Tải bản đầy đủ (.pdf) (89 trang)

Tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.1 MB, 89 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

LÊ THANH HẢI

TỘI CHẾ TẠO, TÀNG TRỮ, VẬN CHUYỂN, SỬ DỤNG,
MUA BÁN TRÁI PHÉP HOẶC CHIẾM ĐOẠT
VẬT LIỆU NỔ THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
TỪ THỰC TIỄN TỈNH QUẢNG NAM

Chuyên ngành: Luật hình sự và Tố tụng hình sự
Mã số
: 60.38.01.04

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. ĐỖ ĐỨC HỒNG HÀ

HÀ NỘI, năm 2016


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được
ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Tác giả

Lê Thanh Hải



MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ TỘI
CHẾ TẠO, TÀNG TRỮ, VẬN CHUYỂN, SỬ DỤNG, MUA BÁN TRÁI
PHÉP HOẶC CHIẾM ĐOẠT VẬT LIỆU NỔ ............................................ 6
1.1. Khái niệm và các dấu hiệu pháp lý của tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển,
sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ .................................. 6
1.2. Quy định của pháp luật hình sự về tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử
dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ..................................... 14
1.3. Phân biệt tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép
hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ với các tội về súng săn, vũ khí thô sơ, vũ khí thể
thao, công cụ hỗ trợ và các vũ khí khác có tính năng, tác dụng tương tự (Điều
306 BLHS năm 2015) và các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt. 23
1.4. Tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm
đoạt vật liệu nổ theo pháp luật hình sự một số nước ...................................... 26
Kết luận Chương 1 .......................................................................................... 30
CHƯƠNG 2. THỰC TIỄN ÁP DỤNG CÁC QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT
HÌNH SỰ VỀ TỘI CHẾ TẠO, TÀNG TRỮ, VẬN CHUYỂN, SỬ DỤNG,
MUA BÁN TRÁI PHÉP HOẶC CHIẾM ĐOẠT VẬT LIỆU NỔ TRÊN
ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG NAM TỪ NĂM 2011-2015 .............................. 31
2.1. Thực tiễn định tội danh, bất cập, hạn chế và nguyên nhân ...................... 31
2.2. Thực tiễn áp dụng khoản 2, khoản 3, khoản 4, khoản 5 điều 232 BLHS
năm 1999, những bất cập, hạn chế và nguyên nhân ....................................... 43
2.3. Thực tiễn quyết định hình phạt, những bất cập, hạn chế và nguyên nhân
......................................................................................................................... 46
Kết luận Chương 2 .......................................................................................... 53


CHƯƠNG 3. CÁC GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ÁP DỤNG ĐÚNG CÁC

QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VỀ TỘI CHẾ TẠO, TÀNG
TRỮ, VẬN CHUYỂN, SỬ DỤNG, MUA BÁN TRÁI PHÉP HOẶC
CHIẾM ĐOẠT VẬT LIỆU NỔ ................................................................... 54
3.1. Hoàn thiện pháp luật hình sự về tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử
dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ..................................... 54
3.2. Tăng cường tuyên truyền nhận thức, hướng dẫn và áp dụng về Điều 305
BLHS năm 2015 .............................................................................................. 58
3.3. Chú trọng tổng kết thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự về tội chế tạo,
tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ
......................................................................................................................... 62
3.4. Nâng cao năng lực của cán bộ áp dụng pháp luật hình sự về tội chế tạo,
tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ
......................................................................................................................... 63
3.5. Một số giải pháp khác khắc phục những bất cập, hạn chế trong áp dụng
các quy định của Bộ luật hình sự về tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng,
mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ ............................................... 70
Kết luận Chương 3 .......................................................................................... 74
KẾT LUẬN .................................................................................................... 75
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BLHS

: Bộ luật hình sự

BLTTHS

: Bộ luật Tố tụng hình sự


BLDS

: Bộ luật dân sự

CTTP

: Cấu thành tội phạm

THTP

: Tình hình tội phạm

TNHS

: Trách nhiệm hình sự

TAND

: Tòa án nhân dân

TANDTC : Tòa án nhân dân tối cao
VKSND

: Viện kiểm sát nhân dân

VKSNDTC : Viện kiểm sát nhân dân tối cao
XHCN

: Xã hội chủ nghĩa



DANH MỤC CÁC BẢNG

Số hiệu

Tên bảng

Trang

Số lượng các vụ án và bị cáo đã giải quyết, xét xử từ năm

34

bảng
2.1.

2011 đến năm 2015
2.2.

Tỷ lệ (%) các vụ án và bị cáo đã xét xử từ năm 2011 đến

35

2015
2.3.

Số vụ án và bị cáo của tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử

36


dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ trong
nhóm tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng
2.4.

Số liệu xét xử sơ thẩm tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử

38

dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ tại
tỉnh Quảng Nam từ năm 2011 đến năm 2015
2.5.

Cơ cấu và tỷ lệ về giới tính (nữ) phạm tội chế tạo, tàng trữ,

39

vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt
vật liệu nổ trong tổng số tội phạm trên địa bàn tỉnh Quảng
Nam từ năm 2011 đến năm 2015
2.6.

Cơ cấu về loại và mức hình phạt được áp dụng

47


DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ

Số hiệu


Tên biểu

Trang

Số lượng các vụ án và bị cáo đã giải quyết, xét xử từ năm

34

biểu
2.1.

2011 đến năm 2015
2.2.

Số liệu xét xử sơ thẩm tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử

38

dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ tại
tỉnh Quảng Nam từ năm 2011 đến năm 2015
2.3.

Cơ cấu số người phạm tội

47


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đất nước chúng ta tuy chiến tranh đã kết thúc hơn 40 năm nhưng đến

nay vẫn còn để lại hàng nghìn tấn bom, mìn, vật liệu nổ. Chỉ tính riêng số
bom, mìn do quân đội Mỹ sử dụng tại Việt Nam là trên 15 triệu tấn, trong đó
có khoảng 10% không phát nổ, hiện đang nằm rải rác trên diện tích khoảng
6,6 triệu ha của trên 10.500 xã trong cả nước (chưa kể trên biển). Có rất nhiều
vụ nổ bom, mìn, vật liệu nổ đã xảy ra mà nguyên nhân chủ yếu là do người
dân tự phá để lấy thuốc nổ và phế liệu để bán hoặc sử dụng.
Tỉnh Quảng Nam nằm ngay giữa miền trung Việt Nam, là địa phương
có hai di sản văn hóa được thế giới công nhận, với diện tích 10.406 km 2 và
gần 1,5 triệu người gồm các dân tộc: Kinh, Hoa, Cơtu, Xê Đăng, Giẻ Triêng,
Cor,… gồm 18 đơn vị hành chính (02 thành phố, 01 thị xã, 15 huyện). Trong
những năm tháng kháng chiến, Quảng Nam là một trong những địa phương
chịu nhiều sự tàn phá nặng nề của chiến tranh. Sau ngày đất nước giải phóng,
số lượng bom, mìn, vật liệu nổ còn sót lại rất nhiều. Bên cạnh đó, được thiên
nhiên ưu đãi, Quảng Nam có các mỏ vàng Bồng Miêu, Phước Sơn,… có các
mỏ đá ở Quế Sơn, Nông Sơn,… với trữ lượng lớn được xem như báu vật nằm
im trong lòng đất. Nguồn khoáng sản quý này đã đem lại cho người dân
những giá trị vật chất vô cùng to lớn. Tuy nhiên, cùng với dòng chảy của nền
kinh tế thị trường, bên cạnh những mặt tích cực, nhiều vấn đề tiêu cực theo đó
nảy sinh. Tình trạng khai thác trái phép diễn ra phức tạp, kéo dài. Mỗi năm có
hàng trăm người dân từ khắp nơi đổ về các khu vực mỏ vàng, mỏ đá trên địa
bàn tỉnh Quảng Nam dựng lán trại, sử dụng vật liệu nổ để khai phá đất và đá
làm mất an ninh trật tự ở địa phương, gây ô nhiễm môi trường. Thực tế là vậy,
xong cơ chế quản lý và chính sách pháp luật không phải lúc nào cũng ngay
lập tức, kịp thời, phù hợp với thực trạng trên.

1


Ngoài ra, thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử tội chế tạo, tàng trữ, vận
chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ còn nhiều

vướng mắc, chưa có sự thống nhất giữa các cơ quan có thẩm quyền về vấn đề
định lượng, định khung hình phạt tăng nặng, quyết định hình phạt. Bất cập
này đòi hỏi khoa học pháp lý phải giải quyết một cách đầy đủ.
Việc nghiên cứu tội phạm cụ thể, ở đây là tội chế tạo, tàng trữ, vận
chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ được quy
định trong Bộ luật hình sự dưới góc độ thực tiễn tại tỉnh Quảng Nam không
những có ý nghĩa sâu sắc về mặt lý luận mà bao hàm cả thực tiễn áp dụng
pháp luật. Thông qua đề tài nhằm đưa ra một số giải pháp bảo đảm áp dụng
đúng các quy định của pháp luật hình sự về tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển,
sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ. Đồng thời, giúp
người tiến hành tố tụng có cái nhìn toàn diện, khách quan, định tội danh và
quyết định hình phạt chính xác hơn đối với loại tội này. Chính vì vậy, tác giả
đã lựa chọn đề tài: “Tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái
phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn
tỉnh Quảng Nam” để thực hiện dưới dạng luận văn thạc sỹ luật học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong những năm qua đã có một số công trình nghiên cứu khoa học về
các tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng nói chung và tội chế
tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu
nổ nói riêng nhưng chưa có công trình nào nghiên cứu về tội chế tạo, tàng trữ,
vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ một cách
chuyên sâu, toàn diện, đầy đủ, có hệ thống từ lý luận đến thực tiễn cũng như
vấn đề hoạt động định tội danh, quyết định hình phạt của tội phạm này trong
phạm vi địa phương cụ thể tỉnh Quảng Nam.

2


Luận văn này tác giả nghiên cứu, thể hiện một cách cụ thể, chi tiết nội
dung những vấn đề lý luận của tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua

bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ theo pháp luật hình sự Việt Nam
dựa trên những số liệu thực tiễn của tỉnh Quảng Nam trong năm năm qua (từ
năm 2011 đến năm 2015). Đồng thời, tác giả cũng làm rõ thực tiễn định tội
danh và quyết định hình phạt đối với loại tội phạm này tại địa phương góp
phần giúp cơ quan thực thi pháp luật hình sự, cơ quan quản lý nhà nước có cái
nhìn đa chiều về loại tội phạm này cũng như những vấn đề lý luận có liên
quan. Đề tài mà tác giả lựa chọn nghiên cứu khá mới, không trùng lặp với bất
kỳ công trình nghiên cứu nào.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Làm rõ các dấu hiệu pháp lý hình sự của tội chế tạo, tàng trữ, vận
chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ. Nêu và phân
tích những vấn đề chung về định tội danh và quyết định hình phạt. Kết hợp
giữa nghiên cứu lý luận và đánh giá thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự về tội
chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật
liệu nổ trên địa bàn tỉnh Quảng Nam nhằm đưa ra giải pháp, góp phần bảo
đảm áp dụng đúng pháp luật hình sự và nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng
ngừa và chống tội phạm ở địa phương nói riêng, trong cả nước nói chung.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện được mục đích nghiên cứu nêu trên, những nhiệm vụ cụ
thể cần phải thực hiện là:
- Nghiên cứu khái niệm và phân tích các dấu hiệu pháp lý của tội chế
tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu
nổ theo Điều 305 BLHS Việt Nam năm 2015.
- Khái quát quá trình lập pháp hình sự về tội chế tạo, tàng trữ, vận

3


chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ giai đoạn từ

năm 1945 đến trước năm 1985, theo BLHS năm 1985, BLHS năm 1999 (sửa
đổi bổ sung năm 2009) và BLHS năm 2015.
- Trình bày những vấn đề lý luận về định tội danh và đánh giá thực tiễn
định tội danh đối với tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái
phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam trong năm năm
(từ năm 2011 đến năm 2015).
- Nêu một số giải pháp bảo đảm áp dụng đúng các quy định của pháp
luật hình sự về tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép
hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ tại tỉnh Quảng Nam.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu: Tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng,
mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ theo pháp luật hình sự Việt
Nam từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam.
4.2. Phạm vi nghiên cứu: Đề tài nghiên cứu tội chế tạo, tàng trữ, vận
chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ dưới góc độ
pháp luật hình sự và hoạt động định tội danh, định khung hình phạt cũng như
quyết định hình phạt đối với loại tội phạm này trên địa bàn tỉnh Quảng Nam.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận: Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở phương
pháp luận của Chủ nghĩa duy vật biện chứng và Chủ nghĩa duy vật lịch sử của
Chủ nghĩa Mác- Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng
và Nhà nước về đấu tranh phòng chống tội phạm.
5.2. Phương pháp nghiên cứu: Trong quá trình nghiên cứu, tác giả đã
sử dụng một cách linh hoạt, đan xen các phương pháp nghiên cứu của khoa
học luật hình sự như: phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp, phương
pháp thống kê, phương pháp vụ án điển hình, phương pháp lịch sử và nghiên
cứu thực tiễn…

4



6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Luận văn là công trình nghiên cứu vừa có ý nghĩa lý luận, vừa có ý
nghĩa về mặt thực tiễn.
6.1. Ý nghĩa lý luận: Kết quả của hoạt động nghiên cứu lý luận góp
phần làm nguồn tư liệu tham khảo trong công tác đào tạo và nghiên cứu khoa
học pháp lý hình sự.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn: Kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ góp phần giúp
người tiến hành tố tụng ở tỉnh Quảng Nam nói riêng và địa phương khác nói
chung trong hoạt động định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội chế
tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu
nổ được chính xác hơn nhằm thực hiện hiệu quả công tác đấu tranh phòng
chống tội phạm.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài Phần mở đầu; Phần kết luận; Danh mục tài liệu tham khảo; Danh
mục các chữ viết tắt và Danh mục các bảng biểu, nội dung luận văn gồm 3
Chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp luật về tội chế tạo, tàng trữ,
vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ.
Chương 2: Thực tiễn áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự về tội
chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật
liệu nổ trên địa bàn tỉnh Quảng Nam từ năm 2011 đến năm 2015.
Chương 3: Các giải pháp bảo đảm áp dụng đúng các quy định của pháp
luật hình sự về tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép
hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ.

5


CHƯƠNG 1

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ TỘI CHẾ TẠO,
TÀNG TRỮ, VẬN CHUYỂN, SỬ DỤNG, MUA BÁN TRÁI PHÉP
HOẶC CHIẾM ĐOẠT VẬT LIỆU NỔ
1.1. Khái niệm và các dấu hiệu pháp lý của tội chế tạo, tàng trữ,
vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ
1.1.1. Khái niệm
Bộ luật hình sự năm 1999 của nước ta được Quốc hội thông qua ngày
21/12/1999, có hiệu lực thi hành từ ngày 1/7/2000, quy định các tội xâm
phạm an toàn công cộng và trật tự công cộng tại chương XIX (từ Điều 202
đến Điều 256) gồm 59 điều luật. Đồng thời, BLHS năm 2015 được Quốc hội
thông qua ngày 27/11/2015, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2016, quy định
các tội xâm phạm an toàn công cộng tại chương XXI (từ Điều 295 đến Điều
317) gồm 23 điều luật. Tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán
trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ nằm trong nhóm tội xâm phạm an toàn
công cộng. Vì vậy, khái niệm tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua
bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ phải thỏa mãn khái niệm chung của
tội phạm đồng thời phải thỏa mãn các dấu hiệu đặc thù riêng, cụ thể: tội chế
tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu
nổ là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong BLHS, do người có
năng lực TNHS thực hiện một cách cố ý, xâm phạm đến an toàn công cộng và
trật tự công cộng.
Theo Từ điển bách khoa mở, vật liệu nổ là chất hóa học hay các hợp
chất, các vật liệu có khả năng tạo thành một thể tích khí lớn (gấp 15.000 lần
thể tích ban đầu), phát ra nhiệt độ cao (3.000 - 4.000 độ C), áp suất rất cao,
trong thời gian rất ngắn (1/10.000 giây). Các đặc trưng của một vật liệu nổ:

6


Nó là một chất hóa học hay hợp chất hóa học không an định (không bền). Sự

tăng lên đột ngột của chất nổ thường kết hợp bởi việc tạo ra nhiệt độ cao và
thay đổi rất lớn về áp suất. Chất nổ có khả năng tạo ra một vụ nổ khi có kích
thích ban đầu. Các kích thích ban đầu có thể là các xung cơ học, đâm chọc, va
đập, cọ xát, nhiệt.
Qua khái niệm trên cho thấy định nghĩa về vật liệu nổ theo phương diện
hóa học, qua đó thể hiện các chất tạo thành vật liệu nổ, chu trình hoạt động
của các chất tạo ra chất nổ.
Tại Điều 3 Pháp lệnh số 16/2011/UBTVQH12 ngày 30 tháng 6 năm
2011 giải thích về vật liệu nổ như sau:
6. Vật liệu nổ gồm thuốc nổ và các phụ kiện nổ.
7. Vật liệu nổ quân dụng là vật liệu nổ sử dụng cho mục đích quốc
phòng, an ninh.
8. Vật liệu nổ công nghiệp là vật liệu nổ sử dụng cho mục đích sản
xuất công nghiệp, kinh tế, dân sinh.
Tại Điều 3 Nghị định số 39/2009/NĐ-CP ngày 23/4/2009 giải thích về
thuốc nổ và các phụ kiện nổ như sau:
1. “Thuốc nổ” là hóa chất hoặc hỗn hợp hóa chất được sản xuất, sử
dụng nhằm tạo ra phản ứng nổ dưới tác động của các kích thích cơ, nhiệt, hóa
hoặc điện.
2. “Phụ kiện nổ” là các loại kíp nổ, dây nổ, dây cháy chậm, mồi nổ, các
vật phẩm chứa thuốc nổ có tác dụng tạo kích thích ban đầu làm nổ khối thuốc
nổ hoặc các loại thiết bị chuyên dùng có chứa thuốc nổ.
Tại khoản 1 Điều 232 BLHS năm 1999 và khoản 1 Điều 305 BLHS
năm 2015 quy định như sau: “1. Người nào chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử
dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ, thì bị phạt tù từ một năm
đến năm năm”.

7



Như vậy, theo quy định của BLHS có thể hiểu chế tạo, tàng trữ, vận
chuyển, sử dụng, mua bán hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ là hành vi làm ra, cất
giữ, chuyển dịch, bán hay mua để bán lại, cướp nhằm chiếm đoạt, cưỡng đoạt,
cướp giật, công nhiên chiếm đoạt, trộm cắp, tham ô, lừa đảo, lạm dụng tín
nhiệm chiếm đoạt vật liệu nổ.
1.1.2. Các dấu hiệu pháp lý của tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử
dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ
Tội phạm là thể thống nhất của bốn yếu tố: Khách thể của tội phạm;
Mặt khác quan của tội phạm; Mặt chủ quan của tội phạm; Chủ thể của tội
phạm. Tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc
chiếm đoạt vật liệu nổ cũng bao gồm bốn yếu tố của tội phạm như trên.
1.1.2.1. Khách thể của tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua
bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ
Khách thể của tội phạm là những quan hệ xã hội được luật hình sự bảo
vệ và bị tội phạm xâm hại. Bất kỳ tội phạm nào cũng đều xâm phạm đến một
hoặc một số quan hệ xã hội nhất định được luật hình sự bảo về bằng cách gây
thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho các quan hệ xã hội đó. Tội chế tạo, tàng
trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ là tội
xâm phạm đến chế độ quản lý của Nhà nước về vật liệu nổ, xâm phạm an toàn
công cộng, trật tự xã hội.
Đối tượng tác động của tội phạm này là vật liệu nổ, bao gồm thuốc nổ
và các phụ kiện nổ như các loại kíp nổ, dây nổ, dây cháy chậm, mồi nổ, các
vật phẩm chứa thuốc nổ có tác dụng tạo kích thích ban đầu làm nổ khối thuốc
nổ hoặc các loại thiết bị chuyên dùng có chứa thuốc nổ. Tuy nhiên, chỉ vật
liệu nổ công nghiệp mới là đối tượng của tội phạm này.
Khi xác định đối tượng tác động phải là vật liệu nổ hay không, các cơ
quan tiến hành tố tụng cần tham khảo ý kiến của các cơ quan chuyên môn
hoặc trưng cầu giám định.

8



1.1.2.2. Mặt khách quan của tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng,
mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ
Mặt khách quan của tội phạm là biểu hiện bên ngoài của tội phạm, hành
vi khách quan là biểu hiện cơ bản nhất. Các biểu hiện khác như hậu quả của
tội phạm, công cụ, phương tiện…cũng chỉ thể hiện khi có hành vi khách quan.
Theo quan điểm truyền thống, mặt khách quan được quy định trong Luật hình
sự có những nội dung sau: Thứ nhất là hành vi khách quan nguy hiểm cho xã
hội; Thứ hai là hậu quả nguy hiểm cho xã hội; Thứ ba là mối quan hệ nhân
quả giữa hành vi khách quan và hậu quả nguy hiểm cho xã hội; Thứ tư là các
điều kiện bên ngoài của việc thực hiện hành vi phạm tội (công cụ, phương
pháp, thủ đoạn, thời gian, địa điểm phạm tội,…). Mặt khách quan của tội
phạm này thể hiện ở các hành vi cụ thể:
- Chế tạo trái phép vật liệu nổ: là làm ra các loại vật liệu nổ dưới bất kỳ
hình thức nào mà không được các cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép.
Người thực hiện hành vi chế tạo trái phép vật liệu nổ tuy biết đó là hành vi vi
phạm điều cấm của pháp luật hình sự nhưng vẫn cố tình thực hiện. Hành vi
chế tạo vật liệu nổ bao gồm làm mới hoàn toàn hoặc cải tạo, dùng các vật liệu
sẵn có để làm ra vật liệu nổ có tạo ra tác dụng theo mục đích của người phạm
tội. Thực tiễn xét xử cho thấy loại hành vi làm mới hoàn toàn ít xảy ra vì việc
chế tạo ra vật liệu nổ không phải là việc làm đơn giản, phải sử dụng các máy
móc, thiết bị hiện đại và phải có kinh nghiệm trong việc sản xuất ra vật liệu
nổ, người phạm tội chủ yếu dùng các vật liệu sẵn có như cưa bom, mìn để lấy
thuốc nổ, người phạm tội chủ yếu thực hiện bằng phương pháp thủ công. Tuy
nhiên, nhà làm luật quy định hành vi chế tạo cũng hoàn toàn phù hợp vì cũng
có thể có trường hợp lợi dụng việc được phép chế tạo vật liệu nổ mà chế tạo
thêm đem trao đổi, buôn bán hoặc cung cấp cho những người mà mình quan
tâm nhằm mục đích trục lợi hoặc vì động cơ khác.


9


- Tàng trữ trái phép vật liệu nổ: là cất giữ bất hợp pháp vật liệu nổ ở bất
cứ nơi nào như: trong nhà ở; phòng làm việc; trụ sở cơ quan, tổ chức; phương
tiện giao thông; trong túi quần áo, túi xách..., việc cất giữ với hành vi lén lút
nhằm thoát khỏi cơ quan điều tra, người phạm tội chỉ cất giữ trái phép vật liệu
nổ mà không nhằm mục đích mua bán hay chế tạo trái phép vật liệu nổ hoặc
vận chuyển từ này đến nơi khác. Nguồn gốc vật liệu nổ mà người phạm tội
tàng trữ có thể là bất cứ từ nguồn gốc nào, có thể người phạm tội được tặng,
cho, đào được, nhặt được,...Thời gian cất giữ dài hay ngắn không có ý nghĩa
xác định người phạm tội có tàng trữ trái phép vật liệu nổ hay không, không là
căn cứ để xác định hình phạt nhẹ hay nặng đối với người phạm tội. Nếu tàng
trữ trái phép vật liệu nổ cho người khác mà biết rõ người này mua bán trái
phép vật liệu nổ đó thì hành vi cất giữ không phải là hành vi tàng trữ trái phép
vật liệu nổ mà là hành vi giúp sức người mua bán trái phép vật liệu nổ và bị
truy cứu trách nhiệm hình sự về tội mua bán trái phép vật liệu nổ với vai trò
đồng phạm.
- Vận chuyển trái phép vật liệu nổ: là hành vi chuyển dịch bất hợp pháp
vật liệu nổ từ nơi này đến nơi khác, từ vị trí này sang vị trí khác, từ người này
sang người khác, từ quốc gia này sang quốc gia khác,... bằng bất kỳ phương
thức nào (trừ hình thức chiếm đoạt), nhưng đều không nhằm mục đích mua
bán. Hành vi chuyển dịch vật liệu nổ trong trường hợp này không được cơ
quan nhà nước cho phép, người phạm tội có thể chuyển dịch vật liệu nổ công
khai hoặc lén lút nhằm thoát khỏi việc kiểm tra, giám sát của các cơ quan có
thẩm quyền, vật liệu nổ mà người phạm tội chuyển dịch bất hợp pháp có thể
là của chính người phạm tội hoặc có thể người phạm tội được thuê. Vận
chuyển trái phép vật liệu nổ có thể giống với vận chuyển hàng hóa từ nơi này
đến nơi khác có một cự ly nhất định như: dùng ôtô, xe đạp, xe máy, tàu thủy,
máy bay,... nhưng cũng có thể chỉ là hành vi chuyển dịch từ vị trí này sang vị


10


trí khác trong một không gian chật hẹp như từ túi của người này sang túi của
người khác, từ phòng này sang phòng khác hoặc có thể từ ngăn bàn sang tủ để
nhằm xóa dấu vết khi bị phát hiện, tránh sự kiểm tra, giám sát.
- Sử dụng trái phép vật liệu nổ: là dùng vật liệu nổ để phát huy công
dụng của nó, người phạm tội có những hành động nhằm tác động lên vật liệu
nổ để đạt được mục đích mà mình quan tâm như: dùng thuốc nổ để đánh cá
dưới sông, để khai thác đất, cát, dùng thuốc nổ để trả thù cá nhân… Việc sử
dụng trái phép vật liệu nổ chính là việc khai thác công dụng nhờ sự tác động
của chính người phạm tội. Sử dụng trái phép vật liệu nổ chính là hành vi cố ý
của người phạm tội, người phạm tội biết rõ hành vi sử dụng vật liệu nổ của
mình là không được phép của cơ quan nhà nước có thẩm quyền nhưng vì
nguyên nhân nào đó mà cố tình tác động vào vật liệu nổ làm cho vật liệu nổ
chuyển hoá thành một dạng khác với ban đầu.
- Mua bán trái phép vật liệu nổ: là bán hay mua để bán lại; vận chuyển
vật liệu nổ để bán cho người khác; tàng trữ để bán lại hoặc để chế tạo ra vật
liệu nổ để bán lại trái phép; hoặc dùng vật liệu nổ để đổi lấy hàng hóa hay
dùng hàng hóa để đổi lấy vật liệu nổ. Khi xác định hành vi mua bán trái phép
vật liệu nổ cần chú ý một số vấn đề sau: Vật liệu nổ mà người phạm tội có để
bán cho người khác không phụ thuộc vào nguồn gốc do đâu mà có; không phụ
thuộc vào vật liệu nổ còn tác dụng hay đã mất tác dụng. Trong trường hợp
không chứng minh được mục đích bán trái phép vật liệu nổ, thì tùy từng
trường hợp cụ thể mà định tội là “Tàng trữ trái phép vật liệu nổ” hay tội “Vận
chuyển trái phép vật liệu nổ” hoặc “Tàng trữ, vận chuyển trái phép vật liệu
nổ”. Trong trường hợp người phạm tội vừa có hành vi chế tạo và kèm theo các
hành vi khác như tàng trữ, vận chuyển hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ thì tùy
từng trường hợp cụ thể mà định tội là “Tàng trữ, mua bán trái phép vật liệu

nổ”; “Vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép vật liệu nổ”; “Chiếm đoạt, mua

11


bán trái phép vật liệu nổ” hay tội danh đầy đủ là “Tàng trữ, vận chuyển, mua
bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ”.
- Chiếm đoạt vật liệu nổ: là hành vi cướp, bắt cóc nhằm chiếm đoạt,
cưỡng đoạt, cướp giật, công nhiên chiếm đoạt, trộm cắp, lừa đảo chiếm đoạt,
lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt, tham ô vật liệu nổ. Hành vi chiếm đoạt vật
liệu nổ cũng tương tự như hành vi chiếm đoạt tài sản, tức là người phạm tội
phải có ý thức chiếm đoạt vật liệu nổ ngay trước, trong khi thực hiện thủ đoạn
phạm tội. Cũng coi là chiếm đoạt vật liệu nổ nếu người được phép sản xuất,
chế tạo, vận chuyển, mua bán vật liệu nổ theo quy định của pháp luật dùng để
huấn luyện, chiến đấu, để thực hiện nhiệm vụ trong thời gian công tác, hoặc
sản xuất khi được phép của cơ quan Nhà nước khi chuyển ngành, nghỉ việc
mà không giao nộp lại theo quy định của Nhà nước.
1.1.2.3. Chủ thể của tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua
bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ
Chủ thể của tội phạm này là người đã có lỗi trong việc thực hiện hành
vi nguy hiểm cho xã hội bị pháp luật hình sự cấm, có năng lực TNHS và đủ
độ tuổi chịu TNHS theo luật định.
Một cá nhân chỉ trở thành chủ thể của tội phạm nói chung hay chủ thể
của tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm
đoạt vật liệu nổ nói riêng khi phải có năng lực TNHS và đạt độ tuổi luật định.
Người có năng lực TNHS là người khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã
hội có khả năng nhận thức được tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi
của mình và có khả năng điều khiển được hành vi ấy. Luật hình sự Việt Nam
không quy định thế nào là người có năng lực TNHS mà chỉ quy định những
trường hợp được coi là không có năng lực TNHS gồm: “Người thực hiện

hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi đang mắc bệnh tâm thần hoặc bệnh
khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của

12


mình” (Điều 21 BLHS) và Điều 12 BLHS quy định: “Tuổi chịu trách nhiệm
hình sự”.
Đối với tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép
hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ, chủ thể của tội phạm là chủ thể thường. Căn cứ
vào Điều 8 BLHS, tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái
phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ bao gồm ba loại tội: tội phạm nghiêm trọng,
tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Điều 305
BLHS quy định người từ đủ 16 tuổi phải chịu TNHS về tội chế tạo, tàng trữ,
vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ trong
mọi trường hợp phạm tội.
1.1.2.4. Mặt chủ quan của tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng,
mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ
Tội phạm là một thể thống nhất giữa các yếu tố khách quan và các yếu
tố chủ quan [47]. Nếu mặt khách quan của tội phạm là biểu hiện bên ngoài
của tội phạm thì mặt chủ quan là hoạt động tâm lý bên trong của người phạm
tội đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội mà người đó thực hiện và hậu quả
do hành vi đó gây nên, bao gồm lỗi, động cơ và mục đích phạm tội. Lỗi là dấu
hiệu cơ bản nhất của mặt chủ quan của tội phạm và biểu hiện dưới hai hình
thức: Lỗi cố ý (cố ý trực tiếp và cố ý gián tiếp) và lỗi vô ý (vô ý do cẩu thả và
vô ý vì quá tự tin). Nguyên tắc lỗi là nguyên tắc cơ bản trong luật hình sự Việt
Nam, một người chỉ phải chịu TNHS về hành vi nguy hiểm cho xã hội khi họ
có lỗi trong việc thực hiện hành vi đó. Người thực hiện hành vi bị coi là có lỗi
nếu họ có sự tự do lựa chọn thực hiện hành vi đó trong khi họ có đủ điều kiện
lựa chọn xử sự khác phù hợp với đòi hỏi của xã hội: “Một hành vi gây thiệt

hại cho xã hội sẽ bị coi là có lỗi, nếu hành vi đó là kết quả của sự tự lựa chọn
và quyết định của chủ thể trong khi chủ thể có đủ điều kiện khách quan và
chủ quan để lựa chọn và quyết định một xử sự khác phù hợp với đòi hỏi của
xã hội”.

13


Mặt chủ quan của tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán
trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ được thực hiện do lỗi cố ý. Về mặt lý
trí, người phạm tội nhận thức được hành vi của mình là hành vi trái pháp
luật hình sự và nguy hiểm cho xã hội nhưng vẫn cố tình thực hiện. Nếu vì lý
do nào đó mà người phạm tội không nhận thức được hoặc không buộc phải
nhận thức được hành vi của mình là trái phép thì không thuộc trường hợp
phạm tội này.
Động cơ và mục đích phạm tội thực hiện không phải là dấu hiệu bắt
buộc của tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc
chiếm đoạt vật liệu nổ.
1.2. Quy định của pháp luật hình sự về tội chế tạo, tàng trữ, vận
chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ
1.2.1. Khái quát quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về tội chế
tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật
liệu nổ
Giai đoạn từ năm 1945 đến trước năm 1985: Sau khi Cách mạng tháng
8 thành công, chính quyền nhân dân còn non trẻ. Đất nước bị Pháp, Nhật vơ
vét xác xơ, bị chiến tranh và thiên tai tàn phá. Bên cạnh hoạt động đấu tranh
chống thực dân cùng bọn tay sai, phản động, Nhà nước còn hết sức chú trọng
việc giữ gìn an ninh trật tự, an toàn xã hội trong kháng chiến. Chính vì vậy,
pháp luật hình sự của chính quyền nhân dân tập trung phục vụ thực hiện các
nhiệm vụ đó, nhằm quy định việc trừng trị các tội xâm phạm xã hội chủ nghĩa

như: Sắc lệnh số 26-SL ngày 25/02/1946 về tội phá hoại công sản; Sắc lệnh
số 223- SL ngày 27/11/1946 về tội biển thủ tiền công. Tuy nhiên, trong suốt
giai đoạn này, pháp luật hình sự Việt Nam hầu như không có quy định nào
riêng liên quan đến tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái
phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ.

14


Giai đoạn từ năm 1985 đến năm 2015: Đến năm 1985 bắt đầu xuất hiện
các hành vi phạm pháp liên quan đến chất nổ và BLHS năm 1985 được ban
hành và có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/1986. Do sự nguy hiểm và sự ảnh
hưởng nghiêm trọng của nhóm tội này đối với từng cá nhân và toàn xã hội, do
vậy tại Điều 96 BLHS năm 1985 quy định về tội chế tạo, tàng trữ, sử dụng,
mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất nổ, chất cháy, chất độc hoặc chất
phóng xạ như sau: “1. Người nào chế tạo, tàng trữ, sử dụng, mua bán trái phép
hoặc chiếm đoạt chất nổ, chất cháy, chất độc hoặc chất phóng xạ thì bị phạt tù
từ một năm đến năm năm”. Việc quy định loại tội này cụ thể trong điều luật
chính là bước ngoặt quan trọng, tạo cơ sở cho việc xử lý các hành vi vi phạm
luật về chất nổ, thể hiện rõ quan điểm của Đảng và Nhà nước ta đối với việc
chế tạo, tàng trữ, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất nổ.
Mặc dù đã được pháp điển hóa thành Bộ luật, nhưng việc quy định
trong cùng một điều luật về chất nổ, chất cháy, chất độc hoặc chất phóng xạ
tạo nên khó khăn trong quá trình áp dụng điều luật, mặt khác nếu chỉ quy định
về chất nổ sẽ không bao quát hết các hành vi vi phạm pháp luật liên quan đến
loại tội này, dễ bỏ lọt tội phạm, gây nhiều tranh cãi về việc xử lý hành vi
phạm pháp. Do vậy, khi BLHS năm 1999 ra đời trên cơ sở kế thừa những quy
định tại Điều 96 BLHS năm 1985, Điều 232 BLHS năm 1999 quy định như
sau: “1. Người nào chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép
hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ, thì bị phạt tù từ một năm đến năm năm”. Đồng

thời, quy định các khung hình phạt tăng nặng tại khoản 2, khoản 3, khoản 4
của điều luật và thêm quy định hình phạt bổ sung tại khoản 5. Với quy định tại
Điều 232 đã tạo thuận lợi cho các cơ quan có thẩm quyền không chỉ có cơ sở
xử lý các hành vi vi phạm về chất nổ mà còn có cơ sở để xử lý hành vi liên
quan đến các phụ kiện nổ. Tuy nhiên, sự phát triển của xã hội các quy định
của pháp luật hình sự chặt chẽ hơn và BLHS năm 2015 tại Điều 305 đã cụ thể

15


hóa những quy định chung chung của Điều 232 BLHS năm 1999, theo đó xác
định số lượng thuốc nổ, nụ xùy, ống nổ, dây cháy chậm, dây nổ và xác định
mức độ hậu quả thiệt hại đối với con người và tài sản theo các khoản 2, 3, 4.
Đồng thời, mức quy định của hình phạt bổ sung là phạt tiền không còn phù
hợp với đời sống xã hội hiện nay nên đã nâng mức khởi điểm từ năm triệu
đồng lên mười triệu đồng. Việc cụ thể hóa này giúp cho các cơ quan tiến hành
tố tụng có căn cứ áp dụng thống nhất đối với các hành vi phạm tội liên quan
đến vật liệu nổ.
1.2.2. Quy định về cấu thành tội phạm và các tình tiết định khung
tăng nặng
Cấu thành tội phạm là hệ thống các dấu hiệu khách quan và chủ quan
được quy định trong pháp luật hình sự đặc trưng cho hành vi nguy hiểm cho
xã hội là tội phạm [47]. Các tội phạm được thực hiện chứa đựng các CTTP
được mô tả trong BLHS. Các bộ phận hợp thành của cấu thành- khách thể,
mặt khách quan, chủ thể, mặt chủ quan- là các hiện thực pháp lý- xã hội. [47].
Trong sự thống nhất của mình bốn yếu tố nêu trên thể hiện đầy đủ bản chất,
nội dung chính trị- xã hội của tội phạm. Nếu các tội phạm có tính chất và mức
độ nguy hiểm cho xã hội khác nhau, thì bốn yếu tố đó cũng có những biểu
hiện khác nhau. Mỗi một yếu tố trên có ý nghĩa khác nhau trong việc xác định
tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm nhưng tội phạm không thể thiếu bất

kỳ yếu tố nào trong bốn yếu tố đó. Bốn yếu tố CTTP có liên quan với nhau và
tổng hợp lại cùng quy định tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm.
Điều 2 BLHS quy định: “Chỉ người nào phạm một tội đã được BLHS
quy định mới phải chịu TNHS”. Điều đó có nghĩa là theo pháp luật hình sự,
để truy cứu TNHS và thừa nhận một người nào đó là có lỗi cần phải xác định
rằng hành vi do người đó thực hiện thỏa mãn CTTP nhất định.

16


Dựa vào mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội được
CTTP mô tả, người ta phân chia các CTTP thành CTTP cơ bản, CTTP tăng
nặng, CTTP giảm nhẹ.
Cấu thành tội phạm cơ bản là hệ thống các dấu hiệu đặc trưng, bắt buộc
đối với mọi trường hợp phạm tội của một loại tội, phản ánh bản chất của loại
tội phạm đó và cho phép phân biệt tội phạm này với tội phạm khác.
Cấu thành tội phạm tăng nặng là hệ thống các dấu hiệu định tội (Các
dấu hiệu của CTTP cơ bản) và các dấu hiệu làm tăng nặng một cách đáng kể
mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm đó (các dấu hiệu định khung tăng
nặng).
Cấu thành tội phạm giảm nhẹ là hệ thống các dấu hiệu định tội (Các
dấu hiệu của CTTP cơ bản) và các dấu hiệu làm giảm một cách đáng kể mức
độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm đó (các dấu hiệu giảm nhẹ).
Đối với tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép
hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ, theo khoản 1 Điều 305 của BLHS: Người nào
chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật
liệu nổ thì bị phạt tù từ một năm đến năm năm. Khoản 1 của điều luật quy
định cấu thành cơ bản của tội phạm này. Nếu kèm theo một trong số những
dấu hiệu được quy định ở khoản 2, khoản 3, khoản 4 Điều 305 là cấu thành
tăng nặng. Với khoản 2, khoản 3, khoản 4 mức hình phạt nghiêm khắc hơn so

với khoản 1 (Cấu thành tội phạm cơ bản). Đây là biểu hiện của nguyên tắc
phân hóa trách nhiệm hình sự. Tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng,
mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ không có cấu thành giảm nhẹ,
bởi lẻ vật liệu nổ có nguy cơ gây thiệt hại rất lớn cho xã hội, đặc biệt là cho
tính mạng, sức khỏe của con người, cho nên đối với tội chế tạo, tàng trữ, vận
chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ BLHS quy
định chỉ cần hành vi chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép

17


hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ thì đã cấu thành tội phạm mà không đòi hỏi phải
có hậu quả nguy hại xảy ra.
Cấu thành tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép
hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ là cấu thành tội phạm phức tạp bởi vì người làm
luật mô tả nhiều hành vi trong cấu thành tội phạm này.
Bên cạnh đó, dấu hiệu định khung tăng nặng là những tình tiết được
quy định cụ thể trong từng khung cấu thành tăng nặng của Điều luật, khi có
dấu hiệu đó thì sẽ làm tăng tính chất hoặc mức độ nguy hiểm cho xã hội của
hành vi phạm tội và người phạm tội phải chịu một hình phạt nghiêm khắc hơn
đối với trường hợp phạm tội có cấu thành cơ bản.
Tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc
chiếm đoạt vật liệu nổ quy định bốn khung hình phạt áp dụng đối với người
phạm tội và được sắp xếp theo trình tự tăng dần về độ nghiêm khắc, đó là
khung hình phạt cơ bản, khung tăng nặng thứ nhất (khoản 2), khung tăng
nặng thứ hai (khoản 3) và khung tăng nặng thứ ba (khoản 4). Bên cạnh đó,
BLHS năm 2015 đã cụ thể hóa số lượng vật liệu nổ và hậu quả gây nguy hiểm
cho xã hội của hành vi phạm tội.
Theo quy định tại khoản 2 Điều 305 BLHS thì có những tình tiết định
khung tăng nặng sau đây:

a) Có tổ chức;
b) Thuốc nổ các loại từ 10 kilôgam đến 30 kilôgam hoặc từ 1.000 đến
3.000 nụ xùy hoặc ống nổ, từ 3.000 mét đến dưới 10.000 mét dây cháy chậm,
dây nổ;
c) Vận chuyển, mua bán qua biên giới;
d) Làm chết 01 người hoặc gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe của 01 người với tỷ lệ tổn thương cơ thể 61 % trở lên;

18


×