Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

HOàn thiện chính sách thuế xuất nhập khẩu trong điều kiện hội nhập với khu vực và thế giới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (161.51 KB, 23 trang )


LỜI MỞ ĐẦU
Thuế là một trong những công cụ quản lý và điều tiết của nhà
nước về tình hình sản xuất, kinh doanh và lưu thông hàng hoá - dịch vụ
trong nước. Ngoài ra chính sách thuế còn là một trong những công cụ
để thực hiện các chiến lược kinh tế của đất nước. Trong hoạt động kinh
doanh thương mại quốc tế, các nước thường dùng các công cụ để quản
lý như: hạn ngạch, tỷ giá, giấy phép, thuế quan. Trong đó thuế xuất
nhập khẩu thường được các nước sử dụng cơ bản nhất bởi nó là cơ sở
trong trao đổi buôn bán và là một nguồn thu đối với ngân sách quốc
gia.
Ở Việt Nam, thuế xuất nhập khẩu được ban hành thành luật vào
tháng 12 năm 1987 với tên gọi là Luật thuế xuất nhập khẩu hàng mậu
dịch. Sau hai lần sửa đổi vào các năm 1991 và 1993 và gần đây nhất là
tại kỳ họp thứ 3 Quốc hội khoá X (tháng 4, tháng 5-1998), Luật thuế
xuất nhập khẩu đã có những nội dung thay đổi cơ bản về thời hạn tính
thuế, thuế xuất, về xử lý vi phạm... Tuy vậy trong quá trình thực hiện,
thuế xuất nhập khẩu vẫn còn nhiều hạn chế và có những điểm chưa phù
hợp với tình hình thực tế trong nước, cần phải tiếp tục sửa đổi, bổ sung.
Mặt khác, trong thực tiễn phát triển kinh tế của đất nước cũng như
bối cảnh quốc tế mới, làm cho luật thuế xuất nhập khẩu vừa đáp ứng
được nhu cầu quản lý kinh tế trong nước, vừa phù hợp với luật lệ và
1

thông lệ quốc tế. Các yếu tố thúc đẩy hoàn thiện chính sách thuế xuất
nhập khẩu là:
Do nhu cầu đòi hỏi cần phải có chính sách thuế xuất nhập khẩu
phù hợp để đảm bảo sự công bằng giữa các doanh nghiệp tham gia hoạt
động xuất nhập khẩu; khuyến khích sản xuất và thúc đẩy xuất khẩu.
Sự gia nhập vào các tổ chức trong khu vực như ASEAN và sự
tham gia hiệp định AFTA và gần đây nhất là việc Việt Nam ký hiệp


định thương mại song phương với Mỹ đang đặt ra nhiều vận hội cho sự
phát triển của đất nước, nhưng cũng đặt ra nhiều thách thức mà chúng
ta thực sự phải nỗ lực thì mới đạt được những mục tiêu phát triển mong
muốn. Thách thức trước mắt là chúng ta phải thực hiện những cắt giảm
thuế quan với nhiều mặt hàng theo yêu cầu của CEPT trong chương
trình của AFTA. Chương trình này đòi hỏi ta phải có những thay đổi về
chính sách thuế xuất nhập khẩu cho phù hợp.
Quá trình quốc tế hoá đang phát triển mạnh mẽ, ở khắp các châu
lục, các khu vực của thế giới, kéo theo sự tham gia ngày càng mạnh mẽ
thậm chí của các nước chậm tiến nhất. Sự hoà nhập quốc tế này đòi hỏi
phải có sự thống nhất ngày càng rộng rãi những luật lệ quốc tế trong
hợp tác phát triển. Sự hoà nhập tất yếu của Việt Nam vào hợp tác khu
vực và quốc tế cũng đang đặt ra nhiệm vụ thích hợp hoá các chính sách
quản lý phát triển kinh tế, trong đó đặc biệt nhấn mạnh chính sách thuế
xuất nhập khẩu, đối với các điều kiện và thông lệ chung của thế giới.
2


Xuất phát từ nhu cầu thực tế trên chúng tôi thực hiện bài viết này
với tiêu đề: “HOàn thiện chính sách thuế xuất nhập khẩu trong điều
kiện hội nhập với khu vực và thế giới”.
Mục đích của bài viết là làm sao để chính sách thuế xuất nhập
khẩu của ta phù hợp với chính sách thuế của khu vực và thế giới. Bài
viết được chia làm ba phần:
Phần một: Thuế và chính sách thuế xuất nhập khẩu ở Việt
Nam hiện nay.
Phần hai: Thực trạng và hạn chế của chính sách thuế xuất
nhập khẩu trong điều kiện hội nhập với khu vực và thế giới.
Phần ba(phần chính): Hoàn thiện chính sách thuế xuất nhập
khẩu trong điều kiện hội nhập với khu vực và thế giới hiện nay.

Bài viết được thực hiện dưới sự hướng dẫn của thầy cô giáo. Do
thời gian có hạn và trình độ còn hạn chế chính vì thế bài viết không
tránh khỏi những sai sót, rất mong nhận được sự góp ý của các thày cô
giáo để bài viết sau được thực hiện tốt hơn.
Xin chân thành cảm ơn!.
3

NỘI DUNG
I. Thuế và chính sách thuế xuất nhập khẩu ở Việt Nam
hiện nay.
1. Thuế xuất nhập khẩu và tác dụng của nó.
Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu phát sinh khi có sự chuyển dịch
hàng hoá qua cửa khẩu và qua khu chế xuất. Đối tượng nộp thuế là tất
cả hàng hoá được phép xuất nhập khẩu qua biên giới và hàng hoá ngoài
thị trường mua bán với khu chế xuất. Hàng vận chuyển quá cảnh, hàng
chuyển khẩu và hàng nhân đạo không thuộc diện chịu thuế.
Thuế xuất nhập khẩu là một trong những biện pháp tài chính mà
các nước dùng để can thiệp vào hoạt động ngoại thương. Thuế xuất
nhập khẩu thực chất là một khoản thu bắt buộc điều tiết vào giá của các
hàng hoá, dịch vụ được trao đổi buôn bán giữa các quốc gia mà chủ sở
hữu chúng phải nộp thuế cho nhà nước.
Thuế chính là nguồn thu chủ yếu của ngân sách nhà nước. Thông
thường nguồn thu từ thuế chiếm từ 60 - 90% ngân sách. Cho nên thuế
thường trở nên là một công cụ quan trọng của chính phủ góp phần tích
cực vào việc điều chỉnh các mất cân đối lớn trong nền kinh tế; góp
phần khuyến khích tăng trưởng kinh tế; khuyến khích cạnh tranh và mở
4

rộng các thành phần kinh tế, động viên khai thác tài nguyên lao động,
nguyên nhiên vật liệu trong nước; kích thích khai thác nguồn vốn từ

nước ngoài; mở rộng giao lưu hàng hoá... Ngoài ra, thuế còn có tác
dụng góp phần bảo đảm công bằng xã hội, bình đẳng giữa các thành
phần kinh tế...
Việt Nam là một trong những nước mà hệ thống thuế chưa phát
triển thì thuế xuất nhập khẩu được xem là một nguồn thu quan trọng
trong ngân sách của chính phủ. Khối lượng thuế nhập khẩu chiếm tỷ
trọng lớn nhất trong toàn bộ nguồn thu của nước ta, do đặc điểm là sản
xuất công nghiệp còn non yếu và tiêu thụ lại theo khuynh hướng
chuộng đồ ngoại. Nên tốc độ nhập khẩu luôn tăng nhanh hơn tốc độ
phát triển kinh tế và vì vậy thuế nhập khẩu càng trở nên quan trọng.
Thuế nhập khẩu bảo hộ sản xuất trong nước, nâng đỡ các ngành công
nghiệp non trẻ trong nước, đảm bảo các cam kết với chính phủ nước
ngoài, là công cụ để nhà nước thực hiện các chiến lược lớn liên quan
tới thương mạt quốc tế. Thuế xuất nhập khẩu còn có tác dụng khuyến
khích các doanh nghiệp tham gia tích cực vào hoạt động xuất nhập
khẩu...
2. Chính sách thuế xuất nhập khẩu của Việt Nam hiện nay.
Trong những năm qua, chính sách thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu
của Việt Nam đã từng bước được đổi mới để phù hợp với tình hình phát
triển kinh tế - xã hội và chủ trương mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại
5

của Nhà nước ta. Nhờ đó, chính sách thuế xuất nhập khẩu đã góp phần
thúc đẩy hoạt động xuất nhập khẩu, thực hiện chủ trương tăng nguồn
thu cho ngân sách nhà nước, dần trở thành công cụ quản lý vĩ mô,
khuyển khích đẩy mạnh hoạt đông xuất nhập khẩu phù hợp với chính
sách mở cửa, chính sách phát triển kinh tế đối ngoại của nước ta trong
tình hình mới.
Theo quy định tại Luật thuế xuất nhập khẩu được sửa đổi vào năm
1993 và gần đây tại kỳ họp thứ X (tháng 4, tháng 5/ năm 1998) thì biểu

thuế xuất nhập khẩu của ta bao gồm hai loại thuế suất là thuế suất ưu
đãi và thuế xuất phổ thông.
Thuế suất ưu đãi được áp dụng cho hàng nhập khẩu từ các nước
có ký các điều khoản ưu đãi trong quan hệ buôn bán với Việt Nam với
điều kiện phải ghi rõ từng mặt hàng, số lượng, mức thuế suất ưu đãi cụ
thể.
Thuế suất thông thường được áp dụng chung cho các loại hàng
hoá nói chung không phụ thuộc vào xuất xứ của hàng hoá từ nước nào,
hàng hoá từ mọi nước dùng chung một mức thuế.
Để khuyến khích xuất nhập khẩu, đặc biệt đối với việc nhập khẩu
hàng hoá phục vụ cho sản xuất và xuất khẩu, chính sách thuế xuất nhập
khẩu còn qui định các trường hợp được miễn giảm và hoàn lại thuế.
6

II. Thực trạng và hạn chế của chính sách thuế xuất nhập
khẩu hiện nay của Việt Nam.
Trước yêu cầu của tình hình mới, đặc biệt là bố trí lại cơ cấu kinh
tế, tăng cường mở rộng hơn nữa quan hệ kinh tế đối ngoại với các
nước, đẩy nhanh quá trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới, hướng
mạnh về xuất khẩu thì chính sách thuế xuất nhập khẩu của nước ta đã
bộc lộ những hạn chế như:
Chưa đáp ứng được yêu cầu thực hiện chiến lược hướng mạnh về
xuất khẩu; Chưa phù hợp với chiến lược phát triển nền kinh tế nhiều
thành phần; Chưa phù hợp với thông lệ và các nguyên tắc của các tổ
chức quốc tế mà nước ta đã và sẽ hội nhập; Trong tổ chức thực hiện
chính sách thuế xuất nhập khẩu còn nhiều bất cập.
Trong những năm qua mặc dù chính sách thuế xuất nhập khẩu của
Việt Nam đã có nhiều thay đổi, tuy nhiên vẫn còn nhiều những điểm
chưa hợp lý. Cụ thể như sau:
1. Biểu thuế:

Việc ban hành biểu thuế xuất khẩu, nhập khẩu (xuất nhập khẩu)
hiện hành là chưa phù hợp: thuế suất dàn trải quá rộng, thuế xuất nhập
khẩu do phải gánh chịu nhiều mục tiêu bao gồm cả kinh tế, văn hoá và
xã hội, cho chính sách thuế xuất nhập khẩu nằm trong hệ thống thuế
với tính chất là một công cụ điều tiết trong tay nhà nước. Do vậy, mà
7

cơ cấu thuế trở lên quá phức tạp, trùng lắp nhiều mức thuế qui định quá
chi tiết. Một vài mức thuế rất sát nhau, đặc biệt là thuế nhập khẩu như:
0,5%, 1%, 2% và 3%, 5%, 6% và 7%, 10% và 11%, 15% và 16%, 38%
và 40%... có thể hiện có nhiều mức thuế chi tiết như thế là do phải thực
hiện nhiều mục tiêu làm kinh tế - xã hội, nhiều trường hợp thuế bảo hộ
đến từng doanh nghiệp sản xuất hoặc từng doanh nghiệp sản xuất trong
từng nhóm doanh nghiệp trong nước. Điều này làm cho biểu thuế mất
tính trung lập của nó. Quá nhiều mức thuế suất làm cho cơ cấu thuế
phức tạp một cách không cần thiết. Thuế dàn trải là có hại - thậm chí tai
hại hơn mức thuế suất cao nhưng thống nhất - vì chúng có thể đưa
nguồn vốn vào hoạt động không có hiệu quả.
Việc ban hành biểu thuế nhập khẩu hiện nay có quá nhiều mức
thuế suất dưới 5% làm cho kết quả thu vào ngân sách bị hạn chế, dồn
gánh nặng về yêu cầu động viên ngân sách nhà nước cho các mặt hàng
khác. Biểu thuế nhập nhẩu mặc dù quy định theo khung thuế suất tạo
điều kiện cho việc qui định mức thuế suất cụ thể được linh hoạt nhưng
lại dẫn đến thiếu ổn định, làm cho doanh nghiệp thiếu yên tâm trong
việc đầu tư phát triển sản xuất và xuất khẩu.
2. Thuế nhập khẩu bao gồm nhiều thứ thuế, cả thuế doanh thu,
thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế VAT cho nên thuế suất rất cao (như rượu-
bia từ 100 - 150%, ôtô từ 50% - 200%...). Tuy có thuận tiện là tập
trung nhưng không phù hợp với thông lệ quốc tế, dễ bị hiểu lầm là hạn
chế hàng nước ngoài nhập khẩu vào Việt Nam.

8

3. Thuế suất cao và quá cao đánh vào một số mặt hàng tiêu dùng
trong nước chưa sản xuất được hoặc sản xuất chưa đủ đã khuyến khích
tình trạng buôn lậu và trốn thuế của các doanh nghiệp trở lên rất mạnh.
Nhiều phương thức trốn thuế được sử dụng kể cả hối lộ cán bộ Hải
Quan và kết hợp với nhiều hiện tượng tiêu cực khác. Biểu thuế nhập
khẩu càng có nhiều tầng nấc, nhiều sự phân biệt chiếu cố theo mục tiêu
hỗ trợ phát triển kinh tế hay hạn chế tiêu thụ đều là chỗ dựa cho hiện
tượng tiêu cực. Việc giảm xuất nhập khẩu tiểu ngạch đã phần nào hạn
chế hiện tượng tiêu cực theo các cửa khẩu biên giới rất khó kiểm soát.
4. Một vấn đề nữa là việc ban hành biểu thuế với nhiều mức thuế
suất cao, thấp còn căn cứ vào mục đích sử dụng chứ không theo tính
chất hàng hoá. Vì vậy nhiều mặt hàng có cùng tính chất nhưng mục
đích sử dụng khác nhau có thuế suất nhập khẩu chênh lệch khá lớn như:
xe đua (thuế suất là 5%), xe đạp thường (70%), ôtô 4 chỗ (200%), xe
cứu thương (0%)... Cho nên nhiều doanh nghiệp đã lợi dụng điều này
mà thực hiện hành vi gian lận thương mại, trốn thuế. Thủ thuật quan
trọng nhất để trốn thuế là hạ thấp giá trị hàng nhập khẩu để hạ thấp giá
trị tính thuế hay hạ quy cách kê khai để hưởng mức thuế suất thấp hơn
đã trở thành phổ biến đối với hàng hoá có đơn giá lớn và thuế suất cao
như: xe hơi, rượu mạnh... Điển hình như là các doanh nghiệp nhập
khẩu xe tải nhẹ nhưng nguy trang dưới hình thức là nhập khẩu xe đông
lạnh chuyên dụng để trốn thuế từ 60% xuống còn 10% hay xe ôtô du
9

×