâm lý không chỉ được hiểu đơn giản là đáp ứng
những thông tin cần thiết cho thân chủ mà cao hơn là là giúp thân chủ nhận
thức được khó khăn tâm lý của mình, biết được khả năng, năng lực của bản
thân có thể tìm kiếm và thực thi cách giải quyết tối ưu nhất cho bản thân.
1.1.4.2. Đặc điểm của nhu cầu tham vấn tâm lý
Dựa trên những đặc điểm của nhu cầu, đặc điểm của TVTL mà chúng tôi đưa
ra các đặc điểm của nhu cầu TVTL như sau:
- Nhu cầu TVTL bao giờ cũng có tính đối tượng.
+ Nhu cầu tham vấn tâm lý là nhu cầu tinh thần của con người tới đối tượng
thỏa mãn là sự chia sẻ, thấu cảm của NTV với thân chủ, từ đó tìm ra giải pháp tối
ưu để giải quyết vấn đề của bản thân.
+ Đối tượng của nhu cầu TVTL ở những người khác nhau là khác nhau.
18