Tiểu luận triết học
LỜI MỞ ĐẦU
Việt Nam là một nước nông nghiệp với khoảng 80% cư dân sống và làm việc
trong khu vực nông thôn. Muốn đạt được mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội cơng
bằng, văn minh thì việc chú trọng vào khu vực này là rất cần thiết. Vấn đề nông
nghiệp, nông thôn và nông dân luôn là một vấn đề chiến lược hàng đầu, được Đảng và
Nhà nước ta đặc biệt quan tâm. Trong nhiều nhiệm kỳ Đại hội, Đảng ta đã xác định đã
xác định rõ vai trị của nhiệm vụ phát triển nơng nghiệp, nông thôn. Từ Đại hội V
(1982), nông nghiệp được coi là “mặt trận hàng đầu”.
Thực hiện quá trình đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước, Đại hội
VIII của Đảng ta đã xác định cơng nghiệp hố, hiện đại hố nơng nghiệp nơng thơn là
nhiệm vụ trọng tâm trong những năm trước mắt. Chiến lược phát triển kinh tế xã hội
2001-2010 do Đại hội Đảng lần thứ IX thông qua tiếp tục khẳng định quan điểm này.
Hội nghị Trung ương 5 đã cụ thể hoá các quan điểm của Đại hội, đề ra những chủ
trương, giải pháp thúc đẩy q trình cơng nghiệp hố, hiện đại hố nơng nghiệp nông
thôn trong Nghị quyết về “Đẩy nhanh công nghiệp hố, hiện đại hố nơng nghiệp,
nơng thơn trong thời kỳ 2001-2010”.
Từ các quan điểm trên của Đảng, cũng như chính sách phù hợp của Nhà nước
ta, trong những năm qua nền sản xuất nơng nghiệp đã có những tiến bộ vượt bậc đời
sống xã hội nơng thơn Việt Nam có nhiều chuyển biến. Thể hiện trên một số mặt như:
Nông nghiệp nước ta đã chuyển mạnh sang sản xuất hàng hố. Từ một nền nơng
nghiệp tự cung tự cấp, lạc hậu, thiếu lương thực thường xuyên, đến nay cơ bản đã là
nền sản xuất hàng hoá. Một số mặt hàng xuất khấu chiếm thị phần khá lớn trên thế giới
như: gạo, cà phê, hồ tiêu, hạt điều, ...Công nghiệp, nghành nghề và dịch vụ ở nông
thôn bước đầu phục hồi và phát triển, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội được quan tâm
đầu tư xây dựng. Đời sống nhân dân ở hầu hết các vùng được cải thiện rõ rệt.
Nhưng bên cạnh những tiến bộ thành tựu đó, đã nảy sinh những mâu thuẫn,
những tồn tại mà giải quyết được chúng chính là điều kiện tiên quyết đảm bảo hồn
thành được nhiêm vụ cơng nghiệp hố, hiện đại hố nơng nghiệp, nơng thơn. Trong
thực tiễn phát triển nơng nghiệp, nơng thơn theo hướng cơng nghiệp hố, hiện đại hoá
Phạm Lệ Mỹ - Lớp H – Cao học K16
Tiểu luận triết học
hiện nay cịn có nhiều tồn tại, nhiều mâu thuẫn cần giải quyết trong đó có mẫu thuẫn
giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất nơng nghiệp; phân tầng xã hội’ giữa lợi
ích cá nhân và lợi ích cộng đồng.
Để có thể giải quyết triệt để các mâu thuẫn trên chúng ta phải nắm vững những
lí luận cơ bản của triết học Mác- LêNin về mâu thuẫn biện chứng và phương pháp áp
dụng lí luận đó vào việc giải quyết tốt mâu thuẫn trên góp phần thực hiện thành cơng
q trình thực hiện nhiệm vụ cơng nghiệp hố nơng nghiệp, nơng thơn nói riêng cũng
như hồn thành nhiêm vụ cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước.
Bài tiểu luận của tôi với chủ đề “Mâu thuẫn trong q trình cơng nghiệp hố,
hiện đại hố nơng nghiệp, nông thôn Việt Nam trong giai đoạn hiện nay” dựa trên ý
nghĩa phương pháp luận của quy luật mâu thuẫn (quy luật thống nhất và đấu tranh của
các mặt đối lập) chỉ ra các mâu thuẫn, tồn tại và một số giải pháp trong quá trình thực
hiện nhiệm vụ cơng nghiệp hố, hiện đại hố nơng nghiệp, nơng thơn trong nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta trong giai đoạn hiện nay.
Phạm Lệ Mỹ - Lớp H – Cao học K16
Tiểu luận triết học
CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CHUNG.
I. KHÁI QUÁT VỀ NỘI DUNG CỦA QUI LUẬT MÂU THUẪN.
1.Một số khái niệm cơ bản của qui luật.
-Mâu thuẫn: Từ trước đến nay đã có nhiều hình thức định nghĩa khác nhau,nhưng ta
chỉ xét trên cơ sở khái niệm của phép biện chứng duy vật: mâu thuẫn là mối liên hệ
của các mặt đối lập.
-Mặt đối lập: là sự khái quát những mặt,những thuộc tính,những khuynh hướng phát
triển ngược nhau cùng tồn tại trong một sự vật, hiện tượng, chúng ln có xu hướng
loại trừ nhau nhưng lại là điều kiện tồn tại của nhau.
-Thống nhất của các mặt đối lập: nghĩa là các mặt đối lập nương tựa vào nhau, tạo
ra sự phù hợp,cân bằng nhưng liên hệ phụ thuộc,qui định và ràng buộc lẫn nhau, mặt
đối lập này lấy mặt đối lập kia làm tiền đề cho sự tồn tại của chính mình và ngược lại.
-Đấu tranh của các mặt đối lập: là sự tác động qua lại theo xu hướng bài trừ phủ
định lẫn nhau, sự chuyển hoá lẫn nhau của các mặt đối lập
2.Nội dung của quy luật mâu thuẫn.
a. Tính khách quan và phổ biến của mâu thuẫn .
Đối lập với các quan điểm của triết học cũ, phép biện chứng duy vật khẳng định
rằng tất cả các sự vật, hiện tượng tồn tại trong thực tại khách quan đều chứa đựng
trong nó mâu thuẫn. Sự hình thành và phát triển của mâu thuẫn là do cấu trúc tự thân
vốn có bên trong của sự vật, hiện tượng qui định. Mâu thuẫn tồn tại không phụ thuộc
vào bất kì một hiện tượng siêu tự nhiên nào, kể cả ý chí của con người. Mỗi một sự
vật, hiện tượng đang tồn tại đều là một thể thống nhất của các mặt, các thuộc tính, các
khuynh hướng đối lập nhau.
Mâu thuẫn không những là một hiện tượng khách quan mà cịn là một hiện tượng
phổ biến.
Tính phổ biến của nó thể hiện ở chỗ nó là một hiện tượng có trong tất cả các lĩnh
vực: tự nhiên, xã hội và tư duy của con người. Đặc biệt là trong xã hội lồi người, mâu
thuẫn trở nên phức tạp, đó là mâu thuẫn giữa quan hệ sản xuất (QHSX)và lực lượng
sản xuất (LLSX), cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng, giữa các giai cấp đối kháng
v.v…Như vậy, các hoạt động kinh tế của con người chắc chắn không thể tránh khỏi
những mâu thuẫn,điều quan trọng là trong thực tiễn phải biết phân tích từng mặt đối
Phạm Lệ Mỹ - Lớp H – Cao học K16
Tiểu luận triết học
lập tạo thành mâu thuẫn cụ thể để nhận thức được bản chất, khuynh hướng vận động,
phát triển mà giải quyết cho đúng.
Trong bài luận văn “Bàn về mâu thuẫn” [Nxb Sự thật, HN, 1962, tr 11], Mao
Trạch Đơng có nói về tính phổ biến của mâu thuẫn: “Vấn đề tính phổ biến hoặc tính
tuyệt đối của mâu thuẫn có ý nghĩa về hai mặt: một là mâu thuẫn tồn tại trong quá
trình phát triển của tất cả mọi sự vật; hai là, trong quá trình phát triển của mỗi sự vật,
đều có sự vận động của mâu thuẫn từ đầu đến cuối”.
Còn Ăng-ghen, trong tác phẩm “Chống Duy-Rinh”[Nxb Sự thật, HN, 1977, tr
202] khi chứng minh về tính khách quan và phổ biến của mâu thuẫn có nói : “Nếu bản
thân sự di động một cách máy móc đơn giản đã chứa đựng mâu thuẫn, thì tất nhiên
những hình thức vận động cao hơn của vật chất và đặc biệt là sự sống hữu cơ và sự
phát triển của sự sống hữu cơ đó lại càng phải chứa đựng mâu thuẫn…”
Như vậy, tính khách quan và phổ biến của mâu thuẫn đã được các nhà tư tưởng
lớn khẳng định và chứng minh tính khoa học đúng đắn của nó.
b. Sự đấu tranh của các mặt đối lập trong tính thống nhất của nó tạo ra
nguồn gốc và động lực cho mọi sự vận động và phát triển.
*Tính thống nhất của các mặt đối lập.
Như đã nói ở trên, thống nhất của các mặt đối lập “Nghĩa là các mặt…cho sự
tồn tại của chính mình và ngược lại”. Ta thấy rằng sự thống nhất của các mặt đối lập là
điều kiện không thể thiếu được cho sự tồn tại của bất kì sự vật, hiện tượng nào. Ví dụ
như tích lũy và tiêu dùng là hai mặt đối lập thống nhất vứi nhau trong nền sản xuất xã
hội. Nếu khơng có tích lũy khơng thể thực hiện được việc tái sản xuất mở rộng để thoả
mãn nhu cầu tiêu dùng. Ngược lại, khơng có tiêu dùng cũng không thúc đẩy sản xuất
phát triển, mà như vậy cũng khơng thể có tích lũy.
Trong nền kinh tế thị trường, nếu khơng có sự thống nhất giữa QHSX và LLSX,
tích lũy và tiêu dùng, giữa cung và cầu, giữa chính sách kinh tế và chính sách xã hội
v.v… thì khó có rhể thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Nghiên cứu về tính thống nhất
giữa các mặt đối lập giúp chúng ta có một thế giới quan đúng đắn trong việc nhận thức
thực tiễn và áp dụng trong việc xây dựng nền kinh tế đất nước.
* Sự đấu tranh và chuyển hoá của các mặt đối lập và kết quả của nó.
Tính thống nhất của các mặt đối lập mà ta xem xét ở trên chỉ là đặc tính tạm
thời, còn sự đấu tranh giữa chúng mới là cái thường xuyên diễn ra. Lê nin viết: “ Sự
thống nhất của các mặt đối lập là có điều kiện, tạm thời, thoáng qua tương đối.Sự đấu
Phạm Lệ Mỹ - Lớp H – Cao học K16
Tiểu luận triết học
tranh của các mặt đối lập bài trừ lẫn nhau là tuyệt đối, cũng như sự phát triển, sự vận
động là tuyệt đối.”[ Triết học Mác-Lê nin, tập II, NxbChính trị quốc gia, HN, 1997, tr
60]
Sự đấu tranh của các mặt đối lập được chia thành nhiều giai đoạn khác nhau.
Khi mới xuất hiện, hai mặt đối lập chưa thể hiện rõ xung khắc gay gắt, đó là giai đoạn
khác nhau- giai đoạn hình thành mâu thuẫn.
Khi xung đột trở nên gay gắt, chính là lúc- nếu hội đủ các điều kiện, hai mặt đối
lập sẽ chuyển hoá lẫn nhau. Sự vật cũ mất đi, sự vật mới hình thành.
Tuy vậy, khơng phải bất kì sự đấu tranh nào của các mặt đều dẫn đến sự chuyển
hoá giữa chúng. Chỉ có sự đấu tranh của các mặt đối lập phát triển đến một trình độ
nhất định, hội đủ các điều kiện cần thiết mới dẫn đến sự chuyển hố, bài trừ, phủ định
lẫn nhau. Thơng thường các mặt đối lập chuyển hoă theo hai phương thức:
Một là, mặt đối lập này chuyển hoá thành mặt đối lập kia nhưng ở trình độ cao
hơn xét về phương diện chất của sự vật. Ví dụ như LLSX và QHSX trong xã hội
phong kiến đấu tranh chuyển hoá lẫn nhau để hình thành QHSX mới- QHSX tư bản
chủ nghĩa và LLSX mới ở trình độ cao hơn.
Hai là, cả hai mặt đối lập chuyển hố lẫn nhau để hình thành hai mặt đối lập
mới hồn tồn. Ví dụ: ta hãy xét quan hệ cung cầu trong nền kinh tế nước ta. Trong
nền kinh tế bao cấp, nhà nước bao tiêu mọi sản phẩm do các doanh nghiệp nhà nước
sản xuất ra và phân phối cho nhân dân, đó chính là cung-nhà nước và cầu-nhân dân.
Nhân dân chỉ có nguồn cung đó là chủ yếu. Khi đó hầu như khơng có khái niệm giá
cả, nhân dân phần lớn ỷ lại vào nhà nước, nền kinh tế bị khủng hoảng, sự đấu tranh
giữa cung cầu ắt sẽ xảy ra. Nước ta chuyển từ nền kinh tế bao cấp sang KTTT thì quan
hệ cung cầu cũng chuyển đổi nên một dạng mới cao hơn: khi đó nhà nước khơng cịn
độc quyền phân phối sản phẩm nữa mà cịn có nhiều thành phần kinh tế khác, cịn
cung khơng chỉ là nhân dân mà cịn xuất khẩu. Vậy cung cầu đã đấu tranh chuyển hoá
lẫn nhau phát triển lên một trình độ cao hơn. Đó là động lực thúc đẩy sự phát triển của
nền kinh tế nước ta.
Như vậy, qua sự xem xét các đặc trưng của mâu thuẫn, sự đấu tranh và chuyển
hoá của các mặt đối lập ta thấy rằng giải quyết được mâu thuẫn tồn tại trong một sự
vật, hiện tượng chính là tạo tiền đề cho sự vật, hiện tượng đó phát triển. Lê nin từng
nói:” Sự phát triển là một cuộc” đấu tranh” giữa các mặt đối lập”.
Phạm Lệ Mỹ - Lớp H – Cao học K16
Tiểu luận triết học
Mâu thuẫn là một hiện tượng khách quan và phổ biến, vậy mâu thuẫn có mấy
loại?
3. Một số loại mâu thuẫn.
a. Mâu thuẫn bên trong và mâu thuẫn bên ngoài.
Mâu thuẫn bên trong là mâu thuẫn nằm ngay trong chính bản thân sự vật. Mâu
thuẫn này bao giờ cũng là nhân tố quyết định bản chất và xu thế vận động của chính
bản thân sự vật. Ví dụ như mâu thuẫn giữa LLSX và QHSX trong phương thức sản
xuất.
Mâu thuẫn bên ngoài là mâu thuẫn giữa các sự vật, hiện tượng với nhau. Đó là
mâu thuẫn giữa KTTT tư bản chủ nghĩa và định hướng XHCN của nhà nước ta.
Mâu thuẫn bên ngoài là phổ biến nhưng mâu thuẫn bên trong lại quyết định mâu
thuẫn bên ngoài, vì khơng thơng qua mâu thuẫn bên trong thì mâu thuẫn bên ngồi tự
nó khơng thể phát huy được vai trị của mình.
Việc phân biệt mâu thuẫn bên trong và mâu thuẫn bên ngoài là rất cần thiết. Bởi
mỗi loại mâu thuẫn có vị trí và ảnh hưởng nhất định đến sự phát triển của sự vật. Nhận
thức rõ vai trò của từng loại mâu thuẫn , Đảng ta trong chiến lược phát triển kinh tế –
xã hội , một mặt đã tập trung mọi khả năng nhằm khai thác tốt nhất tiềm lực hiện có
trong nước. Mặt khác, có chính sách đối ngoại năng động, thu hút và kỹ thuật nước
ngồi hỗ trợ tích cực cho sự phát triển kinh tế trong nước.
b. Mâu thuẫn cơ bản và mâu thuẫn không cơ bản.
Mâu thuẫn cơ bản là mâu thuẫn quy định rõ bản chất, khuynh hướng phát triển
của bản thân các sự vật, hiện tượng. Nó là cơ sở hình thành và chi phối tất cả các mâu
thuẫn khác trong sự vật, trong đó có mâu thuẫn khơng cơ bản.
Mâu thuẫn không cơ bản là mâu thuẫn không quyết định trực tiếp bản chất và
khuynh hướng phát triển của sự vật nhưng có vai trị ảnh hưởng nhất định đôi với sự
vận động, phát triển của sự vật. Mâu thuẫn không cơ bản tồn tại gắn liền với mâu
thuẫn cơ bản trong cùng một sự vật và chịu sự chi phối của mâu thuẫn cơ bản.
Khi nghiên cứu kết cấu kinh tế của xã hội TBCN ta thấy mâu thuẫn cơ bản của
xã hội ấy là mâu thuẫn giữa tính chất xã hội của sản xuất và tính chất tư nhân của chế
độ chiếm hữu. Từ mâu thuẫn này sinh ra một số mâu thuẫn không cơ bản như: mâu
thuẫn giữa tính chất có tổ chức của sản xuất trong từng xí nghiệp riêng rẽ với tính chất
Phạm Lệ Mỹ - Lớp H – Cao học K16
Tiểu luận triết học
vô tổ chức của sản xuất trong toàn xã hội , mâu thuẫn giữa giai cấp tư sản và giai cấp
vô sản.
c. Mâu thuẫn chủ yếu và mâu thuẫn thứ yếu.
Mâu thuẫn chủ yếu là mâu thuẫn nổi lên hàng đầu ở mỗi giai đoạn nhất định
của quá trình phát triển của sự vật.
Mâu thuẫn thứ yếu là những mâu thuẫn khơng đóng vai trị quyết định đối với
quá trình phát triển của sự vật.
Tuy vậy, sự phân biệt giữa hai mâu thuẫn trên chỉ có tính chất tương đối. Trong
từng điều kiện hoàn cảnh, mâu thuẫn chủ yếu có thể trở thành thứ yếu và ngược lại. Ta
xem xét lại mâu thuẫn giữa LLSX và QHSX, nói chung thì LLSX có vai trị quyết
định” Ai khơng thừa nhận điều đó thì người ấy khơng phải là người duy vật”[ Mao
Trạch Đông: Bàn về mâu thuẫn, Nxb Sự thật, HN, 1962, tr 41]. Song, trong những
điều kiện nhất định, QHSX lại có tác dụng chủ yếu và quyết định, khi mà, nếu khơng
thay đổi QHSX thì LLSX khơng thể phát triển, lúc đó sự thay đổi QHSX lại có tác
dụng chủ yếu và quyết định.
d. Mâu thuẫn đối kháng và mâu thuẫn không đối kháng.
Mâu thuẫn đối kháng là mâu thuẫn đặc thù chỉ có trong lĩnh vực đời sống xã
hội. Đó là mâu thuẫn giữa những lực lượng, những tầng lớp xã hội có lợi ích căn bản
đối lập nhau đến mức khơng thể điều hồ được. Ví dụ như mâu thuẫn giữa vơ sản và
tư sản, giữa những tàn dư của kinh tế bao cấp và KTTT v.v…và chỉ có thể giải quyết
thơng qua các cuộc cách mạng xã hội .
Mâu thuẫn không đối kháng là những mâu thuẫn xuất hiện giữa những lực
lượng xã hội mà lợi ích về căn bản nhất trí với nhau. Ví dụ mâu thuẫn giữa doanh
nghiệp quốc dơanh và doanh nghiệp tư nhân, giữa KTTT xã hội chủ nghĩa và KTTT tư
bản chủ nghĩa v.v…
Nhưng hai loại mâu thuẫn trên có thể chuyển hố cho nhau, ta xem xét điều đó
qua mâu thuẫn giữa kinh tế thành thị và nơng thơn. Trong xã hội TBCN, ở đó thành thị
do giai cấp tư sản thống trị, bóc lột tàn khốc nơng thơn- đó là một mâu thuẫn hết sức
đối kháng. Nhưng ở xã hội XHCN, mâu thuẫn đối kháng đó biến thành không đối
kháng, mà đến xã hội cộng sản thì mâu thuẫn đó sẽ hết.
Phạm Lệ Mỹ - Lớp H – Cao học K16
Tiểu luận triết học
Trên đây ta đã nêu và phân tích những nội dung cơ bản của quy luật mâu thuẫn,
đó chính là cơ sở lí luận cho việc vận dụng quy luật này vào việc xác định những
nguyên tắc chung trong quá trình xây dựng và phát triển kinh tế.
II. NGUYÊN TẮC CHUNG VẬN DỤNG QUY LUẬT MÂU THUẪN
TRONG QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ.
1. Quy luật kinh tế cũng tồn tại khách quan và chứa đựng mâu thuẫn .
* Thế nào là quy luật kinh tế ?
“ Quy luật kinh tế là những mối liên hệ nhân quả, tất yếu, bản chất và thường
xuyên lặp đi lặp lại trong những hiện tượng và quá trình kinh tế khách quan.” [ Kinh tế
chính trị Mác- Lê nin, Nxb Giáo dục, 1998, tr 30].
Quy luật kinh tế có tính khách quan, nó ra đời, phát huy tác dụng và mất đi
khơng phụ thuộc vào ý chí của con người. Người ta không thể tự ý tạo ra những quy
luật kinh tế đồng thời cũng khơng thể xố bỏ chúng. Quy luật kinh tế ra đời trên những
cơ sở kinh tế chung nhất. Cơ sở trực tiếp làm nảy sinh những quy luật kinh tế đặc thù
là quan hệ sản xuất. Đến lượt nó, QHSX lại do tính chất và trình độ của LLSX quy
định. Mà theo C.Mác, “người ta không thể tự ý lựa chọn được LLSX. Do vậy, quy luật
kinh tế có tính khách quan.”[ Kinh tế chính trị hoc Mác- Lê nin, tập I, Nxb Giáo dục,
1998, tr 31].
Khách quan khơng có nghĩa là tự phát, con người hồn tồn có khả năng để nhận
thức và vận dụng ngày càng tốt hơn sự họat động của các quy luật kinh tế.
Trong hoạt động kinh tế, cần phải nhấn mạnh tính khách quan của các quy luật
kinh tế . Có như vậy mới tránh được tình trạng chủ quan, duy ý chí,nâng cao được hiệu
quả kinh tế – xã hội của những hoạt động kinh tế.
Tính mâu thuẫn của các quy luật kinh tế thể hiện ở phương thức hoạt động cuả
nó. Các quy luật kinh tế hoạt động thông qua hoạt động của con người, con người lại
hoạt động vì lợi ích của mình-mà lợi ích, hiện nay được phân phối không đồng đều
giữa các cá nhân, tổ chức, các giai cấp (chủ yếu ở xã hội TBCN), các Nhà nước .
Vì vậy, ở nước ta, vận dụng các quy luật kinh tế phải nhằm thực hiện tốt việc giải
quyết lợi ích cho người lao động .
2. Thực hiện cách mạng xã hội để xây dựng nền kinh tế .
Lịch sử xã hội loài người là một quá trình phát triển, thay thế nhau của các hình
thái kinh tế – xã hội. Việc chuyển một hình thái kinh tế –xã hội này sang một hình thái
kinh tế –xã hội khác gọi là cách mạng xã hội .
Phạm Lệ Mỹ - Lớp H – Cao học K16
Tiểu luận triết học
Hay ta cịn có cách hiểu khác: cách mạng xã hội là những bước chuyển biến mới
của lịch sử trên phạm vi thế giới, nó là quá trình lịch sử có thể diễn ra hàng trăm năm,
đồng thời việc giành chính quyền chỉ là một giai đoạn của cách mạng.
Vì yếu tố nền tảng của bất kì hình thái kinh tế –xã hội nào cũng là phương thức
sản xuất và sâu xa hơn nữa là cơ sở hạ tầng, nên cách mạng xã hội trước hết phải là sự
thay đổi chính bản thân các quan hệ kinh tế hợp thành cơ sở hạ tầng của xã hội. Hệ quả
của những thay đổi này là sự chuyển biến tương ứng về kiến trúc thượng tầng cũng
như toàn bộ đời sống tinh thần của xã hội .
Cách mạng xã hội là sự thay thế phương thức sản xuất này bằng phương thức sản
xuất khác; là việc xoá bỏ QHSX cũ, lỗi thời và xây dựng QHSX mới phù hợp với
LLSX. tạo điều kiện cho LLSX phát triển. Đây là cách mạng kinh tế.
Cách mạng kinh tế là nhân tố căn bản của các cuộc cách mạng xã hội . Nó vừa là
điểm khởi đầu, vừa là mục cơ bản của mọi cuộc cách mạng. Sức hấp dãn và tính hiện
thực của những kết quả mà cách mạng kinh tế có thể mang lại là động lực thúc đẩy sự
tham gia của đông đảo dân chúng.Đặc trưng căn bản của cách mạng kinh tế là tính
chất bước nhảy. Chính bước nhảy biện chứng này làm cho chất lượng của hình thái
kinh tế – xã hội sau bao giờ cũng cao hơn so với hình thái có trước.
Có thể xem việc chuyển đổi nền kinh tế Việt Nam từ kinh tế bao cấp sang KTTT
cũng là một cuộc cách mạng kinh tế. Đây là một cuộc cách mạng kinh tế mà đi đơi với
nó là sự biến đổi về kiến trúc thuợng tầng của xã hội : sự thay đổi cơ chế quản lý, chủ
trương chính sách, pháp luật, tư tưởng xã hội v.v…để thích ứng với nền kinh tế mới.
Vậy ta có thể thấy tính chất bước nhảy của cách mạng xã hội góp phần quan
trọng vào sự phát triển cuả mỗi quốc gia, mỗi dân tộc, thúc đẩy sự tiến bộ của xã hội
loài người.
Phạm Lệ Mỹ - Lớp H – Cao học K16
Tiểu luận triết học
CHƯƠNG II. VẬN DỤNG QUY LUẬT MÂU THUẪN VÀO THỰC HIỆN
CƠNG NGHIỆP HĨA, HIỆN ĐẠI HĨA NƠNG NGHIỆP, NÔNG THÔN Ở
VIỆT NAM HIỆN NAY.
I. MỘT SỐ MÂU THUẪN TRONG Q TRÌNH THỰC HIỆN CƠNG
NGHIỆP HỐ, HIỆN ĐẠI HỐ NƠNG NGHIỆP, NƠNG THƠN HIÊN NAY.
1. Khái qt chung về cơng nghiệp hố, hiện đại hố nơng nghiệp, nơng
thơn.
Trước nay có nhiều quan niệm khơng giống nhau về cơng nghiệp hố, hiện đại
hố nơng nghiệp, nơng thơn. Có quan niệm cho đó là việc đưa cơng nghiệp vào nơng
thơn, bảo đảm sản xuất nơng nghiệp mang tính cơng nghiệp. Có quan điểm lại cho
rằng đó là q trình cơ giới hố, tự động hố sản xuất nơng nghiệp. Một số ý kiến khác
lại coi cơng nghiệp hố, hiện đại hố nơng nghiệp nơng thơn là q trình đơ thị hố
nơng thơn, biến nơng thơn thành thành thị.
Có thể thấy các quan điểm trên đều phản ánh một số khía cạnh của q trình
cơng nghiệp hố, hiện đại hố nơng nghiệp, nơng thơn; nhưng xét cụ thể từng quan
điểm thì còn phiến diện chưa đầy đủ, chưa thấy hết các mối quan hệ nội tại và khách
quan của quá trình cơng nghiệp hố, hiện đại hố nơng nghiệp, nơng thơn cũng như
chưa phản ánh chưa phản ánh và tính đến mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan
hệ sản xuất trong q trình này nơng thơn.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban chấp hành Trung ương Đảng khố IX đã
xác định nội dung tổng qt của cơng nghiệp hố, hiện đại hố nơng nghiệp, nơng thơn
là:
- Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hố lớn, gắn
cơng nghiệp chế biến và thị trường, thực hiện cơ khí hố, điện khí hố, thuỷ lợi hố,
ứng dụng khoa học, cơng nghệ hiện đại vào các khâu sản xuất nông nghiệp nhằm nâng
cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nông sản hàng hoá trên thị
trường.
- Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng tăng tỷ trọng giá trị sản phẩm
và lao động các ngành công nghiệp và dịch vụ; giảm dần tỷ trọng sản phẩm và lao
động nông nghiệp; xây dựng kết cấu hạ tầng trong kinh tế, xã hội; quy hoạch phát triển
nông thôn, bảo vệ môi trường sinh thái; tổ chức lại sản xuất và xây dựng quan hệ sản
Phạm Lệ Mỹ - Lớp H – Cao học K16
Tiểu luận triết học
xuất phù hợp; xây dựng nông thôn công bằng văn minh, không ngừng nâng cao đời
sống vật chất và văn hoá của nhân dân.
2. Mâu thuẫn trong q trình thực hiện cơng nghiệp hố, hiện đại hố nông
nghiệp, nông thôn hiện nay.
a. Giữa Quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của Lực lượng sản xuất nơng
nghiệp
“ QHSX là tồn bộ những quan hệ giữa người và người trong quá trình sản xuất
và tái sản xuất xã hội “[Triết học Mác- Lê nin dùng cho các trường đại học và cao
đẳng khối kinh tế, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, HN, 1997, tr 178]. Nó được thể hiện
ở ba mặt cơ bản sau:
Quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất.
Quan hệ trong tổ chức và quản lý sản xuất .
Quan hệ phân phối sản phẩm lao động .
Ba mặt nói trên là một thể thống nhất hữu cơ tạo thành QHSX, trong đó quan hệ
sở hữu về tư liệu sản xuất có ý nghĩa quyết định đối với các mặt quan hệ khác.
“ LLSX là mối quan hệ giữa con người với tự nhiên được hình thành trong quá
trình sản xuất” [Triết học Mác- Lê nin, Nxb Chính trị quốc gia, HN, 1997, tr 172].
Phép biên chứng giữa LLSX và QHSX vạch ra quy luật khách quan của sự phát
triển xã hội. Vậy thì thế nào là phù hợp? Phù hợp tức là cả ba mặt của quá trình sản
xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ của LLSX, vậy trong sản xuất nơng nghiệp
sự phù hợp đó đã đến đâu?
Tuy nhiên, hiện nay nông nghiệp đang là khu vực nảy sinh nhiều mâu thuẫn mới
bức xúc và phức tạp. Lực lượng sản xuất trong nông nghiệp đang tồn tại nhiều mâu
thuẫn: Cơ sở vật chất, kỹ thuật và kết cấu hạ tầng nơng nghiệp nơng thơn cịn thấp
kém; cơ cấu kinh tế nông nghiệp và nông thôn chuyển dịch chậm, chưa theo sát với thị
trường; công nghiệp ở nông thôn phát triển chậm và phân bố không đồng đều, đặc biệt
là ở các vùng sâu, vùng xa, vùng duyên hải. Các nhu cầu về xây dựng các hạ tầng kỹ
thuật cơ bản như: Điện, đường, trường, trạm, y tế phục vụ đời sống,... còn chưa được
đáp ứng. Việc trang bị thiết bị cơ khí, nơng cụ và áp dụng chuyển giao tiến bộ kỹ thuật
sinh học, đổi mới giống cây trồng vật ni, bảo quản, chế biến hàng hố nơng phẩm,...
chưa được triển khai đồng đều có hiệu quả. Từ thực tế này đòi hỏi phải
Quan hệ sản xuất trong nông nghiệp cũng nảy sinh nhiều vấn đề phức tạp:
Phạm Lệ Mỹ - Lớp H – Cao học K16
Tiểu luận triết học
- Quan hệ trong việc sở hữu đối với tư liệu sản xuất Việc tổ chức các mơ hình
kinh tế tiểu chủ trang trại với những điều kiện sản xuất kinh doanh thuận lợi hơn như
phù hợp với việc ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, áp dụng cơ khí hố vào sản xuất.
Tuy nhiên trên thực tế nảy sinh mâu thuẫn là việc tích tục, tập trung ruộng đất (tư liệu
sản xuất rất quan trọng trong sản xuất nông nghiệp) vào một số người. Do trên thực tế
có rất nhiều nơng dân nghèo do thiếu kinh nghiệm, thiếu vốn, thiếu sự hợp tác giúp đỡ
trong sản xuất đã phải bán bỏ ruộng đất (tạm thời, hoặc lâu dài) để đi làm thuê.
- Tổ chức quản lý sản xuất là điều kiện thiết yếu cho sự phát triển của sản xuất,
một nền sản xuất muốn phát triển không chỉ dựa trên những cơ cấu tổ chức quản lý lỗi
thời, chồng chéo, ở nước ta hiện nay, qua quá trình đổi mới đã xây dựng được một hệ
thống chính sách mà bao qt ở tầm vĩ mơ thì nó đã giải quyết được những vấn đề
chính của KTTT Quan hệ trong việc tổ chức quản lý sản xuất cũng nảy sinh nhiều mâu
thuân việc triển khai mô hình hợp tác hố mới gặp nhiều trở ngại. Nhiều hợp tác chưa
phát huy được vai trò, chức năng là tổ chức tập thể tự nguyện, đảm nhận việc kinh
doanh tổng hợp, dẫn dắt nông dân làm ăn, cùng gắn bó lợi ích, đáp ứng u cầu cung
cấp mọi dịch vụ phục vụ sản xuất nông nghiệp, nông thôn. Vai trị của kinh tế hộ nơng
dân khó phát huy hiệu quả do tồn tại mâu thuẫn trong việc đáp ứng nhu cầu áp dụng
trong các khâu bảo quản, chế biến, hoặc do thiếu vốn, kiến thức khoa học kỹ thuật và
kinh nghiệm. Do trên thực tế công nghiệp bảo quản và chế biến cịn yếu kém, quy mơ
nhỏ và việc đáp ứng cho kinh tế hộ nơng dân cịn thấp.
- Phân phối ở nước ta với mục tiêu tiến tới là mọi người đều có đầy đủ các nhu
cầu cần thiết. Nhưng hiện nay, vẫn còn một số vùng nghèo, cơ sỏ vật chất rất thiếu
thốn đặc biệt là đối với vùng sâu, vùng xa, duyên hải, trong khi đó ở một số vùng, một
số bộ phận dân cư thì sản phẩm quá dư thừa tạo nên sự mất cân bằng trong quan hệ
phân phối, ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống nhân dân. Bên cạnh đó cịn nảy sinh trong
quan hệ phân phối mâu thuẫn do sự yếu kém, sự lỏng lẻo trong quản lý hành chính kinh tế của cấp xã
Tóm lại, trong q trình xây dựng nền KTTT hiện nay ở Việt Nam , mâu thuẫn
giữa LLSX và QHSX vẫn còn rất lớn. Sự lạc hậu của QHSX đã góp phần làm kìm
hãm q trình phát triển kinh tế, gây khó khăn cho việc thực hiện các chính sách và
đảm bảo cơng bằng xã hội .
Muốn giải quyết mâu thuẫn giữa LLSX và QHSX, ta phải nhận biết được nguyên
nhân và kết quả của sự đẩu tranh giữa hai mặt đối lập đó mà tìm ra phương thức thích
Phạm Lệ Mỹ - Lớp H – Cao học K16
Tiểu luận triết học
hợp để tác động vào sự đấu tranh và chuyển hố giữa chúng. Từ đó ta có một số biên
pháp để giải quyết mâu thuẫn trên:
Cần phải nắm vững định hướng XHCN trong việc xây dựng nền kinh tế nhiều
thành phần. Vì, thứ nhất, mỗi thành phần kinh tế có bản chất, hoạt động khác nhau và
khơng tránh khỏi mâu thuẫn; thứ hai, nền kinh tế nhiều thành phần tự nó khơng đi theo
định hướng XHCN mà có xu hướng tự phát TBCN; thứ ba, việc xử lý vấn đề cơ cấu
phát triển, cơ cấu thành phần kinh tế có liên quan đến sự tồn tại và phát triển của chế
độ XHCN ở nước ta.
Tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý kinh tế vì việc xây dựng nền KTTT không thể
tách rời việc xây dựng đồng bộ và vận hành có hiệu quả cơ chế quản lý kinh tế –cơ chế
thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN.
Xây dựng và củng cố cơ chế phân phối trong nền KTTT.
Mâu thuẫn giữa LLSX và QHSX ở nước ta là mâu thuẫn giữa hai mặt đối lập
thống nhất trong phương thức sản xuất XHCN, việc giải quyết mâu thuẫn này sẽ thúc
đẩy kinh tế phát triển, dẫn đến việc chuyển hóa giữa chúng tạo nên phương thức sản
xuất mới: phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa.
3. Phân tầng xã hội và sự xuất hiện giai cấp trong nông thôn
Trong xu hướng biến động của cơ cấu xã hội nước ta hiện nay, hiện tượng phân
tầng xã hội đang nổi lên như là một vấn đề thời sự có tính cấp bách.
Có nhiều người lo ngại rằng sự phân tầng hay nói rộng hơn là sự phân hóa xã hội
hiện nay là khơng bình thường, trái với quy luật kinh tế và phát triển xã hội ở nước ta,
nó sẽ tạo điều kiện đưa nước ta đi lệch hướng XHCN.
Nền kinh tế nước ta đã đi vào thế ổn định,tăng trưởng tốt, nhưng trong điều kiện
KTTT hiện nay, sự tăng trưởng đã đi liền với nó là sự mất cơng bằng xã hội. Từ đó
xuất hiện nhiều mâu thuẫn, mà những bất cơng xã hội – hậu quả trong việc giải quyết
không tốt những mâu thuẫn này, sẽ tác động trở lại và kìm hãm sự phát triển kinh tế và
tiến trình xây dựng nền KTTT ở nước ta.
Trước hết, là mâu thuẫn giữa bóc lột và bị bóc lột. Nước ta đang ở thời kỳ quá độ
lên CNXH, xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần, có nhiều hình sỏ hữu và kinh
doanh, trong đó có cả hình thức kinh doanh có thuê mướn lao động. Như vậy, ở đây đã
xuất hiện một mâu thuẫn: mâu thuẫn giữa lợi ích của nhà kinh doanh (bóc lột) và lợi
ích của người lao động (bị bóc lột). Nếu khơng giải quyết tốt mâu thuẫn này thì có thể
Phạm Lệ Mỹ - Lớp H – Cao học K16
Tiểu luận triết học
xảy ra hai trường hợp: hoặc là lợi ích của người lao động, hoặc là lợi ích của nhà kinh
doanh bị vi phạm, cả hai trường hợp đều ảnh hưởng tới lợi ích của nhân dân, của Nhà
nước .
Muốn giải quyết mâu thuẫn này, phải biết kết hợp hài hịa các lợi ích: lợi ích của
người lao động, lợi ích của nhà kinh doanh, khơng được coi trọng lợi ích này, xem nhẹ
lợi ích kia. Giữ vững định hướng XHCN trong việc phát triển kinh tế- xã hội, tạo điều
kiện để kinh tế Nhà nước từng bước giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân.
Trong tương lai, phải dần dần tạo điều kiện cho người lao động trở thành người chủ
của quá trình sản xuất, từ đó họ mới có thể làm chủ xã hội về mọi mặt.
Mâu thuẫn thứ hai là mâu thuẫn giữa bình đẳng và bất bình đẳng. Nguyên nhân
phát sinh mâu thuẫn này là giữa bình đẳng xã hội với tính cách là mục tiêu của CNXH
đã mâu thuẫn với sự bất bình đẳng trong hưởng thụ do sự khơng ngang bằng nhau của
các cá nhân, nhóm xã hội trong lao động và đóng góp trong nền KTTT. Mâu thuẫn này
nếu không được giải quyết thường xuyên và đúng đắn có thể xảy ra hai trường hợp:
hoặc là, do nhận thức không đúng, Nhà nước can thiệp một cách chủ quan vào tiến
trình xã hội, vi phạm những nguyên tắc của cơng bằng xã hội dẫn đến kìm hãm sự phát
triển kinh tế; hoặc là, do sự phát triển tự phát của KTTT Nhà nước khơng có biện pháp
điều chỉnh thích hợp dẫn đến sự bất bình đẳng tích lũy dần, phân cực xã hội sâu sắc,
xã hội ngày càng xa dời mục tiêu XHCN.
Mâu thuẫn này chỉ có thể giải quyết từng mặt chứ chưa thể toàn diện trong nền
KTTT hiện nay. Trước hết là phấn đấu từng bước bình đẳng về cơ hội- tức mọi người
đều có quyền tham gia vào các quá trình sản xuất, kinh doanh v.v… Cịn về mặt hưởng
thụ chỉ có thể chỉ có thể phấn đấu bình đẳng ở sự thỏa mãn một số nhu cầu cơ bản nhất
rồi dần dần phát triển lên. Và Nhà nước phải có những chính sách đúng có thể phát
huy quyền làm chủ của mỗi người, bảo vệ định hướng XHCN mà không vi phạm
những quy luật kinh tế làm kìm hãm sự phát triển kinh tế.
Về lý thuyết, phân tầng xã hội sẽ dẫn đến sự xuất hiện giai cấp. Vậy ở nước ta đã
xuất hiện giai cấp chưa? Thực ra ở nước ta đã có dấu hiệu về sự hình thành và xuất
hiện một giai cấp tư sản dân tộc vừa và nhỏ trong quá trình phát triển của nền KTTT
có sự quản lý của Nhà nước. Đây là một cộng đồng xã hội tuy số lượng khơng nhiều,
nhưng có vai trị và vị trí nhất định đối với sự phát triển của nền kinh tế nước ta trong
chặng đầu của thời kỳ quá độ. Mức thu nhập và đời sống của họ cao hơn các tầng lớp
dân cư khác, tuy rằng Nhà nước có điều tiết để hạn chế sự bóc lột quá đáng giá trị
thặng dư.
Phạm Lệ Mỹ - Lớp H – Cao học K16
Tiểu luận triết học
Như vậy, từ mâu thuẫn cơ bản là mâu thuẫn giữa sự phân tầng xã hội và mục tiêu
phát triển theo định hướng XHCN đã dẫn đến một số mâu thuẫn khơng cơ bản có liên
quan là mâu thuẫn giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội; giữa bóc lột và bị bóc
lột; giữa bình đẳng và bất bình đẳng; giữa giai cấp tư sản dân tộc và các tầng lớp nhân
dân khác. Trong đó mâu thuẫn sau cùng là mâu thuẫn chủ yếu, nó có ảnh hưởng lớn
đến các mâu thuẫn kia và là nguyên nhân phát sinh chủ yếu của các mâu thuẫn đó.
Vậy giải quyết vấn đề trên như thế nào? Sẽ là khơng thực tế nếu về cơ cấu kinh tế
có thành phần kinh tế tư bản tư nhân và tư bản Nhà nước mà về cơ cấu xã hội lại
không có thành phầng giai cấp tư sản dân tộc. Do đó sự tồn tại của giai cấp tư sản dân
tộc là một vấn đề hợp với tính quy luật của thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta. Sự tồn
tại của nó khơng có nghĩa là nền kinh tế nước ta đã chuyển sang quỹ đạo kinh tế
TBCN. Vấn đề là ở chỗ thành phần nào giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế và nó
phát triển theo định hướng nào? Đó chính là thành phần kinh tế Nhà nước phát triển
theo định hướng XHCN với các chính sách vĩ mô hợp lý của Nhà nước ta.
4. Lợi ích là một trong những động lực của nền kinh tế: Lợi ích cá nhân hay
lợi ích xã hội?
Để có được sự tăng trưởng kinh tế, bất kỳ một chính sách kinh tế nào cũng đều
phải quan tâm đến lợi ích cá nhân. Bất cứ ai bỏ vốn ra kinh doanh hay học tập rèn
luyện để có trình độ chun mơn và nghề nghiệp cao mà chẳng nhằm mục đích thu lợi
cho cá nhân và thỏa mãn những nhu cầu cá nhân của mình.
Tuy nhiên, trong điều kiện cơ chế thị trường, sự phát triển của nhu cầu và lợi ích
cá nhân khơng thể tránh khỏi mặt trái của nó khi ở một số cá nhân nhất định, sự phát
triển khơng theo hướng tích cực mà theo hướng tiêu cực- hướng chủ nghĩa cá nhân. Từ
đó xuất hiện mâu thuẫn giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội. Mâu thuẫn này nếu
không giải quyết tốt sẽ xảy ra bất cơng xã hội. Nếu lợi ích cá nhân bị vi phạm thì xã
hội sẽ mất đi một động lực của sự phát triển, ngược lại, nếu chỉ có cá nhân được lợi
cịn lợi ích xã hội bị vi phạm thì nạn nhân của sự bất cơng lại là cộng đồng xã hội. Cả
hai lợi ích này lại thống nhất trong lơi ích quốc gia, lợi ích dân tộc, nếu vì lý do nào đó
mà chúng bị tổn hại thì quốc gia dân tộc cũng sẽ bị ảnh hưởng trực tiếp mà sự thể hiện
rõ nhất của nó là sự khủng hoảng về lợi ích, về nhận thức của mỗi cá nhân và cộng
đồng, sẽ ảnh hưởng đến quá trình xây dựng nền kinh tế ở nước ta.
Sự đấu tranh giữa hai mặt đối lập: lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội trong tính
thống nhất của nó là lợi ích quốc gia tất yếu sẽ dẫn đến sự đấu tranh chuyển hoá giữa
Phạm Lệ Mỹ - Lớp H – Cao học K16
Tiểu luận triết học
chúng. Phương thức của sự chuyển hoá mà chúng ta sẽ tác động vào chính là phương
pháp giải quyết mâu thuẫn.
Để giải quyết mâu thuẫn giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội, về cơ bản phải kết
hợp hài hồ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội, đồng thời phải chống lại những biểu
hiện tiêu cực của chủ nghĩa cá nhân. Trong việc đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân,
chúng ta cần phân biệt rõ lợi ích cá nhân chinh đáng với chủ nghĩa cá nhân. Lợi ích cá
nhân chính đáng là cái tích cực, là một động lực phát triển của xã hội, vì nó khơng
những khơng đi ngược lại lợi ích chung mà còn là tiền đề để thực hiện lợi ích chung.
Cịn chủ nghĩa cá nhân là cái tiêu cực vì nó là khuynh hướng, lối sống của những
người đặt lợi ích cá nhân, gia đình lên trên cả lợi ích tập thể, lợi ích xã hội . Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã từng nói: “Thắng lợi của chủ nghĩa xã hội không thể tách rời thắng
lợi của cuộc đấu tranh trừ bỏ chủ nghĩa cá nhân”[ Hồ Chí Minh: toàn tập, tập 9, Nxb
Sự thật, HN, 1989, tr 291].
5. Mâu thuẫn giữa chính sách kinh tế và chính sách xã hội.
Trong xã hội hiện nay, tăng trưởng kinh tế, dù được thực hiện bằng cách nào,
cũng đều phải thơng qua những chính sách kinh tế nhất định. Cơng bằng xã hội cũng
không diễn ra một cách tự động mà cách thức, mức độ, phạm vi thực hiện của nó thực
hiện vào những chính sách xã hội của nhà nước.
Vì vậy, việc thực hiện chính sách kinh tế và việc thực hiện chính sách xã hội, bên
cạnh sự thống nhất biện chứng là cơ bản vẫn đã và đang có khả năng xuất hiện những
mâu thuẫn nhất định trên một số mặt sau:
Một là, việc thực hiện chính sách kinh tế trong khi phải tuân thủ nghiêm ngặt của
kinh tế thị trường, phải đảm bảo tính hiệu quả kinh tế, cấp nhận cạnh tranh, phá sản,
thất nghiệp có thể dẫn đến mâu thuẫn với chính sách xã hội nhằm thực hiện bình đẳng
xã hội- là một trong những mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Hai là, cho dù chính sách kinh tế đã bao hàm một số giải pháp xã hội nhưng
nhiệm vụ chủ yếu của nó là giải quyết những vấn đề kinh tế. để đảm bảo phát triển một
nền kinh tế phức tạp như kinh tế thị trường thì bất cứ một chính sách kinh tế nào trước
hết cũng phải chú trọng đến hiệu quả kinh tế. Cho nên, chính sách kinh tế dù tối ưu
đến đâu cũng không thể bao quát và giải quyết được tất cả những khía cạnh phức tạp
cuả lĩnh vực xã hội rộng lớn. Do đó, những giải pháp kinh tế nếu không đi kèm với
một số giải pháp xã hội quan trọng cỏ bản thì sẽ làm nẩy sinh nhiều vấn đề xã hội nhức
nhối.
Phạm Lệ Mỹ - Lớp H – Cao học K16
Tiểu luận triết học
Ngược lại việc thực hiện chính sách xã hội cũng có thể mâu thuẫn với chính sách
kinh tế. Bởi vì việc thực hiện chính sách xã hội đòi hỏi phải dựa vào nguồn lực kinh tế
nhất định, do đó nếu việc thực hiện chính sách xã hội vượt quá khả năng cho phép của
nền kinh tế và phạm vi những nguyên tắc công bằng trong kinh tế thì sẽ ảnh hưởng đến
tăng trưởng kinh tế.
Để giải quyết mâu thuẫn giữa việc thực hiện chính sách kinh tế và chính sách xã
hội - là hai mặt đối lập, thì phải thấy được những hợp lý, ưu điểm giữa việc đấu tranh
giữa chúng chíng là sự đấu tranh giữa mục tiêu tăng trưởng kinh tế và công bằng xã
hội. Từ đó phải kết hợp hài hồ giữa hai loại chính sách đó cả trong việc hoạch định và
thực hiện chúng tạo ra động lực cho sự phát triển của đất nước. Sự kết hợp nhằm đảm
bảo việc thực hiện chính sách kinh tế khơng dẫn đến những hậu quả xã hội tiêu cực, và
việc thực hiện chính sách xã hội, chẳng những không cản trở mà trở thành động lực
của sự tăng trưởng và phát triển kinh tế.
II. GIẢI PHÁP CHO NHỮNG TỒN TẠI MÂU THUẪN TRONG Q
TRÌNH CƠNG NGHIỆP HĨA, HIỆN ĐẠI HĨA NƠNG NGHIỆP, NƠNG
THƠN.
Muốn giải quyết tốt các mâu thuẫn trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện
nay, trước hết ta phải nắm được cơ sở lý luận của vấn đề, đây là những quan điểm, chủ
trương, đường lối của Đảng và nhà nước, những vấn đề có tính tất yếu, quy luật cần
được vận dụng và giải quyết các vướng mắc trong thực tiễn cuộc sống. Chủ tịch Hồ
Chí Minh viết: "Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là một nguyên tắc căn bản của
chủ nghĩa Mác Lênin. Thực tiễn khơng có lý luận hướng dẫn thì thành thành thực tiễn
mù quáng. Lý luận mà không liên hệ với thực tiễn là lý luận xuông" [ triết học Mác
Lênin, tập I, NXB Giáo dục Hà Nội, 2000, trang 211]. Lý luận mà ta quan tâm ở đây
chính là lý luận mâu thuẫn biện chứng của chủ nghĩa Mác Lênin.
Nhà nước ta là nhà nước xã hội chủ nghĩa, nhà nước của nhân dân, do nhân dân
và vì nhân dân. Chúng ta đã tiến tới một xã hội có cơ sở tồn dân sở hữu nhà nước.
Muốn được như vậy thì nhà nước phải có vai trị chủ đạo trong nền kinh tế, tức là nhà
nước phải nắm việc "Cầm lái" con thuyền kinh tế . Nội dung công việc "cầm lái" của
nhà nước gồm:
-Quyết định những mục tiêu bức xúc nhất cần đạt, hoặc những khâu yếu nhất cần
khắc phục nhằm xây dựng đất nước. Ví dụ: cơng nghiệp hố, hiện đại hố, nâng cao
hiệu quả quản lí của nhà nước.
Phạm Lệ Mỹ - Lớp H – Cao học K16
Tiểu luận triết học
-Xây dựng các chính sách và thể chế hố các chính sách đó bằng luật pháp nhằm:
tạo môi trường vĩ mô ổn định; tạo môi trường pháp lý thuận lợi và cơ hội bình đằng
cho mọi thành phần kinh tế cạnh tranh.
-Đầu tư vào môi trường xã hội và môi trường sinh thái để đảm bảo an toàn và
chất lượng cuộc sống.
-Đầu tư vào con người và tạo cơ hội bình đẳng cho mọi người để tiến thân vì lợi
ích bản thân, đất nước, trên cơ sở đó lựa chọn người có đức, có tài, có khả năng thích
nghi với những thay đổi nhanh chóng của thời đại. Làm cho bộ máy quản lí của nhà
nước tinh gọn nhưng có hiệu quả cao.
Chúng ta xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần là phù hợp với đặc
điểm lực lượng sản xuất của nước ta, nó sẽ giải quyết mâu thuẫn giữa quan hệ sản
xuất và lực lượng sản xuất hiện nay. Nó cho phép khai thác tốt nhất các năng lực sản
xuất trong nước, thúc đẩy q trình phân cơng lao động trong nước, gắn phân công lao
động trong nước với khu vực và quốc tế, thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển nhanh
chóng. Như vậy, bằng các biện pháp nêu trên, ta phải xây dựng tốt nền kinh tế nhiều
thành phần, đưa nó đi đúng hướng mà Đảng và nhà nước ta đã lựa chọn.
Phạm Lệ Mỹ - Lớp H – Cao học K16
Tiểu luận triết học
KẾT LUẬN
Ta đang nẩy sinh hàng loạt loạt mâu thuẫn, đó là mâu thuẫn giữa các kiểu kinh tế
thị trường như là một đặc trưng của CNTB với việc thực hiện kinh tế thị trường ở nước
ta; mâu thuẫn hiện phân tầng xã hội xuất hiện giai cấp với định hướng xã hội chủ
nghĩa: giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội; giữa sự yếu kém của quan hệ sản xuất với
trình độ của lực lượng sản xuất; giữa chính sách kinh tế và chính sách xã hội.
Sự thành công trong việc xây dựng CNXH ở nước ta phụ thuộc vào việc giải
quyết giữa mâu thuẫn đó. Vấn đề đặt ra là phải nghiên cứu những mâu thuẫn đó và tìm
ra phương hướng giải quyết chúng. Nghiên cứu mâu thuẫn là phải thấy được mâu
thuẫn nào là cơ bản, mâu thuẫn nào là khômg cơ bản, rồi cuối cùng tìm ra phương
hướng giải quyết mâu thuẫn, từ đó các mâu thuẫn khơng cơ bản sẽ được giả quyết.
Theo cách lập luận như vậy, thì việc tìm ra mâu thuẫn cơ bản là rất cần thiết. Vậy
trong các mâu thuẫn đã xem xét, mâu thuẫn nào là mâu thuẫn cơ bản, phát sinh ra các
mâu thuẫn kia?
Đó chính là mâu thuẫn giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất trong phương
tthức sản xuất và xã hội vì quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và
trình độ của lực lượng sản xuất là quy luật chung của sự phát triển xã hội.
Đại hội đại biểu đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng cộng sản Việt Nam
nhận định "nước ta chuyển sang thời kỳ phát triển mới, thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp
hố, hiện đại hố … Mục tiêu của cơng nghiệp hố, hiện đại hố là xây dựng nước ta
thành nước cơng nghiệp có cơ sở vật chất, kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, tiến
bộ phù với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất …" (Vặn kiện Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ VIII, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996 trang 18).
Trong giai đoạn quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, chỉ có sự giải quyết sự
đấu tranh của quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất trong sự thống nhất của nó là
phương thức sản xuất mới có thể dẫn đến một phương thức thức sản xuất tương lai của
loài người; phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa. Khi đó, trong xã hội cộng sản
chủ nghĩa, sẽ khơng cịn giai cấp; phân hố giàu nghèo, lợi ích cá nhân được bảo đảm
và ln cân bằng với lợi ích xã hội; nền kinh tế tự do cạnh tranh nhưng là cạnh tranh
lành mạnh; vị thế mỗi cá nhân được nâng cao, công bằng xã hội được đảm bảo và
Phạm Lệ Mỹ - Lớp H – Cao học K16
Tiểu luận triết học
chính sách kinh tế kinh tế sẽ khơng cịn mâu thuẫn với chính sách xã hội mà mục tiêu
chung của chúng là xây dựng một xã hội cộng sản giàu đẹp, cơng bằng văn mình.
Như vậy chính nhờ giải quyết mâu thuẫn giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản
xuất mà các mâu thuẫn đã xét ở trên sẽ được giải quyết hồn tồn. Điều đó chỉ phụ
thuộc vào việc chúng ta xây dựng xã hội cộng sản trong bao năm nữa mà thôi.
Phạm Lệ Mỹ - Lớp H – Cao học K16