Tải bản đầy đủ (.pdf) (98 trang)

Nạn nhân của tình hình tội phạm xâm phạm nhân thân trên địa bàn tỉnh quảng trị

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (973.91 KB, 98 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN MẬU TUẤN

NẠN NHÂN CỦA TÌNH HÌNH TỘI PHẠM
XÂM PHẠM NHÂN THÂN TRÊN ĐỊA BÀN
TỈNH QUẢNG TRỊ

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI, năm 2018


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN MẬU TUẤN

NẠN NHÂN CỦA TÌNH HÌNH TỘI PHẠM
XÂM PHẠM NHÂN THÂN TRÊN ĐỊA BÀN
TỈNH QUẢNG TRỊ
Chuyên ngành

: Tội phạm học và phòng ngừa tội phạm

Mã số

: 838.01.05



LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
GS. TS. NGUYỄN NGỌC ANH

HÀ NỘI, năm 2018


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan rằng số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn
thạc sĩ:“Nạn nhân của tình hình tội phạm xâm phạm nhân thân trên địa bàn
tỉnh Quảng Trị” là hoàn toàn trung thực và không trùng lặp với các đề tài
khác trong cùng lĩnh vực.
Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về lời cam đoan này.
Tác giả luận văn

Nguyễn Mậu Tuấn


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NẠN NHÂN CỦA TÌNH
HÌNH TỘI PHẠM XÂM PHẠM NHÂN THÂN ......................................... 7
1.1. Nạn nhân của tội phạm dưới góc độ tội phạm học .................................... 7
1.2. Nạn nhân của tình hình tội phạm xâm phạm nhân thân........................... 16
1.3. Vai trò của nạn nhân của tội phạm trong cơ chế hình thành hành vi phạm
tội xâm phạm nhân thân .................................................................................. 22
1.4. Nguyên nhân trở thành nạn nhân của tình hình tội phạm xâm phạm nhân
thân .................................................................................................................. 29

CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG TÌNH HÌNH TỘI PHẠM XÂM PHẠM
NHÂN THÂN VÀ NẠN NHÂN CỦA TỘI PHẠM NÀY TRÊN ĐỊA BÀN
TỈNH QUẢNG TRỊ....................................................................................... 37
2.1. Thực trạng tình hình tội phạm xâm phạm nhân thân trên địa bàn tỉnh
Quảng Trị ........................................................................................................ 37
2.2. Thực trạng nạn nhân của tình hình tội phạm xâm phạm nhân thân trên địa
bàn tỉnh Quảng Trị .......................................................................................... 48
2.3. Nguyên nhân trở thành nạn nhân của tình hình tội phạm xâm phạm nhân
thân trên địa bàn tỉnh Quảng Trị ..................................................................... 54
CHƯƠNG 3. PHÒNG NGỪA NGUY CƠ TRỞ THÀNH NẠN NHÂN
CỦA TÌNH HÌNH TỘI PHẠM XÂM PHẠM NHÂN THÂN TRÊN ĐỊA
BÀN TỈNH QUẢNG TRỊ ............................................................................. 66
3.1. Dự báo tình hình tội phạm xâm phạm nhân thân và nạn nhân của tình
hình tội phạm xâm phạm nhân thân trên địa bàn tỉnh Quảng Trị ................... 66
3.2. Giải pháp phòng ngừa nguy cơ trở thành nạn nhân của tình hình tội phạm
xâm phạm nhân thân ....................................................................................... 69
KẾT LUẬN .................................................................................................... 78
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU
Số hiệu

Tên bảng

bảng
2.1

Thống kê về số vụ phạm tội xâm phạm nhân thân và số bị cáo

trên địa bàn tỉnh Quảng Trị từ năm 2013 - 2017

2.2

Tỷ lệ tội phạm xâm phạm nhân thân thực hiện trong tình hình
tội phạm trên địa bàn tỉnh Quảng Trị từ năm 2013 - 2017

2.3

Các vụ án xâm phạm nhân thân đã đưa ra xét xử sơ thẩm trên
địa bàn tỉnh Quảng Trị từ năm 2013 - 2017

2.4

Mức độ phạm tội đối với các tội danh thuộc nhóm các tội xâm
phạm nhân thân trên địa bàn tỉnh Quảng Trị giai đoạn từ năm
2013 - 2017

2.5

Diễn biến của các tội xâm phạm nhân thân trên địa bàn tỉnh
Quảng Trị giai đoạn từ năm 2013 - 2017 trong so sánh định gốc

2.6

Diễn biến của các tội xâm phạm nhân thân trên địa bàn tỉnh
Quảng Trị giai đoạn từ năm 2013 - 2017 trong so sánh liên kế

2.7


Cơ cấu xét theo hình phạt ở cấp sơ thẩm áp dụng đối với các tội
xâm phạm nhân thân trên địa bàn tỉnh Quảng Trị

2.8

Cơ cấu của các tội xâm phạm nhân thân trên địa bàn tỉnh
Quảng Trị giai đoạn từ năm 2013 - 2017 xét theo giới tính của
người phạm tội

2.9

Cơ cấu của các tội phạm xâm phạm nhân thân trên địa bàn tỉnh
Quảng Trị giai đoạn từ năm 2013 - 2017 xét theo độ tuổi của
người phạm tội

2.10

Cơ cấu của các tội phạm xâm phạm nhân thân trên địa bàn tỉnh
Quảng Trị giai đoạn từ năm 2013 - 2017 xét theo trình độ học
vấn của người phạm tội


Số hiệu

Tên bảng

bảng
2.11

Mối quan hệ giữa người phạm tội và nạn nhân trong 100 vụ án

xâm phạm nhân thân trên địa bàn tỉnh Quảng Trị trong giai
đoạn từ năm 2013 - 2017

2.12

Giới tính của nạn nhân trong 100 vụ án xâm phạm nhân thân
trên địa bàn tỉnh Quảng Trị trong giai đoạn từ năm 2013 - 2017

2.13

Độ tuổi của nạn nhân trong 100 vụ án xâm phạm nhân thân trên
địa bàn tỉnh Quảng Trị trong giai đoạn từ năm 2013 - 2017

Số hiệu
biểu đồ
2.1

Tên biểu đồ
So sánh tình hình tội phạm xâm phạm nhân thân trên địa bàn
tỉnh Quảng Trị từ năm 2013 - 2017

2.2

Cơ cấu theo hình phạt trong 100 vụ án phạm tội xâm phạm
nhân thân trên địa bàn tỉnh Quảng Trị từ năm 2013 - 2017

2.3

Cơ cấu nạn nhân trong 100 vụ phạm tội xâm phạm nhân thân
trên địa bàn tỉnh Quảng Trị từ năm 2013 - 2017



MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hiện nay cùng với sự phát triển kinh tế và xã hội thì tình hình tội phạm
ở nước ta cũng có những diễn biến phức tạp. Số lượng vụ phạm tội ngày càng
gia tăng, hậu quả gây ra cho xã hội ngày càng nghiêm trọng. Thực tế cho
thấy, tính chất của tội phạm và hậu quả của tội phạm ngày càng nặng nề mà
nguyên nhân có từ nhiều phía, trong đó không loại trừ những nguyên nhân từ
phía nạn nhân của tội phạm.
Một cơ chế thực hiện hành vi phạm tội đầy đủ và toàn diện (đối với các
tội phạm có nạn nhân) là sự tác động qua lại giữa người thực hiện hành vi
phạm tội và nạn nhân của tội phạm. Hành vi phạm tội gây thiệt hại về tính
mạng, sức khoẻ, tinh thần, tài sản hoặc các quyền và lợi ích hợp pháp khác
của nạn nhân. Ngược lại, nạn nhân trong nhiều trường hợp cũng có ảnh hưởng
quyết định tới việc hình thành ý định phạm tội cũng như việc thực hiện tội
phạm của người phạm tội. Nạn nhân có thể làm hạn chế hoặc triệt tiêu ý định
phạm tội. Ngược lại, hành vi của nạn nhân trong nhiều trường hợp có thể
củng cố thêm ý định phạm tội cũng như thúc đẩy chủ thể thực hiện hành vi
phạm tội đến cùng. Nạn nhân có thể hạn chế đến mức thấp nhất thiệt hại do
hành vi phạm tội gây ra nhưng cũng có thể làm tăng mức độ xâm hại cũng
như mức độ nghiêm trọng của hậu quả của hành vi phạm tội. Mặt khác là
người liên quan trực tiếp đến hành vi phạm tội, nạn nhân là mắt xích quan
trọng giúp cho quá trình điều tra, truy tố, xét xử người phạm tội nhanh chóng,
thuận lợi, chính xác.
Trong những năm gần đây, trên địa bàn tỉnh Quảng Trị tình hình tội
phạm diễn ra khá nghiêm trọng và ngày càng phức tạp. Nhất là tình hình các
tội xâm phạm nhân thân. Trong các vụ phạm tội này ngày càng có nhiều nạn
nhân hơn, cũng như đối tượng trở thành nạn nhân trong các vụ phạm tội
1



ngày càng mở rộng. Gây ra ảnh hưởng rất lớn đến trật tự an toàn xã hội
trên địa bàn tỉnh.
Mặc dù đã áp dụng nhiều giải pháp phòng ngừa, hạn chế tuy nhiên tình
hình tội phạm trên địa bàn tỉnh Quảng Trị nói chung, tình hình tội phạm xâm
phạm nhân thân nói riêng và nạn nhân của tình hình tội phạm này vẫn chưa có
dấu hiệu cải thiện. Nguyên nhân của vấn đề này xuất phát từ việc chưa có
nghiên cứu, đánh giá đúng về tình hình tội phạm xâm phạm nhân thân trên địa
bàn tỉnh Quảng Trị và vấn đề nạn nhân của tội phạm, vai trò của nạn nhân
trong cơ chế hình thành hành vi phạm tội để đưa ra các giải pháp phù hợp.
Chính vì vậy, việc làm rõ và sâu sắc về vấn đề nạn nhân của tội phạm
có ý nghĩa rất quan trọng cả trong lý luận cũng như trong thực tiễn để xây
dựng các biện pháp, chính sách phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm xâm
phạm nhân thân trên địa bàn tỉnh Quảng Trị, là một trong những vấn đề hết
sức cần thiết.
Bởi các lý do nêu trên, tác giả lựa chọn đề tài “Nạn nhân của tình hình
tội phạm xâm phạm nhân thân trên địa bàn tỉnh Quảng Trị” làm luận văn
thạc sĩ.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Vấn đề nạn nhân của tội phạm là một trong những vấn đề quan trọng,
phong phú và phức tạp của tội phạm học nên từ trước đến nay đã được một số
nhà luật học, tội phạm học quan tâm nghiên cứu; nhờ đó, có một số bài viết,
công trình nghiên cứu về vấn đề nạn nhân của tội phạm, có thể kể đến đó là:
- Nạn nhân của tội phạm của tác giả Trần Hữu Tráng, Nhà xuất bản
giáo dục Việt Nam, năm 2011;
- Nạn nhân học trong tội phạm học Việt Nam - Một số vấn đề lý luận
và thực tiễn, Luận văn thạc sĩ luật học của tác giả Trần Hữu Tráng, Trường
Đại học Luật Hà Nội, năm 2000;


2


- Nạn nhân học trong luật hình sự, luận án tiến sỹ của tác giả Nguyễn
Văn Phong bảo vệ tại khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội;
- Cơ chế pháp lý bảo vệ quyền và lợi ích của nạn nhân của tội phạm, đề
tài nghiên cứu cấp trường của tác giả Trần Hữu Tráng;
- Nạn nhân của các tội xâm phạm sức khoẻ, tính mạng, danh dự, nhân
phẩm của con người trên địa bàn tỉnh Quảng Bình, Luận văn thạc sĩ luật học
của tác giả Nguyễn Thị Tú Anh, năm 2013;
- Nghiên cứu, sử dụng đặc điểm nhân thân người bị hại phục vụ phòng
ngừa tội phạm xâm phạm tính mạng, sức khỏe con người của lực lượng Cảnh
sát hình sự, luận án tiến sĩ luật học của tác giả Lê Minh Thanh, năm 2016.
- Bàn về khái niệm của nạn nhân của tội phạm của tác giả Trần Hữu
Tráng, Tạp chí Luật học, Số 1/2002;
- Nạn nhân của tội phạm dưới góc độ tội phạm học của tác giả Dương
Tuyết Miên, Tạp chí Toà án, Toà án nhân dân tối cao, Số 20/2005;
- Nguy cơ trở thành nạn nhân của tội phạm của tác giả Trần Hữu Tráng,
Tạp chí Luật học, Số 10/2011;
- Trợ giúp nạn nhân của tội phạm ở Hàn Quốc và liên hệ với thực tế ở
Việt Nam của tác giả Dương Tuyết Miên;
Những công trình nghiên cứu này đã đề cập đến các lý luận chung về
nạn nhân của tội phạm. Tuy nhiên các công trình trên chưa có công trình nào
đánh giá cụ thể, chi tiết về nạn nhân của tình hình tội phạm xâm phạm nhân
thân trên địa bàn tỉnh Quảng Trị, do đó đề tài của học viên không trùng với
các công trình đã công bố.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn vấn đề nạn
nhân của tình hình tội phạm xâm phạm nhân thân dưới góc độ tội phạm học,

dự báo về tình hình tội phạm xâm phạm nhân thân trên địa bàn tỉnh Quảng
3


Trị, luận văn đưa ra những giải pháp khắc phục những yếu tố đóng vai trò là
nguy cơ trở thành nạn nhân của tình hình tội phạm xâm phạm nhân thân trên
địa bàn tỉnh. Qua đó góp phần nâng cao hiệu quả phòng ngừa tình hình tội
phạm này trên địa bàn tỉnh Quảng Trị trong thời gian tới.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Phân tích làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận về vấn đề nạn nhân của
tình hình tội phạm nói chung và nạn nhân của tình hình tội phạm xâm phạm
nhân thân nói riêng theo các tiêu chí: khái niệm, đặc điểm và phân loại…
- Phân tích chỉ ra vai trò của nạn nhân trong cơ chế làm phát sinh hành
vi phạm tội của tình hình tội phạm xâm phạm nhân thân.
- Đánh giá tình hình tội phạm xâm phạm nhân thân và nạn nhân của
tình hình các tội này trên địa bàn tỉnh Quáng Trị trong 5 năm gần đây (từ
2013 - 2017).
- Phân tích những yếu tố đóng vai trò là nguy cơ trở thành nạn nhân của
tình hình tội phạm xâm phạm nhân thân của con người.
- Dự báo tình hình tội phạm xâm phạm nhân thân trên địa bàn tỉnh
Quảng Trị trong tương lai.
- Đề xuất các giải pháp nhằm khắc phục những yếu tố là nguy cơ trở
thành nạn nhân của tình hình tội phạm xâm phạm nhân thân của con người.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu về vấn đề nạn nhân của tình hình tội phạm xâm
phạm nhân thân của con người cả về lý luận và thực tiễn trên địa bàn tỉnh
Quảng Trị dưới góc độ tội phạm học.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về thời gian: luận văn nghiên cứu trong khoảng thời gian từ năm

2013 - 2017
- Về không gian: luận văn nghiên cứu trên địa bàn tỉnh Quảng Trị.
4


- Về đối tượng: Nạn nhân của các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe,
nhân phẩm, danh dự của con người (thuộc chương XII Bộ luật Hình sự năm
1999; chương XIV Bộ luật Hình sự năm 2015).
5. Phương pháp luận vàn phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Đề tài được nghiên cứu dựa trên hệ thống phương pháp luận của chủ
nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh cũng như hệ thống các quan điểm
của Đảng, Nhà nước ta về phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ
nghĩa duy vật lịch sử, luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể
như nghiên cứu điển hình, thống kê, lôgic, phân tích, so sánh, tổng hợp, xã
hội học… Ngoài ra, trong quá trình nghiên cứu, tác giả tham khảo ý kiến
chuyên gia liên quan đến đề tài.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Đây là công trình đầu tiên ở cấp độ luận văn thạc sĩ nghiên cứu có hệ
thống vấn đề nạn nhân của tình hình tội phạm xâm phạm nhân thân trên địa
bàn tỉnh Quảng Trị; theo đó những kết quả nghiên cứu của luận văn có ý
nghĩa lý luận và thực tiễn sau:
6.1. Ý nghĩa lý luận
- Về lý luận: kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ đóng góp nhất định
vào phát triển khoa học chuyên ngành nạn nhân học.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
- Về thực tiễn: kết quả của đề tài có thể được vận dụng trong thực tiễn
phòng ngừa tội phạm cũng như bảo vệ, trợ giúp nạn nhân của tình hình tội

phạm xâm phạm nhân thân ở Quảng Trị và trong phạm vi cả nước. Với ý
nghĩa như vậy, luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo trong

5


việc nghiên cứu, học tập tại các cơ sở nghiên cứu và đào tạo chuyên ngành
luật ở nước ta.
Tính mới và những đóng góp của luận văn
Luận văn “Nạn nhân của tình hình tội phạm xâm phạm nhân thân trên
địa bàn tỉnh Quảng Trị” là công trình nghiên cứu một cách hệ thống về các
nội dung liên quan đến vấn đề nạn nhân của tội phạm xâm phạm nhân thân;
do đó, những kết luận rút ra qua nghiên cứu của luận văn có tính mới và có
đóng góp cho khoa học chuyên ngành; cụ thể là:
Đã làm sáng tỏ những vấn đề lý luận cơ bản về nạn nhân; khái niệm,
đặc điểm của nạn nhân nói chung và đặc điểm nạn nhân của tội phạm xâm
phạm nhân thân của con người qua việc phân tích thực trạng vấn đề nạn nhân
của tình hình tội phạm trên địa bàn tỉnh Quảng Trị.
Đã khái quát được thực trạng về tình hình tội phạm xâm phạm nhân
thân của con người cũng như tình hình nạn nhân của những tội phạm này ở
địa bàn tỉnh Quảng Trị; chỉ ra các nguy cơ trở thành nạn nhân của tình hình
tội phạm đó.
Dự báo được tình hình tội phạm xâm phạm nhân thân và nạn nhân của
nó trên địa bàn tỉnh Quảng Trị; qua đó đề xuất những giải pháp nhằm khắc
phục những yếu tố đóng vai trò là nguyên nhân trở thành nạn nhân của tội
phạm xâm phạm nhân thân.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1. Những vấn đề lý luận về nạn nhân của tình hình tội phạm

xâm phạm nhân thân
Chương 2. Thực trạng tình hình tội phạm xâm phạm nhân thân và nạn
nhân của tội phạm này trên địa bàn tỉnh Quảng Trị
Chương 3. Phòng ngừa nguy cơ trở thành nạn nhân của tình hình tội
phạm xâm phạm nhân thân trên địa bàn tỉnh Quảng Trị.
6


CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NẠN NHÂN
CỦA TÌNH HÌNH TỘI PHẠM XÂM PHẠM NHÂN THÂN
1.1. Nạn nhân của tội phạm dưới góc độ tội phạm học
1.1.1. Khái niệm
Ngày nay khái niệm nạn nhân được sử dụng với nhiều nghĩa khác nhau.
Nạn nhân được sử dụng với nghĩa là những người bị thiệt hại. Theo Từ điển
tiếng Việt, nạn nhân được hiểu là: “Người bị tai nạn” hoặc “Người, tổ chức
gánh chịu hậu quả từ bên ngoài đưa đến”. [4, tr. 1165] Nạn nhân nói chung
có thể được hiểu trong phạm vi rộng. Trong phạm vi này, nạn nhân có thể là
cá nhân hoặc tổ chức chịu thiệt hại về về tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân
phẩm và tài sản ngày càng phong phú, đa dạng dưới nhiều hình thức như: nạn
nhân của thiên tai, nạn nhân của tai nạn (giao thông, lao động), nạn nhân
chiến tranh và nạn nhân của tội phạm.
Nạn nhân của tội phạm là một vấn đề luôn được các nhà lập pháp đề
cập đến trong các văn bản luật. Việc làm rõ khái niệm nạn nhân của tội phạm
có ý nghĩa quan trọng cả trong lý luận cũng như trong thực tiễn xây dựng các
biện pháp, chính sách đấu tranh, phòng ngừa tội phạm. Hiện nay đã có nhiều
công trình nghiên cứu đưa ra những cách định nghĩa khác nhau về nạn nhân
của tội phạm và vấn đề này đang gây nhiều tranh luận. Các tranh luận về nạn
nhân của tội phạm tuy còn nhiều quan điểm chưa thống nhất nhưng nhìn chung
đều xác định nạn nhân của tội phạm theo nghĩa hẹp và theo nghĩa rộng.

Xu hướng xác định nạn nhân của tội phạm theo nghĩa hẹp đã được
nhiều học giả trên thế giới đưa ra. Học giả Hans von Hentig - một trong
những người tiên phong trong lĩnh vực nghiên cứu nạn nhân đã quan niệm
nạn nhân là cá nhân con người. Theo ông, nạn nhân của tội phạm là những
người bị hành vi phạm tội gây thiệt hại đối với các quyền và lợi ích họp pháp
7


và trên thực tế phải chịu những tổn hại về vật chất hoặc sức khỏe, tính mạng,
tinh thần. [28] Theo quan điểm của Haiz Zipf thì nạn nhân của tội phạm trong
tội phạm học là tất cả những người bị hành vi phạm tội xâm hại, bất kể người
phạm tội có bị truy cứu trách nhiệm hình sự hay không bị truy cứu trách
nhiệm hình sự, trong những trường hợp người bị hại không yêu cầu khởi tố vụ
án. [29] Quan điểm này cũng đồng quan điểm với Willem Hendrik Nagel:
nạn nhân của tội phạm là những người bị người phạm tội xâm phạm các
quyền và lợi ích được pháp luật bảo vệ. [29]
Theo Điểm a Khoản 1 Điều 2 Chỉ thị số 2012/29/EU của Nghị viện và
Hội đồng châu Âu, nạn nhân được hiểu là:
“Một người bình thường bị tổn hại, bao gồm các tổn hại về thể chất,
tinh thần hoặc tổn hại về cảm xúc hoặc tổn thất về kinh tế do hành vi phạm tội
trực tiếp gây ra;
Các thành viên trong gia đình của một người bị chết do phạm tội hình
sự trực tiếp gây ra và những người bị tổn hại do hậu quả là cái chết của
người thân (đó).” [31]
Như vậy các quan điểm này đều xác định nạn nhân theo nghĩa hẹp chỉ
bao gồm các cá nhân con người với hai điều kiện cơ bản: nạn nhân của tội
phạm phải là những cá nhân con người và nạn nhân của tội phạm phải là
những người chịu những hậu quả trực tiếp do hành vi phạm tội gây ra về tính
mạng, sức khoẻ, tinh thần hay tài sản.
Nạn nhân của tội phạm không chỉ được xem xét theo nghĩa hẹp mà còn

được xem xét theo nghĩa rộng. Theo nghĩa rộng, nạn nhân của tội phạm bao
gồm cả các tổ chức bị hành vi phạm tội xâm hại.
Fritz R. Paasch xác định nạn nhân của tội phạm bao gồm cả các tổ chức
khi ông bàn đến nạn nhân của các tội phạm về kinh tế. Theo ông, nạn nhân
của các tội phạm về kinh tế là các cá nhân con người (thể nhân) và các pháp
nhân bị xâm hại các quyền và lợi ích được pháp luật ghi nhận. [29]
8


Tác giả Andrew Karmen trong bài viết “Crime Victims: An
Introduction to Victimology”(1990), ông đã nêu khái niệm nạn nhân của tội
phạm như sau: “Nạn nhân của tội phạm là bất kỳ tổ chức, cá nhân nào hoặc
bất kỳ thực thể kinh doanh nào bị thiệt hại hoặc mất mát bởi hành vi phạm
tội. Thiệt hại ở đây có thể là thiệt hại về thể chất, tâm lý hoặc kinh tế.” [27]
Một văn bản vô cùng quan trọng làm cơ sở cho việc xác định nội hàm
của khái niệm nạn nhân của tội phạm là Tuyên bố về các nguyên tắc cơ bản
về tư pháp đối với nạn nhân của tội phạm và nạn nhân của sự lạm dụng sức
mạnh của Liên hợp quốc ban hành ngày 29 tháng 11 năm 1985. Điều 1 của
Tuyên bố xác định: “Nạn nhân của tội phạm là những cá nhân hay tổ chức bị
hành vi phạm tội (theo quy định của luật hình sự của các nước thành viên)
xâm phạm, gây thiệt hại về thể chất, tinh thần, tình cảm, kinh tế hoặc những
thiệt hại đáng kể về các quyền cơ bản”. [32] Theo đó, nạn nhân của tội phạm
không chỉ bao gồm các cá nhân mà bao gồm cả các tổ chức. Khoản 2 của
Tuyên bố ghi nhận: “Nạn nhân của tôi phạm không chỉ bao gồm những người
trực tiếp bị hành vi phạm tội xâm hại mà còn bao gồm cả những người thân
trong gia đình, những người phụ thuộc vào nạn nhân và cả những người chịu
thiệt hại trong quá trình trợ giúp nạn nhân.” [32] Theo đó, nội hàm của khái
niệm nạn nhân đã được mở rộng không chỉ những người bị hành vi phạm tội
trực tiếp xâm hại (nạn nhân trực tiếp) mà còn bao gồm cả những nạn nhân
gián tiếp (những người chịu thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra). Đồng quan

điểm này, Bernd-Dieter Meier cho rằng, cũng được coi là những người chịu
các hậu quả trực tiếp do hành vi phạm tội gây ra là những người thân thích
của các nạn nhân của các tội phạm vũ lực, thậm chí cả những người tuy
không phải người thân thích của các nạn nhân mà chỉ là những người chứng
kiến sự việc phạm tội nhưng do hành vi phạm tội rất nghiêm trọng đã tác
động gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến tâm lý, tình cảm của những người này.

9


[26] Như vậy khái niệm nạn nhân không chỉ được mở rộng ra các tổ chức mà
còn được mở rộng ra cả những nạn nhân gián tiếp.
Việc xác định nạn nhân của tội phạm bao gồm cả nạn nhân trực tiếp và
nạn nhân gián tiếp có ý nghĩa quan trọng. Điều đó trước hết giúp cho việc
đánh giá chính xác hậu quả thiệt hại mà hành vi phạm tội gây ra, từ đó xác
định chính xác tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội. Ngoài ra
việc xác định nạn nhân gián tiếp còn có ý nghĩa trong việc xác định về bồi
thường và trợ giúp cho nạn nhân của tội phạm.
Thiệt hại mà nạn nhân phải gánh chịu rất đa dạng, có thể là thiệt hại về
thể chất như thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ; thiệt hại về tâm lý như làm nạn
nhân khủng hoảng, lo sợ, bất an về tinh thần; thiệt hại về kinh tế như làm nạn
nhân bị mất mát tài sản… Nếu nạn nhân là tổ chức thì thiệt hại có thể là mất
mát về tài sản, uy tín, thương hiệu của tổ chức bị tổn hại, việc kinh doanh của
tổ chức có thể bị đình trệ… Xác định thiệt hại của các nạn nhân gián tiếp còn
khó khăn hơn nhiều. Một hành vi phạm tội gây ra những thiệt hại gián tiếp
phải là những hành vi phạm tội có tính chất, mức độ đặc biệt nguy hiểm và do
đó có thể gây ra những ảnh hưởng, những tác động rất xấu trong xã hội. Ví
dụ: hành vi giết người bằng phương pháp tra tấn dã man hoặc giết trẻ em tác
động rất lớn đến tâm lý, tình cảm của người thân của nạn nhân, của những
người chứng kiến hành vi phạm tội…

Ở Việt Nam, tác giả Trần Hữu Tráng trong đề tài luận văn thạc sĩ “Nạn
nhân trong tội phạm học - Những vấn đề lý luận và thực tiễn” xác định: “Nạn
nhân của tội phạm là những cá nhân, tổ chức phải chịu những thiệt hại trực
tiếp về tính mạng, sức khoẻ, tinh thần, tình cảm, tài sản hoặc các quyền và lợi
ích hợp pháp khác do hành vi phạm tội gây ra”. [18] Theo quan điểm này thì
nạn nhân của tội phạm có ba đặc điểm:
- Nạn nhân của tội phạm có thể là cá nhân hoặc tổ chức;

10


- Nạn nhân của tội phạm có thể chịu những thiệt hại trực tiếp về tính
mạng, sức khoẻ, tinh thần, tình cảm, tài sản hoặc các quyền và lợi ích hợp
pháp khác;
- Hậu quả thiệt hại mà nạn nhân của tội phạm phải gánh chịu phải là
những hậu quả trực tiếp do hành vi phạm tội gây ra. Điều đó có nghĩa giữa
hành vi phạm tội và hậu quả thiệt hại phải có mối quan hệ nhân quả với nhau.
Thiệt hại mà nạn nhân phải gánh chịu là hậu quả trực tiếp do hành vi phạm tội
gây ra và ngược lại, hành vi phạm tội phải là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến
hậu quả thiệt hại cho nạn nhân.
Như vậy nạn nhân của tội phạm hiểu theo nghĩa rộng bao gồm hai đặc
điểm cơ bản sau đây:
- Nạn nhân của tội phạm có thể là cá nhân hay tổ chức.
Con người là nạn nhân của tội phạm phải là những người đang tồn tại vào
thời điểm hành vi phạm tội xảy ra. Nghĩa là hành vi phạm tội phải xâm hại đến
một người đang tồn tại trong thế giới khách quan để gây thiệt hại hoặc đe doạ gây
thiệt hại. Mỗi con người đều có thời điểm bắt đầu và thời điểm kết thúc cuộc sống.
Nạn nhân là tổ chức phải là những tổ chức hợp pháp có tài sản. Những
tổ chức bất hợp pháp không thể là nạn nhân của tội phạm vì bản thân sự tồn
tại của tổ chức đó đã bất hợp pháp vì vậy không được pháp luật thừa nhận và

bảo vệ. Tổ chức là nạn nhân của tội phạm phải là những tổ chức vẫn còn tồn
tại vào thời điểm hành vi phạm tội xảy ra.
- Nạn nhân là cá nhân, tổ chức phải chịu những hậu quả thiệt hại trực
tiếp do hành vi phạm tội gây ra về tính mạng, sức khoẻ, tinh thần, tình cảm
hay tài sản.
Nạn nhân là cá nhân là những người phải chịu những hậu quả trực tiếp
do hành vi phạm tôi gây ra về tính mạng, sức khoẻ, tinh thần, tình cảm hay tài
sản. Nạn nhân là cá nhân có thể là nạn nhân bị hành vi phạm tội trực tiếp tác
động (nạn nhân trực tiếp), có thể bị hành vi phạm tội gián tiếp tác động gây
11


thiệt hại (nạn nhân gián tiếp). Tuy nhiên các thiệt hại mà hành vi phạm tội gây
ra cho nạn nhân dù là nạn nhân trực tiếp hay nạn nhân gián tiếp đều phải là
những hậu quả thiệt hại trực tiếp do hành vi phạm tội gây ra. Điều đó có nghĩa
là giữa hành vi phạm tội với hậu quả thiệt hại mà nạn nhân gánh chịu phải có
mối quan hệ nhân quả. Nếu không tồn tại mối quan hệ nhân quả này giữa
hành vi phạm tội và hậu quả thiệt hại thì không thể được coi là nạn nhân của
tội phạm. Nạn nhân là tổ chức chỉ chịu những hậu quả thiệt hại về kinh tế
(thiệt hại tài sản).
Tổng hợp, đánh giá những quan điểm nêu trên, tác giả đánh giá quan
điểm về nạn nhân của tội phạm của tác giả Trần Hữu Tráng trong đề tài “Nạn
nhân trong tội phạm học - Những vấn đề lý luận và thực tiễn” là một trong
những quan điểm tổng hợp và chính xác nhất.
Như vậy nạn nhân của tội phạm được hiểu như sau: “Nạn nhân của tội
phạm là những cá nhân, tổ chức phải chịu những thiệt hại trực tiếp về tính
mạng, sức khoẻ, tinh thần, tình cảm, tài sản hoặc các quyền và lợi ích hợp
pháp khác do hành vi phạm tội gây ra”
Cần phải lưu ý rằng không phải bất kỳ tội phạm nào cũng có nạn nhân.
Thực tế cho thấy có những tội có nạn nhân và có những tội không có nạn

nhân.
Các tội phạm không có nạn nhân bao gồm các tội mà khi hành vi phạm
tội đã thỏa mãn đầy đủ các dấu hiệu của cấu thành tội phạm mà không gây ra
thiệt hại nào về thể chất, tinh thần hoặc tài sản cho cá nhân, tổ chức. Các tội
phạm có thể có nạn nhân bao gồm các tội mà khi hành vi phạm tội xảy ra có
thể có cá nhân, tổ chức bị xâm hại về thể chất, tinh thần, tài sản. Trong các
nhóm tội này, có thể chia làm hai trường hợp. Trường hợp thứ nhất bao gồm
các tội mà khi hành vi phạm tội đã thỏa mãn đầy đủ các dấu hiệu của cấu
thành tội phạm nhưng hành vi phạm tội đó chưa gây ra hoặc đe dọa gây ra
thiệt hại cho các cá nhân, tổ chức. Trường hợp này tội phạm không có nạn
12


nhân. Chỉ khi các hành vi phạm tội thỏa mãn các dấu hiệu của một cấu thành
tội phạm tăng nặng của các tội này thì mới gây ra những thiệt hại cho cá nhân,
tổ chức, khi đó tội phạm mới có nạn nhân. Trường hợp thứ hai bao gồm các
trường hợp chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt. Đây là những trường hợp
hành vi phạm tội chỉ thỏa mãn một số dấu hiệu của cấu thành tội phạm cơ bản
của một tội nhưng trong sự tổng hợp những dấu hiệu của cấu thành tội phạm cơ
bản này với các dấu hiệu của chế định chuẩn bị phạm tội hoặc những dấu hiệu
của chế định phạm tội chưa đạt thì hành vi đó đủ yếu tố cấu thành tội phạm.
Các tội luôn luôn có nạn nhân bao gồm các tội phạm khi hành vi phạm
tội xảy ra dù là hành vi đó thỏa mãn các dấu hiệu của một cấu thành tội phạm
cơ bản hay hành vi thỏa mãn các dấu hiệu của cấu thành tội phạm của hành vi
chuẩn bị phạm tội hoặc của cấu thành tội phạm của hành vi phạm tội chưa đạt
thì đều gây ra hoặc đe dọa gây ra thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản cho cá
nhân, tổ chức nào đó.
1.1.2. Phân loại
Trong tội phạm học có nhiều cách phân loại nạn nhân của tội phạm.
Những căn cứ khác nhau phục vụ cho những mục đích nghiên cứu khác nhau

cho ra những cách phân loại nạn nhân của tội phạm khác nhau. Trong đó có
những cách phân loại phổ biến là:
- Căn cứ vào địa vị pháp lý của nạn nhân, có thể chia nạn nhân thành
hai nhóm:
+ Nhóm nạn nhân là cá nhân (thể nhân): đây là nhóm nạn nhân phổ
biến của tội phạm. Nhóm nạn nhân này có thể bị hành vi phạm tội xâm hại về
cả tính mạng sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự, tinh thần, tình cảm, tài sản và
các quyền, lợi ích hợp pháp khác. Nhóm nạn nhân là cá nhân không chỉ bao
gồm những nạn nhân trực tiếp mà bao gồm cả những nạn nhân gián tiếp. Nạn
nhân là cá nhân thường được chia thành các nhóm nạn nhân đặc thù để nghiên
cứu nhằm đề ra các biện pháp phòng ngừa khả năng trở thành nạn nhân của
13


tội phạm như nhóm nạn nhân là nữ giới, nhóm nạn nhân là trẻ em, người già,
người tàn tật, người mắc bệnh tâm thần…
+ Nhóm nạn nhân là tổ chức: đây là nhóm nạn nhân chỉ có thể bị hành
vi phạm tội xâm hại về tài sản hoặc kinh tế. Vì vậy, nhóm nạn nhân này chỉ có
các nạn nhân trực tiếp chứ không có các nạn nhân gián tiếp. Nhóm nạn nhân
là tổ chức phải là những tổ chức hợp pháp và phải còn tồn tại vào thời điểm
hành vi phạm tội xảy ra.
- Căn cứ vào cơ chế tác động của hành vi phạm tội đến nạn nhân, nạn
nhân được chia thành 3 nhóm:
+ Nhóm nạn nhân trực tiếp là những cá nhân hay tổ chức bị hành vi
phạm tội trực tiếp tác động gây thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản hay các
quyền và lợi ích hợp pháp khác. Nhóm nạn nhân trực tiếp là nhóm nạn nhân
chủ yếu trong các nạn nhân của tội phạm. Trong các tội phạm có nạn nhân,
hành vi phạm tội trước hết tác động, gây thiệt hại cho các nạn nhân trực tiếp.
+ Nhóm nạn nhân thứ cấp (nạn nhân gián tiếp): nạn nhân thứ cấp là
những cá nhân mà tuy hành vi phạm tội không trực tiếp tác động đến họ

nhưng do họ có mối quan hệ đặc biệt đối với nạn nhân trực tiếp nên hành vi
phạm tội đã gián tiếp tác động đến họ, gây ra những tổn hại về tinh thần, tình
cảm, sức khoẻ và thậm chí là những thiệt hại về kinh tế cho những người này.
Nạn nhân thứ cấp là những người mà nạn nhân trực tiếp của tội phạm có ý
nghĩa vô cùng quan trọng đối với họ như cha, mẹ, vợ, chồng, con hay những
người thân thích khác.
+ Nhóm nạn nhân mở rộng (nạn nhân thứ ba): là khái niệm để chỉ phạm
vi rộng hơn những người chịu ảnh hưởng, tác động sâu sắc của hành vi phạm
tội. Đây là những người tuy không phải là những người thân thích của nạn
nhân nhưng sự kiện phạm tội đã tác động trực tiếp đến những người này và
gây ra những tổn thất nặng nề về tinh thần, tình cảm cho họ. Những người này

14


có thể là những người chứng kiến hành vi phạm tội, bạn bè, đồng nghiệp,
hàng xóm, những người tham gia cứu hộ, cứu chữa…
Việc xác định nạn nhân thứ cấp và nạn nhân mở rộng trên thực tế là rất
khó khăn đòi hỏi sự đánh giá tổng hợp và phải có sự tham gia của nhiều
chuyên gia trong các lĩnh vực giám định, tâm lý và tâm thần học.
- Căn cứ vào vai trò của nạn nhân trong cơ chế hành vi phạm tội (dấu
hiệu lỗi của nạn nhân) thì nạn nhân của tội phạm có thể chia thành 2 trường
hợp: Nạn nhân có lỗi và trường hợp nạn nhân không có lỗi.
+ Nạn nhân có lỗi là những nạn nhân đã có các hành vi, xử sự không
đúng chuẩn mực đạo đức, pháp luật, tạo điều kiện thuận lợi hoặc thúc đẩy
hành vi phạm tội thực hiện. Nói cách khác, giữa hành vi, xử sự của nạn nhân
với hành vi phạm tội có mối quan hệ với nhau. Hành vi xử sự của nạn nhân là
một trong các yếu tố thúc đẩy, làm phát sinh tội phạm. Những hành vi không
đúng chuẩn mực có thể là những hành vi như mất cảnh giác, coi thường sự
bảo vệ tính mạng, tài sản, hành vi không phù họp các chuẩn mực, thuần

phong, mỹ tục thậm chí là các hành vi trái pháp luật…
+ Nạn nhân không có lỗi là những người có những hành vi, xử sự hoàn
toàn đúng đắn, tuân thủ đúng những chuẩn mực đạo đức, thuần phong mỹ tục
và pháp luật. Hành vi của họ hoàn toàn không tạo điều kiện thuận lợi hay thúc
đẩy hành vi phạm tội. Nói cách khác, hành vi phạm tội hoàn toàn không liên
quan đến các hành vi, xử sự của họ.
- Căn cứ vào thể chất và trạng thái tinh thần cũng như đặc điểm tâm lý
hiểu biết, Hans Von Hentig phân chia nạn nhân thành 11 nhóm đặc thù, bao
gồm: nạn nhân là trẻ em (sự thiếu hiểu biết và kinh nghiệm sống); nạn nhân là
phụ nữ (đặc điểm về cơ thể, giới tính); nạn nhân là người già (đặc điểm về
tuổi tác cản trở nhận thức cũng như sự yếu đuối về thể chất); nạn nhân là
người mắc bệnh tâm thần, người tàn tật (đặc điểm về sức khoẻ, sự phụ thuộc
các chất cồn, chất gây nghiện hay ma tuý); nạn nhân là người trí tuệ kém phát
15


triển (mắc bệnh đao), người nhập cư và người thiểu số (đặc điểm sự khác biệt
về văn hoá, ngôn ngữ, thiếu hiểu biết về xã hội và pháp luật); nạn nhân là
những người tham lam hám lợi; nạn nhân là những người dâm đãng háo sắc;
nạn nhân là những người thích cô lập, ẩn dật và những người mắc bệnh (đặc
điểm dễ bị xâm hại); nạn nhân là người mắc các bệnh hiểm nghèo và nhóm
cuối cùng là nhóm nạn nhân bế tắc trong cuộc sống. [30] Mỗi nhóm nạn nhân
với những đặc điểm đặc trưng về tâm sinh lý sẽ tạo thuận lợi thúc đẩy quá
trình nạn nhân hoá một số nhóm tội nhất định.
Ngoài ra tội phạm học còn có nhiều sự phân loại nạn nhân của tội phạm
theo các căn cứ khác nhau, chẳng hạn: nếu dựa vào khách thể của tội phạm có
thể chia nạn nhân của tội phạm thành: nạn nhân của các tội xâm phạm về tính
mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự, nạn nhân của các tội phạm xâm phạm
sở hữu, nạn nhân của các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế…; nếu căn cứ
vào dấu hiệu chức vụ, quyền hạn của nạn nhân thì có thể chia thành nạn nhân

là người có chức vụ, quyền hạn và nạn nhân là người không có chức vụ,
quyền hạn; nếu căn cứ vào đặc thù về thể chất có thể phân chia thành nạn
nhân là người khuyết tật, nạn nhân là người bình thường…
1.2. Nạn nhân của tình hình tội phạm xâm phạm nhân thân
1.2.1. Khái niệm
Tình hình tội phạm là một hiện tượng xã hội, pháp lý - hình sự được
thay đổi về mặt lịch sử, mang tính chất giai cấp bao gồm tổng thể thông nhất
(hệ thống) các tội phạm thực hiện trong một xã hội (quốc gia) nhất định và
trong khoảng thời gian nhất định. [24]
Tình hình tội phạm xâm phạm nhân thân là tổng thể thống nhất các tội
phạm xâm phạm nhân thân thực hiện trong một xã hội, trong khoảng thời gian
nhất định.

16


Nạn nhân của tình hình tội phạm xâm phạm nhân thân là những cá nhân
phải chịu những thiệt hại trực tiếp về tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh
dự, nhân phẩm do tổng thể các tội phạm xâm phạm nhân thân thực hiện trong
một xã hội, trong khoảng thời gian và không gian nhất định.
Các tội phạm xâm phạm nhân thân trong phạm vi nghiên cứu của đề tài
này bao gồm các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của
con người được quy định tại Chương XII Bộ luật Hình sự năm 1999 (sửa đổi
bổ sung vào năm 2009) bao gồm 30 điều luật từ Điều 93 đến Điều 122. Cụ
thể: Điều 93 Tội giết người; Điều 94 Tội giết con mới đẻ; Điều 95 Tội giết
người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh; Điều 96 Tội giết người do
vựơt quá giới hạn phòng vệ chính đáng; Điều 97 Tội làm chết người trong khi
thi hành công vụ; Điều 98 Tội vô ý làm chết người; Điều 99 Tội vô ý làm chết
người do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính; Điều 100 Tội
bức tử; Điều 101 Tội xúi giục hoặc giúp người khác tự sát; Điều 102 Tội

không cứu giúp người đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng; Điều
103 Tội đe dọa giết người; Điều 104 Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn
hại cho sức khoẻ của người khác; Điều 105 Tội cố ý gây thương tích hoặc gây
tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động
mạnh; Điều 106 Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của
người khác do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng; Điều 107 Tội gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác trong khi thi hành
công vụ; Điều 108 Tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe
của người khác; Điều 110 Tội hành hạ người khác; Điều 111 Tội hiếp dâm;
Điều 112 Tội hiếp dâm trẻ em; Điều 113 Tội cưỡng dâm; Điều 114 Tội cưỡng
dâm trẻ em; Điều 115 Tội giao cấu với trẻ em; Điều 116 Tội dâm ô đối với trẻ
em; Điều 117 Tội lây truyền HIV cho người khác; Điều 118 Tội cố ý truyền
HIV cho người khác; Điều 119 Tội mua bán người; Điều 120 Tội mua bán,

17


đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em; Điều 121 Tội làm nhục người khác; Điều
122 Tội vu khống. [10], [11]
Theo Bộ luật Hình sự năm 2015 thay thế Bộ luật Hình sự 1999 (sửa
đổi, bổ sung năm 2017), các tội xâm phạm nhân thân trong phạm vi nghiên
cứu của đề tài thuộc Chương XIV bao gồm 46 điều, từ Điều 123 đến Điều
156. Cụ thể: Điều 123 Tội giết người; Điều 124 Tội giết hoặc vứt bỏ con mới
đẻ; Điều 125 Tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh;
Điều 126 Tội giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc do
vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội; Điều 127 Tội làm chết
người trong khi thi hành công vụ; Điều 128 Tội vô ý làm chết người; Điều
129 Tội vô ý làm chết người do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc
hành chính; Điều 130 Tội bức tử; Điều 131 Tội xúi giục hoặc giúp người khác
tự sát; Điều 132 Tội không cứu giúp người đang ở trong tình trạng nguy hiểm

đến tính mạng; Điều 133 Tội đe dọa giết người; Điều 134 Tội cố ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác; Điều 135 Tội cố ý
gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng
thái tinh thần bị kích động mạnh; Điều 136 Tội cố ý gây thương tích hoặc gây
tổn hại cho sức khỏe của người khác do vượt quá giới hạn phòng vệ chính
đáng hoặc do vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội; Điều 137
Tội gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong khi
thi hành công vụ; Điều 138 Tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe của người khác; Điều 139 Tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho
sức khỏe của người khác do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành
chính; Điều 140 Tội hành hạ người khác; Điều 141 Tội hiếp dâm; Điều 142
Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi; Điều 143 Tội cưỡng dâm; Điều 144 Tội
cưỡng dâm người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi; Điều 145 Tội giao cấu hoặc
thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16
tuổi; Điều 146 Tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi; Điều 147 Tội sử dụng
18


người dưới 16 tuổi vào mục đích khiêu dâm; Điều 148 Tội lây truyền HIV
cho người khác; Điều 149 Tội cố ý truyền HIV cho người khác; Điều 150 Tội
mua bán người; Điều 151 Tội mua bán người dưới 16 tuổi; Điều 152 Tội đánh
tráo người dưới 01 tuổi; Điều 153 Tội chiếm đoạt người dưới 16 tuổi; Điều
154 Tội mua bán, chiếm đoạt mô hoặc bộ phận cơ thể người; Điều 155 Tội
làm nhục người khác; Điều 156 Tội vu khống. [12], [13]
Các tội xâm phạm nhân thân thông qua sự tác động làm biến đổi tình
trạng bình thường của đối tượng tác động - con người đang sống. Do đặc
điểm của hành vi phạm tội của các tội xâm phạm nhân thân của con người là
hành vi gây thiệt hại trực tiếp cho các nạn nhân của tội phạm, do đó chủ thể
của hành vi phạm tội luôn luôn là cá nhân, nghĩa là nạn nhân của các loại tội
phạm này là cá nhân chứ không thể là tổ chức.

1.2.2. Đặc điểm
- Nạn nhân của tình hình tội phạm xâm phạm nhân thân chỉ có thể là cá
nhân con người chứ không bao gồm các tổ chức.
Mặc dù nạn nhân của tội phạm bao gồm cá nhân, tổ chức bị hành vi
phạm tội tác động gây thiệt hại. Tuy nhiên, trong các tội xâm phạm nhân thân
thì nạn nhân chỉ có thể là cá nhân cụ thể. Hành vi phạm tội xâm phạm nhân
thân của con người chỉ có thể xâm phạm, gây thiệt hại cho các cá nhân chứ
không thể gây thiệt hại cho các tổ chức. Bởi vì thiệt hại gây ra trong các tội
xâm phạm nhân thân có thể là tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự. Đây
là các thiệt hại chỉ gắn liền với con người. Các tổ chức không thể chịu các
thiệt hại này.
- Thiệt hại của các nạn nhân của tình hình tội phạm nhân thân có thể là
tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự, tinh thần, tình cảm hoặc kinh tế
của con người. Trong đó thiệt hại về tính mạng là thiệt hại nghiêm trọng nhất
mà nạn nhân phải gánh chịu.

19


×