Tải bản đầy đủ (.pdf) (88 trang)

Hợp đồng dịch vụ giá trị gia tăng theo pháp luật Viễn thông Việt Nam từ thực tiễn Vinaphone

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.23 MB, 88 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

PHẠM HIẾU TRUNG

HỢP ĐỒNG DỊCH VỤ GIÁ TRỊ GIA TĂNG THEO
PHÁP LUẬT VIỄN THÔNG VIỆT NAM TỪ
THỰC TIỄN VINAPHONE

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI, Năm 2018


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

PHẠM HIẾU TRUNG

HỢP ĐỒNG DỊCH VỤ GIÁ TRỊ GIA TĂNG THEO
PHÁP LUẬT VIỄN THÔNG VIỆT NAM TỪ
THỰC TIỄN VINAPHONE
Chuyên ngành

: Luật kinh tế

Mã số

: 838.01.07



LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. PHAN THỊ THANH THỦY

HÀ NỘI, Năm 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu,
trích dẫn nêu trong luận văn là chính xác, tin cậy và trung thực. Những kết luận
khoa học của luận văn không trùng lặp và chưa từng được công bố ở các công trình
nghiên cứu trước đó.

Tác giả luận văn

PHẠM HIẾU TRUNG


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HỢP ĐỒNG DỊCH VỤ GIÁ
TRỊ GIA TĂNG TRONG LĨNH VỰC VIỄN THÔNG ......................................... 5
1.1. Khái quát về hợp đồng dịch vụ giá trị gia tăng trong lĩnh vực viễn thông ......... 5
1.2. Phân loại hợp đồng dịch vụ giá trị gia tăng trong lĩnh vực viễn thông .............. 17
1.3.Pháp luật điều chỉnh hợp đồng dịch vụ giá trị gia tăng trong lĩnh vực viễn
thông ......................................................................................................................... 20
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ HỢP ĐỒNG
DỊCH VỤ GIÁ TRỊ GIA TĂNG TRONG LĨNH VỰC VIỄN THÔNG ............ 26

2.1. Các quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về hợp đồng dịch vụ giá tăng
trong lĩnh vực viễn thông .......................................................................................... 26
2.2. Đánh giá về thực trạng hợp đồng viễn thông giá trị gia tăng ............................. 50
CHƯƠNG 3. THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VÀ MỘT SỐ KIẾN
NGHỊ, GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ GIAO KẾT VÀ THỰC
HIỆN HỢP ĐỒNG DỊCH VỤ GTGT TẠI VNPT VINAPHONE .......................... 60
3.1. Khái quát về hoạt động kinh doanh DVGTGT ở VNPT Vinaphone ................. 60
3.2. Kiến nghị và giải pháp nâng cao chất lượng thực hiện HĐ viễn thông GTGT
của VNPT Vinaphone ............................................................................................... 76
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 80
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


DANH MỤC CÁC CHỮ VIÊT TẮT

ATTTM

: An toàn thông tin mạng

BLDS

: Bộ luật dân sự

CNTT

: Công nghệ thông tin

DVGTGT

: Dịch vụ giá trị gia tăng


LBVQLNTD

: Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong những năm trở lại đây, khi mà chất lượng các dịch vụ viễn thông cơ bản
được các doanh nghiệp viễn thông cung cấp đến người tiêu dùng ngày càng tương
đồng về chất lượng cũng như tính năng nhờ sự phổ cập và phát triển của những tiến
bộ của khoa học công nghệ, từ đó cũng đã kéo theo sự bão hòa về mức giá cũng như
doanh thu từ cước của các dịch vụ viễn thông cơ bản. Thực tiễn đó thúc đẩy các
doanh nghiệp viễn thông phải thay đổi chiến lược kinh doanh của mình. Chiến lược
phát triển kinh doanh hiện nay của các doanh nghiệp viễn thông là thay vì đầu tư và
quảng bá các dịch vụ cơ bản hiện có với chất lượng đang ngày càng tương đồng trên
thị trường thì chú trọng phát triển các DVGTGT trên nền các hạ tầng viễn thông sẵn
có từ cung cấp các dịch vụ viễn thông cơ bản đó, nhằm tạo khả năng thu hút thị
phần khách hàng mới đến với doanh nghiệp từ sự đa dạng và chất lượng của các
DVGTGT đặc trưng của mỗi doanh nghiệp.
Tuy nhiên, trong khi ở Pháp lệnh Bưu chính Viễn thông năm 2002 có nêu định
nghĩa cụ thể của DVGTGT thì đến luật Viễn thông 2009 định nghĩa này không còn
được nhắc tới và DVGTGT chỉ được quy định cách thức phân loại dịch vụ. Với tính
chất và định kiến là các dịch vụ phụ trợ, có thể thấy các hợp đồng DVGTGT trong
lĩnh vực viễn thông hiện nay chưa được xem xét và nghiên cứu đúng mức cả dưới
góc độ kỹ thuật và pháp lý, trong khi các dịch vụ đó đang ngày càng trở nên quan
trọng và thiết yếu đối với người sử dụng, thậm chí độc lập về giá trị đối với các dịch
vụ cơ bản của viễn thông.
Ngoài ra, thực tiễn áp dụng pháp luật Dân sự, pháp luật Viễn thông, CNTT
và các văn bản hướng dẫn thi hành vào điều chỉnh các quan hệ hợp đồng

DVGTGT đôi khi còn lúng túng, một số quy định tỏ ra không còn phù hợp với
hoàn cảnh đã thay đổi, một số quy định còn thiếu cần đươc bổ sung. Do đó, việc
nghiên cứu, làm sáng tỏ các quy định của pháp luật hiện hành đối với hợp đồng

1


DVGTGT trong lĩnh vực viễn thông để tìm ra những hạn chế, bất cập và hoàn
thiện chúng là một điều cần thiết.
Xuất phát từ những lý do trên, vấn đề Hợp đồng dịch vụ giá trị gia tăng theo
pháp luật Viễn thông Việt Nam từ thực tiễn Vinaphone được tôi lựa chọn nghiên cứu.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Pháp luật Việt Nam hiện nay đã có các quy định về những vấn đề chung cho
các loại hợp đồng trong từng mối quan hệ xã hội. Trong lĩnh vực viễn thông cũng
vậy, Pháp luật Việt Nam đã có các quy định về chế định hợp đồng trong lĩnh vực
này, và cũng đã có các một số nghiên cứu chuyên sâu và chi tiết về các loại hợp
đồng theo mẫu nói chung từ các nhà nghiên cứu tại Việt Nam. Tuy nhiên, theo tìm
hiểu của tác giả, hiện nay hầu như chưa có công trình khoa học pháp lý nào nghiên
cứu về Hợp đồng DVGTGT trong lĩnh vực viễn thông theo quy định của pháp luật
Việt Nam. Bản thân chính các doanh nghiệp viễn thông hiện nay, cụ thể là Tổng
Công ty dịch vụ Viễn thông VNPT - Vinaphone cũng chỉ tìm hiểu và mới dừng ở
mức áp dụng các quy định của pháp luật để đăng ký với cơ quan nhà nước có thẩm
quyền về các hợp đồng viễn thông trước khi các mẫu hợp đồng được đưa đến tay
khách hàng. Các loại hợp đồng viễn thông nhìn chung vẫn chưa được nghiên cứu
dưới góc nhìn từ khách hàng, người sử dụng dịch vụ. Qua quá trình nghiên cứu,
cùng với thực tiễn công tác tại đơn vị kinh doanh DVGTGT của VNPT –
Vinaphone, tác giả cho rằng cần thiết phải có một nghiên cứu chuyên sâu về hợp
đồng dịch vụ giá trị gia tăng – loại hình dịch vụ đang ngày càng đa dạng và phổ
biến trong lĩnh vực viễn thông nhưng vẫn chưa có các bài viết và nghiên cứu
chuyên sâu, cụ thể. Ngoài ra, với sự thay thế của Hiến pháp năm 2013 và BLDS

năm 2015 có hiệu lực thì việc nghiên cứu chuyên sâu về hợp đồng dịch vụ Viễn
thông nói chung và DVGTGT trong lĩnh vực viễn thông vẫn cần được tiếp tục
nghiên cứu và rút kinh nghiệm thực tiễn áp dụng.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận văn là: Trên cơ sở làm rõ những vấn đề lý luận

2


cũng như thực tiễn áp dụng và ký kết Hợp đồng DVGTGT trong lĩnh vực viễn
thông ở Việt Nam, qua đó đề xuất các giải pháp và kiến nghị bổ sung, sửa đổi một
số quy định của pháp luật viễn thông về ký kết và thực hiện hợp đồng dịch vụ giá trị
giá tăng trong lĩnh vực ở Việt Nam hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Với mục đích trên, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn là:
- Làm rõ các vấn đề lý luận cơ bản về DVGTGT trong lĩnh vực viễn thông.
- Nghiên cứu, phân tích và đánh giá thực tiễn của hoạt động ký kết và thực
hiện hợp đồng DVGTGT nhằm làm rõ nguyên nhân và hạn chế từ các quy định của
pháp luật về loại hình hợp đồng này.
- Đưa ra kiến nghị hoàn thiện và nâng cao hiệu quả ký kết và thực hiện hợp
đồng DVGTGT trong lĩnh vực viễn thông.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các quy định của pháp luật về hợp đồng
dịch vụ viễn thông giá trị gia tăng là các hợp đồng thương mại, với chủ thể ký kết là
VNPT Vinaphone với các đối tác là thương nhân. Luận văn không đề cập đến các
hợp đồng dịch vụ viễn thông giá trị gia tăng ký kết giữa dịch vụ viễn thông giá trị
gia tăng với người tiêu dùng.
4.2. Phạm vi nghiên cứu

Giới hạn trong các quy định của pháp luật hiện hành điều chỉnh về vấn đề này
cụ thể là BLDS 2015, Luật thương mại 2005, Luật viễn thông 2009, Luật công nghệ
thông tin 2006, Luật an toàn thông tin mạng 2015 và các văn bản hướng dẫn thi
hành và các văn bản pháp luật khác có liên quan;
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Cùng với việc sử dụng phương pháp luận chung nhất của phép biện chứng duy
vật, đề tài được thực hiện bằng việc sử dụng kết hợp các phương pháp
nghiên cứu chuyên ngành luật như phương pháp mô tả, phân tích, so sánh, tổng
hợp, chứng minh, thống kê…

3


5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở lý luận chung, phân tích, so sánh
được sử dụng chủ yếu để đánh giá, nhận xét về các quy định pháp luật hiện hành về
chế tài trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng viễn thông ở việt nam
hiện nay trong tương quan so sánh với các quy định trước đây. Ngoài ra, tác giả
cũng sử dụng phương pháp thống kê, phương pháp lịch sử để đánh giá sự phát triển
và những hạn chế cần khắc phục của pháp luật hiện hành.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa về lý luận
Từ phân tích và đánh giá các quy định hiện hành của pháp luật Việt Nam về
hợp đồng dịch vụ giá trị gia tăng theo pháp luật viễn thông, luận văn trình bày
những điểm hợp lý cũng như những hạn chế, bất cập của pháp luật trong lĩnh vực
viễn thông hiện hành. Từ đó, luận văn đưa ra các kiến nghị để hoàn thiện các quy
định của pháp luật trong chế định hợp đồng này, đảm bảo tính pháp lý đúng đắn cho
việc ký kết và thực hiện hợp đồng dịch vụ giá trị gia tăng trong lĩnh vực viễn thông.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn

Thông qua việc nghiên cứu thực trạng pháp luật, luận văn đưa ra một số giải
pháp và kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật trong thực tiễn ký kết và thực hiện hợp
đồng dịch vụ giá trị gia tăng trong lĩnh vực viễn thông.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn có
phần nội dung gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về hợp đồng dịch vụ giá trị gia tăng trong
lĩnh vực viễn thông
Chương 2: Thực trạng pháp luật Việt Nam về hợp đồng dịch vụ giá trị gia tăng
trong lĩnh vực viễn thông
Chương 3: Thực tiễn áp dụng pháp luật và một số kiến nghị, giải pháp nhằm
nâng cao hiệu quả giao kết và thực hiện hợp đồng dịch vụ GTGT tại VNPT
Vinaphone

4


CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HỢP ĐỒNG DỊCH VỤ GIÁ TRỊ
GIA TĂNG TRONG LĨNH VỰC VIỄN THÔNG
1.1. Khái quát về hợp đồng dịch vụ giá trị gia tăng trong lĩnh vực viễn
thông
1.1.1. Dịch vụ giá trị gia tăng trong lĩnh vực viễn thông
1.1.1.1. Dịch vụ giá trị gia tăng
Khái niệm:
Dịch vụ giá trị giá tăng (Value Added Services - VAS) là thuật ngữ được sử
dụng để chỉ các dịch vụ phụ trợ cho một dịch vụ cơ bản [37]. Thuật ngữ này được
sử dụng rộng rãi trong một số ngành công nghiệp, trong đó đáng chú ý và phổ biến
nhất là viễn thông. DVGTGT thường được giới thiệu đến khách hàng sau khi khách
hàng đã mua các dịch vụ cơ bản. Dịch vụ cơ bản đóng vai trò trung tâm và các

DVGTGT thường là những dịch vụ phụ thuộc vào nó. Tên gọi giá trị gia tăng chính
là xuất phát từ tính chất gia tăng các giá trị cho các dịch vụ cơ bản mà nó phụ trợ.
Dịch vụ giá trị gia tăng là những dịch vụ bổ sung, tạo ra những giá trị phụ trội
thêm cho khách hàng, làm cho khách hàng có sự cảm nhận tốt hơn về dịch vụ cơ bản.
Mặc dù mang chức năng chính là phụ trợ cho các dịch vụ cơ bản, tuy nhiên
dich vụ giá trị gia tăng không phải là tương đồng hoàn toàn với các dịch vụ cơ bản.
Chúng có những đặc tính riêng, duy nhất và có liên quan tới các dịch vụ khác bởi
những cách hoàn toàn khác. Đồng thời chúng cung cấp cho khách hàng những lợi
ích mà các dịch vụ cơ bản không thể mang lại được.
Đặc điểm
Ngoài các đặc điểm cơ bản chung của dịch vụ: tính vô hình; tính không chia
cắt được; không ổn định về chất lượng; không lưu giữ được, mọi DVGTGT chia sẻ
cùng một số đặc điểm sau:
- Dịch vụ giá trị gia tăng được xây dựng dựa trên cơ sở vật chất và nguồn lực
vốn có trong việc cung cấp các dịch vụ cơ bản, nhằm hướng tới nâng cao khả năng

5


khai thác các nguồn lực vốn có đó, cũng như thỏa mãn nhu cầu ngày càng cao của
khách hàng, từ đó tạo ra được hiệu quả cao trong kinh doanh của Doanh nghiệp.
Với chức năng phụ trợ cho dịch vụ cơ bản, theo như đúng tên gọi của mình,
các DVGTGT tăng cường tính toàn diện cho dịch vụ cơ bản, qua đó gia tăng giá trị
cho nó.
- Độc lập về lợi nhuận với các dịch vụ cơ bản.
Trong một số trường hợp, một DVGTGT sẽ được cung cấp tới cho khách hàng
mà không phát sinh phí hoặc cước. Trong một số trường hợp khác, các DVGTGT sẽ
được cung cấp cho một khách hàng hiện tại với một khoản phí hoặc mức cước bổ
sung. Cơ cấu giá thực và mức phí hoặc cước phát sinh của các DVGTGT thường sẽ
phụ thuộc vào việc các nhà cung cấp coi các dịch vụ này như những tiện ích nhằm

tạo dựng mối quan hệ mạnh mẽ hơn với khách hàng hay như một nguồn thu nhập
bổ sung.
Mặc dù cước phí của các DVGTGT thường nhỏ hơn so với cước phí của các
dịch vụ cơ bản nhưng phần lớn trong số chúng vẫn độc lập về lợi nhuận với các
dịch vụ cơ bản. Người sử dụng phải trả một khoản phí cho mỗi lần sử dụng hoặc
thanh toán theo hình thức thuê bao hàng tháng để có thể sử dụng dịch vụ này.
- Dịch vụ giá trị gia tăng là những dịch vụ phụ hoặc bản thân đôi khi cũng có
thể mang những giá trị độc lập, được hình thành nhằm mang lại giá trị phụ thêm cho
khách hàng. DVGTGT có thể nằm trong hệ thống của dịch vụ cơ bản và tăng thêm
lợi ích cốt lõi, hoặc có thể là những dịch vụ độc lập mang lại lợi ích phụ thêm. Và vì
vậy, một vài DVGTGT có thể được cung cấp đến khách hàng mà không cần tới các
dịch vụ cơ bản.
- Dịch vụ giá trị gia tăng tạo ra khả năng cá nhân hóa các nhu cầu của khách
hàng
Các dịch vụ cơ bản thông thường khi được cung cấp đến khách hàng đã được
định hình các tính năng và tùy chọn mặc định cơ bản. Khác với dịch vụ cơ bản,
DVGTGT mang đến cho khách hàng những nhiều sự lựa chọn cho cùng một lợi ích,
cùng một tính năng dịch vụ, hướng tới phục vụ tốt nhất trải nghiệm của người dùng.

6


1.1.1.2. Dịch vụ giá trị gia tăng trong lĩnh vực viễn thông
Khái niệm
Viễn thông (Telecommunication - trong các ngôn ngữ châu Âu xuất phát từ
tele của tiếng Hy Lạp có nghĩa là xa và communication của tiếng La tinh có nghĩa là
thông báo) miêu tả một cách tổng quát tất cả các hình thức trao đổi thông tin qua
một khoảng cách nhất định mà không phải chuyên chở những thông tin này đi một
cách cụ thể (thí dụ như thư) [25]. Theo nghĩa hẹp hơn, ngày nay viễn thông được hiểu
như là cách thức trao đổi thông tin, dữ liệu thông qua kỹ thuật điện, điện tử và các công

nghệ hiện đại khác. Các dịch vụ viễn thông đầu tiên theo nghĩa này là điện báo và điện
thoại, sau dần phát triển thêm các hình thức truyền đưa số liệu, hình ảnh …
Như vậy, dịch vụ viễn thông nói chung là một tập hợp các hoạt động bao gồm
các nhân tố không hiện hữu, tạo ra chuỗi giá trị và mang lại lợi ích tổng hợp. Do đó,
thực thể dịch vụ viễn thông thường được phân làm 2 loại: dịch vụ cơ bản (dịch vụ
cốt lõi) và dịch vụ giá trị gia tăng (dịch vụ phụ thêm).
Dịch vụ cơ bản là dịch vụ chủ yếu của doanh nghiệp cung cấp cho thị trường.
Dịch vụ cơ bản thỏa mãn một loại nhu cầu nhất định vì nó mang lại một loại giá trị
sử dụng (hay là giá trị lợi ích) cụ thể. Dịch vụ cơ bản quyết định bản chất của dịch
vụ, nó gắn liền với công nghệ, hệ thống sản xuất và cung ứng dịch vụ. Nói một cách
cụ thể hơn viễn thông cơ bản là dịch vụ để kết nối và truyền tín hiệu số giữa các
thiết bị đầu cuối.
Các dịch vụ cơ bản của viễn thông bao gồm dịch vụ thoại và dịch vụ truyền số
liệu. Dịch vụ thoại bao gồm dịch vụ điện cố định, di động; Dịch vụ truyền số liệu
gồm: dịch vụ kênh thuê riêng, dịch vụ truyền dẫn tín hiệu truyền hình …
Dịch vụ giá trị gia tăng là những dịch vụ bổ sung, tạo ra những giá trị phụ trội
thêm cho khách hàng, làm cho khách hàng có sự cảm nhận tốt hơn về dịch vụ cơ
bản. Dịch vụ giá trị gia tăng của dịch vụ viễn thông là các dịch vụ làm tăng thêm
các giá trị thông tin của người sử dụng dịch vụ bằng cách khai thác thêm các loại
hình dịch vụ mới nhằm đáp ứng nhu cầu của người sử dụng dịch vụ.

7


Luật viễn thông hiện hành không nêu cụ thể định nghĩa của DVGTGT, tuy
nhiên, theo Pháp lệnh về Bưu chính, viễn thông 2002 có ghi “Dịch vụ giá trị gia
tăng là dịch vụ làm tăng thêm giá trị thông tin của người sử dụng dịch vụ bằng cách
hoàn thiện loại hình, nội dung thông tin hoặc cung cấp khả năng lưu trữ, khôi phục
thông tin trên cơ sở sử dụng mạng viễn thông hoặc Internet”[24, Điều 27]. Các
DVGTGT là tính năng làm tăng thêm tiện ích cho khách hàng ngoài các dịch vụ cơ

bản. Các DVGTGT một mặt giúp KH sử dụng dịch vụ của các nhà mạng nhiều hơn,
mặt khác nó giúp các nhà khai thác nâng cao doanh thu bình quân trên một thuê bao
(ARPU).
Giá trị gia tăng là các phần giá trị được bổ sung tới sản phẩm bởi các công ty
viễn thông trước khi cung cấp tới khách hàng.
Đối với dịch vụ di động, ngoài các dịch vụ cơ bản gọi điện, các dịch vụ hay
tính năng thêm như GPRS, MMS, SMS, nhạc chờ, Game,… Hay các dịch vụ nội
dung được coi là các dịch vụ GTGT.
Đối với dịch vụ cố đinh, các dịch vụ GTGT bao gồm các dịch vụ nội dung qua
thoại, các tính năng chuyển cuộc gọi, hộp thư thoại, dịch vụ hiển thị số gọi đến, dịch
vụ chuyển cuộc gọi tạm thời, dịch vụ điện thoại hội nghị ba bên, dịch vụ nhắn tin …
Đối với dịch vụ internet, các DVGTGT bao gồm các dịch vụ như IPTV, mua
bán trực tuyến qua mạng, địa chỉ email ảo, hosting,…
Đặc điểm
Dịch vụ viễn thông giá trị gia tăng mang các đặc điểm cơ bản sau :
Đặc điểm thứ nhất: Dịch vụ viễn thông giá trị gia tăng rất khác với các sản
phẩm của ngành sản xuất công nghiệp, nó không phải là một sản phẩm hay vật chất
chế tạo mới, không phải là hàng hoá cụ thể, mà là kết quả có ích cuối cùng của quá
trình truyền đưa tin tức dưới dạng dịch vụ.
Đặc điểm thứ hai: Đó là sự tách rời của quá trình tiêu dùng và sản xuất dịch vụ
viễn thông. Hiệu quả có ích của quá trình truyền đưa tin tức được tiêu dùng ngay
trong quá trình sản xuất. Ví dụ: trong đàm thoại điện thoại bắt đầu đăng ký đàm
thoại là bắt đầu quá trình sản xuất, sau khi đàm thoại xong tức là sau khi tiêu dùng

8


hiệu quả có ích của quá trình sản xuất thì quá trình sản xuất cũng kết thúc. Trong
viễn thông, kết quả cuối cùng của hoạt động sản xuất không thể cất giữ được ở
trong kho, không thể lưu trữ , không thể thu hồi sản phẩm cho vào quay vòng hay

tái sản xuất. Từ đặc điểm này, về chất lượng dịch vụ viễn thông phải có yêu cầu tiêu
chuẩn cao nếu không sẽ ảnh hưởng trực tiếp ngay đến tiêu dùng. Hơn nữa, để sử
dụng dịch vụ viễn thông người sử dụng phải có mặt ở những địa điểm xác định của
nhà cung cấp dịch vụ hoặc nơi có thiết bị của nhà cung cấp dịch vụ.
Đặc điểm thứ ba: sư truyền dẫn, đưa tin tức rất đa dạng, nó xuất hiện không
đồng đều về không gian và thời gian. Thông thường, nhu cầu truyền đưa tin tức phụ
thuộc vào nhịp độ sinh hoạt của xã hội, vào những giờ ban ngày, giờ làm việc của
các cơ quan, doanh nghiệp, vào các kỳ hội, lễ tết thì lượng nhu cầu rất lớn. Trong
điều kiện yêu cầu phục vụ không đồng đều, để thoả mãn tốt nhu cầu của khách
hàng, các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ viễn thông phải dự trữ đáng kể năng lực
sản xuất và lực lượng lao động.
Đặc điểm thứ tư: đó là sự khác biệt so với các ngành sản xuất công nghiệp
thông thường khác, nơi mà đối tượng chịu sự thay đổi vật chất (về mặt vật lý, hoá
học,..), còn trong sản xuất viễn thông, thông tin là đối tượng lao động chỉ chịu tác
động dời chỗ trong không gian. Thậm chí, nếu thông tin trong quá trình truyền tải
nhờ các thiết bị viễn thông được biến đổi thành các tín hiệu thông tin điện, thì ở các
nơi nhận tín hiệu phải được khôi phục trở lại trạng thái ban đầu của nó. Mọi sự thay
đổi thông tin, đều có nghĩa là sự méo mó, mất đi giá trị sử dụng và dẫn đến tổn thất
lợi ích của khách hàng.
Đặc điểm thứ năm: là quá trình truyền dẫn thông tin và đưa tin tức luôn mang
tính hai chiều giữa người gửi và người nhận thông tin. Nhu cầu truyền đưa tin tức
có thể phát sinh ở mọi điểm dân cư, điều đó đòi hỏi phải hình thành một mạng lưới
cung cấp dịch vụ rộng khắp vàcó độ tin cậy.
Ngoài ra, do đặc điểm không hiện hữu (vô hình) của dịch vụ viễn thông nên
việc quản lý chất lượng và tính đồng bộ là rất khó khăn, đồng thời người sử dụng
dịch vụ cũng sẽ rất khó khăn trong việc đánh giá chất lượng dịch vụ. Để đánh giá

9



chất lượng dịch vụ, khách hàng thường căn cứ vào nhiều tiêu chuẩn hữu hình để
đánh giá chất lượng như:
- Bằng chứng hữu hình của dịch vụ: đó là thương hiệu dịch vụ, sự hiện đại
của trang thiết bị, công nghệ khai thác, sự khang trang của các điểm giao dịch với
khách hàng, sự lành nghề của đội ngũ nhân viên…
- Độ tin cậy của dịch vụ: Đối với điện thoại là tỷ lệ cuộc gọi thành công cao,
ít bị nghẽn mạch. Đối với dịch vụ Internet là truy cập, kết nối mạng nhanh…
- Thái độ thực sự ân cần của nhân viên giao dịch trong việc đáp ứng nhu cầu
của khách hàng.
- Trình độ hiểu biết của nhân viên về chính sách và thủ tục cung ứng dịch vụ.
- Mức độ tin cậy của thông tin được cung cấp về dịch vụ.
- Chất lượng của hoạt động chăm sóc khách hàng.
- Kỹ năng giao tiếp và mức độ lịch thiệp của nhân viên giao dịch.
Phân loại:
Dựa trên nền tảng kỹ thuật viễn thông, DVGTGT có thể phân loại thành 3
nhóm:
- DVGTGT trên nền tảng viễn thông di động: bao gồm các DVGTGT trên
nền tảng dịch vụ điện thoại di động như dịch vụ SMS, GPRS, MMS, CRBT (nhạc
chuông chờ),…
- DVGTGT trên Internet bao gồm các DVGTGT trên nền tảng Internet, hạ
tầng mạng internet như dịch vụ hosting, thuê server, thiết kế website,..
- DVGTGT trên điện thoại cố định bao gồm các dịch vụ giá trị ga tăng trên
mạng điện thoại cố định như dịch vụ hiển thị số gọi đến, dịch vụ Fax, dịch vụ qua
các đầu số như 1900, 1800…
Vai trò và xu hướng của dịch vụ giá trị gia tăng trong lĩnh vực viễn Thông:
+ Vai trò của dịch vụ viễn thông giá trị gia tăng:
- Đối với khách hàng:
Các dịch vụ giá trị gia tăng không ngừng tạo thêm nhiều tính năng thỏa mãn
nhu cầu của khách hàng: Trong bối cảnh thị trường điện thoại đang ngày cảng trở


10


nên phổ cập và “nhàm chán” do chức năng thoại, nhắn tin đều có thể có thể sử dụng
được như nhau ở hầu hết các loại điện thoại không phân biệt giá tiền, kiểu dáng…
khiến cho nhu cầu sử dụng thoại qua dịch vụ di động của khách hàng dần dần tiễn
tới ngưỡng bão hòa. Do đó, việc đưa ra các DVGTGT trên điện thoại đến với thị
trường khiến cho khách hàng không chỉ được tận hưởng thêm các dịch vụ với nhiều
tính năng mới đáp ứng được các nhu cầu cá nhân cũng như phục vụ cho nhu cầu
công việc, xã hội… mà ngoài ra còn tận dụng được hết các tiện ích và chức năng mà
những chiếc điện thoại hiện đại – những thiết bị không ngừng phát triển và đổi mới
có thể hỗ trợ như dịch vụ VoD, Video Call…
Các dịch vụ giá trị gia tăng tăng hiệu quả trong công việc: ngày nay, với sự
thay đổi và tiến bộ không ngừng của khoa học công nghệ, việc sử dụng các
DVGTGT trong công việc, sẽ giúp cho khách hàng có thể dễ dàng trong việc quản
lý thời gian, quản lý công việc, rút ngắn khoảng cách địa lý, công sức và chi phí…
từ đó nâng cao được hiệu quả công việc.
- Đối với doanh nghiệp viễn thông:
Chất lượng dịch vụ giá trị gia tăng góp phần tăng khả năng cạnh tranh cho
các doanh nghiệp viễn thông: chất lượng các dịch vụ cơ bản (thoại và nhắn tin; tốc
độ truyền dẫn internet, dung lượng lưu trữ của hạ tầng database…) giữa các nhà
mạng đang gần như không có sự chênh lệch đáng kể khi các doanh nghiệp viễn
thông đều coi việc phát triển mạng lưới là kế hoạch căn bản ban đầu, là chiến lược
và là hoạt động quan trọng nhất trong quá trình phát triển của doanh nghiệp viễn
thông nói chung. Do đó, để tạo ra sự khác biệt nhằm giữ chân các khách hàng hiện
có và thu hút các khách hàng mới trong thị trường tham gia hoặc chuyển qua sử
dụng dịch vụ của doanh nghiệp mình, việc đưa ra các dịch vụ gía trị gia tăng hiệu
quả, đa dạng chính là định hướng đúng đắn với mục đích nâng cao khả năng cạnh
tranh của doanh nghiệp viễn thông.
Dịch vụ giá trị gia tăng nâng cao doanh thu cho nhà cung cấp. Trong tổng

doanh thu từ khách hàng của nhà cung cấp, tỷ lệ doanh thu đến từ DVGTGT ngày
càng quan trọng. Khi mức độ cạnh tranh trên thị trường ngày càng quyết liệt hoặc

11


thị trường đạt đến mức bão hòa, doanh thu từ các dịch vụ cơ bản ngày càng giảm
xuống, phần gia tăng doanh thu trong các DVGTGT chính là phần bù đắp tốt nhất
cho các nhà mạng cho phần doanh thu giảm xuống đó. Đồng thời đảm bảo một
mức độ phát triển bền vững cho các doanh nghiệp viễn thông kể cả trong thời kỳ
khủng hoảng.
Dịch vụ giá trị gia tăng góp phần nâng cao hình ảnh của doanh nghiệp: Ngoài
mục tiêu doanh thu, việc thỏa mãn nhu cầu của khách hàng được coi là mục tiêu
quan trọng mà tất cả các nhà khai thác đều hướng tới. Trên thực tế, có rất nhiều dịch
vụ giá trị gia tăng được cung cấp dưới dạng miễn phí với mục tiêu nâng cao sự hài
lòng của khách hàng đối với nhà khai thác ví dụ tại VNPT Vinaphone tặng kèm user
email vnn.vn khi khách hàng đăng ký thuê bao interntet … Đồng thời xây dựng một
hình ảnh tốt về doanh nghiệp trong mắt người tiêu dùng khi luôn đảm bảo việc đáp
ứng các yêu cầu tốt nhất từ phía khách hàng.
Dịch vụ giá trị gia tăng nâng cao sự khác biệt cho sản phẩm dịch vụ cơ bản:
Mức độ cạnh tranh trên thị trường viễn thông đang ngày càng quyết liệt, các nhà
khai thác đều chú trọng đáp ứng tốt hơn nhu cầu của khách hàng dựa vào chính sách
giá, sản phẩm, vùng phủ sóng,.. Đến một thời điểm nào đó, sự khác biệt giữa các
nhà cung cấp về các yếu tố căn bản trên sẽ hầu như không còn đáng kể nữa. Để giúp
khách hàng phân biệt và nhận diện sản phẩm dịch vụ của mình so với các đối thủ
khác, một trong những biện pháp hữu hiệu nhất là phát triển các tính năng,
DVGTGT. Nó giúp các khách hàng lấy đó làm cơ sở căn cứ để lựa chọn nhà cung
cấp dịch vụ để sử dụng.
+ Xu hướng tất yếu phát triển dịch vụ giá trị giá tăng:
Hiện nay, bên cạnh các dịch vụ cơ bản – là các dịch vụ thỏa mãn các nhu cầu

chính của khách hàng, các dịch vụ giá trị gia tăng VAS đang nở rộ ở rất nhiều nơi
trên thế giới trong đó có Việt Nam. Các DVGTGT đang ngày càng đóng vai trò
quan trọng và chiếm tỷ trọng ngày càng cao trong tổng doanh thu của các nhà cung
cấp dịch vụ viễn thông. Điều đó chứng tỏ tầm quan trọng của loại hình sản phẩm
này, các nhà mạng không thể sống mà không có VAS. Song song với tỷ lệ đó là

12


mức doanh thu hàng năm khổng lồ mà các nhà khai thác mạng thu được; các dịch
vụ mới luôn nằm sẵn trên giấy chỉ chờ triển khai cho thấy sự phát triển rất mạnh mẽ
của loại hình này.
Xu thế phát triển DVGTGT là tất yếu của tất cả các doanh nghiệp kinh doanh
dịch vụ viễn thông trên thế giới nói chung, cũng như tại VN nói riêng. Khách hàng
không chỉ hướng đến sử dụng các dịch vụ cơ bản của viễn thông như thoại, nhắn
tin, truyền dẫn internet... Mà hiện tại nhu cầu sử dụng dịch vụ của người tiêu dùng
ngày càng tăng theo sự phát triển của công nghệ và xã hội.
1.1.2. Hợp đồng dịch vụ giá trị gia tăng trong lĩnh vực viễn thông
1.1.2.1. Khái niệm
Khái niệm về hợp đồng thương mại nói chung và khái niệm hợp đồng thương
mại dịch vụ không được quy định trong pháp luật thương mại Việt Nam. Điều này
có nghĩa là pháp luật của Việt Nam hiện hành không đưa ra khái niệm về hợp đồng
thương mại dịch vụ mà chỉ đưa ra khái niệm về hợp đồng dân sự, tại Điều 385
BLDS 2015 quy định: “Hợp đồng là sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập,
thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự.”
Điều 3 Luật thương mại 2005 quy định: “Cung ứng dịch vụ là hoạt động thương
mại, theo đó một bên (gọi là bên cung ứng dịch vụ) có nghĩa vụ thực hiện dịch vụ cho
bên khác và nhận thanh toán. Bên sử dụng dịch vụ (gọi là khách hàng) có nghĩa vụ
thanh toán cho bên cung ứng dịch vụ và sử dụng dịch vụ theo thỏa thuận.”
Từ khái niệm hợp đồng dân sự và khái niệm cung ứng dịch vụ, hợp đồng cung

ứng dịch vụ được hiểu là thỏa thuận giữa các bên, theo đó một bên (gọi là bên cung
ứng dịch vụ) có nghĩa vụ thực hiện dịch vụ cho bên khác và nhận thanh toán. Bên
sử dụng dịch vụ (gọi là khách hàng) có nghĩa vụ thanh toán cho bên cung ứng dịch
vụ và sử dụng dịch vụ theo thỏa thuận.
Đứng từ góc độ thương mại, cung ứng dịch vụ là hoạt động thương mại nên
hợp đồng viễn thông giá trị gia tăng cũng có thể xem là một loại hợp đồng thương
mại dịch vụ, là hợp đồng mua bán trao đổi dịch vụ nhằm mục đích sinh lợi trong đó
ít nhất một bên ký kết là các thương nhân.

13


Từ những nhận định và phân tích trên, hợp đồng dịch vụ giá trị gia tăng trong
lĩnh vực viễn thông (Hợp đồng viễn thông giá trị gia tăng) có thể được hiểu là sự
thỏa thuận giữa các bên, căn cứ vào qui định của pháp luật, nhằm xác lập, thay đổi
hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ đối với nhau trong việc mua bán, cung cấp, trao
đổi dịch vụ giá trị gia tăng trong lĩnh vực viễn thông nhằm mục đích sinh lợi.
1.1.2.2. Đặc điểm hợp đồng dịch vụ giá trị gia tăng trong lĩnh vực viễn thông
Chủ thể của hợp đồng: bao gồm chủ thể cung cấp dịch vụ và chủ thể sử dụng
dịch vụ.
i) Chủ thể cung cấp dịch vụ:
Khác với các dịch vụ thông thường, kinh doanh dịch vụ viễn thông (bao gồm
cả kinh doanh dịch vụ cơ bản và DVGTGT) là một ngành, nghề đầu tư kinh doanh
có điều kiện, đòi hỏi chủ thể đầu tư kinh doanh đáp ứng những điều kiện kinh doanh
cần thiết.
Chủ thể cung cấp các dịch vụ viễn thông nói chung và dịch vụ viễn thông giá
trị gia tăng là các doanh nghiệp viễn thông. Doanh nghiệp viễn thông là doanh
nghiệp được thành lập theo quy định của pháp luật và được cấp giấy phép kinh
doanh dịch vụ viễn thông.
Doanh nghiệp được cấp Giấy phép cung cấp dịch vụ viễn thông phải có đủ các

điều kiện về chứng chỉ chứng nhận đăng ký kinh doanh hoặc chứng chỉ chứng nhận
đầu tư kinh doanh dịch vụ viễn thông; có đủ khả năng về tài tính, nhân lực phù hợp
với quy mô của các dự án; có phương án kỹ thuật, phương án kinh doanh khả thi
phù hợp với chiến lược, quy hoạch phát triển viễn thông quốc gia, các quy định về
tài nguyên viễn thông, kết nối, giá cước, tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật, chất lượng
mạng và dịch vụ viễn thông; chuẩn bị đầy đủ các biện pháp bảo đảm an toàn cơ sở
hạ tầng viễn thông và an ninh thông tin.
Doanh nghiệp viễn thông có thể được chia thành 2 loại, bao gồm doanh nghiệp
cung cấp dịch vụ có hạ tầng mạng và doanh nghiệp cung cấp dịch vụ không có hạ
tầng mạng.
- Doanh nghiệp cung cấp dịch vụ có hạ tầng mạng:

14


Doanh nghiệp cung cấp dịch vụ có hạ tầng mạng là doanh nghiệp nhà nước
hoặc doanh nghiệp mà vốn góp của Nhà nước chiếm cổ phần chi phối hoặc cổ phần
đặc biệt, được thành lập theo quy định của pháp luật để thiết lập hạ tầng mạng và
cung cấp dịch vụ viễn thông. sản phẩm của doanh nghiệp này là dịch vụ cho thuê
những yếu tố thuộc mạng viễn thông như đường truyền, cổng kết nối… khách hàng
là các công ty trong ngành hoặc ngoài ngành có nhu cầu.
Theo quy định hiện hành của pháp luật Việt Nam, doanh nghiệp cung cấp dịch
vụ mạng phải là doanh nghiệp nhà nước hoặc doanh nghiệp mà vốn góp của Nhà
nước chiếm trên 50% mới được xem xét cấp giấy phép lập hạ tầng mạng và cung
cấp dịch vụ mạng.
- Doanh nghiệp cung cấp dịch vụ không có hạ tầng: sản phẩm của doanh
nghiệp này là các dịch vụ viễn thông. Các quy định của pháp luật đối với những
doanh nghiệp này thường được nới lỏng hơn doanh nghiệp cung cấp dịch vụ có hạ
tầng mạng, tuy nhiên do bản chất là chỉ kinh doanh và phân phối các dịch vụ viễn
thông nên tính cạnh tranh giữa các doanh nghiệp này diễn ra gay gắt hơn rất nhiều.

ii) Chủ thể sử dụng dịch vụ:
Không chỉ đối với chủ thể cung cấp dịch vụ, khách hàng (chủ thể sử dụng dịch
vụ) trong một vài trường hợp cũng cần áp dụng và tuân theo một số điều kiện cụ
thể: Một số dịch vụ viễn thông giá trị gia tăng chỉ được cung cấp đến một số đối
tượng khách hàng đáp ứng các điều kiện cụ thể theo quy định của pháp luật.
Đối tượng của hợp đồng:
Với các hợp đồng dịch vụ thông thường, đối tượng của hợp đồng là dịch vụ, là
hàng hóa vô hình. Dịch vụ - sản phẩm vô hình không tồn tại dưới dạng vật chất vì
vậy, khi ký kết hợp đồng dịch vụ, các bên không cần quan tâm đến nơi chứa dịch
vụ, không quan tâm tới việc cất giữ, tồn kho hay dự trữ dịch vụ. Điều quan trọng
nhất là các bên mua bán dịch vụ phải mô tả rất kỹ về dịch vụ, đặt ra những yêu cầu
cụ thể mà theo đó, khách hàng – người mua dịch vụ sẽ hài lòng về dịch vụ mà
mình muốn có, còn người bán – là người cung cấp dịch vụ thì không chỉ phải cố
gắng đáp ứng và làm cho khách hàng hài lòng về dịch vụ do mình cung cấp mà còn

15


phải bảo đảm có các điều kiện cần thiết liên quan đến việc cung cấp dịch vụ, ví dụ
như ... Nói cách khác, khi hàng hóa vô hình được đem ra mua và bán thì yếu tố sự
hài lòng của khách hàng là tiêu chí quan trọng để xem xét về chất lượng của dịch
vụ. Điều này đòi hỏi các bên phải có sự am hiểu về tính chất của dịch vụ đó.
Riêng đối với hợp đồng DVGTGT trong lĩnh vực viễn thông, vì tính chất đặc
biệt của dịch vụ viễn thông là truyền dẫn thông tin, DVGTGT trong lĩnh vực viễn
thông còn đòi hỏi một số yêu cầu nhất định mang tính chất kỹ thuật: tính chính xác
trong truyền dẫn cả về nội dung và thời gian; bảo mật về thông tin; mức độ bảo đảm
trong quản lý và lưu trữ dữ liệu khách hàng.
Một đặc điểm rất quan trọng của dịch vụ giá trị gia tăng trong lĩnh vực viễn
thông là việc cung cấp có thể được thực hiện thông qua môi trường thương mại điện
tử. Khách hàng quan tâm dịch vụ có thể tìm hiểu, đăng ký sử dụng hoặc thậm chí

trải nghiệm thử dịch vụ thông qua các kênh quảng bá dịch vụ phi truyền thống như
website, ứng dụng phần mềm hoặc các app trên thiết bị di động… Điều này làm cho
việc tiếp cận dịch vụ của khách hàng trở nên dễ dàng hơn, tuy nhiên cũng đòi hỏi
nhà cung cấp dịch vụ có các nền tảng và ứng dụng công nghệ thông tin phù hợp…
Các yếu tố có tính chất công nghệ thông tin vào việc ký kết và thực hiện các hợp
đồng thương mại điện tử cũng có tác động rất nhiều đến pháp luật về hợp đồng cung
cấp dịch vụ viễn thông.
Mục đích của hợp đồng:
Tùy thuộc vào mục đích sử dụng dịch vụ của khách hàng mà việc ký kết các
hợp đồng dịch vụ viễn thông giá trị gia tăng có các mục tiêu khác nhau, tuy nhiên
tựu chung lại là 2 mục đích chính:
- Mục đích kinh doanh: khách hàng sử dụng dịch vụ cho hoạt động sản xuất và
kinh doanh, ví dụ như dịch vụ thư điện tử; chạy website nhằm bán hàng hoặc quảng
bá thương hiệu; xây dựng tổng đài chăm sóc khách hàng 1800, 1900; gửi tin nhắn
quảng cáo hoặc chăm sóc khách hàng; tìm kiếm tập khách hàng từ ứng dụng của
đơn vị cung ứng dịch vụ;…hướng tới các lợi ích dịch vụ mang lại nhằm mục đích
sinh lợi, và vì thế chủ thể thực hiện hợp đồng với mục đích này là các thương nhân.

16


- Mục đích tiêu dùng: khách hàng sử dụng dịch vụ viễn thông giá trị gia tăng
hướng tới các lợi ích tiêu dùng hoặc nâng cao trải nghiệm dịch vụ, đa phần là các
như các dịch vụ giá trị tăng trên nền thoại như nhạc chờ, trả lời tự động, tin nhắn
thoại…
Là hợp đồng theo mẫu do doanh nghiệp viễn thông đăng ký
Hợp đồng là công cụ chủ yếu để xác lập quan hệ giữa các cá nhân, tổ chức
trong đời sống thường ngày và là một chế định điển hình trong pháp luật dân sự
nói riêng và pháp luật nói chung. Hợp đồng được giao kết hàng ngày, với nhiều
hình thức, giữa nhiều chủ thể khác nhau, trong nhiều lĩnh vực khác nhau và phong

phú, đa dạng nhất vẫn là trong lĩnh vực dân sự - thương mại tiêu dùng. Thông
thường, hợp đồng sẽ được hình thành trên cơ sở kết quả của các cuộc thương lượng,
thống nhất giữa các bên tham gia giao kết. Tuy nhiên, trong guồng quay của sự phát
triển, các chủ thể đều muốn rút ngắn thời gian soạn thảo hợp đồng để thúc đẩy
quá trình giao dịch. Chính vì vậy, các hợp đồng theo mẫu ra đời và ngày càng được sử
dụng nhiều, phổ biến. Những hợp đồng này được gọi là hợp đồng theo mẫu hay trong
pháp luật một số nước còn có tên là hợp đồng gia nhập hoặc hợp đồng hàng loạt.
Trên thế giới, Hợp đồng theo mẫu đã được sử dụng rất nhiều và phổ biến. Ở
Việt Nam, loại hợp đồng này cũng đã được áp dụng ngày một nhiều trong thực tiễn
hoạt động giao dịch hàng hóa, dịch vụ giữa doanh nghiệp và người tiêu dùng. Viễn
thông là một trong những ngành nghề áp dụng phổ biến hợp đồng theo mẫu bởi tính
phổ cập của loại hình dịch vụ và tập khách hàng có nhu cầu sử dụng dịch vụ là rất
lớn, để giảm bớt thời gian cho mỗi giao dịch, các doanh nghiệp viễn thông cung cấp
dịch vụ cho một số lượng lớn khách hàng thường sử dụng các loại hợp đồng được
soạn sẵn thành từng mẫu nhất định và áp dụng hàng loạt.
1.2. Phân loại hợp đồng dịch vụ giá trị gia tăng trong lĩnh vực viễn thông
Hợp đồng là một trong những chế định quan trọng của pháp luật dân sự theo
nghĩa rộng và là phương tiện pháp lý cơ bản để thỏa mãn quyền, lợi ích hợp pháp
của các chủ thể trong xã hội. Hợp đồng tồn tại ở khắp nơi, trong mọi lĩnh vực của
cuộc sống, xã hội và nền kinh tế.

17


Trên thế giới, các nhà làm luật hầu như không có sự phân biệt các loại hợp
đồng dân sự hay thương mại. Hợp đồng được sử dụng theo nghĩa chung với những
nguyên tắc, đặc điểm chung. Tuy nhiên, trong từng lĩnh vực, các quốc gia sẽ có
những quy định mang tính đặc thù về nội dung và hình thức của hợp đồng cho phù
hợp với yêu cầu của nhà nước và xã hội.
Ở Việt Nam, trước đây, các nhà luật học thường phân biệt hợp đồng thành hai

loại chính tương ứng với từng lĩnh vực dân sự - kinh tế là hợp đồng dân sự và
hợp đồng thương mại. Các loại hợp đồng này có rất nhiều điểm chung và chủ yếu
được phân biệt bởi yếu tố chủ thế và mục đích giao kết. Theo đó, hợp đồng dân sự
được giao kết giữa các cá nhân với nhau hoặc giữa tổ chức với cá nhân vì mục đích
tiêu dùng, sử dụng hàng ngày. Ngược lại, hợp đồng thương mại được giao kết giữa
các tổ chức với nhau vì mục đích kinh doanh, sinh lợi. Hợp đồng dân sự và các
quy định pháp luật về hợp đồng dân sự vẫn được coi là nền tảng, khuôn mẫu để
xây dựng các loại hợp đồng thương mại – kinh tế khác.
Cũng với các điểm khác biệt về chủ thể và mục đích giao kết, hợp đồng
DVGTGT trong lĩnh vực viễn thông có thể được chia làm 2 loại: Hợp đồng thương
mại dịch vụ và hợp đồng hỗn hợp thương mại – dân sự.
1.2.1. Hợp đồng thương mại dịch vụ
Luật thương mại 2005 có quy định hoạt động thương mại là hoạt động nhằm
mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến
thương mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác.
Theo đó, cung ứng dịch vụ là hoạt động thương mại, trong đó một bên (sau
đây gọi là bên cung ứng dịch vụ) có nghĩa vụ thực hiện dịch vụ cho một bên khác
và nhận thanh toán; bên sử dụng dịch vụ (sau đây gọi là khách hàng) có nghĩa vụ
thanh toán cho bên cung ứng dịch vụ và sử dụng dịch vụ theo thỏa thuận.
Pháp luật Việt Nam nhấn mạnh khía cạnh sinh lợi để nói lên tính chất của hoạt
động thương mại, sinh lợi không chỉ hiểu đơn thuần là lợi nhuận thông qua các con
số có thể nhìn thấy ngay lập tức, mà sinh lợi còn bao gồm cả lợi ích kinh tế và tăng

18


trưởng, phổ biến thương hiệu của các chủ thể kinh doanh khi họ tham gia hoạt động
thương mại.
Khi ký kết các hợp đồng thương mại, các bên trong hợp đồng sẽ thỏa thuận
với nhau dựa trên căn cứ là các quy định của pháp luật, nhằm quy định quyền và

nghĩa vụ của các bên trong việc thực hiện hoạt động thương mại – các hoạt động có
tính chất sinh lời.
Với tính chất thương mại của hợp đồng thương mại, chủ thể ký kết và thực
hiện các hợp đồng này thường là các thương nhân. Từ đây, có thể hiểu hợp đồng
thương mại là sự thỏa thuận giữa các thương nhân để thực hiện các hoạt động
thương mại nhằm mục đích sinh lợi.
Như vậy, khi bên thuê dịch vụ sử dụng dịch vụ với mục đích sinh lợi, các loại
hình DVGTGT trong lĩnh lực viễn thông sẽ là các hoạt động thương mại. Và các
thương nhân (bên thuê dịch vụ) khi sử dụng dịch vụ của các doanh nghiệp viễn
thông (bên cung ứng dịch vụ) nhằm mục đích sinh lợi (tăng lợi ích kinh tế, tăng
trưởng kinh tế, phổ biến thương hiệu…) thì các hợp đồng DVGTGT được ký kết sẽ
được nhìn nhận là các hợp đồng thương mại. Cung ứng DVGTGT trong lĩnh vực
viễn thông là một hoạt động thương mại do đó nó sẽ chịu sự điều chỉnh của Luật
thương mại và pháp luật có liên quan.
1.2.2. Hợp đồng hỗn hợp thương mại – dân sự
Hợp đồng dịch vụ trong dân sự nói chung là sự thỏa thuận giữa các bên, theo
đó bên cung ứng dịch vụ thực hiện công việc cho bên thuê dịch vụ, còn bên thuê
dịch vụ phải trả tiền dịch vụ cho bên cung ứng dịch vụ.
Hợp đồng DVGTGT trong lĩnh vực viễn thông dưới góc nhìn hợp đồng dân
sự là biểu hiện mối quan hệ giữa bên cung ứng dịch vụ viễn thông với bên thuê dịch
vụ, theo đó bên cung ứng dịch vụ thực hiện một công việc nhất định đem lại lợi ích
cho bên thuê dịch vụ. Lợi ích của bên thuê dịch vụ viễn thông hướng tới dưới góc
nhìn hợp đồng dân sự là các lợi ích vật chất hoặc lợi ích tinh thần nhưng không
mang mục đích thương mại – mối quan hệ tiêu dùng. Bên thuê dịch vụ của các
doanh nghiệp viễn thông (bên cung ứng dịch vụ) là các cá nhân/tổ chức nhưng

19


không phải là thương nhân vì mục đích họ hướng tới là mục đích tiêu dùng. Nội

dung quan hệ hợp đồng dịch vụ viễn thông giá trị gia tăng cũng như các hợp đồng
dịch vụ trong dân sự thông thường, cũng là ghi nhận các quyền, nghĩa vụ của hai
bên chủ thể trong quá trình thực hiện hợp đồng.
Và cần nhấn mạnh lại rằng, trong đề tài này, tác giả sẽ không chú trọng đi sâu
và nghiên cứu hợp đồng viễn thông giá trị gia tăng dưới góc nhìn hợp đồng dân sự
với mục đích tiêu dùng mà chỉ hướng tới việc nghiên cứu hợp đồng viễn thông giá
trị gia tăng dưới góc nhìn là hợp đồng thương mại với mục đích kinh doanh sinh lợi
của các thương nhân.
1.3. Pháp luật điều chỉnh hợp đồng dịch vụ giá trị gia tăng trong lĩnh vực
viễn thông
Ngoài bản chất là một ngành kinh tế, viễn thông còn là một ngành kỹ thuật đòi
hỏi các yêu cầu đặc thù riêng, cả trước, trong và sau khi ký kết và thực hiện hợp
đồng. Vì vậy, các hợp đồng dịch vụ viễn thông (bao gồm cả dịch vụ cơ bản và
DVGTGT) chịu sự điều chỉnh của nhiều văn bản pháp luật từ chung nhất và cơ sở
nhất đến văn bản quy phạm pháp luật chuyên ngành.
1.3.1. Pháp luật dân sự
Pháp luật về hợp đồng hiện nay được quy định trong nhiều văn bản pháp luật
khác nhau như BLDS, Luật Thương mại, Luật Kinh doanh bảo hiểm…, tuy nhiên,
BLDS được coi là luật gốc quy định các vấn đề chung về hợp đồng, là nền tảng cho
pháp luật về hợp đồng, điều chỉnh các quan hệ hợp đồng được xác lập trên nguyên
tắc bình đẳng, tự nguyện, tự thoả thuận và tự chịu trách nhiệm.
Các quy định về hợp đồng trong BLDS được áp dụng chung cho tất cả các loại
hợp đồng, không phân biệt hợp đồng dân sự hay hợp đồng kinh tế, hợp đồng có mục
đích kinh doanh hay hợp đồng nhằm đáp ứng các nhu cầu sinh hoạt hàng ngày. Trên
cơ sở các quy định chung về hợp đồng của BLDS, tuỳ vào tính chất đặc thù của các
mối quan hệ hoặc các giao dịch, các luật chuyên ngành có thể có những quy định
riêng về hợp đồng để điều chỉnh các mối quan hệ trong lĩnh vực đó, ví dụ như các
quy định về hợp đồng mua bán hàng hoá trong Luật Thương mại, hợp đồng bảo

20



×