Tải bản đầy đủ (.docx) (115 trang)

NGHIÊN cứu PHÁT TRIỂN và KHAI THÁC NGUỒN lực THÔNG TIN của TRUNG tâm THÔNG TIN THƯ VIỆN TRƯỜNG đại học KIẾN TRÚC hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.48 MB, 115 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ VĂN HOÁ THÔNG TIN

TRƯỜNG ĐẠI HỌC VĂN HOÁ HÀ NỘI

PHẠM THANH BÌNH

NGHIÊN CỨU PHÁT TRIỂN VÀ KHAI THÁC
NGUỒN Lực THÔNG TIN CỦA
TRUNG TÂM THÔNG TIN THƯ VIỆN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KIẾN TRÚC HÀ NỘI •


LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC THƯ VIỆN

Hà Nội, 2011




PHẠM THANH BÌNH

NGHIÊN CỨU PHÁT TRIỂN VÀ KHAI THÁC
NGUỒN Lực THÔNG TIN CỦA
TRUNG TÂM THÔNG TIN THƯ VIỆN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KIẾN TRÚC HÀ NỘI
•••

Chuyên ngành: Khoa học Thư viện
Mã số: 60.32.20



LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC THƯ VIỆN
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. NGUYỄN HỮU HÙNG


1
MỤC LỤC


2
DANH MỤC TỪ VIÉT TẮT

CBGD

Cán bộ giảng dạy

CBQL

Cán bộ quản lý

CGCN

Chuyển giao công nghệ

CH

Học viên cao học

CNTT


Công nghệ thông tin

Consortium

Liên kết để bổ sung và chia sẻ nguồn lực thông tin

CSDL

Cơ sở dữ liệu

ĐH

Đại học

GS

Giáo sư

KH&CN

Khoa học và công nghệ

KHKT

Khoa học kỹ thuật

NCKH

Nghiên cứu khoa học


NCS

Nghiên cứu sinh

NDT

Người dùng tin

Nhà trường

Trường Đại học Kiến trúc Hà Nội

PGS

Phó giáo sư

SV

Sinh viên

SX

Cán bộ sản xuất

TH

Trung học

ThS


Thạc sĩ

Trung tâm
TS

Trung tâm Thông tin Thư viện
Tiến sĩ

TTTTTV

Trung tâm Thông tin Thư viện
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU, ĐỒ THỊ
Trang


3
Hình 4: Thống kê giáo trình theo năm xuất bản..........................................................38
Hình 5: Tỷ lệ tài liệu tham khảo tiếng Việt, ngoại văn và giáo trình..........................40
Hình 6: Kinh phí cho bổ sung tài liệu.........................................................................52
Hình 7: Quy trình xử lý tài liệu sách tại Trung tâm Thông tin Thư viện....................57
Hình 8: Sơ đồ quy trình xử lý tài liệu điện tử.............................................................61

DANH MỤC CÁC BẢNG THỐNG KÊ SỐ LIỆU
Trang
Bảng 1: Nhu cầu thông tin của NDT về các lĩnh vực đào tạo.....................................30
Bảng 2: Ngôn ngữ sử dụng của người dùng tin..........................................................31
Bảng 3: Dạng tài liệu mà người dùng tin thường sử dụng..........................................32
Bảng 4: Thống kê số lượng tạp chí có trong Trung tâm..............................................40
Bảng 5: Thống kê tài liệu luận án, luận văn................................................................41

Bảng 6: Thống kê tài liệu nộp lưu chiểu từ năm 2000 - 2010.....................................50
Bảng 7: Số lượng tài liệu do quỹ Ford tài trợ.............................................................51
Bảng 8: Tổng hợp kinh phí bổ sung............................................................................52
Bảng 9: Số lượng tài liệu thanh lý..............................................................................54
Bảng 10: Tài liệu xếp theo môn loại tri thức...............................................................58
Bảng 11: Mức độ đáp ứng thông tin đối với NDT......................................................65
Bảng 12: Đánh giá chất lượng các sản phẩm và dịch vụ............................................66
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Chúng ta đang sống trong thế kỷ XXI - thế kỷ hình thành xã hội thông tin toàn
cầu và nền kinh tế tri thức, trong đó thông tin và tri thức đang trở thành sức mạnh của
nhân loại, là nguồn lực đặc biệt của riêng mỗi tổ chức và của toàn xã hội. Với số lượng
thông tin ngày càng gia tăng một cách mạnh mẽ, việc tổ chức để đưa thông tin trở thành
nguồn lực, từ đó tổ chức đáp ứng nhu cầu tin ngày càng tăng của người dùng tin (NDT)
đang là vấn đề cấp bách đặt ra cho các cơ quan thông tin thư viện.


4

Trường Đại học Kiến trúc Hà Nội (ĐHKTHN) là một trường đầu ngành trong lĩnh
vực

đào tạo các Kiến trúc sư, Kỹ sư chuyên ngành kiến trúc, xây

dựng, quy

hoạch, kỹ thuật hạ tầng và môi trường đô thị, quản lý đô thị. Hiện nay, nhà trường đang
tiến hành, một mặt, mở rộng quy mô đào tạo gắn với chất lượng, đáp ứng thị trường và
nhu cầu phát triển nguồn nhân lực của xã hội, mặt khác, theo xu thế hội nhập, đẩy mạnh
áp dụng đào tạo theo hệ thống học chế tín chỉ.

Để đáp ứng những nhiệm vụ mới đề ra, công tác phát triển nguồn lực thông tin
(NLTT) của Trung tâm Thông tin Thư viện (TTTTTV) cần phải được chú trọng quan
tâm. Vậy làm thế nào để tổ chức, quản lý và phát triển NLTT hiện có và sử dụng được
NLTT bên ngoài sao cho đáp ứng nhu cầu sử dụng thông tin của NDT trong nhà trường
một cách có hiệu quả? Đây là những đòi hỏi, thách thức với Nhà trường mà trực tiếp là
với đơn vị chuyên môn là TTTTTV. Trong bối cảnh đó, tác giả lựa chọn chủ đề “Nghiên
cứu phát triển và khai thác NLTT của TTTTTV - Trường Đại học Kiến trúc Hà Nội” làm
đề tài cho LV thạc sỹ này.
2. Tổng quan về tình hình nghiên cứu
Vấn đề NLTT trong các cơ quan TTTV đã được không ít tác giả nghiên cứu ở
nhiều góc độ khác nhau. Trước hết, có thể kể đến cuốn sách của PGS.TS. Nguyễn Hữu
Hùng “Thông tin - từ lý luận đến thực tiễn” (2005) trong đó tại Phần 2 -Tổ chức và
quản lý thông tin có chùm bài viết như “Phát triển thông tin Khoa học và công nghệ để
trở thành nguồn lực”, “Tổ chức và quản lý hoạt động thông tin khoa học công nghệ
trước thềm thế kỷ XXI”, “ Vấn đề phát triển và chia sẻ nguồn lực
thông tin số hóa tại Việt Nam’"... Trong các công trình này, tác giả đã đã phác họa bức
tranh thông tin trong nền kinh tế mới, trình bày khái niệm và luận chứng vai trò trung
tâm của tài nguyên thông tin số trong hệ thống thông tin quốc gia, nghiên cứu những vấn
đề về chiến lược, phương thức tạo lập và chia sẻ, quản lý nhà nước và chương trình phát
triển thông tin nhằm biến thông tin trở thành nguồn lực phát triển và trình bày các giải
pháp tạo lập môi trường thông tin để phát triển NLTT số trong điều kiện ở Việt Nam.
Nghiên cứu về chính sách phát triển NLTT có các bài: “Phương pháp luận xây dựng
chính sách phát triển nguồn tin’" (2001) và “Một số vấn đề xung quanh việc thu thập
khác thác tài liệu xám” (2001) của TS. Nguyễn Viết Nghĩa và bài "Phác thảo sơ bộ


5
chính sách về NLTT' của TS. Lê Văn Viết. Các tác giả đã khẳng định vị trí quan trọng
trong chính sách phát triển NLTT đối với việc tạo nguồn, xây dựng hệ thống các kho tài
liệu của các thư viện và cơ quan thông tin. Những nội dung chủ yếu cần được đề cập

trong chính sách và cách thức trình bày kết cầu của chính sách và một số giải pháp xây
dựng chính sách tạo nguồn thông tin.
Về chủ đề chia sẻ NLTT, tiến sĩ Lê Văn Viết trong bài: “Một số vấn đề thiết lập hình
thức mượn, chia sẻ tài liệu, thông tin giữa các thư viện Việt Nam” (Kỷ yếu hội thảo thư
viện Việt Nam: Hội nhập và phát triển - 2006) đề cập tới việc thiết lập các hình thức
mượn, chia sẻ tài liệu, thông tin giữa các thư viện Việt Nam trong giai đoạn hội nhập và
phát triển đất nước.
Về vấn đề xây dựng thư viện điện tử và số hóa tài liệu có “Xây dựng Thư viện
điện tử và vấn đề số hóa tài liệu ở Việt Nam” (Tạp chí Thông tin - Tư liệu, số 2, 2005)
của thạc sỹ Nguyễn Tiến Đức, "Phát triển nội dung số ở Việt Nam: những nguyên tắc
chỉ đạo” (Tạp chí Thông tin và tư liệu, số 1, 2000) của tiến sĩ Tạ Bá Hưng đã trình bày
tiếp cận xây dựng và phát triển kho tư liệu số hóa của thư viện điện tử, cũng như các tiền
đề về pháp lý, tổ chức và kinh nghiệm để triển khai số hóa tại các cơ quan thông tin, vấn
đề xây dựng kho tài liệu số hóa và phát triển các mối liên kết, chia sẻ của các thư viện
khi xây dựng thư viện điện tử ở Việt Nam.
Trên bình diện các luận văn thạc sỹ, đến nay có khá nhiều Luận văn chuyên ngành
Khoa học thư viện cũng nghiên cứu vấn đề này, ví dụ như: “Nghiên cứu phát triển NLTT
tại Trung tâm Thông tin Thư viện trường Đại học Kinh tế quốc dân Hà
Nội” (2008) của tác giả Bùi Thị Sen; “Tăng cường NLTT tại Trung tâm Thông tin Thư
viện trường Đại học Sư phạm Hà Nội” (2006) của tác giả Nguyễn Thị Thuận; “Tăng
cường NLTT tại Thư viện Trường Đại học Bách khoa Hà Nội” (2005) của tác giả Hà Thị
Huệ; “Tổ chức và khai thác NLTT ở Thư viện Khoa học tổng hợp thành phố Hồ Chí
Minh: (2003) của tác giả Nguyễn Quang Hồng Phúc; “Tổ chức quản lý và khai thác
NLTT tại Trung tâm Thông tin thư viện Đại học Quốc gia Hà Nội” (2000) của tác giả
Trần Hữu Huỳnh;... Tuy nhiên, mỗi trường lại có những hoàn cảnh và điều kiện khác
nhau, hơn nữa ĐHKTHN có những đặc thù riêng do vậy bài toan về phát triển NLTT tại
ĐHKTHN cần có cách tiếp cận và giải quyết vấn đề khác.
Viết về NLTT tại ĐHKTHN

đã có 01 luận văn thạc sĩ đó là: “Phát triển và



6

quản lý NLTT số tại TTTTTV trường Đại học Kiến trúc Hà Nội” (2008) của tác giả
Hoàng Sơn Công; tuy nhiên luận văn này mới chỉ tập trung vào nghiên cứu NLTT số ở
phương diện quy trình số hóa tài liệu và quản ly chúng. như vậy, vấn đề phát triển và
khai thác NLTT của TTTTTV ĐHKTHN từ cách nhìn tổ chức toàn diện thì cho đến nay
chưa có đề tài nào được nghiên cứu.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Đề tài tập trung nghiên cứu về NLTT của TTTTTV ĐHKTHN về phương diện cơ cấu và tổ chức.
-

Phạm vi nghiên cứu:
+ Phạm vi không gian: TTTTTV - ĐHKTHN.
+ Phạm vi thời gian: Từ năm 2005 đến nay.

4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
-

Mục đích: Phân tích và đánh giá thực trạng NLTT của TTTTTV - Trường

ĐHKTHN và đề xuất các giải pháp phát triển và khai thác NLTT của TTTTTV.
-

Nhiệm vụ:
+ Nghiên cứu cơ sở lý luận về NLTT,
+ Nghiên cứu đối tượng NDT và nhu cầu tin của họ,
+ Khảo sát và phân tích thực trạng việc phát triển và khai thác NLTT ở TTTTTV ĐHKTHN,
+ Đề xuất các giải pháp thích hợp nhằm phát triển và khai thác NLTT của

TTTTTV - ĐHKTHN.

5. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp luận: Luận văn dựa trên phương pháp luận của duy vật biện chứng
và duy vật lịch sử, các quan điểm chỉ đạo của Đảng và Nhà nước về lĩnh vực công tác
thông tin và thư viện.
- Phương pháp cụ thể: Đề tài được tiến hành dựa trên các phương pháp nghiên
cứu cụ thể sau:
+ Nghiên cứu và phân tích tư liệu.


7

+ Điều tra xã hội học: Khảo sát thực tế, điều tra, phỏng vấn, quan sát và ý
kiến chuyên gia.
+ Thống kê: xử lý và phân tích các số liệu thu được.
+ Phân tích hệ thống: xem xét các nguồn lực trong các mối quan hệ.
6. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và kiến nghị, phần tài liệu tham khảo, phần phụ
lục, luận văn gồm 03 chương:
Chương 1: Nguồn lực thông tin và công tác đào tạo, nghiên cứu khoa học và
thực hành sản xuất tại Trường Đại học Kiến trúc Hà Nội.
Chương 2: Thực trạng tổ chức và khai thác nguồn lực thông tin tại Trung tâm
Thông tin Thư viện - Trường Đại học Kiến trúc Hà Nội.
Chương 3: Các giải pháp phát triển và khai thác nguồn lực thông tin tại
Trung tâm Thông tin Thư viện - Trường Đại học Kiến trúc Hà Nội.
CHƯƠNG 1
NGUỒN LỰC THÔNG TIN VÀ CÔNG TÁC ĐÀO TẠO,
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC, THỰC HÀNH SẢN XUẤT CỦA
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KIÉN TRÚC HÀ NỘI

1.1.
1.1.1.

Nguồn lực thông tin
Khái niệm về nguồn lực thông tin

Đối với mỗi cơ quan thông tin thư viện, NLTT là yếu tố vô cùng quan trọng, cấu
thành nên mọi hoạt động của thư viện và là cơ sở để từ đó phát triển các dịch vụ nhằm
thỏa mãn nhu cầu thông tin của NDT. Hiện nay, khái niệm về NLTT không chỉ giới hạn
ở nguồn thông tin được sở hữu bởi cơ quan thông tin, thư viện, vì ngoài nguồn thông tin
hiện có trong thư viện, còn có các nguồn thông tin cần thiết ở các nơi khác nhau không
tùy thuộc vào nơi bảo quản, lưu trữ mà các thư viện có thể với tới để cung cấp cho NDT
của mình.
Tuy nhiên, hiện nay ở Việt Nam, khái niệm về “nguồn lực thông tin” chưa được
hiểu một cách thống nhất. Khái niệm “nguồn lực thông tin” được dịch từ thuật ngữ tiếng


8

Anh “Information Resource”. Theo từ điển tiếng Việt “nguồn” là nơi bắt đầu, nơi phát
sinh ra hoặc là nơi có thể cung cấp, theo đó, nhiều người cho rằng “nguồn lực thông tin”
bao hàm cả tiềm lực thông tin và khả năng với tới các nguồn tin khác nhau. Theo nghĩa
này thì tất cả các nguồn thông tin có trong sở hữu của tổ chức hoặc tổ chức có thể với tới
được thì đều có thể gọi là nguồn lực thông tin.
Trong Nghị

định 159/2004/NĐ-CP của Chính phủ về hoạt động thông tin

KH&CN, chương


1, điều 2 có giải thích thuật ngữ “nguồn tin khoa học và công

nghệ” như sau: “nguồn tin khoa học và công nghệ” bao gồm sách, báo, tạp chí, CSDL;
tài liệu hội nghị, hội thảo khoa học, báo cáo kết quả thực hiện các nhiệm vụ nghiên cứu
khoa học và công nghệ; tài liệu về sở hữu trí tuệ, tài liệu về tiêu chuẩn, đo lường chất
lượng, luận văn, luận án sau đại học và các nguồn tin khác được tổ chức, cá nhân thu
thập”.
Tuy nhiên, trong thực tiễn hiện nay thì nhiều nhà quản lý, cán bộ thông tin thư viện
có thói quen sử dụng “nguồn lực thông tin” để chỉ các dạng tài liệu khác nhau và đó
cũng chính là “nguồn tin”: “Ở đây nguồn lực thông tin là loại tài sản cố định đặc biệt,
càng được khai thác sử dùng thì càng giàu thêm mà không hề bị hao mòn mất mát đi.
Trong đó việc đầu tư, bảo quản và tạo điều kiện thuận lợi cho việc khai thác sử dụng các
nguồn tin như tổ chức kho, lưu trữ, bảo quản, xây dựng các mục lục, các CSDL chính là
làm tăng thêm giá trị sử dụng của vốn tài liệu cố định đó” [33].
“Ở dạng chung nhất, NLTT được hiểu như là tổ hợp các thông tin nhận được
và tích lũy được trong quá trình phát triển khoa học và hoạt động thực tiễn của con
người, để sử dụng nhiều lần trong sản xuất và quản lý xã hội. NLTT phản ánh các quá
trình và hiện tượng tự nhiên được ghi nhận trong kết quả của các công trình nghiên cứu
khoa học và trong các dạng tài liệu khác của hoạt động nhận thức và thực tiễn. NLTT
bao gồm các dữ liệu thể hiện dưới dạng văn bản, dạng số, hình ảnh, âm thanh hoặc được
ghi lại trên phương tiện theo quy ước và không theo quy ước, các sưu tập, những kiến
thức của con người, những kiến thức của tổ chức và ngành công nghiệp thông tin” [29 tr.
6-9].
NLTT là một dạng sản phẩm trí óc, trí tuệ của con người, là những thông tin được
tổ

chức, kiểm soát và có giá trị trong hoạt động thực tiễn của con người,


9


NLTT được coi là phần tích cực của tiềm lực thông tin được tổ chức, kiểm soát sao cho
NDT có thể truy cập, tìm kiếm, khai thác, sử dụng để phục vụ cho các lợi ích khác nhau
của xã hội.
Như vậy, về cơ bản các khái niệm “nguồn lực thông tin” được trình bày ở các mục
trên là đồng nghĩa với nhau và đều chỉ tới các nguồn tài liệu, sách, báo, dưới mọi định
dạng khác nhau và tương tự như khái niệm “nguồn tin”. Tuy nhiên, trong một chừng
mực nhất định, khái niệm “nguồn lực thông tin” có nội hàm rộng hơn khái niệm “nguồn
tin”.
Ngoài ra, có một số tác giả cho rằng NLTT còn bao gồm: nguồn nhân lực, nguồn
kinh phí và cơ sở vật chất. Tuy nhiên, từ các phân tích trên, trong luận văn này, tác giả
chỉ xem xét và giải quyết vấn đề NLTT ở TTTTTV theo nghĩa NLTT bao gồm các
nguồn tài liệu, sách, báo, tạp chí, luận án, luận văn, đồ án tốt nghiệp, các CSDL,...
dưới mọi hình thức vật lý khác nhau được kiểm soát.
1.1.2. Các đặc trưng của nguồn lực thông tin
Trong các thư viên, các cơ quan thông tin hiện nay, nguồn tài liệu rất đa dạng về
hình thức và phong phú về chủng loại, bao gồm cả tài liệu truyền thống (tài liệu dạng
giấy) và các loại tài liệu trên các phương tiện hiện đại (tài liệu phi giấy) như: CSDL trực
tuyến, DVD-ROM, CD-ROM, đĩa mềm, vi phim, vi phiếu,v.v... Nhưng để nguồn tài liệu
đó trở thành nguồn lực thì chúng phải có đầy đủ các đặc trưng dưới đây:
- Tính vật lý:
NLTT là những phần thông tin hoặc tri thức được ghi lại, định vị lại thông qua một
hệ thống dấu hiệu nội dung và hình thức, được lưu trữ trên các vật mang tin truyền thống
như giấy, phim, ảnh,... cũng như trên các vật mang tin điện tử như đĩa từ, đĩa quang,
DVD-ROM, CD-ROM, CSDL trực tuyến,...
Phương thức lưu trữ thông tin ở các giai đoạn khác nhau là khác nhau. Đối với
phương thức truyền thống (còn gọi là phương thức tư liệu) thì vật mang tin là tài liệu, có
tính hữu hình, là cái ở dạng vật thể mà ta có thể nhận thấy bằng giác quan: thư viện phải
có mặt bằng, cơ sở vật chất như kho tàng, kệ, giá... để lưu trữ các tài liệu này. Đối với
phương thức hiện đại (còn gọi là phương thức điện tử), thong tin được mã hóa cho máy



10

đọc, những tài liệu điện tử, các CSDL, tài liệu số được lưu trữ trên các máy tính điện tử
hoặc trên mạng các máy tính dưới dạng tín hiệu nhị phân,.... Như vậy, bất cứ dạng NLTT
nào thì chúng cũng mang đặc trưng vật lý, tồn tại trên nền giá đỡ vật chất.
- Tính cấu trúc:
NLTT muốn kiểm soát được thì phải có tính cấu trúc, đó là những thông tin được
ghi lại theo những thể thức và tiêu chuẩn nhất quán (về nội dung và hình thức) đảm bảo
cho việc bảo quản, khai thác và sử dụng dễ dàng, thuận lợi.
Điển hình của tính cấu trúc của NLTT là tính phân cấp trong tổ chức dữ liệu: trật tự
của các yếu tố dữ liệu trong kho hay các biểu ghi trong CSDL đều phải dựa vào nguyên
lý ngôi thứ, quan hệ hay mạng dữ liệu nội dung và/hoặc hình thức của tài liệu.
- Tính truy cập:
NLTT phải được tổ chức và kiểm soát để NDT có thể tìm ra nó thông qua các điểm
truy cập (từ khóa, chủ đề, tên tác giả, loại hình tài liệu...). Các điểm truy cập này được
tạo ra trong quá trình xử lý tài liệu. Nhờ bộ máy tra cứu, NDT có thể tìm được tài liệu
thông qua các dấu hiệu nội dung hay hình thức của tài liệu.
Đối với tài liệu truyền thống, việc truy cập chủ yếu được thực hiện thông qua hệ
thống

mục lục, các bản chỉ mục, mục lục thư mục truy cập trực tuyến OPAC

(Online Public Access Catalog)... Còn với môi trường mạng điện tử, tài liệu, ngoài cách
truy cập như trên thì còn được truy cập bằng các siêu liên kết (Hyperlink) trong các ngôn
ngữ đánh dấu siêu văn bản HTML... NDT dễ dàng tìm được tài liệu mình cần.
- Tính có thê chia sẻ được:
Để thỏa mãn nhu cầu thông tin một cách cao nhất và để tiết kiệm kinh phí trong
các thao tác nghiệp vụ như bổ sung, xử lý,... các thư viện và trung tâm thông tin cần có

khả năng sử dụng nhiều loại TT từ các nơi khác nhau. Thực chất đây
chính là sự chia sẻ NLTT. Tính có thể chia sẻ được của NLTT thể hiện ở khả năng có thể
trao đổi thông tin theo nhiều chiều giữa các hệ thống thông tin với nhau.
Tính có thể chia sẻ của NLTT hiện nay đang được các thư viện và trung tâm thông
tin rất quan tâm, bởi vì nó là phương tiện để các thư viện và trung tâm thông tin đáp ứng


11

nhu cầu và đòi hỏi của NDT khi NLTT của mỗi thư viện riêng lẻ không đáp ứng được,
đặc biệt là nhu cầu ngày càng đa dạng về thông tin tài liệu trong thời đại bùng nổ thông
tin như hiện nay.
Việc chia sẻ NLTT truyền thống chủ yếu dựa vào các bản ghi thư mục. NDT của
các

thư viện khác có thể tìm thấy tài liệu mà mình cần quan các bản ghi thư

mục mà thư viện bạn cung cấp nhưng phải đến thư viện đó để mượn tài liệu. Việc chia sẻ
NLTT điện tử thì đơn giản và thuận lợi hơn rất nhiều. Nếu là các CSDL trực tuyến thì
NDT có thể đọc trực tiếp trên mạng mà không cần phải đến tận nơi lưu trữ tài liệu đó.
Việc chia sẻ chỉ là cách thức truy cập tới nguồn thông tin đó mà thôi.
- Tính có giá trị:
Giá trị thông tin càng cao khi càng có nhiều người sử dụng. Khác với các nguồn
lực vật chất, việc khai thác NLTT không bao giờ làm nguồn lực này cạn kiệt đi mà trái
lại càng trở nên phong phú, giàu có do được tái tạo và bổ sung thêm các nguồn thông tin
mới. NLTT có giá trị sẽ tác động mạnh mẽ tới các quá trình hoạt động xã hội, kích thích
sự sáng tạo của con người.
Thông tin và tài liệu phải có người khai thác và sử dụng. Nếu thông tin không có
người sử dụng thì đó là thông tin không có giá trị, thông tin chết. Thông tin cần phải
được nhiều người sử dụng và trong quá trình sử dụng họ lại tạo ra những thông tin mới,

và những thông tin này lại mang giá trị thực tiễn của con người. Như vậy, khi thông tin
được lựa chọn phù hợp, được kiểm soát và tổ chức tốt thì càng trở nên có giá trị và việc
sử dụng trong cộng đồng NDT càng lớn .
Hiểu về khái niệm và những đặc trưng về NLTT trên đây giúp cho ta thêm khẳng
định, trên thế giới đã có sự xuất hiện một loại hình nguồn lực mới. Song, bởi hiện nay
với việc bùng nổ thông tin và môi trường thông tin bị "ô nhiễm", ngoài xã hội, nhiều tài
liệu thông tin chưa được kiểm soát, do vậy, để thông tin tiềm năng trở thành nguồn lực
cần có những nỗ lực và tác động mạnh mẽ từ nhiều phương diện như tổ chức, pháp lý,
công nghệ.
1.1.3.

Các yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển của nguồn lực thông tin

Tài liệu là một vật thể mang tin, trên đó những thông tin được ghi lại dưới


12

dạng chính văn, âm thanh, hình ảnh... để lưu truyền trong không gian và thời gian, nhằm
mục đích bảo quản và sử dụng.
Sự phát triển

của tài liệu KHKT chịu ảnh hưởng trực tiếp của cách mạng

KHKT và công nghệ đang diễn ra trên toàn thế giới. Các tài liệu KHKT tăng nhanh và bị
chi phối bởi quy luật phát triển của tài liệu:
* Quy luật về sự gia tăng tài liệu:
Cùng với

sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ, đội ngũ những


người làm công tác khoa học đang tăng lên và sản phẩm của họ là cá tài liệu KHKT cũng
tăng lên nhanh chóng, nó ảnh hưởng không nhỏ tới thành phần vốn tài liệu của mỗi thư
viện. Điều này đã dẫn tới một hiện tượng mà các nhà khoa học gọi là hiện tượng “bùng
nổ thông tin”, thể hiện ở sự gia tăng mạnh mẽ của các sản phẩm thông tin tư liệu trên thế
giới mấy chục năm gần đây. Khoa học kỹ thuật phát triển đã làm khối lượng tri thức
khoa học trong xã hội tăng nhanh cả về số lượng và chất lượng. Bên cạnh những loại
hình tài liệu đã xuất bản theo phương thức truyền thống như sách, báo, tạp
những

dạng

tài liệu điện tử

CSDL trực tuyến... Và
liệu. Từ

chí...



như đĩa từ, đĩa quang, băng từ,

điều này có ảnh hưởng lớn tới thành phần, cơ cấu kho tài

những năm 60, nhà lịch sử khoa học Price D.J đã nghiên cứu ảnh hưởng

của quy luật gia tăng tài liệu đối với sự phát triển của vốn tài liệu như sau: Cứ 10-12 năm
vốn tài liệu của xã hội lại tăng gấp đôi. Quy luật đó được tính bằng công thức:
Vt = Vo.e

Trong đó:

r(t-to)

Vt: Vốn tài liệu ở thời điểm t,
V : Vốn tài liệu ở thời điểm ban đầu, e:
o

Cơ số loga tự nhiên, r: Tốc độ phát
triển trung bình, to: Thời điểm ban đầu
Do ảnh hưởng của quy luật gia tăng tài liệu, các cơ quan thông tin thư viện phải
tăng cường thu thập, chọn lọc và xử lý tài liệu.


13
* Quy luật về sự tập trung và tản mạn thông tin:
Quy luật này hình thành do đặc điểm phân hóa và tổng hợp khoa học của sự
phát triển khoa học hiện đại. Quá trình phân hóa theo chuyên môn dẫn đến hình thành
các tài liệu theo chuyên môn hẹp. Quá trình liên kết các khoa học hình thành các tài
liệu khoa học liên ngành.
Năm 1934, qua thống kê của nhà khoa học người Anh S. Bradford cho thấy
rằng: Nếu sắp

xếp số tạp chí khoa học theo thứ tự giảm dần số bài báo về
một

chuyên ngành nào đó thì trong danh sách nhận được ta có thể tìm thấy các “tạp chí hạt
nhân”. Số tạp chí này không lớn, chỉ chiếm 10% đến 15% số tạp chí nhưng chứa đựng
tới 90% số bài báo liên quan đến ngành đó.


Nhìn vào biểu

đồ ta thấy chỉ có khoảng 10% đến 15% số tạp chí là có hiệu

suất cao, chúng chứa đựng hầu hết các thông tin về một chuyên ngành nào đó.
Nhờ xác định tạp chí hạt nhân, người ta xây dựng được danh mục các tạp chí
cần mua một cách hợp lý và tránh được lãng phí. [30]
* Quy luật về thời gian hữu ích và tính lỗi thời của tài liệu:


14

Thời gian hữu ích hay tuổi thọ của tài liệu KHKT phụ thuộc vào lĩnh vực tri thức
và giá trị nội dung của tài liệu. Tuổi thọ tài liệu được tính từ lúc công bố đến lúc lỗi thời,
không còn được sử

dụng nữa. Tài liệu được sản sinh theo một yêu cầu

nào đó thường giảm dần giá trị sử dụng cùng với sự phát triển của yêu cầu này cho đến
khi trở nên lỗi thời.
Ý nghĩa của

quy luật này có tác dụng trong việc thanh

lọc tài liệu ở các cơ

quan thông tin, thư viện. Tài liệu khi không còn giá trị, không đáp ứng được nhu cầu của
NDT nữa thì nên thanh lọc để tiết kiệm diện tích kho, công sức của cán bộ, kinh phí
cũng như để nâng cao chất lượng của kho sách.
* Quy luật giá cả tăng liên tục:

Hiện nay, do nhiều yếu tố tác động như lạm phát, giá cả tiêu dùng tăng, chi phí lao
động

cũng tăng lên nên giá cả tài liệu cũng tăng lên nhanh trong nhiều thập kỷ

qua. Giá cả tài liệu bao hàm hai yếu tố cấu thành, đó là giá cả thông tin mà tài liệu chứa
đựng và giá

cả phần vật chất chứa đựng thông tin và các phương tiện phân

phối tài liệu.
Nghiên cứu của một số tác giả trên tạp chí Library Resourse and Technical Service
cho thấy, trong khoảng 10 năm, từ 1986 đến 1996, giá các loại tạp chí tăng khẳng
15,4%/năm và giá của tài liệu khoa học công nghệ tăng trung bình 12- 13%/năm.
Các nguyên nhân của sự tăng giá tài liệu là do:
-

Lạm phát của hầu hết các nền kinh tế trên thế giới,

- Số trang, số tập của các tạp chí đều tăng dẫn tới khối lượng tăng,
-

Giá giấy và giá các nguyên vật liệu khác tăng,

-

Chi phí để nâng cao chất lượng sản phẩm tăng,

-


CNTT tác động mạnh đến công nghệ xuất bản.

Do giá cả tăng liên tục nên đã ảnh hưởng không nhỏ tới công tác phát triển NLTT
của các cơ quan thông tin, thư viện, làm cho số lượng tài liệu mua bằng kinh phí mỗi
năm một giảm đi. Do vậy, để công tác phát triển NLTT tốt và mang lại hiệu quả cao thì


15

phải chú ý tới sự chi phối của các quy luật trên và tìm ra những giải pháp hữu hiệu để
giảm thiểu sự chi phối đó.
* Anh hưởng của xuất bản điện tử:
Trong thời đại hiện nay, sự phát triển mạnh mẽ của CNTT và truyền thông đã làm
thay

đổi cơ cấu các loại hình tài liệu có trong mỗi thư viện và cơ quan thông

tin. Tài liệu truyền thống không còn là nguồn tài liệu duy nhất, cùng với đó là sự cân
bằng với các tài liệu hiện đại, tài liệu điện tử , tài liệu số, các CSDL và thậm chí là ngân
hàng dữ liệu... Ân phẩm điện tử, ấn phẩm số ra đời cùng với công nghệ hiện đại đã tạo
điều kiện thuận lợi cho việc khai thác, liên kết, trao đổi thông tin có chất lượng cao và
nhanh chóng.
Các ấn phẩm thông tin hiện đại với ưu điểm nổi bật là dễ kiểm soát thông tin và
khả năng tìm kiếm thông tin nhanh. Các lợi ích mà nó mang lại là trên phạm vi toàn cầu,
thông qua mạng Internet, thời gian xuất bản nhanh, tiết kiệm diện tích lưu trữ, khả năng
liên kết tới tài liệu gốc, hỗ trợ đa phương tiện..., vì thế nó đang lấn át các vật mang tin
truyền thống. Do vậy, công tác phát triển NLTT ở các cơ quan thông tin thư viện cần
phải có chính sách phát triển hợp lý, hài hòa giữa các loại hình tài liệu mới đáp ứng được
nhu cầu ngày càng cao của NDT.
1.2. Trung tâm Thông tin Thư viện với công tác đào tạo, nghiên cứu khoa học

và thực hành sản xuất của Trường Đại học Kiến trúc Hà Nội
1.2.1. Khái quát về Trường Đại học Kiến trúc Hà Nội
1.2.1.1.

Cơ cấu tổ chức

Trường ĐHKTHN được thành lập theo quyết định số 181/CP ngày 17 tháng 9 năm
1969

của Hội đồng Chính

phủ. Qua 42 năm xây dựng

và phát triển, Trường
ĐHKTN đã trở

thành trung tâm đào tạo đầu ngành của quốc gia, đạt được nhiều

thành tựu trong hoạt động đào tạo và hợp tác quốc tế. Trong xu thế phát triển mạnh mẽ
của khoa học và công nghệ, thế giới đang chuyển biến mạnh mẽ sang nền kinh tế tri


16

thức, giáo dục đại học đang không ngừng phát triển theo hướng nâng cao chất lượng và
quốc tế hóa, Trường ĐHKTHN đã xác định tầm nhìn chiến lược phát triển Nhà trường.
Bộ máy tổ chức của Trường được chia làm 4 khối như sau (Hình 1):
- Khối quản lý: Gồm 8 đơn vị,
- Khối đào tạo: Gồm 8 khoa, 2 trung tâm và 1 bộ môn trực thuộc,
- Khối khoa học công nghệ và thông tin: Gồm 4 đơn vị (TTTTTV thuộc khối

này),
- Khối lao động sản xuất và dịch vụ: Gồm 3 đơn vị.
Hiện nay, Trường ĐHKTHN có khoảng 850 cán bộ viên chức, trong đó có 440 cán
bộ giảng dạy

với 24 giáo sư và phó giáo sư, 64 tiến sĩ, 204 thạc sĩ, 70 giảng

viên chính và tương đương, phục vụ cho gần 9000 sinh viên, học viên cao học và nghiên
cứu sinh đang theo học tại Trường.
1.2.1.2.

Hoạt động đào tạo

Trường hiện đào tạo các hệ đại học, sau đại học, với chỉ tiêu tuyển sinh hàng năm
của Trường là: Hệ chính quy: 1100-1200; Hệ cử tuyển: 50; Hệ không chính quy: 750800; Thạc sĩ: 120-150; Tiến sĩ: 10-20 nghiên cứu sinh.
Các chuyên ngành đào tạo đại học:
-

Khoa Kiến trúc đào tạo và cấp bằng Kiến trúc sư và bằng Cử nhân Mỹ thuật
công nghiệp các chuyên ngành thiết kế đồ họa, nội thất và hoành tráng.

-

Khoa Quy hoạch đô thị và nông thôn đào tạo và cấp bằng Kiến trúc sư quy
hoạch đô thị và nông thôn.

- Khoa Xây dựng

đào tạo và cấp bằng Kỹ sư xây dựng dân dụng và công


nghiệp, Kỹ sư xây dựng công trình ngầm.
-

Khoa Kỹ thuật hạ tầng và Môi trường đô thị đào tạo và cấp bằng Kỹ sư cấp
thoát nước, Kỹ sư kỹ thuật hạ tầng đô thị, Kỹ sư kỹ thuật môi trường đô thị.
- Khoa Quản lý đô thị đào tạo và cấp bằng Kỹ sư quản lý xây dựng đô thị.
Các chuyên ngành đào tạo sau đại học:


17

- Bằng tiến sĩ kiến trúc được cấp cho 4 chuyên ngành

đào tạo tiến sĩ: Lý

thuyết và lịch sử kiến trúc - mã số: 62.58.01.01, Kiến trúc công trình - mã số
62.58.01.05, Quy hoạch vùng - mã số 62.58.05.01, Quy hoạch đô thị và nông
thôn - mã số: 62.58.05.05.
- Bằng tiến sĩ Kỹ thuật được cấp cho 3 chuyên ngành đào tạo tiến sĩ: Xây
dựng công trình dân dụng và công nghiệp - mã số: 62.58.20.01, Cấp thoát nước
- mã số: 62.58.70.01, Kỹ thuật hạ tầng đô thị - mã số: 62.58.22.01.
-

Bằng tiến sĩ Quản lí đô thị và công trình - mã số: 62.58.10.01 được cấp cho đào
tạo tiến sĩ chuyên ngành Quản lí đô thị và công trình.
- Bằng thạc sỹ kiến trúc được cấp cho 2 chuyên ngành đào tạo thạc sĩ: Kiến
trúc - mã số: 60.58.01, Quy hoạch - mã số: 60.58.05.

-


Bằng thạc sĩ Kỹ thuật được cấp cho 3 chuyên ngành đào tạo thạc sĩ: Xây dựng
dân dụng và công nghiệp - mã số: 60.58.20, Hạ tầng kỹ thuật đô thị mã số:
60.58.22, Cấp thoát nước mã số: 60.58.70.

-

Bằng thạc sĩ Quản lí đô thị - mã số: 60.58.10 được cấp cho chuyên ngành Quản
lí đô thị và công trình.
Chứng chỉ Bồi dưỡng sau đại học được cấp cho các khoá bồi dưỡng ngắn hạn, đối

tượng là những người đã có bằng đại học hoặc sau đại học của tất cả các chuyên ngành
Kiến trúc, Quy hoạch, Xây dựng, Quản lí đô thị, Kỹ thuật hạ tầng đô thị, Cấp thoát nước.
12.1.3.

Hoạt động nghiên cứu khoa học

NCKH góp phần quan trọng nâng cao chất lượng đào tạo, cải tiến nội dung chương
trình đào tạo các ngành học, mở các ngành mới, cải tiến phương pháp dạy và học, cải
tiến nội dung chương trình các môn học. NCKH góp phần đào tạo nâng cao trình độ
nhân lực ngành xây dựng trong Trường ĐHKTHN và ngoài xã hội.
Nhận thức được vai trò và tầm quan trọng của NCKH đối với công tác đào tạo và
nghiên cứu, Trường ĐHKTHN đã quan tâm đến việc triển khai đề tài nghiên cứu NCKH
các cấp, tổ chức hoạt động NCKH co sinh viên, đẩy mạnh hợp tác quốc tế về công tác
NCKH.
* Triển khai đề tài NCKH các cấp:


18

Các đề tài do Nhà trường quản lý đã giải quyết các vấn đề phát triển kinh tế xã hội

theo yêu cầu của thực tế để nâng cao hiệu quả, chất lượng sản phẩm kiến trúc - xây
dựng, góp phần vào sự nghiệp công nghiệp, hoá hiện đại hoá đất nước.
Trong 5 năm gần đây, Nhà trường đã thực 2 đề tài độc lập cấp Nhà nước với tổng
kinh phí thực hiện là 2.100 triệu đồng, cụ thể là các đề tài:
- Mô hình và các giải pháp quy hoạch - kiến trúc các vùng sinh thái đặc trưng ở
Việt Nam (đề tài đã được nghiệm thu, xếp loại xuất sắc).
-

Nghiên cứu lựa chọn công nghệ thích hợp phục vụ công nghiệp hoá xây dựng
nhà ở Việt Nam đến năm 2020 (đề tài đã nghiệm thu xếp loại khá).

Nhà trường đã thực hiện 27 đề tài cấp Bộ, hầu hết đã nghiệm thu. Trong số 21 đề
tài đã nghiệm thu có 8 đề tài xếp loại xuất sắc, 13 đề tài xếp loại khá. Hầu hết các đề tài
đã được ứng dụng phục vụ đào tạo và sản xuất thực tế, ngoài ra nhà trường còn triển
khai thực hiện 3 dự án sự nghiệp kinh tế. Tổng kinh phí thực hiện các nhiệm vụ NCKH
cấp Bộ và dự án sự nghiệp kinh tế 5 năm qua là 3.165 triệu đồng.
Tình hình áp dụng tiến bộ kỹ thuật và chuyển giao công nghệ: Các đề tài NCKH
phục vụ đào tạo đã được Nhà trường áp dụng để nâng cao chất lượng đào tạo, một số đề
tài phục vụ sản xuất đã được ứng dụng ở một số doanh nghiệp mang lại hiệu quả cao cho
doanh nghiệp như công ty Cổ phần bê tông và Xây dựng VINACONEX Xuân Mai.
Ngoài ra, Trường còn có Văn phòng Tư vấn và Chuyển giao Công nghệ Xây dựng, Viện
Kiến trúc Nhiệt đới, Công ty Xây dựng và Phát triển Đô thị... là những cơ sở thực hiện
chuyển giao công nghệ.
* Hoạt động nghiên cứu khoa học sinh viên
Sinh viên của Trường đã tích cực tham gia hoạt động NCKH với 292 đề tài trong 5
năm qua. Bộ Giáo dục và Đào tạo và Quỹ VIFOTEC đã tặng 36 giải thưởng cho các đề
tài của sinh viên, trong đó có 01 giải Nhất, 09 giải Nhì, 07 giải Ba và 19 giải Khuyến
khích. Nhà trường được bộ GD&ĐT tặng Bằng khen vì có nhiều thành tích xuất sắc
trong công tác nghiên cứu khoa học sinh viên giai đoạn 1990 - 2004. Kinh phí hàng năm
cho công tác NCKH sinh viên là trên 300 triệu đồng.



19
* Hợp tác quốc tế về NCKH
Hợp tác quốc tế trong lĩnh vực NCKH là thế mạnh của Nhà trường. Trường có
quan hệ hợp tác về NCKH và đào tạo với 36 trường đại học, viện nghiên cứu của 22
quốc gia và tổ chức quốc tế. Các đề tài, dự án tiêu biểu đã và đang thực hiện bao gồm:
-

Cải thiện điều kiện môi trường và năng lượng các khu nhà ở cao tầng, hợp tác
với DANIDA Đan Mạch.

- Nâng cao

năng lực quy hoạch và quản lý môi trường đô thị, hợp tác với

DANIDA Đan Mạch.
- Bếp và lò đun cải tiến, hợp tác với tổ chức ARECOP và SIDA.
- Dự án quản lý đô thị ở Việt Nam, hợp tác với Canada.
- Dự án đào tạo cán bộ quản lý đô thị, hợp tác với Hà Lan.
- Dự án đào tạo thạc sỹ chuyên ngành bảo tồn di sản kiến trúc ở Việt Nam,
hợp tác với Cộng hoà Pháp.
- Dự án đào tạo cán bộ quản lý đô thị bằng vốn ADB tài trợ, do Bộ Nội vụ
giao, lớp đào tạo cán bộ giảng viên do WB tài trợ...
1.2.2.

Khái quát về Trung tâm Thông tin Thư viện — Trường Đại học Kiến

trúc Hà Nội
1.2.2. !. Chức năng, nhiệm vụ

TTTTTV -

ĐHKTHN ra đời cùng với sự thành lập của Trường. Giai đoạn

trước năm 2001, Trung tâm trực thuộc Phòng quản lý đào tạo. Đến tháng 6 năm 2001,
Trung tâm được tách ra thành một đơn vị độc lập và có tên gọi là Trung tâm Thông tin
Thư viện với các chức năng, nhiệm vụ được quy định theo quyết định số 43QĐ - BXD
của Bộ trưởng Bộ Xây dựng ký ngày 08 tháng 01 năm 2001.
Hiện nay, trong cơ cấu tổ chức bộ máy của Trường, Trung tâm trực thuộc khối
phòng ban Khoa học Công nghệ. Trung tâm đã có những đóng góp nhất định trong sự
nghiệp giáo dục của Trường. Trước đây Trung tâm có chức năng lưu trữ, quản lý kho tài
liệu sách, báo tạp chí truyền thống và phục vụ bạn đọc. Ngày nay, trong tình hình phát
triển mới, Trung tâm là đơn vị có nhiệm vụ quản lý, xây dựng và phát triển phương thức


20

cung cấp thông tin phục vụ cho hoạt động đào tạo và NCKH trong trường đại học. Theo
sát chiến lược phát triển của trường ĐHKTHN trong giai đoạn phát triển tới năm 2020,
Trung tâm đã phát triển, mở rộng quy mô hoạt động và nâng cao chất lượng trong từng
giai đoạn cụ thể, nhằm đáp ứng nhu cầu đa dạng của NDT. Với chức năng cung cấp
thông tin, Trung tâm có những nhiệm vụ cơ bản như sau:
Thu thập, xử lý, lưu trữ, quản lý, sử dụng các tài liệu, tin tức hoạt động về đào tạo,
nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ... để phục vụ các nhiệm vụ của Trường.
Lập CSDL, xây dựng, quản lý, tổ chức phát triển thông tin trên Website, tham gia
vào công tác xây dựng phát triển cổng thông tin điện tử của Trường đáp ứng nhu cầu
khai thác thông tin trên

mạng, phục vụ công tác đào tạo, nghiên cứu, quản lý


điều hành công việc của Nhà trường.
Chủ trì biên tập, trình bày chế bản, in ấn phát hành bản tin hoạt động khoa học
công nghệ và đào tạo của Trường, tham gia biên tập, trình bày chế bản, in ấn, phát hành
các tài liệu, ấn phẩm, giáo trình theo yêu cầu của Nhà trường.
Xây dựng

và thực hiện các dự án, đề tài về thông tin thư viện, CSDL do

Trường giao.
Phát triển mối quan hệ hợp tác với các trường, cơ sở nghiên cứu trong và ngoài
nước về công tác thông tin tư liệu, tư liệu theo định hướng phát triển của Trường.
Quản lý cán bộ viên chức, người lao động hợp đồng thuộc Trung tâm theo phân
cấp Hiệu

trưởng; quản lý, sử dụng cơ sở vật chất, trang thiết bị, vật tư được

Nhà trường giao để thực hiện nhiệm vụ.
Chủ trì phối hợp, tham gia với các đơn vị liên quan để thực hiện các nhiệm vụ
khác theo sự phân công của Trường.
I.2.2.2.

Cơ cấu tổ chức

Cơ cấu tổ chức của Trung tâm gồm có Ban Giám đốc và 05 tổ chuyên môn với các
chức năng nhiệm vụ cụ thể như sau:
Tổ thông tin tư liệu: có nhiệm vụ xây dựng, phát triển nguồn khai thác thông tin, tổ
chức, quản lý, xử lý, biên tập, chế bản và phổ biến thông tin


21


Tổ biên tập chế bản: có nhiệm vụ xây dựng đề án phát triển thông tin - xuất bản,
quản trị thông tin Website, hệ thống mạng và thiết bị thông tin tư liệu, chế bản và quản
lý ấn phẩm theo luật xuất bản
Tổ quản trị mạng: có nhiệm vụ quản trị mạng, xây dựng, tư vấn đề án phát triển
mạng và an ninh mạng
Tổ chuyên môn nghiệp vụ: có nhiệm vụ sưu tầm, bổ sung, phân loại, biên dịch,
biên mục các tài liệu chuyên ngành xây dựng, kiến trúc, quy hoạch, kỹ thuật hạ tầng và
môi trường đô thị ... trong và ngoài nước
Tổ phục vụ - tra cứu có nhiệm vụ tổ chức, sắp xếp, tuyên truyền, phổ biến, phục
vụ đọc, mượn tài liệu cho cán bộ và sinh viên trong trường, gồm có 05 phòng phục vụ:
phòng đọc sách giáo khoa và giáo trình dành cho sinh viên; phòng đọc báo, tạp chí dành
cho sinh viên; phòng đọc giáo viên và nghiên cứu sinh; phòng khai thác mạng sinh viên
và phòng mượn dành cho sinh viên
Cơ cấu nhân sự của Trung tâm tại thời điểm tháng 8 năm 2011 gồm có 21 cán bộ
bao gồm: Giám đốc, Phó Giám đốc và 19 cán bộ thuộc các tổ chuyên môn, trong đó có
01 Thạc sĩ khoa học thư viện, 11 Cử nhân thư viện, 01 Kiến trúc sư, 01 Thạc sĩ biên
dịch, 02 Cử nhân biên dịch, 01 Kỹ sư CNTT, 01 Cử nhân kinh tế, 01 Cử nhân ngôn ngữ
học.


22

Hình 2: Sơ đồ cơ cấu tổ chức của Trung tâm thông tin thư viện
Hiện nay, TTTTTV tổ chức nhân sự theo 4 bộ phận (hình 2): bộ phận chuyên môn
nghiệp vụ, bộ phận phục vụ - tra cứu, bộ phận thông tin tư liệu, bộ phận quản trị mạng
và thiết bị. Các bộ phận này hoạt động theo phương thức tổ nhóm, có quan hệ tương tác
hỗ trợ với nhau. Thực chất, các bộ phận này thuộc các nhóm hoạt động chính bao gồm
các lĩnh vực: CNTT, nghiệp vụ và phục vụ. Các nhóm được tổ chức theo nội dung công
việc được giao cho từng nhóm với chức năng cụ thể. Việc tổ chức này thể hiện nhiều ưu

điểm trong mô hình quản lý chung, song sự tương tác hoạt động trong công việc của các
nhóm vẫn thông qua sự chỉ đạo trực tiếp của Ban Giám đốc, hoặc sự tương tác chỉ thể
hiện trong những mối quan hệ đồng nghiệp. Điều này đôi lúc hạn chế khả năng hoạt
động của tổ, nhóm và ảnh hưởng đến thời gian của Ban Giám đốc trong những trường
hợp công việc phát sinh.


23

Hiện tại, trình độ ngoại ngữ và trình độ tin học của các cán bộ thư viện còn chưa
đồng đều, điều kiện tiếp cận trao đổi kinh nghiệm, chuyên môn, nghiệp vụ với các cán
bộ thư viện của các thư viện khác, cũng như tham quan học hỏi tại nước ngoài còn hạn
chế. Với sự phát triển và hòa nhập của trường ĐHKTHN với thế giới, trình độ, năng lực
nhân viên thư viện nếu không được bồi dưỡng sẽ khó đáp ứng được khả năng phục vụ
chất lượng cao.
1.2.3.

Người dùng tin và nhu

cầu tin của Trung tâm Thông tin

Thư viện —

Trường Đại học Kiến trúc Hà Nội
1.2.3. !.

Đặc điểm người dùng tin

Nghiên cứu đặc điểm nhu cầu tin của NDT là công việc cơ sở để định hướng
cho toàn bộ hoạt động thông tin của cơ quan thông tin thư viện.

Để tìm hiểu đặc điểm nhu cầu tin của NDT tại Trường ĐHKTHN tác giả đã tiến
hành điều tra thông qua phiếu thăm dò. Số phiếu được gửi theo cơ cấu như sau: mỗi
khoa từ 50 đến 100 phiếu, trong đó 50% phiếu để điều tra cán bộ giảng dạy và nghiên
cứu, 50% phiếu còn lại điều tra sinh viên 3 năm cuối; đối với sinh viên hai năm đầu chỉ
học các môn học đại cương giống nhau nên chỉ phát cho hai lớp, mỗi lớp 20 phiếu. Tổng
số phiếu gửi đi là 550 phiếu, tổng số phiếu thu về là 496 phiếu (độ thu hồi đạt 90.2%),
trong đó: 147 phiếu của cán bộ chiếm 29,6% (trong đó 5% của của cán bộ quản lý); 293
phiếu là của sinh viên năm thứ 3,4,5 chiếm 59,1%; 30 phiếu của sinh viên năm thứ nhất
và thứ hai chiếm 6,04%; 26 phiếu của học viên
cao học

chiếm 5,24%. Trên cơ sở phiếu điều tra đã thu về, tác giả đã tiến hành

thống kê, phân tích và đánh giá, kết hợp với hoạt động thực tiễn của Trung tâm để tìm ra
giải pháp tăng cường và phát triển NLTT cho TTTTTV - Trường ĐHKTHN.
NDT ở TTTTTV là toàn thể cán bộ, công chức, giảng viên, cán bộ nghiên cứu và
sinh viên thuộc các loại hình đào tạo trong toàn trường. Thông qua các biện pháp như:
thống kê số liệu, trao đổi mạn đàm, phân tích phiếu yêu cầu và đặc biệt là điều tra bằng
phiếu hỏi, đã xác định được thành phần NDT, các lĩnh vực tài liệu mà họ quan tâm, ngôn
ngữ mà họ thường sử dụng và cũng thông qua đó xác định được
mức độ thỏa mãn thông tin của NDT.


×