Tải bản đầy đủ (.docx) (74 trang)

Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng trong các vụ án tai nạn giao thông đường bộ từ thực tiễn tỉnh quảng nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (312.44 KB, 74 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

LƯƠNG THỊ SINH

BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI NGOÀI HỢP ĐỒNG
TRONG CÁC VỤ TAI NẠN GIAO THÔNG
ĐƯỜNG BỘ TỪ THỰC TIỄN TỈNH QUẢNG NAM

LUẬN VẪN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI, Năm 2018


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

LƯƠNG THỊ SINH

BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI NGOÀI HỢP ĐỒNG
TRONG CÁC VỤ TAI NẠN GIAO THÔNG
ĐƯỜNG BỘ TỪ THỰC TIỄN TỈNH QUẢNG NAM

Chuyên ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 838.01.07

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. Lê Đình Nghị



LỜI CẢM ƠN

Được sự phân công của Khoa Luật, Viện Hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam,
Học viện khoa học xã hội,và sự đồng ý của thầy giáo hướng dẫn Tiến sĩ Lê Đình
Nghị, tôi đã thực hiện đề tài: “Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng trong các vụ tai
nạn giao thông đường bộ từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam.”
Thực tế luôn cho thấy, sự thành công nào cũng đều gắn liền với những sự hỗ
trợ, giúp đỡ của những người xung quanh dù cho sự giúp đỡ đó là ít hay nhiều, trực
tiếp hay gián tiếp.
Với tấm lòng biết ơn vô cùng sâu sắc, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành đến
Thầy cô đã giảng dạy, truyền thụ nhiều kiến thức và kinh nghiệm thực tiễn giúp tôi
nâng cao sự hiểu biết, thêm nhiều kiến thức hữu ích trong cuộc sống.
Đặc biệt, tôi xin chân thành cảm ơn Tiến sĩ Lê Đình Nghị đã tận tâm chỉ bảo
hướng dẫn tôi qua từng buổi học, từng buổi nói chuyện, thảo luận về đề tài nghiên
cứu. Nhờ có những lời hướng dẫn, dạy bảo đó, bài luận văn này của tôi đã hoàn
thành một cách suất sắc nhất. Một lần nữa, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành đến
thầy.
Gia đình, bạn bè, các anh chị em trong trong lớp cao học Luật kinh tế khóa 7
đợt 1 năm 2016 đã luôn khích lệ, hỗ trợ tôi trong suốt quá trình học tập


LỜI CAM ĐOAN

Bài luận văn được thực hiện trong 3 tháng. Do vậy, không tránh khỏi những
thiếu sót, tôi rất mong nhận được ý kiến đóng góp của quý Thầy Cô và các anh chị
em trong lớp để bài luận văn được hoàn thiện hơn.
Tôi xin cam đoan Luận văn này là công trình nghiên cứu của riêng tôi, mọi
lý luận, thực tiễn dẫn chứng trong luận văn là trung thực và được tìm hiểu trong tài
liệu tham khảo.

Tác giả luận văn

LƯƠNG THỊ SINH


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU.................................................................................................................. 1
Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT
HẠI TRONG CÁC VỤ TAI NẠN GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ. 6
1.1.
Khái niệm trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong các vụ tai nạn
giao
thông đường bộ.......................................................................................................6
1.2.
Nguyên tắc bồi thường thiệt hại trong các vụ tai nạn giao thông
đường bộ
.............................................................................................................................. 15
1.3.
Chủ thể của bồi thường thiệt hại trong các vụ tai nạn giao thông
đường bộ
............................................................................................................................21
1.4....................................................................................................................Các
trường hợp miễn trừ trách nhiệm bồi thường........................................24
Chương 2. THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT BỒI THƯỜNG
THIỆT HẠI TRONG CÁC VỤ TAI NẠN GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ
..............................................................................................................................31
2.1.
Khái quát tình hình tại nạn giao thông đường bộ trên địa bàn tỉnh
Quảng
Nam....................................................................................................................... 31

2.2.
Vấn đề bồi thường thiệt hại trong các vụ tai nạn giao thông đường
bộ
trong thực tiễn trên địa bàn tỉnh........................................................................33
2.3....................................................................................................................Hoà
giải khi tại nạn giao thông xảy ra............................................................42
2.4.
Thực tiễn áp dụng pháp luật trách nhiệm bồi thường thiệt hại
trong các vụ
tại nạn giao thông đường bộ trên địa bàn tỉnh Quảng Nam.............................42
2.5....................................................................................................................Xác
định thiệt hại trong các vụ tai nạn giao thông đường bộ.......................47
2.6.
Xác định trách nhiệm của các chủ thể trong việc bồi thường thiệt
hại trong các vụ tai nạn giao thông đường bộ...................................................56


Chương 3. HƯỚNG HOÀN THIỆN VIỆC BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI
TRONG CÁC VỤ TAI NẠN GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ TRÊN ĐỊA BÀN
TỈNH QUẢNG NAM........................................................................................62
3.1.
Ban hành thêm những quy định điều chỉnh vấn đề bồi thường thiệt
hại
trong các vụ tai nạn giao thông đường bộ..........................................................62
3.2.
Bổ sung quy định về trách nhiệm của việc giám định và cơ quan
bảo
hiểm ..................................................................................................................... 63
3.3.
Kiến nghị về công tác giám định kỹ thuật hình sự của Cơ quan

giám định
trong vụ tai nạn giao thông đường bộ................................................................66
KẾT LUẬN..............................................................................................................69
TÀI LIỆU THAM KHẢO.........................................................................................71
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 3.1. Tình hình tai nạn giao thông đường trên địa bàn tỉnh Quảng Nam qua các
năm........................................................................................................................ 31


MỞ ĐẦU


_



>

. Tính câp thiêt của việc nghiên cứu đê tài
Đã từ lâu, tai nạn giao thông luôn là vấn đề nhức nhối của toàn xã hội. Theo
báo cáo của Ủy ban An toàn giao thông Quốc gia, năm 2017, toàn quốc xảy ra 20.080
vụ tai nạn giao thông, làm chết 8.279 người, bị thương 17.040 người. (1). Đáng báo
động là các vụ tai nạn xảy ra ngày càng nghiêm trọng, thể hiện qua số người chết tăng
mạnh. Nguyên nhân gây ra tai nạn giao thông ở nước ta xuất phát từ nhiều yếu tố. Đó
là sự hiểu biết còn hạn chế về an toàn giao thông, về các hành vi lái xe an toàn, môi
trường giao thông không an toàn và cơ sở hạ tầng giao thông nghèo nàn, việc chấp
hành luật lệ giao thông còn kém. Đồng thời, việc người dân sử đã sử dụng rượu bia,
nồng độ cồn trong máu quá mức cho phép cũng là nguyên nhân gây ra những vụ tai
nạn không đáng có. Tai nạn giao thông và những thiệt hại do tai nạn gây ra đang là nỗi
lo của toàn xã hội. Đó là thiệt hại về sinh mạng, thiệt hại về nhân lực, trí tuệ, gây tổn

thương về tinh thần.
Thực tiễn xét xử các vụ án tai nạn giao thông đường bộ không phải trường
hợp yêu cầu bồi thường thiệt hại nào cũng được giải quyết một cách thoả đáng, đúng
pháp luật; quyền và lợi ích hợp pháp của công dân nhiều trường hợp chưa được bảo
vệ. Bồi thường thiệt hại trong các vụ án tai nạn giao thông có thể đơn thuần là vụ việc
dân sự, cũng có thể là phần dân sự trong vụ án hình sự. Trên nguyên tắc tôn trọng sự
tự thỏa thuận của các đương sự, nếu các bên tự thỏa thuận được với nhau về mức bồi
thường, phương thức bồi thường thì pháp luật sẽ ghi nhận. Trường hợp các bên không
thỏa thuận được về mức bồi thường, phương thức bồi thường thì có quyền yêu cầu
Tòa án giải quyết. Điều đáng nói là trong các vụ việc có hậu quả giống nhau (người bị
hại chết) không phải vụ việc nào cũng được giải quyết giống nhau về mức bồi thường.
Hơn nữa qui định của pháp luật về vấn đề này chủ yếu dừng lại ở các qui định mang

1


tính "định tính" mà không quy định dưới dạng quy phạm "định lượng", gây khó khăn
rất nhiều cho việc áp dụng pháp luật.
Xuất phát từ tình hình đó, việc nghiên cứu, tìm hiểu các qui định của pháp luật
về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng nói chung và trách nhiệm bồi
thường thiệt hại trong các vụ án tại nạn giao thông đường bộ nói riêng là một trong
những vấn đề có ý nghĩa pháp lý và thực tiễn sâu sắc.
Vì các lý do trên, tác giả lựa chọn đề tài: “Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
trong các vụ án tai nạn giao thông đường bộ từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam” làm luận
văn tốt nghiệp thạc sĩ.
2. Tình hình nghiên cứu
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng ngoài hợp đồng nói chung
và trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong các vụ tai nạn giao thông nói riêng đã được
nhiều nhà khoa học nghiên cứu ở nhiều góc độ tiếp cận khác nhau. Tiêu biểu phải kể
đến: Nguyễn Thanh Hồng, “Trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong các vụ tai nạn

giao thông đường bộ”, luận án tiến sĩ luận học; Trần Thị Thu Hiền, "Những nguyên
tắc bồi thường thiệt hại trong luật dân sự Việt Nam", luận án tiến sĩ luật học; Trần Văn
Tâm, “Trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong các vụ tai nạn giao thông đường bộ thực tiễn taị tỉnh Quảng Ngãi ”, luận văn thạc sĩ luật học... Nhìn chung, các công trình
nghiên cứu đều đã nêu và phân tích những vấn đề lý luận chung về trách nhiệm bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng; đưa ra các nội dung cơ bản trong việc xác định trách
nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, các quy định của pháp luật dân sự trong
việc bồi thường thiệt hại do xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm và
uy tín, cơ sở để xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại, các hình thức và mức bồi
thường, những trường hợp miễn hoặc giảm trách nhiệm bồi thường trong từng trường
hợp cụ thể.
Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu trên thực hiện trên cơ sở nghiên cứu các
quy định của Bộ luật dân sự 2005. Hiện nay Bộ luật dân sự 2005 đã được thay thế

2


bằng Bộ luật dân sự 2015, trong đó có nhiều sửa đổi, bổ sung liên quan đến chế định
trách nhiệm chế định bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Vì vậy, việc nghiên cứu chế
định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoại hợp đồng trong Bộ luật dân sự 2015
nói chung và trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong vụ tai nạn giao thông nói riêng là
cần thiết, có ý nghĩa thực tiễn.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận văn là làm sáng tỏ những vấn đề lý luận chung
và thực tiễn áp dụng trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong các vụ án tai nạn giao
thông đường bộ, gồm: khái niệm trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng, khái niệm
TNGT đường bộ và trách nhiệm BTTH trong các vụ TNGTĐB, các nguyên tắc
BTTH, lịch sử hình thành và phát triển các quy định pháp luật BTTH trong các vụ
TNGT đường bộ. Từ đó, đưa ra những giải pháp hoàn thiện pháp luật về vấn đề này,
cũng như đưa ra được những kiến nghị nhằm góp phần vào thực tiễn giải quyết việc

BTTH trong các vụ TNGTĐB.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu trên đây, tác giả đã đưa ra và giải quyết các
nhiệm vụ nghiên cứu sau đây:
- Nghiên cứu sự hình thành và phát triển của chế định BTTH ngoài hợp đồng
nói chung và TNBTTH trong các vụ TNGTĐB trong lịch sử lập pháp Việt Nam. Từ
đó xây dựng khái niệm về TNGT đường bộ, trách nhiệm BTTH trong vụ TNGTĐB
- Tổng kết thực tiễn giải quyết BTTH trong các vụ TNGTĐB trên địa bàn
tỉnh Quảng Nam trong những năm qua gắn với lý luận, căn cứ vào các quy định của
BLDS 2015và các quy định khác của pháp luật làm cơ sở cho việc giải quyết BTTH
trong các vụ TNGTĐB.
- Đề xuất các biện pháp phòng ngừa các vụ TNGTĐB và hướng hoàn thiện
pháp luật việc BTTH trong các vụ TNGTĐB.

3


4. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Những vấn đề lý luận chung về trách nhiệm bồi
thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ nói chung và trách nhiệm bồi thường
thiệt hại trong các vụ án tai nạn giao thông đường bộ nói riêng; căn cứ pháp lý của
TNBTTH và thực tiễn giải quyết BTTH trong các vụ TNGTĐB.
Phạm vi nghiên cứu: TNBTTH trong các vụ TNGTĐB là một vấn đề phức
tạp không những về mặt lý luận mà cả về mặt thực tiễn. Luận văn chỉ tập trung nghiên
cứu, xây dựng khái niệm TNBTTH trong các vụ TNGTĐB, nguyên nhân điều kiện và
tình hình của TNGTĐB, các nguyên tắc cơ bản và cơ sở pháp lý của việc BTTH trong
các vụ TNGTĐB; thực tiễn việc áp dụng trách nhiệm BTTH trong một vụ tai nạn giao
thông. Trên cơ sở đó đưa ra một số giải nhằm pháp hoàn thiện pháp luật hệ thống pháp
luật hiện hành liên quan đến vấn đề nghiên cứu.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu

Phương pháp luận của luận văn là quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước ta về Nhà nước và Pháp
luật, về phát triển nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng
xã hội chủ nghĩa; những thành tựu của các khoa học: triết học, lôgíc học, luật dân sự,
tâm lý học... Luận văn được trình bày trên cơ sở nghiên cứu các văn bản quy phạm
pháp luật dân sự, các văn bản hướng dẫn áp dụng pháp luật dân sự, các bản án, quyết
định của Tò
a án nhân dân các cấp, các tài liệu của Phòng Cảnh sát giao thông đường bộ
tỉnh Quảng Nam.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Ý nghĩa lý luận: Luận văn góp hoàn chính các vấn đề lý luận liên quan đến
trách nhiệm bồi thường thiệt hại nói chung, và trong lĩnh vực giao thông đường bộ nói
riêng.

4


Ý nghĩa thực tiễn: Các kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ có thể dùng để
tham khảo trong việc hoàn thiện pháp luật về chế định BTTH ngoài hợp đồng cũng
như trong việc hướng dẫn việc giải quyết BTTH ngoài hợp đồng nói chung và BTTH
trong các vụ TNGTĐB nói riêng. Đặc biệt, những kiến nghị được đưa ra trong luận
văn có giá trị tham khảo cho cơ quan làm công tác xây dựng pháp luật trong việc xây
dựng và hoàn thiện chế định trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng nói
chung và các quy định về bồi thường thiệt hại trong các vụ tai nạn giao thông nói
riêng.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong các vụ tai
nạn giao thông đường bộ

Chương 2: Cơ sở pháp lý của trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong các vụ
án tai nạn giao thông
Chương 3: Thực trạng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về bồi thường thiệt
hại trong các vụ án tai nạn giao thông tại tỉnh Quảng Nam
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI
TRONG CÁC VỤ TAI NẠN GIAO THÔNG
ĐƯỜNG BỘ
1.1. Khái niệm trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong các vụ tai nạn giao
thông đường bộ
1.1.1. Khái niệm tai nạn giao thông đường bộ
Tai nạn là một hiện tượng thường xảy ra trong đời sống xã hội, gây tổn thất về
tính mạng, sức khỏe, tài sản của con người và xã hội. Một trong những tai nạn làm

5


mất ổn định trật tự an toàn xã hội, gây ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống, tính mạng
con người đòi hỏi các ngành, cơ quan chức năng luôn phải có những giải pháp chế
ngự, làm giảm tiến tới loại trừ ra khỏi đời sống xã hội là tai nạn giao thông đường bộ.
Vậy tai nạn giao thông đường bộ được hiểu như thế nào?
Trong lĩnh vực pháp luật, chưa có một định nghĩa chính thức về tai nạn nói
chung. Tuy nhiên, trong một số quy phạm pháp luật của một số ngành luật và trong
lĩnh vực nghiên cứu khoa học pháp lý, đã có một số quy định dưới dạng khái niệm về
tai nạn trong từng lĩnh vực cụ thể.
Theo Điều 5 Thông tư số 58/2009/TTBCA(C11), ngày 28/10/2009 của Bộ
trưởng Bộ Công an qui định và hướng dẫn, tổng hợp, xây dựng cơ sở dữ liệu, cung
cấp thông tin TNGT đường bộ: “TNGT đường bộ là sự việc xảy ra do người tham gia
giao thông đang hoạt động trên mạng lưới giao thông đường bộ vi phạm các qui định
về trật tự, an toàn giao thông đường bộ hay gặp phải sự cố bất ngờ gây ra những thiệt

hại nhất định đến tính mạng, sức khỏe của con người hoặc tài sản của cơ quan, tổ
chức, cá nhân”.
Tại tiểu mục 1901 mục 19 Nghị định số 97/2016/NĐ-CP, ngày 1/7/2016 của
Chính phủ quy định nội dung chỉ tiêu thống kê thuộc hệ thống chỉ tiêu thống kê quốc
gia - Trật tự, an toàn xã hội và tư pháp, phần phụ lục của Nghị định số 97, qui định:
“TNGT là sự kiện bất ngờ, nằm ngoài ý muốn chủ quan của con người, xảy ra khi các
đối tượng tham gia giao thông đang hoạt động trên đường giao thông công cộng,
đường chuyên dùng hoặc ở các địa bàn giao thông công cộng (gọi là mạng lưới giao
thông: Đường bộ, đường sắt, đường thủy, đường hàng không), nhưng do chủ quan, vi
phạm các quy tắc an toàn giao thông hoặc do gặp phải các tình huống, sự cố đột xuất
không kịp phòng tránh, đã gây ra những thiệt hại nhất định cho tính mạng, sức khỏe
con người hoặc tài sản”[2].
Theo tác giả Vũ mạnh Thắng, "Tai nạn là sự việc xảy ra bất ngờ do người
tham gia giao thông hoặc vi phạm các quy định về trật tự an toàn giao thông hoặc gặp

6


phải tình huống, sự cố đột xuất, không kịp xử lý, có thiệt hại về tính mạng, sức khỏe
con người, thiệt hại về tài sản" [4, tr. 76].
Theo chúng tôi ba khái niệm trên, đều chỉ ra những dấu hiệu của TNGT là
một sự kiện gây nên thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, tài sản cho con người. Tuy
nhiên các khái niệm đã nêu còn chưa hoàn chỉnh, thiếu sót về mặt phạm vi. Có thể
thấy rằng TNGT là một sự kiện thực tế trong xã hội, có hai mặt.
Mặt thứ nhất là nguyên nhân của TNGT. Nguyên nhân của TNGT có thể: do
vi phạm các quy định về an toàn GTVT; do những hành vi cản trở GTVT; do đưa vào
sử dụng các phương tiện GTVT không bảo đảm an toàn hoặc điều động người không
đủ điều kiện điều khiển phương tiện GTVT; do gặp sự cố đột xuất không thể xử lý
được hoặc do các trường hợp bất khả kháng.
Mặt thứ hai là hậu quả của TNGT. Hậu quả của TNGT có thể làm thiệt hại về tính

mạng, thiệt hại về sức khỏe, thiệt hại về tinh thần, thiệt hại về tài
sản cho các con người. [25]
Tuy nhiên, cần phân biệt, không phải mọi trường hợp xâm phạm đến tính mạng,
sức khỏe, tài sản của cá nhân, tài sản của pháp nhân hoặc các chủ thể khác trong khi
tham gia giao thông đều gọi là tai nạn giao thông mà tùy từng trường cụ thể để xác
định hành vi vi phạm tương ứng. Ví dụ: A có mâu thuẫn với B. Biết B đang trên
đường đi từ nơi làm việc về nhà, A đã dùng xe ôtô phóng nhanh cố ý đâm vào B với
mục đích giết B. Hậu quả là B bị chết. Trong trường hợp này không thể gọi là tai nạn
giao thông mà đây là một vụ án giết người.
Từ sự phân tích trên có thể đưa ra khái niệm chung về TNGTĐB như sau:
“TNGTĐB là sự kiện bất ngờ xảy ra do người tham gia giao thông vi phạm các quy
định về trật tự an toàn giao thông đường bộ hoặc do những tình huống, sự cố đột
xuất, gây ra những thiệt hại nhất định đến tính mạng, sức khỏe, tài sản và tổn thất về
tinh thần của con người ”.

7


1.1.2. Khái niệm bồi thường thiệt hại trong các vụ tai nạn giao thông đường
bộ
1.1.21. Khái niệm chung về nguồn nguy hiểm cao độ
Theo khoản 1 Điều 601 BLDS năm 2015, quy định:
“Nguồn nguy hiểm cao độ bao gồm phương tiện giao thông vận tải cơ giới, hệ
thống tải điện, nhà máy công nghiệp đang hoạt động, vũ khí, chất nổ, chất cháy, chất
độc, chất phóng xạ, thú dữ và các nguồn nguy hiểm cao độ khác do pháp luật quy
định ” [4]
Theo Từ điển luật học thì “nguồn nguy hiểm cao độ là vật mà khi bảo quản, sản
xuất, vận hành, dịch chuyển có tiềm năng gây thiệt hại cho môi trường và người xung
quanh ”[29]
Hiện nay, trong các giáo trình luật học cũng như trong các văn bản pháp luật

khác vẫn chưa có khái niệm cụ thể về nguồn nguy hiểm cao độ mà chỉ dừng lại dưới
dạng liệt kê nguồn nguy hiểm cao độ. Theo đó, nguồn nguy hiểm cao độ được hiểu là
những vật đang tồn tại hiện hữu mà hoạt động vận hành, sản xuất, vận chuyển, bảo
quản... chúng luôn chứa đựng khả năng gây thiệt hại cho môi trường và những người
xung quanh mà con người không thể kiểm soát hoàn toàn nguy cơ gây thiệt hại.
Nguồn nguy hiểm cao độ được xác định là phương tiện giao thông vận tải cơ
giới bao gồm phương tiện giao thông đường bộ, đường thủy, đường sắt, đường hàng
không. Trong đó, phương tiện giao thông đường bộ được xác định là xe ô tô; máy kéo;
rơ moóc hoặc sơ mi rơ moóc được kéo bởi xe ô tô, máy kéo; xe mô tô hai bánh; xe mô
tô ba bánh; xe gắn máy (kể cả xe máy điện) và các loại xe tương tự (khoản 18 Điều 3
Luật giao thông đường bộ); các phương tiện giao thông đường thủy như tàu biển;
phương tiện giao thông đường không như tàu bay, đường sắt như tàu hỏa. Các hệ
thống điện lực theo quy định của Luật điện lực cũng được xem như là nguồn nguy
hiểm cao độ bởi nó chứa đựng khả năng gây thiệt hại cho con người và tài sản. Ngoài
ra, nhà máy công nghiệp đang hoạt động; vũ khí quân dụng, vũ khí thể thao; các loại

8


thú dữ như hổ, báo, sư tử..; chất nổ, chất cháy, chất phóng xạ đang trong quá trình vận
hành, hoạt động và các nguồn nguy hiểm cao độ khác được quy định trong các văn
bản pháp luật khác [1]. Tuy nhiên, để xác định nguồn nguy hiểm cao độ cần phải căn
cứ vào khoản 1 Điều 601 BLDS 2015 và văn bản quy phạm pháp luật khác có liên
quan hoặc quy định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền về lĩnh vực cụ thể đó.
Theo chúng tôi thì để xác định nguồn nguy hiểm cao độ cần dựa trên đặc trưng
như: Tài sản được coi là nguồn nguy hiểm cao độ tiềm ẩn nhiều nguy cơ gây thiệt hại
cho con người, ngay cả khi đã kiểm soát chúng một cách chặt chẽ; Nguồn nguy hiểm
cao độ luôn phải đặt trong một sự chiếm hữu, quản lý, sử dụng của chủ thể nào đó, khi
ấy mới có thể đặt trách nhiệm cho chủ thể
đang chiếm hữu, quản lý, sử dụng.

1.1.2.2.

Khái niệm bồi thường trong các vụ tại nạn giao thông đường bộ

Như đã biết, trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng là một chế định có từ rất sớm
của luật dân sự. Trải qua các thời kỳ lịch sử khác nhau và tại các quốc gia khác nhau,
quy định về trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng cũng có sự khác biệt.
Ở Việt Nam, cổ luật không quy định riêng về trách nhiệm bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng. Các cổ luật của Việt Nam quy định các hình phạt của Luật hình sự
nhưng các hình phạt này mang tính dân sự. Chẳng hạn, nếu đánh người gây thương
tích, ngoài hình phạt bằng roi thì người phạm tội còn phải chịu một khoản tiền phạt
theo mức quy định tại Điều 446 Bộ Luật Hồng Đức [5]: “Sưng phù thì phải đền tiền
thương tổn ba tiền, chảy máu thì phải một quan, gãy một ngón tay, một răng thì phải
đền mười quan, đâm chém bị thương thì 15 quan....”.
Do sự phát triển của xã hội, trách nhiệm BTTH không còn được coi là một hình
phạt trong hình luật nữa mà nó được coi là nghĩa vụ, bổn phận của người gây thiệt hại
trái pháp luật. Theo đó, người gây thiệt hại trái pháp luật buộc phải có nghĩa vụ, bổn
phận bồi thường cho người bị thiệt hại nhằm khôi phục lại tình trạng ban đầu cho
người bị thiệt hại.

9


Tiếp tục kế thừa các bản Hiến pháp trước đây, Hiến pháp 2013 nước ta tiếp tục
khẳng định: “Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo
hộ về sức khỏe, danh dự, nhân phẩm.” [19]. Vì vậy, mỗi người sống trong xã hội đều
phải tôn trọng quy tắc chung của xã hội, không thể vì lợi ích của mình mà xâm phạm
đến quyền và lợi ích hợp pháp của người khác. Khi một người vi phạm nghĩa vụ pháp
lý của mình gây tổn hại cho người khác thì chính người đó phải chịu bất lợi do hành vi
của mình gây ra. Sự gánh chịu một hậu quả bất lợi bằng việc bù đắp tổn thất cho

người khác
được hiểu là bồi thường thiệt hại.
Theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành thì trách nhiệm BTTH được
BLDS 2015 quy định về trách nhiệm dân sự nói chung và chương XX về trách nhiệm
BTTH ngoài hợp đồng. Tuy nhiên, trong cả hai phần này đều không nêu rõ khái niệm
trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng mà chỉ nêu lên căn cứ phát sinh trách nhiệm,
nguyên tắc bồi thường, năng lực chịu trách nhiệm bồi thường và thời hạn hưởng bồi
thường...
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng được áp dụng với mọi cá nhân,
pháp nhân và các chủ thể khác. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là
quy định của pháp luật dân sự, xác định người có hành vi xâm phạm đến tài sản, sức
khỏe, tính mạng, danh dự, nhân phẩm, uy tín, các quyền và lợi ích hợp pháp khác của
các chủ thể khác và gây ra thiệt hại thì phải bồi thường những thiệt hại do mình gây
ra.
Như vậy, có thể hiểu trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng là một loại trách nhiệm
dân sự mà theo đó một người vi phạm nghĩa vụ ngoài hợp đồng xâm phạm đến quyền
và lợi ích hợp pháp của người khác phải bồi thường những tổn thất mà mình gây ra.
Là một dạng cụ thể của trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng. Trách nhiệm bồi
thường thiệt hại trong các vụ tai nạn giao thông phát sinh khi các vụ tai nạn giao thông
đường bộ xảy ra làm thiệt hại đến tính mạng, sức khỏe, tài sản của con người, của tổ

10


chức, Nhà nước. Từ đó, có thể đưa ra khái niệm trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong
các vụ TNGTĐB: “Trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong các vụ tai nạn giao thông
đường bộ là một loại trách nhiệm dân sự, phát sinh khi một người có hành vi vi phạm
các quy định về an toàn giao thông đường bộ xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe tài
sản của cá nhân, xâm phạm đến tài sản của pháp nhân, của Nhà nước thì phải bồi
thường thiệt hại do mình gây ra ".

1.1.3. Đặc điểm, ý nghĩa của trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong các vụ
án tai nạn giao thông đường bộ
1.13.1. Đặc điểm của trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong các vụ tai nạn giao
thông đường bộ
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong các vụ án tai nạn giao thông là một dạng
cụ thể của trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Do đó, nó cũng mang
những đặc chung của trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Tuy nhiên,
trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong các vụ TNGTĐB còn có những đặc điểm riêng
sau:
Một là, căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại: Các vụ tai nạn giao
thông đường bộ có thể do hành vi con người gây ra, nhưng cũng có thể do bản thân
phương tiện giao thông đường bộ gây ra . Nếu tai nạn giao thông do hành vi của con
người gây ra với sự tham gia của phương tiện giao thông vận tải cơ giới như điều
khiển phương tiện giao thông chạy quá tốc độ quy định, vượt đèn đỏ,... gây tai nạn thì
cứ phát sinh giống như TNBT thiệt hại nói chung, phải thỏa mạn bốn điều kiện: Có
thiệt hại thực tế xảy ra; Có hành vi trái pháp luật; Có mối quan hệ nhân quả giữa hành
vi gây thiệt hại trái pháp luật và thiệt hại xảy ra; và có lỗi của người gây thiệt hại.
Tuy nhiên, so với căn cứ phát sinh trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng nói
chung, trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong các vụ TNGT cũng có những đặc thù
riêng. Trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài nói chung về hình thức lỗi có thể
là lỗi vô ý hoặc cố ý. Còn trong các vụ tai nạn giao thông đường bộ thì hình thức lỗi

11


luôn là lỗi vô ý. Trong các vụ TNGT đường bộ có thể có lỗi cố ý về hành vi, nhưng vô
ý về hậu quả như trong các vụ đua xe trái phép, vượt đèn đỏ,. nhưng bản thân họ hoàn
toàn không mong muốn hậu quả xảy ra, mặc dù tai nạn có thể xảy ra. Nếu người điều
khiển phương tiện giao thông mong muốn TNGT xảy ra thì họ sẽ phải chịu trách
nhiệm

hành chính hoặc trách nhiệm hình sự về hành vi tương ứng của họ. [13]
Trong trường hợp tai nạn giao thông đường bộ do phương tiện giao thông vận tải
cơ giới gây ra thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại phát sinh chỉ cần thỏa mãn ba điều
kiện: Có sự kiện gây thiệt hại trái pháp luật; Có thiệt hại thực tế xảy ra; Có mối quan
hệ nhận quả giữa sự kiện gây thiệt hại trái pháp luật và hậu quả xảy ra.
Sẽ là không hợp lý khi tự bản thân phương tiện giao thông vận tải cơ giới gây
thiệt hại mà lại xem xét đến yếu tố hành vi gây thiệt hại. Bởi vì, thuật ngữ hành vi gây
thiệt hại chỉ đúng khi thiệt hại do con người gây ra. Do vậy, trong các vụ TNGT
đường bộ do bản thân phương tiện giao thông cơ giới đường bộ gây ra chỉ cần xác
định chính xác sự kiện gây thiệt hại là nguyên nhân trực tiếp làm phát sinh thiệt hại
xảy ra có mối quan hệ nhân quả với nhau thì sẽ làm phát sinh trách nhiệm bồi thường
thiệt hại của các chủ thể.
Trường hợp TNGT đường bộ do nguồn nguy hiểm cao độ là phương tiện giao
thông cơ giới đường bộ gây ra thì yếu tố lỗi không được coi là một trong những căn
cứ làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Bởi vì, theo quan niệm truyền
thống thì lỗi chỉ được xem xét gắn với con người. Vì vậy, không gắn yếu tố lỗi khi bản
thân phương tiện giao thông cơ giới đường bộ gây thiệt hại. Chủ sở hữu, người được
chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ thì phải chịu trách
nhiệm bồi thường ngay cả khi không có lỗi.
Hai là, về đổi tượng xâm hại. Nếu như trong BTTH ngoài hợp đồng nói chung
đối tượng xâm hại có thể là tài sản, tính mạng, sức khỏe , danh dự, nhân phẩm của cá
nhân, pháp nhân thì trong các vụ tai nạn giao thông đường bộ, đối tượng xâm hại chỉ

12


có thể là tính mạng, sức khỏe, tài sản. Do đó, trong các vụ tai nạn giao thông bộ sẽ
không phát sinh trách nhiệm BTTH về danh dự, nhân phẩm, uy tín. Ngoài ra, đối
tượng xâm hại trong các vụ TNGT đường bộ có thể làm phát sinh trách nhiệm BTTH
về môi trường và khắc phục hậu quả gây ra ô nhiễm môi trường như lỗi thải mùi hôi

thối vào không khí...
Ba là, về chủ thể chịu trách nhiệm BTTH. Chủ thể chịu trách nhiệm BTTH
trong các vụ TNGT rất đa dạng và phức tạp. Tùy vào từng hoàn cảnh cụ thể, chủ thể
có trách nhiệm BTTH trong các vụ TNGT có thể là một hoặc một số chủ thể trong các
chủ thể sau: Người gây tai nạn giao thông đường bộ, cha mẹ hoặc người giám hộ của
người gây tai nạn nếu người gây tai nạn là người chưa thành niên, trường học bệnh
viện hoặc cơ quan có trách nhiệm quản lý gây tai nạn là người chưa đủ mười lăm tuổi,
người mất năng lực hành vi dân sự đang trong thời gian trường học, bệnh viện quản
lý. Pháp nhân trong trường hợp người gây tai nạn là người của pháp nhân, cơ quan
quản lý cán bộ, công chức trong khi thi hành công vụ. Người sử dụng lao động trong
trường hợp người lao động gây tai nạn trong khi thực hiện công việc được giao. Chủ
sở hữu phương tiện giao thông cơ giới đường bộ. Người được chủ sở hữu phương tiện
giao thông cơ giới đường bộ chuyển giao quyền chiếm hữu, sử dụng bất hợp pháp
phương tiện giao thông cơ giới đường bộ, cũng có thể các chủ thể phải chịu trách
nhiệm liên đới trong bồi thường thiệt hại.
Bốn là, theo quy định pháp luật hiện hành, chủ sở hữu xe cơ giới bắt buộc phải
tham gia bảo hiểm trách nhiệm dân sự đối với người thứ ba và hành khách đi trên xe
theo hợp đồng vận chuyển. Bên cạnh đó, chủ xe cơ giới có thể tham gia một số loại
bảo hiểm khác. Do vậy, trong quan hệ BTTH phát sinh từ các vụ TNGT đường bộ có
sự tham gia của cơ quan bảo hiểm. Khi tai nạn giao thông xảy ra, cơ quan bảo hiểm
tham gia giải quyết hậu quả tai nạn trên nguyên tắc xác định trách nhiệm BTTH giữa
cơ quan bảo hiểm, chủ phương tiện và người trực tiếp điều hành phương tiện giao
thông [13].

13


1.1.3.2.

Ý nghĩa


Trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong các vụ án tai nạn giao thông đường bộ có
ý nghĩa nhằm khôi phục những tổn thất vật chất, bù đắp những tổn thất về tinh thần
cho người bị thiệt hại và thân nhân người bị thiệt hại do tai nạn giao thông gây ra.
Ngoài ra trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong các vụ tai nạn giao thông còn có ý
nghĩa quan trọng góp phần ngăn ngừa hành vi vi phạm pháp luật giao thông, giáo dục
các chủ thể có ý thức tuân thủ pháp luật nói chung và luật giao thông đường bộ nói
riêng. Từ đó, góp phần hạn chế tai nạn giao thông, giảm thiểu thiệt hại về người và tài
sản do TNGT gây ra.
Trong vụ tai nạn giao thông, việc áp dụng trách nhiệm BTTH còn có ý nghĩa
quan trọng nhằm nâng cao ý thức trách nhiệm của chủ sở hữu, người có trách nhiệm
quản lý, bảo quản phương tiện giao thông đường bộ, không để phương tiện giao thông
đường bộ cơ giới đường bộ gây thiệt hại cho những người xung quanh. Để thực hiện
nghĩa vụ đó, họ phải tuân thủ đầy đủ các quy định về bảo quản, sử dụng phương tiện
giao thông, kịp thời phát hiện ra những nguy cơ có khả năng gây ra TNGT có thể sửa
chữa, khắc phục kịp thời.
1.2.

Nguyên tắc bồi thường thiệt hại trong các vụ tai nạn giao thông

đường bộ
Để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị xâm phạm đòi hỏi những
người tiến hành tố tụng, cũng như người tham gia tố tụng phải tuân thủ những nguyển
tắc nhất định. Nguyên tắc đó là những chuẩn mực, những yêu cầu được Nhà nước quy
định một cách cụ thể trong các văn bản pháp luật. Tuy nhiên, việc giải quyết bồi
thường thiệt hại nói chung là một vấn đề phức tạp. Việc giải quyết đúng đắn các yêu
cầu bồi thường thiệt hại nhằm đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp cho bên bị thiệt hại,
đảm bảo tính công bằng xã hội là một yêu cầu cấp thiết. Và việc bồi thường thiệt hại
trong các vụ án tai nạn giao thông phải tuân thủ nguyên tắc bồi thường thiệt hại ngoài
hợp đồng được quy định tại Điều 585 BLDS 2015.


14


BLDS năm 2015 chỉ ra 5 nguyên tắc bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, ngoài
3 nguyên tắc bồi thường như Điều 605 BLDS năm 2005 thì BLDS năm 2015 đã bổ
sung thêm 2 nguyên tắc:
+ Khi bên bị thiệt hại có lỗi trong việc gây thiệt hại thì không được bồi thường
phần thiệt hại do lỗi của mình gây ra.
+ Bên có quyền, lợi ích bị xâm phạm không được bồi thường nếu thiệt hại xảy
ra do không áp dụng các biện pháp cần thiết, hợp lý để ngăn chặn, hạn chế thiệt hại
cho chính mình.
1.2.1. Bồi thường thiệt hại toàn bộ và kịp thời
Khoản 1 Điều 585 BLDS năm 2015, quy định: “Thiệt hại thực tế phải được bồi
thường toàn bộ và kịp thời. Các bên có thể thỏa thuận về mức bồi thường, hình thức
bồi thường bằng tiền, bằng hiện vật hoặc thực hiện một công việc, phương thức bồi
thường một lần hoặc nhiều lần, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác "[2].
Bồi thường “toàn bộ” và “kịp thời” là nguyên tắc được thể hiện đầu tiên trong
các nguyên tắc bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Có thể nói, đây là nguyên tắc chủ
đạo, đáp ứng đúng mục đích và yêu cầu đảm bảo công bằng khi phát sinh việc bồi
thường thiệt hại. Nguyên tắc này đảm bảo người có hành vi gây thiệt hại phải bồi
thường tương xứng với toàn bộ thiệt hại đã gây ra và bồi thường kịp thời, càng nhanh
càng tốt để khắc phục hậu quả.
Một khi có yêu cầu nghĩa vụ bồi thường phát sinh phải căn cứ vào các điều luật
tương ứng của BLDS năm 2015 quy định trong trường hợp cụ thể đó thiệt hại bao
gồm những khoản nào và thiệt hại đã xảy ra là bao nhiêu, mức độ lỗi của các bên để
buộc người gây thiệt hại phải bồi thường các khoản thiệt hại tương xứng đó. Bên cạnh
đó, để thiệt hại có thể được bồi thường kịp thời,
Tòa án phải giải quyết nhanh chóng yêu cầu đòi BTTH trong thời hạn luật định. Trong
trường hợp cần thiết, Tòa án có thể áp dụng một hoặc một số biện pháp khẩn cấp tạm

thời theo quy định của pháp luật tố tụng để giải quyết yêu cầu cấp bách của đương sự.

15


1.2.2. Căn cứ vào hình thức lỗi và mức độ lỗi
Lỗi là một trong bốn điều kiện làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng. Việc đánh giá hình thức, mức độ lỗi trong trách nhiệm bồi thường
thiệt hại ngoài hợp đồng trong trách nhiệm dân sự nói chung, trách nhiệm bồi thường
thiệt hại ngoài hợp đồng nói riêng là cần thiết.
Lỗi thể hiện thái độ tiêu cực của chủ thể đối với xã hội trong hành vi trái pháp
luật của mình và hậu quả của hành vi đó. Chủ thể bị coi là có hành vi tiêu cực đối với
xã hội khi họ có ý thức phủ định lợi ích xã hội, đi ngược với lợi ích xã hội. Dựa vào
thái độ của chủ thể đối với hành vi và hậu quả của nó, lỗi được chia làm hai loại là lỗi
cố ý và lỗi vô ý (Điều 364 BLDS 2015 và Nghị quyết 03/2006/NQ-HĐTP ngày
08/7/2006 Hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật Dân sự năm 2005 về bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng)
a) Cố ý gây thiệt hại là trường hợp một người nhận thức rõ hành vi của mình sẽ
gây thiệt hại cho người khác mà vẫn thực hiện và mong muốn hoặc không mong
muốn, nhưng để mặc cho thiệt hại xảy ra.
b) Vô ý gây thiệt hại là trường hợp một người không thấy trước hành vi của
mình có khả năng gây thiệt hại, mặc dù phải biết hoặc có thể biết trước thiệt hại sẽ xảy
ra hoặc thấy trước hành vi của mình có khả năng gây thiệt hại, nhưng cho rằng thiệt
hại sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn chặn được.
Chính vì vậy, việc xác định lỗi của các bên có ý nghĩa là cơ sở quan trọng để ấn
định mức bồi thường và xác định việc người gây thiệt hại phải bồi thường hay không.
Tuy nhiên, hình thức lỗi không mang ý nghĩa quyết định trong việc xác định bồi
thường thiệt hại và trong một số trường hợp cụ thể pháp luật quy định “ chủ sở hữu,
người chiếm hữu , sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ phải bồi thường thiệt hại cả khi
không có lỗi - khoản 3 Điều 601 BLDS.” Theo đó, người nào có hành vi vi phạm pháp

luật xâm phạm đến sức khỏe, tính mạng, uy tín, danh dự của người khác thì phải bồi
thường thiệt hại do mình gây ra. Trường hợp thiệt hại xảy ra do lỗi hỗn hợp, người bị

16


thiệt hại cũng có lỗi thì người gây thiệt hại chỉ phải chịu trách nhiệm bồi thường tương
ứng với phần lỗi của mình gây ra. Trường hợp hoàn toàn do lỗi của người bị thiệt hại
thì người gây thiệt hại không phải bồi thường.
Cần chú ý là đối với trường hợp pháp luật có quy định việc bồi thường thiệt hại
cả khi không có lỗi, thì trách nhiệm bồi thường của người gây thiệt hại trong trường
hợp này được thực hiện theo quy định của văn bản quy phạm pháp luật đó. [20]
1.2.3. Tự do, tự nguyện cam kết, thỏa thuận
Đây là một trong những nguyên tắc cơ bản, nó thể hiện đặc trưng của quan hệ
dân sự. Theo khoản 2 Điều 3 BLDS 2015: “Cá nhân, pháp nhân xác lập, thực hiện,
chấm dứt quyền, nghĩa vụ của mình trên cơ sở tự do, tự nguyện cam kết, thỏa thuận.
Mọi cam kết, thỏa thuận không vi phạm điều cấm của luật, không trái với đạo đức xã
hội có hiệu lực thực hiện đối với các bên và phải được chủ thể khác tôn trọng”[13].
Vì vậy, trong trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng: “Các bên có thể thỏa thuận về mức
bồi thường, hình thức bồi thường bằng tiền, bằng hiện vật hoặc thực hiện một công
việc, phương thức bồi thường một lần hoặc nhiều lần, trừ trường hợp pháp luật có quy
định khác” (khoản 1 Điều 585 BLDS).
Nguyên tắc này hoàn toàn dựa trên cơ sở tự nguyện và sự thỏa thuận của các
bên. Theo quy định của BLDS thì sự thỏa thuận của các bên đương sự được pháp luật
thừa nhận có giá trị pháp lý. Các bên hoàn toàn được quyền thỏa thuận mức bồi
thường thiệt hại đã xảy ra.
1.2.4. Mức bồi thường phù hợp với thực tế
Khoản 3 Điều 585 quy định “Khi mức bồi thường không còn phù hợp với thực
tế thì bên bị thiệt hại hoặc bên gây thiệt hại có quyền yêu cầu Tòa án hoặc cơ quan
nhà nước có thẩm quyền khác thay đổi mức bồi thường ”

Mức bồi thường thiệt hại không còn phù hợp với thực tế, có nghĩa là do có sự
thay đổi về tình hình kinh tế, xã hội, sự biến động về giá cả mà mức bồi thường đang
được thực hiện không còn phù hợp trong điều kiện đó hoặc do có sự thay đổi về tình

17


trạng thương tật, khả năng lao động của người bị thiệt hại cho nên mức bồi thường
thiệt hại không còn phù hợp với sự thay đổi đó hoặc do có sự thay đổi về khả năng
kinh tế của người gây thiệt hại. Ví dụ: Tại thời điểm hai bên thỏa thuận tài sản bồi
thường là 35 chỉ vàng 24K, nhưng thời gian sau đó, giá vàng trong nước đột biến tăng
mạnh, từ đó, so với thời điểm thỏa thuận, làm cho người vi phạm khó có thể thực hiện
nghĩa vụ bồi thường. Như vậy bên gây thiệt hại có quyền yêu cầu Tòa án hoặc cơ quan
nhà nước có thẩm quyền thay đổi mức bồi thường cho phù hợp với thực tế.
Theo đó cả hai bên gây thiệt hại và bên bị thiệt hại có quyền yêu cầu thay đổi
mức bồi thường cho phù hợp với thực tế nhằm đảm bảo sự cô ng bằng, hợp lý trong
quá trình thực hiện nghĩa vụ. Cần chú ý là nguyên tắc thay đổi mức bồi thường thiệt
hại chỉ thực hiện trong trường hợp bồi thường theo định kỳ, không áp dụng trong
trường hợp bồi thường toàn bộ một lần. Bởi việc thực hiện bồi thường một lần đã thực
hiện xong, nghĩa vụ bồi thường phát sinh đã chấm dứt nên không phát sinh và không
đặt ra việc yêu cầu thay đổi mức bồi thường đối với các trường hợp bồi thường toàn
bộ một lần.
Trên nguyên tắc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, việc giảm mức
bồi thường thiệt hại cho người gây thiệt hại nếu họ không có lỗi hoặc có lỗi vô ý và
thiệt hại quá lớn so với khả năng kinh tế. Có nghĩa là thiệt hại xảy ra mà họ có trách
nhiệm bồi thường so với hoàn cảnh kinh tế trước mắt của họ cũng như về lâu dài họ
không thể có khả năng bồi thường được toàn bộ hoặc phần lớn thiệt hại đó [2]. Ví dụ:
Một người hành nghề chạy xe ba gác với thu nhập mỗi tháng khoảng 3 đến 4 triệu
đồng, nhưng đã vô ý để đầu các tấm tol trên xe ba gác đâm vào người khác, khi anh
này đang đứng chờ xe buýt trên đường. Hậu quả, người đó bị tử vong sau đó tại bệnh

viện. Mọi chi phí hợp lý để cấp cứu, điều trị nạn nhân; chi phí lo mai táng; nuôi con
anh này (hiện mới 03 tuổi); ...ước tính khoảng 250 triệu. Số tiền này rõ ràng là quá lớn
so với mức thu nhập của người lái xe ba gác đã ngoài 65 tuổi. Trong trường hợp này,

18


người lái xe ba gác có thể được giảm mức bồi thường bởi đáp ứng đủ điều kiện nói
trên
1.2.5. Bên có quyền, lợi ích bị xâm phạm không được bồi thường nếu thiệt
hại xảy ra do không áp dụng các biện pháp cần thiết, hợp lý để ngăn chặn, hạn chế
thiệt hại chính cho mình
Đây là nguyên tắc mới được ghi nhận trong BLDS 2015. Việc xác định như vậy
có ý nghĩa quan trọng đảm bảo tính công bằng cho các bên khi phát sinh quan hệ pháp
lý. Nếu bên có quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm không áp dụng các biện pháp
cần thiết, hợp lý để ngăn chặn, hạn chế thiệt hại cho chính mình thì không được bồi
thường nếu có thiệt hại xảy ra. Quy định như vậy sẽ hạn chế được việc được trách
nhiệm không đáng có cho bên có trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Tuy nhiên, việc xác
định được bên bị thiệt hại không áp dụng biện pháp cần thiết hay để mặc cho hậu quả
xảy ra là một vấn đề phức tạp. Điều này đòi hỏi những người tiến hành tố tụng, các
bên tham gia tố tụng phải chứng minh được có hay không việc áp dụng những biện
pháp cần thiết, hợp lý thực sự để ngăn chặn thiệt hại xảy ra.
1.3. Chủ thể của bồi thường thiệt hại trong các vụ tai nạn giao thông đường
bộ
Chủ thể của bồi thường thiệt hại trong các vụ tai nạn giao thông đường bộ bao
gồm chủ thể chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại và chủ thể được bồi thường thiệt
hại.
1.3.1 Chủ thể bồi thường
Điều 586 Bộ luật dân sự 2015 quy định về năng lực chịu trách nhiệm bồi thường
thiêt hại và được Nghị quyết số 03/2006/NQ-HĐTP hướng dẫn tai mục 3 phần I, theo

đó, khi có thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra mà chủ sở hữu, người chiếm
hữu sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ từ 18 tuổi trở lên thì người đó phải bồi thường
thiệt hại toàn bộ, còn đối với người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân
sự, việc chủ sở hữu và sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ là ít gặp, nhưng không phải
19


×