Tải bản đầy đủ (.docx) (102 trang)

Pháp luật về ưu đãi và hỗ trợ đầu tư đối với các dự án đầu tư phát triển chợ từ thực tiễn tỉnh quảng ngãi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (437.14 KB, 102 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT
NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THỊ TUYẾT NHUNG

PHÁP LUẬT VỀ ƯU ĐÃI VÀ HỖ TRỢ ĐÀU TƯ
ĐÓI VỚI CÁC DỰ ÁN ĐÀU TƯ PHÁT TRIỂN CHỢ
TỪ THỰC TIỄN TỈNH QUẢNG NGÃI

LUẬN VẪN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI, năm
2018


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THỊ TUYẾT NHUNG

PHÁP LUẬT VỀ ƯU ĐÃI VÀ HỖ TRỢ ĐÀU TƯ
ĐÓI VỚI CÁC DỰ ÁN ĐÀU TƯ PHÁT TRIỂN CHỢ
TỪ THỰC TIỄN TỈNH QUẢNG NGÃI

Chuyên ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 8 38.01.07

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. TRÀN MINH ĐỨC




LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi với sự
hướng dẫn khoa học của TS Trần Minh Đức. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa
được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu và trích dẫn trong Luận
văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn
học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Học viện Khoa
học xã hội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Học viện Khoa học xã hội xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luậnvăn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Người cam đoan

Nguyễn Thị Tuyết Nhung


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU.................................................................................................................1
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁP LUẬT ƯU ĐÃI VÀ HỖ
TRỢ ĐẦU TƯ ĐỐI VỚI CÁC DỰ ÁN ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN CHỢ 7
1.1.

Khái niệm về chợ, dự án đầu tư phát triển chợ, ưu đãi và hỗ trợ đầu tư

đối
với các dự án đầu tư phát triển chợ, pháp luật ưu đãi và hỗ trợ đầu tư đối với các dự
án phát triển chợ........................................................................................................7
1.2.


Vai trò của pháp luật về ưu đãi và hỗ trợ đầu tư đối với các dự án đầu


phát triển chợ..........................................................................................................19
1.3.

Cơ cấu pháp luật về ưu đãi và hỗ trợ đầu tư đối với dự án đầu tư phát

triển
chợ.......................................................................................................................... 25
1.4.

Các yếu tố tác động đến pháp luật về ưu đãi và hỗ trợ đầu tư đối với dự

án
đầu tư phát triển chợ................................................................................................36
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ ƯU ĐÃI VÀ HỖ TRỢ ĐẦU TƯ
ĐỐI VỚI CÁC DỰ ÁN ĐẦU TƯ XÂY DỰNG VÀ QUẢN LÝ, KINH DOANH
CHỢ TẠI TỈNH QUẢNG NGÃI.......................................................................41
2.1.

Những đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội tại tỉnh Quảng Ngãi có liên

quan
đến pháp luật về ưu đãi và hỗ trợ đầu tư tại tỉnh Quảng Ngãi..................................41
2.2.

Thực trạng các quy định pháp luật về ưu đãi và hỗ trợ đối với các dự

án đầu

tư phát triển chợ tại tỉnh Quảng Ngãi......................................................................44
2.3.
các

Tình hình tổ chức thực thi pháp luật về ưu đãi và hỗ trợ đầu tư đối với


dự án đầu tư phát triển chợ tại tỉnh Quảng Ngãi......................................................55
2.4.................................................................................................Đánh giá chung
..................................................................................................................... 61
CHƯƠNG 3. PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT
VỀ ƯU ĐÃI VÀ HỖ TRỢ ĐẦU TƯ ĐỐI VỚI CÁC DỰ ÁN ĐẦU TƯ
PHÁT TRIỂN CHỢ TỪ THỰC TIỄN TỈNH QUẢNG NGÃI.........................................68
3.1. Nhu cầu hoàn thiện pháp luật về ưu đãi và hỗ trợ đầu tư đối với các dự án đầu tư
phát triển chợ từ thực tiễn tỉnh Quảng Ngãi............................................................68
3.2.

Phương hướng hoàn thiện pháp luật về ưu đãi và hỗ trợ đầu tư đối với

các dự
án đầu tư phát triển chợ từ thực tiễn tỉnh Quảng Ngãi............................................69
3.3.

Giải pháp hoàn thiện pháp luật về ưu đãi và hỗ trợ đầu tư đối với các

dự án
đầu tư phát triển chợ từ thực tiễn tỉnh Quảng Ngãi.................................................70
KẾT LUẬN............................................................................................................ 76
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC



DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT


BQL
CNH,HĐH

: Ban quản lý
: Công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

DN
GRDP
HĐND

: Doanh nghiệp
: Tổng sản phẩm quốc nội (hay tổng sản phẩm nội
địa)
: Tổng sản phẩm trên địa bàn
: Hội đồng nhân dân

HTX

: Hợp tác xã

KDKTC

: Kinh doanh khai thác và quản lý chợ

KT -XH


: Kinh tế - xã hội

PCI

: Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh

TNDN
UBND

: Thu nhập doanh nghiệp
: Ủy ban nhân dân

VDB

: Ngân hàng phát triển Việt Nam
MỞ ĐẦU

GDP

1. Tính cấp thiết của đề tài
Đầu tư phát triển là yếu tố có tầm quan trọng đối với nền kinh tế quốc gia nói
chung và của tỉnh Quảng Ngãi nói riêng cả trong ngắn hạn và dài hạn. Đầu tư phát
triển trong ngắn hạn sẽ làm tăng tổng cầu, tạo việc làm mới; trong dài hạn đầu tư
phát triển tăng cung, nâng cao năng lực sản xuất của quốc gia, của địa phương.
Trong thực tế, không phải bao giờ một quốc gia, một địa phương cũng đạt được mức
độ đầu tư phát triển mong muốn, bởi vì đầu tư phát triển là hoạt động chứa đựng
nhiều rủi ro, chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố khác nhau và để quyết định bỏ vốn vào
sản xuất kinh doanh, nhà đầu tư phải bảo đảm về độ an toàn thu hồi vốn, phải có
triển vọng kiếm được lợi nhuận hợp lý, phải được cung cấp những điều kiện tối thiểu

về nguồn lực và tính tổ chức của thị trường, phải cung cấp dịch vụ công đảm bảo tiến
độ dự án đầu tư đề ra...những đòi hỏi đó, đôi khi thị trường tự do không cung cấp
đầy đủ nên Nhà nước phải vào cuộc bằng cách hoạch định và thực thi pháp luật
khuyến khích, ưu đãi và hỗ trợ đầu tư. Pháp luật ưu đãi và hỗ trợ đầu tư là một trong

1


những chính sách pháp luật cơ bản, quan trọng trong hệ thống pháp luật kinh tế của
Nhà nước ta.
Có thể nói, pháp luật về ưu đãi và hỗ trợ đầu tư của nước ta được Nhà nước
ban hành bằng một hệ thống pháp luật tương đối hoàn chỉnh về đầu tư, xây dựng, đất
đai, về thuế, về đào tạo, về thương mại, về cải cách hành chính. nhằm điều chỉnh các
quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực đầu tư, thương mại, trong đó có các ưu đãi và
hỗ trợ đầu tư đối với dự án đầu tư xây dựng và quản lý, kinh doanh khai thác chợ.
Mục đích của pháp luật ưu đãi và hỗ trợ đầu tư đối với dự án đầu tư phát triển chợ
trước hết là nhằm thu hút các nhà đầu tư bỏ vốn của họ đầu tư vào các lĩnh vực kinh
doanh khai thác và quản lý chợ. Việc hướng các quan hệ trong lĩnh vực đầu tư theo
một trật tự có định hướng, đảm bảo đầy đủ các quyền và lợi ích cho nhà đầu tư là nội
dung quan trọng của quản lý nhà nước trong lĩnh vực này. Nhà nước không chỉ quản
lý hoạt động đầu tư bằng các Nghị quyết, chủ trương, đường lối mà cần phải cụ thể
hoá các nghị quyết, chủ trương ấy thành pháp luật, đảm bảo một hành lang pháp lý
cho hoạt động đầu tư phát triển. Pháp luật về ưu đãi và hỗ trợ đầu tư có hợp lý và
hiệu quả thì mới đảm bảo được môi trường bình đẳng mà ở đó các nhà đầu tư có thể
phát huy hết năng lực của mình.
Trong những năm gần đây, với việc thực thi các biện pháp tạo điều kiện thuận
lợi về thủ tục hành chính, về sử dụng đất đai, về thuế, về đào tạo.. .Nhà nước ta đã
thu hút được số lượng vốn lớn đầu tư vào các lĩnh vực sản xuất, kinh doanh; trong đó
có các dự án đầu tư phát triển chợ cũng dần được quan tâm đầu tư theo hình thức xã
hội hóa.đã góp phần làm cho nước ta giữ được tốc độ tăng trưởng kinh tế cao trong

nhiều năm, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tích cực, tạo thêm việc làm mới
và cải thiện chất lượng cuộc sống dân cư.
Cùng với sự phát triển cả nước, tỉnh Quảng Ngãi có nhiều biện pháp ưu đãi,
hỗ trợ đầu tư tương đối phù hợp nên trở thành một trong những địa điểm thu hút vốn
đầu tư trong và ngoài nước, tạo động lực lớn cho quá trình hội nhập kinh tế quốc tế,
góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng dần tỷ trọng ngành công
nghiệp - xây dựng, dịch vụ, giảm dần tỷ trọng ngành nông nghiệp. Tuy nhiên, do
nhiều nguyên nhân, việc thu hút đầu tư vào Quảng Ngãi vẫn còn gặp nhiều khó khăn,
2


nhất là các dự án đầu tư phát triển chợ triển khai thực hiện chậm, chưa được quan
tâm kêu gọi đầu tư mà chủ yếu thực hiện đầu tư từ ngân sách nhà nước...
Để làm rõ các vấn đề về ưu đãi và hỗ trợ đầu tư đối với các dự án đầu tư phát
triển chợ trong những năm qua, tỉnh Quảng Ngãi đã có những biện pháp ưu đãi và hỗ
trợ đầu tư như thế nào? Trong thời gian đến, tỉnh Quảng Ngãi cần có thêm các giải
pháp gì để các biện pháp ưu đãi và hỗ trợ thật sự trở thành động lực thu hút đầu tư
nói chung và các dự án phát triển chợ nói riêng; nâng cao hiệu quả ưu đãi và hỗ trợ
đầu tư để tương xứng với điều kiện phát triển kinh tế - xã hội; cách thức tiếp cận
được các ưu đãi và hỗ trợ ? Kết quả nghiên cứu giúp cho chúng ta có cái nhìn toàn
diện hơn về các mặt đã đạt được, khắc phục các nhược điểm và đề xuất các giải pháp
phù hợp. Xuất phát từ yêu cầu đó, học viên chọn vấn đề “Pháp luật về ưu đãi và hỗ
trợ đầu tư đối với các dự án đầu tư phát triển chợ từ thực tiễn tỉnh Quảng Ngãi ”
làm đề tài Luận văn thạc sĩ.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Theo định hướng Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội năm 2011 - 2020 của
Đảng và Nhà nước, cùng với tăng cường nguồn lực đầu tư từ Nhà nước nhằm phát
triển hạ tầng kinh tế - xã hội tại địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn, nhiều
chính sách ưu đãi và hỗ trợ đầu tư cũng đã được ban hành nhằm thu hút vốn đầu tư
của các doanh nghiệp đầu tư phát triển. Đối với tỉnh Quảng Ngãi cũng đã ban hành

chính sách ưu đãi và hỗ trợ đầu tư trên địa bàn tỉnh; cơ chế chính sách, điều kiện, nội
dung ưu đãi và hỗ trợ đầu tư đối với các lĩnh vực như: ưu đãi, hỗ trợ đầu tư chung
cho các dự án; ưu đãi, hỗ trợ đầu tư cho dự án khuyến khích xã hội hóa; hỗ trợ đầu tư
cho dự án đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn...nhằm khuyến khích các doanh nghiệp
đầu tư phát triển trên địa bàn tỉnh.
Liên quan đến đề tài nghiên cứu, đã có một số công trình xoay quanh vấn đề
này như:
- Vũ Quốc Tuấn (chủ biên): Phát triển kinh tế tư nhân ở Việt Nam hiện nay,
NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội 2006.
- Nguyễn Văn Thường: Tăng trưởng kinh tế Việt Nam: Những rào cản cần
phải vượt qua. Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội 2006.
3


- Bùi Anh Tuấn: Giải pháp thúc đẩy hoạt động khuyến khích đầu tư trong
nước. Tạp chí nghiên cứu kinh tế, số 08/2003.
- Nguyễn Cảnh Hoan: Một số ý kiến về khuyến khích và ưu đãi đầu tư đối với
các doanh nghiệp trong nước. Tạp chí Thương mại, số 10.2003.
- PGS.TS Trần Thị Minh Châu (chủ nhiệm đề tài): Thực trạng và giải pháp
tiếp tục hoàn thiện chính sách khuyến khích đầu tư ở Việt Nam. Hà Nội 2007.
- Lê Thị Lệ Thu (2006), Pháp luật về ưu đãi đầu tư ở Việt Nam, Luận văn
thạc sĩ luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội.
- Nguyễn Thị Trang (2014), Pháp luật về ưu đãi đầu tư đối với các doanh
nghiệp trong Khu công nghiệp hiện nay - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Luận
văn thạc sĩ luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội.
- Tạ Quang Duy (2016), Các biện pháp hỗ trợ đầu tư theo Luật đầu tư 2014
từ thực tiễn ở tỉnh Quảng Nam, Luận văn thạc sĩ luật học, Học Viện Khoa học Xã
hội, Hà Nội.
Các công trình nghiên cứu trên từ các góc độ khác nhau đã phân tích, đánh
giá pháp luật về ưu đãi và hỗ trợ đầu tư nói chung. Tuy nhiên, mỗi công trình có sự

nhìn nhận từ các khía cạnh khác nhau, cũng có một số công trình nghiên cứu đề cập
đến các vấn đề về ưu đãi, hỗ trợ đầu tư đối với các doanh nghiệp trong nước và nước
ngoài, song chưa có công trình nào nghiên cứu một cách cụ thể, bao quát và đi sâu
vào đánh giá các quy định của pháp luật về ưu đãi và hỗ trợ đầu tư đối với các dự án
đầu tư phát triển chợ từ thực tiễn tỉnh Quảng Ngãi một cách có hệ thống và dưới góc
độ khoa học pháp luật, kinh tế - chính trị. Vì vậy, việc nghiên cứu về ưu đãi và hỗ trợ
đầu tư; việc áp dụng các chính sách ưu đãi và hỗ trợ đầu tư dự án đầu tư phát triển
chợ tỉnh Quảng Ngãi là vấn đề rất cần thiết.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Luận văn góp phần làm rõ cơ sở lý luận của pháp luật ưu đãi và hỗ trợ đầu tư;
phân tích thực trạng quy định và áp dụng các chính sách ưu đãi, hỗ trợ đầu tư; đề
xuất giải pháp hoàn thiện pháp luật, nâng cao hiệu quả ưu đãi và hỗ trợ đầu tư đối
với dự án đầu tư phát triển chợ từ thực tiễn tỉnh Quảng Ngãi.
4


3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ:
- Hệ thống những vấn đề lý luận cơ bản về pháp luật ưu đãi và hỗ trợ đầu tư.
- Phân tích, đánh giá thực trạng và việc áp dụng các chính sách ưu đãi và hỗ
trợ đầu tư đối với các dự án đầu tư phát triển chợ trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi.
- Xây dựng phương hướng và đề xuất những giải pháp chủ yếu nhằm hoàn
thiện, đẩy mạnh thực hiện các việc ưu đãi và hỗ trợ đầu tư đối với các dự án đầu tư
phát triển chợ trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi trong những năm tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu: Nghiên cứu các quy định của pháp luật về ưu đãi
và hỗ trợ đầu tư; thực tiễn việc áp dụng chính sách ưu đãi và hỗ trợ đầu tư đối với
lĩnh vực đầu tư phát triển chợ tại tỉnh Quảng Ngãi.
4.2.


Phạm vi nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu về ưu đãi và hỗ

trợ đầu tư đối với dự án đầu tư phát triển chợ truyền thống từ thực tiễn tỉnh Quảng
Ngãi.
- Về không gian nghiên cứu: chợ được tổ chức tại một địa điểm theo quy
hoạch, đáp ứng các nhu cầu mua bán, trao đổi hàng hoá và nhu cầu tiêu dùng của
khu vực dân cư trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi.
- Thời gian nghiên cứu: việc tìm hiểu thực tiễn áp dụng, triển khai các quy
định của pháp luật về ưu đãi và hỗ trợ đầu tư đối với dự án đầu tư phát triển chợ từ
năm 2011 -2017 tại tỉnh Quảng Ngãi;
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Dựa trên lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và những
quan điểm chỉ đạo, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về ưu đãi và hỗ
trợ đầu tư, trong đó có các dự án đầu tư phát triển chợ, góp phần phát triển kinh tế xã hội, thực hiện thành công chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn
mới có kết cấu hạ tầng hiện đại, nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân. Theo
đó, tỉnh Quảng Ngãi đã có nhiều chính sách khuyến khích, ưu đãi, hỗ trợ đầu tư dưới
nhiều hình thức khác nhau cho mục tiêu ưu tiên trên.
5


5.2. Phương pháp nghiên cứu
Sử dụng phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác
- Lênin, kết hợp các phương pháp hệ thống, thống kê, phân tích - tổng hợp, kết hợp
lôgic - lịch sử, khảo sát thực tế, tổng kết thực tiễn. Đồng thời, đề tài có kế thừa và sử
dụng có chọn lọc những đề xuất và các số liệu trong một số công trình nghiên cứu
của các tác giả khác.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận

Trình bày có hệ thống các vấn đề lý luận cơ bản về ưu đãi và hỗ trợ đầu tư ở
tỉnh Quảng Ngãi, nhất là đối với các dự án đầu tư phát triển chợ. Với mục tiêu của
tỉnh Quảng Ngãi xác định trong Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Quảng Ngãi lần
thứ XIX và Quy hoạch phát triển thương mại trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi giai đoạn
2011 - 2015 và định hướng đến 2020 là: “Đẩy mạnh phát triển kết cấu hạ tầng, nhất
là hạ tầng giao thông, hạ tầng đô thị”, “Xây dựng, phát triển hệ thống hạ tầng thương
mại nông thôn tỉnh Quảng Ngãi phù hợp với quá trình phát triển kinh tế - xã hội, đáp
ứng yêu cầu tiêu thụ nông sản và cung ứng hàng hóa cho sản xuất và đời sống, góp
phần phát triển nền nông nghiệp toàn diện và góp phần thực hiện thành công chương
trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới có kết cấu hạ tầng hiện đại, nâng
cao chất lượng cuộc sống của người dân vùng nông thôn”. Với mục tiêu trên, việc
thu hút các doanh nghiệp đầu tư phát triển chợ trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi, một
mặt là phát triển cơ sở hạ tầng thương mại, mặt khác thông qua các chính sách ưu đãi
và hỗ trợ đầu tư giúp các doanh nghiệp đầu tư phát triển chợ bền vững trên địa bàn
tỉnh.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Đề xuất các giải pháp cơ bản có tính khả thi nhằm đẩy mạnh thu hút đầu tư
vào tỉnh Quảng Ngãi thông qua các chính sách ưu đãi và biện pháp hỗ trợ đầu tư
trong thời gian đến. Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể dùng được làm tài liệu
tham khảo cho việc hoạch định những chính sách phát triển, nâng cao hiệu quả áp
dụng các ưu đãi và hỗ trợ đầu tư ở Quảng Ngãi đối với việc thu hút đầu tư phát triển
chợ.
6


7. Cơ cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 03
chương.
Chương 1: Những vấn đề lý luận về pháp luật về ưu đãi và hỗ trợ đầu tư đối
với các dự án đầu tư phát triển chợ;

Chương 2: Thực trạng pháp luật về ưu đãi và hỗ trợ đầu tư đối với các dự án
đầu tư phát triển chợ tại tỉnh Quảng Ngãi;
Chương 3: Phương hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về ưu đãi và hỗ
trợ đầu tư đối với các dự án đầu tư phát triển chợ từ thực tiễn tỉnh Quảng Ngãi.
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁP LUẬT
ƯU ĐÃI VÀ HỖ TRỢ ĐẦU TƯ ĐỐI VỚI CÁC DỰ ÁN
ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN CHỢ
1.1. Khái niệm về chợ, dự án đầu tư phát triển chợ, ưu đãi và hỗ trợ đầu
tư đối với các dự án đầu tư phát triển chợ, pháp luật ưu đãi và hỗ trợ đầu tư đối
với các dự án phát triển chợ
1.1.1. Khái niệm về chợ

Trên thực tế tuỳ theo lĩnh vực nghiên cứu mà có rất nhiều quan niệm khác
nhau về chợ:
Chợ là nơi tụ họp giữa người mua và người bán để trao đổi hàng hoá, thực
phẩm hàng ngày theo từng buổi hoặc từng phiên nhất định (chợ phiên)... [22, tr.3].
Chợ là loại hình kinh doanh thương mại được hình thành và phát triển mang
tính truyền thống, được tổ chức tại một địa điểm theo quy hoạch, đáp ứng nhu cầu
mua bán, trao đổi hàng hoá và nhu cầu tiêu dùng của khu vực dân cư [6, tr. 1].
Chợ là một bộ phận quan trọng trong tổng thể hạ tầng kinh tế - xã hội. Trong
quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội và quy hoạch phát triển thương mại của từng địa
phương phải bao gồm quy hoạch phát triển chợ. Quy hoạch phát triển chợ phải phù
hợp với quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội, quy hoạch thương mại, quy hoạch sử

7


dụng đất và các quy hoạch khác có liên quan. Quy hoạch phát triển chợ lập theo
nguyên tắc tại khoản 2 Điều 4 Nghị định số 02/2003/NĐ-CP ngày 14 tháng 01 năm

2003 của Chính phủ về phát triển và quản lý chợ và được cơ quan có thẩm quyền
theo quy định phê duyệt và chỉ đạo thực hiện” [10, tr.3].
Phạm vi chợ: là khu vực được quy hoạch dành cho hoạt động chợ, bao gồm
diện tích để bố trí các điểm kinh doanh, khu vực dịch vụ (như: bãi để xe, kho hàng,
khu ăn uống, vui chơi giải trí và các dịch vụ khác) và đường bao quanh chợ.
Điểm kinh doanh tại chợ: bao gồm quầy hàng, sạp hàng, ki-ốt, cửa hàng được
bố trí cố định trong phạm vi chợ theo thiết kế xây dựng chợ, có diện tích quy chuẩn
tối thiểu là 3 m2/điểm.
Từ những điểm hội tụ chung của nhiều quan niệm, ta có thể rút ra khái niệm:
Chợ là loại hình kinh doanh thương mại được hình thành và phát triển mang tính
truyền thống, được tổ chức tại một địa điểm công cộng, tập trung đông người mua
bán, trao đổi hàng hoá, dịch vụ với nhau, được hình thành do yêu cầu của sản xuất,
lưu thông và đời sống tiêu dùng xã hội và hoạt động theo các chu kỳ thời gian nhất
định và được cơ quan có thẩm quyền theo quy định phê duyệt và chỉ đạo thực hiện.
* Đặc trưng của chợ:
Chợ có những đặc trưng sau:
- Chợ là một nơi (địa điểm) công cộng để mua bán, trao đổi hàng hoá, dịch
vụ của dân cư, ở đó bất cứ ai có nhu cầu đều có thể đến mua, bán và trao đổi hàng
hoá, dịch vụ với nhau.
- Chợ được hình thành do yêu cầu khách quan của sản xuất và trao đổi hàng
hoá, dịch vụ của dân cư, chợ có thể được hình thành một cách tự phát hoặc do quá
trình nhận thức tự giác của con người. Vì vậy trên thực tế có nhiều chợ đã được hình
thành từ việc quy hoạch, xây dựng, tổ chức, quản lý chặt chẽ của các cấp chính
quyền và các ngành quản lý kinh tế kỹ thuật. Nhưng cũng có rất nhiều chợ được hình
thành một cách tự phát do nhu cầu sản xuất và trao đổi hàng hoá của dân cư, chưa
được quy hoạch, xây dựng, tổ chức, quản lý chặt chẽ.
- Các hoạt động mua, bán, trao đổi hàng hoá, dịch vụ tại chợ thường được
diễn ra theo một quy luật và chu kỳ thời gian (ngày, giờ, phiên) nhất định. Chu kỳ
8



họp chợ hình thành do nhu cầu trao đổi hàng hoá, dịch vụ và tập quán của từng vùng,
từng địa phương quy định.
* Phân loại chợ trong mạng lưới chợ ở nước ta
Theo địa giới hành chính: Có các loại chợ tồn tại theo tiêu thức này là chợ đô
thị, chợ nông thôn, chợ miền núi, chợ biên giới [22].
- Chợ đô thị: Là các loại chợ được tổ chức, tụ họp ở thành phố, thị xã, thị
trấn. Do ở đây, đời sống và trình độ văn hoá có phần cao hơn ở nông thôn, cho nên
các chợ thành phố có tốc độ hiện đại hoá nhanh hơn, văn minh thương mại trong chợ
cũng được chú trọng, cơ sở vật chất ngày càng được tăng cường, bổ sung và hoàn
chỉnh. Phương tiện phục vụ mua bán, hệ thống phương tiện truyền thông và dịch vụ
ở các chợ này thường tốt hơn các chợ ở khu vực nông thôn.
- Chợ nông thôn: Là chợ thường được tổ chức tại trung tâm xã, trung tâm
cụm xã. Hình thức mua bán ở chợ đơn giản, dân dã (có nơi, như ở một số vùng núi,
người dân tộc thiểu số vẫn còn hoạt động trao đổi bằng hiện vật tại chợ), các quầy,
sạp có quy mô nhỏ lẻ, manh mún. Nhưng ở các chợ nông thôn thể hiện đậm đà bản
sắc truyền thống đặc trưng ở mỗi địa phương, của cácvùng lãnh thổ khác nhau.
- Chợ miền núi: Chợ thường được tổ chức tại xã thuộc các huyện miền núi.
- Chợ biên giới: là chợ nằm trong khu vực biên giới trên đất liền (gồm xã,
phường, thị trấn có một phần địa giới hành chính trùng hợp với biên giới quốc gia
trên đất liền) hoặc khu vực biên giới trên biển (tính từ biên giới quốc gia trên biển
vào hết địa giới hành chính xã, phường, thị trấn giáp biển và đảo, quần đảo).
Theo tính chất mua bán: Dựa theo tiêu thức này, ta có thể phân chia thành hai
loại là chợ bán buôn và bán lẻ.
- Chợ bán buôn: Là các chợ lớn, chợ trung tâm, chợ có vị trí là cửa ngõ của
thành phố, thị xã, thị trấn, có phạm vi hoạt động rộng, tập trung vói khối lượng hàng
hoá lớn. Hoạt động mua bán chủ yếu là thu gom và phân luồng hàng hoá đi các nơi.
Các chợ này thường là nơi cung cấp hàng hoá cho các trung tâm bán lẻ, các chợ bán
lẻ trong và ngoài khu vực, nhiều chợ còn là nơi thu gom hàng cho xuất khẩu. Các
chợ này có doanh số bán buôn chiếm tỷ trọng cao (trên 60%), đồng thời vẫn có bản

lẻ nhưng tỷ trọng nhỏ.
9


- Chợ bán lẻ: Là những chợ thuộc phạm vi xã, phường (liên xã, liên phường),
cụm dân cư, hàng hoá qua chợ chủ yếu để bán lẻ, phục vụ trực tiếp cho người tiêu
dùng.
Theo đặc điểm mặt hàng kinh doanh: Có chợ tổng hợp, chợ chuyên doanh và
chợ đầu mối
- Chợ tổng hợp: Là chợ kinh doanh nhiều loại hàng hoá thuộc nhiều ngành
hàng khác nhau. Trong chợ tồn tại nhiều loại mặt hàng như: hàng tiêu dùng (quần áo,
giày dép, các mặt hàng lương thực thực phẩm, hàng gia dụng...), công cụ lao động
nông nghiệp (cuốc, xẻng, liềm búa.), cây trồng, vật nuôi., chợ đáp ứng toàn bộ các
nhu cầu của khách hàng. Hình thức chợ tổng hợp này thể hiện khái quát những đặc
trưng của chợ truyền thống và ở nước ta hiện nay loại hình này vẫn chiếm ưu thế về
số lượng cũng như về thời gian hình thành và phát triển.
- Chợ chuyên doanh: Là loại chợ chuyên kinh doanh một mặt hàng chính yếu,
mặt hàng này thường chiếm doanh số trên 60% đồng thời vẫn có bán một số mặt
hàng khác, các loại hàng này có doanh số dưới 40% tổng doanh thu. Hình thức chợ
này cũng tồn tại ở nước ta như chợ vải, chợ hoa tươi, chợ vật liệu xây dựng, chợ rau
quả, chợ giống cây trồng...
-

Chợ đầu mối : Là chợ có vai trò chủ yếu thu hút, tập trung

lượng hàng hoá lớn từ các nguồn sản xuất, kinh doanh của khu vực kinh tế
hoặc của ngành hàng để tiếp tục phân phối tới các chợ và các kênh lưu
thông khác.
Theo số lượng hộ kinh doanh, vị trí và mặt bằng của chợ: Dựa theo cách phân
loại trong Điều 3 Nghị định số 02/2003/NĐ-CP của Chính phủ về phát triển và quản

lý chợ và khoản 2, Điều 1 Nghị định số 114/2009/NĐ-CP của Chính phủ về sửa đổi,
bổ sung một số điều của Nghị định số 02/2003/NĐ-CP của Chính phủ về phát triển
và quản lý chợ thì chợ được chia thành 3 hạng: chợ hạng 1, chợ hạng 2 và chợ hạng
3.
- Chợ hạng 1 là chợ phải đảm bảo các tiêu chuẩn sau:
• Là chợ có trên 400 điểm kinh doanh, đượcđầu tư xây dựng kiên cố, hiện đại
theo quy hoạch;
10


• Được đặt ở các vị trí trung tâm kinh tế thương mại quan trọng của tỉnh,
thành phố hoặc là chợ đầu mối của ngành hàng, của khu vực kinh tế và được tổ chức
họp thường xuyên;
• Có mặt bằng phạm vi chợ phù hợp với quy mô hoạt động của chợ và tổ
chức đầy đủ các dịch vụ tại chợ: trông giữ xe, bốc xếp hàng hoá, kho bảo quản hàng
hoá, dịch vụ đo lường,dịch vụ kiểm tra chất lượng hàng hoá, vệ sinh an toàn thực
phẩm và các dịch vụ khác.
- Chợ hạng 2 là chợ thoả mãn các tiêu chuẩn sau:
• Là chợ có từ 200 điểm kinh doanh đến 400 điểm kinh doanh, được đầu tư
xây dựng kiên cố hoặc bán kiên cố theo quy hoạch;
• Được đặt ở trung tâm giao lưu kinh tế của khu vực và được tổ chức họp
thường xuyên hay không thường xuyên;
• Có mặt bằng phạm vi chợ phù hợp với quy mô hoạt động của chợ và tổ
chức các dịch vụ tối thiểu tại chợ: trông giữ xe, bốc xếp hàng hoá, kho bảo quản
hàng hoá, dịch vụ đo lường, vệ sinh công cộng.
- Chợ hạng 3 là chợ thoả mãn các tiêu chuẩn sau:
• Là chợ có dưới 200 điểm kinh doanh hoặc các chợ chưa được đầu tư xây
dựng kiên cố hoặc bán kiên cố;
• Chủ yếu phục vụ nhu cầu mua bán hàng hoá của nhân dân trong xã, phường
và địa bàn phụ cận.

Theo tính chất và quy mô xây dựng: Theo tiêu chí này, chợ được chia thành
chợ kiên cố, chợ bán kiên cố và chợ tạm:
- Chợ kiên cố: Là chợ được xây dựng hoàn chỉnh với đủ các yếu tố của một
công trình kiến trúc, có độ bền sử dụng cao (thời gian sử dụng trên 10 năm). Chợ
kiên cố thường là chợ loại 1 có diện tích đất hơn 10.000 m 2 và chợ loại 2 có diện tích
đất từ 6.000 - 9.000 m2. Các chợ kiên cố lớn thường nằm ở các tỉnh, thành phố lớn,
các huyện lỵ, trị trấn và có thời gian tồn tại lâu đời, trong một thời kỳ dài và là trung
tâm mua bán của cả vùng rộng lớn.
- Chợ bán kiên cố: Là chợ chưa được xây dựng hoàn chỉnh. Bên cạnh những
hạng mục xây dựng kiên cố (tầng lầu, cửa hàng, sạp hàng) còn có những hạng mục
11


xây dựng tạm như lán, mái che, quầy bán hàng..., độ bền sử dụng không cao (dưới 10
năm) và thiếu tiện nghi. Chợ bán kiên cố thường là chợ loại 3, có điện tích đất 300050.000 m2.Chợ này chủ yếu phân bổ ở các huyện nhỏ, khu vực thị trấn xa xôi, chợ
liên xã, liên làng, các khu vực ngoài thành phố lớn.
- Chợ tạm: Là chợ mà những quầy, sạp bán hang là những lều quán được làm
có tính chất tạm thời, không ổn định, khi cần thiết có thể dỡ bỏ nhanh chóng và ít tốn
kém. Loại chợ này thường hay tồn tại ở các vùng quê, các xã, các thôn, có chợ được
dựng lên để phục vụ trong một thời gian nhất định (như tết,lễ hội.).
Doanh nghiệp kinh doanh, quản lý chợ: là doanh nghiệp được thành lập, đăng ký
kinh doanh và hoạt động theo quy định của pháp luật được cơ quan có thẩm quyền
giao
hoặc trúng thầu về kinh doanh, khai thác và quản lý chợ.
Hợp tác xã kinh doanh, quản lý chợ: là hợp tác xã được thành lập, đăng ký
kinh doanh và hoạt động theo quy định của pháp luật được cơ quan có thẩm quyền
giao hoặc trúng thầu về kinh doanh, khai thác và quản lý chợ.
• Vai trò của chợ trong nền kinh tế - xã hội nước ta hiện nay
Trong những năm qua, mạng lưới chợ ở nước ta đóng vai trò rất quan trọng
trong sự phát triển kinh tế- xã hội đặc biệt là từ thập niên 80 và những năm đầu của

thập niên 90. Đây là giai đoạn mà mạng lưới siêu thị và trung tâm thương mại chưa
hình thành và phát triển, chợ vẫn là nơi tiêu thụ hàng hóa chủ yếu của các doanh
nghiệp sản xuất cũng như là nơi mua sắm chủ yếu của người dân. Tuy nhiên, hiện
nay chợ vẫn giữ một vai trò rất quan trọng thể hiện trên các mặt sau:
Về mặt kinh tế: Chợ là một bộ phận quan trọng trong cấu thành mạng lưới
thương nghiệp xã hội :
• Đối với vùng nông thôn: Chợ vừa là nơi tiêu thụ nông sản hàng hoá, tập
trung thu gom các sản phẩm, hàng hoá phân tán, nhỏ lẻ để cung ứng cho cácthị
trường tiêu thụ lớn trong và ngoài nước,vừa là nơi cung ứng hàng công nghiệp tiêu
dùng cho nông dân và một số loại vật tư cho sản xuất nông nghiệp ở nông thôn.
• Ở khu vực thành thị: Chợ cũng là nơi cung cấp hàng hoá tiêu dùng, lương
thực thực phẩm chủ yếu cho các khu vực dân cư. Tuy nhiên, hiện nay đã xuất hiện
12


khá nhiều hình thức thương mại cạnh tranh trực tiếp với chợ, vì thế bên cạnh việc
mở rộng hay tăng thêm số lượng chợ chúng ta sẽ đầu tư nâng cấp chất lượng hoạt
động của chợ và đầu tư nâng cấp chất lượng dịch vụ của chợ.
Hoạt động của các chợ làm tăng ý thức về kinh tế hàng hoá của người dân, rõ
nét nhất là ở miền núi, vùng cao từ đó thúc đẩy sản xuất phát triển, góp phần tích cực
vào công cuộc xoá đói giảm nghèo ở nông thôn, miền núi. Trong các phiên chợ, các
buổi chợ là cơ hội của người dân giao lưu trao đổi, mua bán, lưu thông hàng hoá của
mình, cập nhật thông tin, ý thức xã hội, nó làm tăng khả năng phản ứng của người
dân với thị trường, với thời thế và tự mình có thể ý thức được công việc làm ăn buôn
bán của mình trong công cuộc đổi mới.
Chợ là một nguồn thu quan trọng của Ngân sách Nhà nước. Mặc dù Nhà nước
chưa có thể nâng cấp đủ hệ thống chợ ở nước ta, chưa đặc biệt quan tâm đầu tư phát
triển, nhưng các chợ trong cả nước đã đem lại cho Ngân sách Nhà nước khoảng
300.000 triệu đồng mỗi năm (chưa kể các nguồn thu từ thuế trực tiếp) [22, tr.5].
Sự hình thành chợ kéo theo sự hình thành và phát triển các ngành nghề sản

xuất. Đây chính là tiền đề hội tụ các dòng người từ mọi miền đất nước tập trung để
làm ăn, buôn bán. Chính quá trình này làm xuất hiện các trung tâm thương mại và
không ít số đó trở thành những đô thị sầm uất.
Về giải quyết việc làm
Chợ ở nước ta đã giải quyết được một số lượng lớn việc làm cho người lao
động. Hiện nay, trên toàn quốc có hơn 2,3 triệu người lao động buôn bán trong các
chợ và số người tăng thêm có thể tới 10%/năm.
Nếu mỗi người trực tiếp buôn bán có thêm 1 đến 2 người giúp việc (phụ việc
bán hàng, tổ chức nguồn hàng để đưa về chợ, đưa hàng tới các mối tiêu thụ theo yêu
cầu của khách...) thì số người lao động có việc tại chợ sẽ gấp đôi, gấp ba lần số
lượng người chỉ buôn bán ở chợ và như thế chợ giải quyết được một số lượng lớn
công việc cho người lao động khi hoạt động [22, tr. 7].
Về việc giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc
Có thể nói, chợ là một bộ mặt kinh tế - xã hội của một địa phương và là nơi
phản ánh trình độ phát triển kinh tế - xã hội, phong tục tập quán của một vùng dân
13


cư. Tính văn hoá ở chợ được thể hiện rõ nhất là ở miền núi, vùng cao, vùng sâu,
vùng xa.
- Đối với người dân: Đồng bào đến chợ ngoài mục tiêu mua bán còn lấy chợ
làm nơi giao tiếp, gặp gỡ, thăm hỏi người thân, trao đổi công việc,kể cả việc dựng vợ
gả chồng cho con cái. Chợ còn là nơi hò hẹn của lứa đôi, vì vậy người dân miền núi
thường gọi là đi "chơi chợ" thay cho từ đi chợ mua sắm như là người dưới xuôi
thường gọi. Các phiên chợ này thường tồn tại từ rất lâu đời và nó là những bản sắc
văn hoá vô cùng đặc trưng của các dân tộc ở nước ta.
- Đối với chính quyền: ở miền núi, vùng cao, vùng sâu, vùng xa chợ là địa
điểm duy nhất hội tụ đông người. Tại chợ có đại diện của các lứa tuổi, tất cả các thôn
bản và các dân tộc. Vì thế, đã từ lâu, Chính quyền địa phương đã biết lấy chợ là nơi
phổ biến chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước, là

nơi tuyên truyền cảnh giác và đấu tranh với những phần tử xuyên tạc đường lối của
Đảng. Từ phong trào kế hoạch hoá gia đình đến kỹ thuật chăm sóc cây trồng vật
nuôi, vệ sinh phòng dịch... đều có thể được phổ biến một cách hiệu quả ở đây. Chính
vì lý do đó, chợ miền núi hay miền xuôi đều được bố trí ở trung tâm cụm, xã (nhất là
miền núi). Trong mỗi chợ đều giành vị trí trung tâm làm công tác tuyên truyền.
Trên thực tế, một số chợ truyền thống có từ rất lâu đời đang trở thành một địa
điểm thu hút khách du lịch (như Chợ Tình SaPa, chợ Cầu Mây ở Nam Định.). Nếu
được đầu tư thoả đáng cả về cở sở vật chất cũng như sự quan tâm quản lý của Nhà
nước, đây sẽ là các địa danh hấp dẫn đối với khách du lịch trong và ngoài nước và nó
sẽ là tiềm năng về kinh tế du lịch quốc gia.
Hiện nay, khi mạng lưới siêu thị, trung tâm thương mại, cửa hàng bán lẻ đã
hình thành và phát triển mạnh, mặc dù vẫn có tầm quan trọng trong sinh hoạt của
người dân nhưng không vì thế mà chợ mất đi vai trò của mình mà có thể nói chợ đã
hoàn thành vai trò lịch sử của mình và sự phát triển mạng lưới chợ chính là sự hỗ trợ
cho sự hình thành và phát triển của các loại hình kinh doanh mới, đó là siêu thị và
trung tâm thương mại.
1.1.2. Quan niệm về dự án đầu tư phát triển chợ

14


Trước hết ta phải hiểu thế nào là dự án đầu tư phát triển, theo Điều 4, Luật đấu
thầu năm 2013, dự án đầu tư phát triển được định nghĩa là các chương trình, dự án
đầu tư xây dựng mới; dự án cải tạo, nâng cấp, mở rộng các dự án đã được đầu tư xây
dựng; dự án mua sắm tài sản, kể cả thiết bị, máy móc không cần lắp đặt; dự án sửa
chữa, nâng cấp tài sản, thiết bị; dự án, đề án quy hoạch; dự án, đề tài nghiên cứu
khoa học, phát triển công nghệ, ứng dụng công nghệ, hỗ trợ kỹ thuật, điều tra cơ bản;
các chương trình, dự án, đề án đầu tư phát triển khác.
Từ định nghĩa trên ta có thể rút ra cách hiểu về dự án đầu tư phát triển chợ là
dự án đầu tư xây dựng mới chợ; dự án cải tạo, nâng cấp, mở rộng các dự án chợ đã

được đầu tư xây dựng thuộc quy hoạch phát triển chợ đã được cấp có thẩm quyền
phê duyệt. Đối với dự án đầu tư xây dựng mới được thực hiện ở xã, phường, thị trấn
chưa có chợ, những nơi có nhu cầu về chợ để phục vụ sản xuất, xuất khẩu và đời
sống sinh hoạt của nhân dân hoặc các chợ tạm hoặc chợ có cơ sở vật chất - kỹ thuật
xuống cấp nghiêm trọng.
Việc thực hiện đầu tư xây dựng chợ mới hoặc sửa chữa lớn, cải tạo, nâng cấp
chợ phải lập dự án theo các quy định hiện hành về quản lý đầu tư xây dựng; các quy
định về tiêu chuẩn thiết kế các loại hình, cấp độ chợ và được cấp có thẩm quyền phê
duyệt theo quy định hiện hành.
Đầu tư xây dựng chợ
Theo Nghị định 02/2003/NĐ-CP và Nghị định 114/2009/NĐ-CP của Chính
phủ:
- Nguồn vốn đầu tư xây dựng chợ bao gồm: nguồn vốn của các doanh
nghiệp, cá nhân sản xuất kinh doanh và của nhân dân đóng góp; nguồn vốn vay tín
dụng; nguồn vốn đầu tư phát triển của Nhà nước, trong đó chủ yếu là nguồn vốn của
các doanh nghiệp, cá nhân sản xuất kinh doanh và nguồn vốn vay tín dụng.
- Nhà nước khuyến khích các tổ chức, cá nhân và các doanh nghiệp thuộc các
thành phần kinh tế đầu tư hoặc góp vốn cùng Nhà nước đầu tư xây dựng các loại
chợ.

15


- Nguồn vốn đầu tư phát triển của Nhà nước (bao gồm vốn từ ngân sách
trung ương, địa phương và các nguồn viện trợ không hoàn lại) chỉ hỗ trợ đầu tư xây
dựng một số chợ sau:
+ Chợ đầu mối chuyên ngành nông sản, thực phẩm để tiêu thụ hàng hoá ở các
vùng sản xuất tập trung về nông, lâm, thuỷ sản.
+ Chợ ở các cụm xã vùng cao, vùng sâu, vùng xa, hải đảo thuộc các chương
trình phát triển kinh tế - xã hội, xoá đói giảm nghèo, định canh định cư của Nhà

nước.
+ Chợ loại 1 theo quy hoạch ở vị trí trọng điểm về kinh tế thương mại của
tỉnh, thành phố, làm trung tâm giao lưu hàng hoá và phục vụ nhu cầu tiêu dùng ở các
thành phố, thị xã lớn.
+ Chủ đầu tư xây dựng chợ thuộc các thành phần kinh tế được hưởng các
chính sách ưu đãi đầu tư dành cho ngành nghề thuộc khoản 5 Mục III Danh mục A
(đầu tư xây dựng quản lý, kinh doanh khai thác chợ tại vùng nông thôn) [19, tr.58].
1.1.3. Quan niệm ưu đãi đầu tư và hỗ trợ đầu tư đối với dự án phát triển chợ

- Quan niệm về ưu đãi đầu tư
Hầu hết các quốc gia đều sử dụng các công cụ ưu đãi, khuyến khích đầu tư
dưới hình thức này hay hình thức khác vì các công cụ ưu đãi đầu tư đều có khả năng
sử dụng rất đa dạng để thu hút sự quan tâm của các nhà đầu tư trong và ngoài nước
đối với nền kinh tế, kích thích nhà đầu tư bỏ vốn đầu tư vào những lĩnh vực, khu vực
nhất định. Mặt khác, thực hiện ưu đãi đầu tư cũng chính là hoạt động quản lý của nhà
nước trong lĩnh vực đầu tư. Vậy ưu đãi đầu tư là gì?
Theo định nghĩa của Diễn đàn của Liên hợp quốc về thương mại và phát triển
(UNCTAD) thì: Khuyến khích đầu tư hay còn gọi là ưu đãi đầu tư là các biện pháp
được Chính phủ sử dụng để thu hút đầu tư, hướng các dự án đầu tư vào các ngành
các khu vực cần thiết hoặc ảnh hưởng đến tính chất của đầu tư. Có thể hiểu ưu đãi
đầu tư là tập hợp của nhiều biện pháp xúc tác rất đa dạng và phong phú để thu hút
đầu tư. Nhìn chung, trên thế giới, ưu đãi đầu tư có thể quy về hai nhóm chính: chính
sách thuế khóa (tax policy) và chính sách khác không phải là thuế (non-tax policy)
[2].
16


Ở Việt Nam, hiện nay chưa có một khái niệm thống nhất và chính thức về “ưu
đãi đầu tư”. Trong các văn bản pháp luật của Việt Nam còn tồn tại song song nhiều
thuật ngữ khác nhau như: “Ưu đãi đầu tư”, “hỗ trợ đầu tư” được sử dụng trong Luật

đầu tư 2005; “khuyến khích đầu tư” được sử dụng trong các văn bản pháp luật về
thuế...Tuy nhiên, những ưu đãi đầu tư đều được cụ thể hóa bằng những quy định
mang tính hiện thực và được xác định rõ trong các văn bản pháp luật để nhà đầu tư
xác định rõ, nắm bắt và thực hiện. Có thể thấy rằng, ưu đãi đầu tư mang tính chất là
một sự khẳng định đã được luật hóa, là những cam kết rõ ràng về việc các nhà đầu tư
sẽ được đối xử một cách ưu đãi khi bỏ vốn đầu tư vào một hoặc một số lĩnh vực, khu
vực nhất định. Từ đó, có thể hiểu một cách khái quát khái niệm về ưu đãi đầu tư như
sau: Ưu đãi đầu tư là những cam kết cụ thể của nhà nước dành cho các nhà đầu tư
khi đầu tư tại nước tiếp nhận đầu tư; đồng thời để được hưởng ưu đãi đầu tư thì nhà
đầu tư phải đáp ứng được một số điều kiện do pháp luật nước tiếp nhận đầu tư quy
định.
- Quan niệm về hỗ trợ đầu tư
Hỗ trợ đầu tư là việc quốc gia hay địa phương ở quốc gia tiếp nhận đầu tư, quy
định hoặc cụ thể hóa bằng hành động với mục đích dành hỗ trợ nhất định về kinh tế
và các biện pháp phi kinh tế theo hướng có lợi cho nhà đầu tư nhằm tạo động lực để
họ đầu tư vào các lĩnh vực, dự án được Nhà nước cho phép.
Ở một Luật cụ thể thì Nhà nước đều có các chính sách khuyến khích, hỗ trợ,
bảo đảm, ưu đãi khác nhau, ví dụ đối với Luật Doanh nghiệp năm 2014, Nhà nước
công nhận sự tồn tại lâu dài và phát triển của các loại hình doanh nghiệp được quy
định tại Luật này; bảo đảm bình đẳng trước pháp luật của các doanh nghiệp không
phân biệt hình thức sở hữu và thành phần kinh tế; thừa nhận tính sinh lợi hợp pháp
của hoạt động kinh doanh; nhà nước công nhận và bảo hộ quyền sở hữu tài sản, vốn
đầu tư, thu nhập, các quyền và lợi ích hợp pháp khác của doanh nghiệp và chủ sở
hữu doanh nghiệp; tài sản và vốn đầu tư hợp pháp của doanh nghiệp và chủ sở hữu
doanh nghiệp không bị quốc hữu hóa, không bị tịch thu bằng biện pháp hành chính;
còn đối với Luật chuyển giao công nghệ, Nhà nước bảo đảm quyền và lợi ích hợp
pháp, tạo điều kiện thuận lợi cho tổ chức, cá nhân hoạt động chuyển giao công nghệ
17



phục vụ nhu cầu phát triển nhanh và bền vững kinh tế - xã hội của đất nước; ưu tiên
phát triển công nghệ cao, công nghệ tiên tiến; phát triển nguồn nhân lực công nghệ
đồng bộ với đầu tư đổi mới công nghệ; phát triển mạnh thị trường công nghệ;
khuyến khích và thúc đẩy hoạt động ươm tạo công nghệ, ươm tạo doanh nghiệp công
nghệ; đẩy mạnh việc chuyển giao kết quả nghiên cứu vào sản xuất, kinh doanh...
Đối với Luật Đầu tư năm 2014, Nhà nước có chính sách hỗ trợ đầu tư được
quy định từ Điều 19 đến Điều 21, mục 2 chương III: gồm có 08 hình thức, đồng thời
nhấn mạnh ở hỗ trợ phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội trong
và ngoài hàng rào dự án; hỗ trợ đào tạo, phát triển nguồn nhân lực, hỗ trợ tín dụng.
Dưới một góc độ khác, chúng ta có thể hiểu, ưu đãi và hỗ trợ đầu tư là các
cam kết của Nhà nước đối với nhà đầu tư: Các ưu đãi và hỗ trợ cụ thể đó có thể thay
đổi theo từng thời kỳ tùy theo tình hình kinh tế - chính trị - xã hội cụ thể nhưng cam
kết của Nhà nước là không thay đổi bởi nó được đảm bảo bằng một bản “hợp đồng”
được ký kết giữa Nhà nước và nhà đầu tư, đó chính là các điều khoản quy định về ưu
đãi tại Giấy chứng nhận đầu tư mà Nhà nước cấp cho nhà đầu tư.
Như vậy, có thể nêu quan niệm về Ưu đãi đầu tư và hỗ trợ đầu tư đối với các
dự án đầu tư phát triển chợ là những cam kết cụ thể của nhà nước dành cho các nhà
đầu tư khi đầu tư phát triển chợ tại địa bàn tiếp nhận đầu tư; đồng thời để được
hưởng ưu đãi đầu tư thì nhà đầu tư phải đáp ứng được một số điều kiện do pháp luật
đầu tư quy định và được hỗ trợ về một khoảng nhất định về kinh tế và các biện pháp
phi kinh tế theo hướng có lợi cho nhà đầu tư nhằm tạo động lực thúc đẩy nhà đầu tư
đầu tư vào các dự án phát triển chợ.
- Pháp luật về ưu đãi và hỗ trợ đầu tư đối với các dự án đầu tư phát triển chợ
Pháp luật về ưu đãi và hỗ trợ đầu tư là hệ thống những quy phạm pháp luật do
nhà nước ban hành, điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực đầu tư,
thương mại, trong đó có các ưu đãi và hỗ trợ đầu tư đối với dự án đầu tư xây dựng và
quản lý, kinh doanh chợ. Mục đích của pháp luật ưu đãi và hỗ trợ đầu tư trước hết là
nhằm thu hút các nhà đầu tư bỏ vốn của họ đầu tư vào các lĩnh vực kinh doanh khai
thác và quản lý chợ. Việc hướng các quan hệ trong lĩnh vực đầu tư theo một trật tự
có định hướng, đảm bảo đầy đủ các quyền và lợi ích cho nhà đầu tư là nội dung quan

18


trọng của quản lý nhà nước trong lĩnh vực này. Nhà nước không chỉ quản lý hoạt
động đầu tư bằng các Nghị quyết, chủ trương, đường lối mà cần phải cụ thể hoá các
nghị quyết, chủ trương ấy thành pháp luật, đảm bảo một hành lang pháp lý cho hoạt
động đầu tư phát triển. Có làm được điều này, Nhà nước mới có thể phát huy hết
quyền lực và vai trò quản lý của mình trong lĩnh vực đầu tư. Pháp luật về ưu đãi và
hỗ trợ đầu tư có hợp lý và hiệu quả thì mới đảm bảo được môi trường bình đẳng mà
ở đó các nhà đầu tư có thể phát huy hết năng lực của mình.
Bản chất của pháp luật ưu đãi và hỗ trợ đầu tư: Pháp luật ưu đãi và hỗ trợ
đầu tư quy định mối quan hệ lợi ích giữa nhà nước và nhà đầu tư. Trong mối quan hệ
này, Nhà nước là chủ thể quyết định các biện pháp ưu đãi và mức hỗ trợ cho nhà đầu
tư khi đáp ứng các điều kiện đầu tư; nhà đầu tư là chủ thể nhận ưu đãi và hỗ trợ;
khách thể của quan hệ này chính là các ưu đãi và hỗ trợ cụ thể như các khoản lợi về
thuế, tiền thuê đất, hỗ trợ công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng, hỗ trợ đào tạo
lao động, hỗ trợ thực hiện các thủ tục hành chính... Mục đích của việc cấp ưu đãi và
hỗ trợ đầu tư là nhà nước mong muốn chủ thể được nhận ưu đãi, hỗ trợ - các nhà đầu
tư - đầu tư vào một số địa bàn và lĩnh vực nhất định theo định hướng phát triển kinh
tế, trong đó chợ là một ngành nghề đặc biệt ưu đãi đầu tư theo quy định tại Nghị định
số 118/2015/NĐ-CP của Chính phủ.
1.2.

Vai trò của pháp luật về ưu đãi và hỗ trợ đầu tư đối với các dự án

đầu tư phát triển chợ
Với tư cách là yếu tố điều chỉnh các quan hệ xã hội về đầu tư phát triển chợ,
pháp luật về ưu đãi và hỗ trợ đầu tư có vai trò hết sức quan trọng trong việc đảm bảo
sự ổn định và phát triển đối với các dự án đầu tư phát triển chợ. Trước hết, phải nói
về vai trò to lớn của pháp luật đầu tư thể hiện rõ nhất ở những khía cạnh sau đây:

Thứ nhất, Pháp luật đầu tư là cơ sở để thiết lập, củng cố và tăng cường quyền
lực nhà nước về đầu tư, thu hút đầu tư. Thực tiễn cho thấy, để nhà nước hoạt động có
hiệu quả đòi hỏi phải xác định đúng chức năng, thẩm quyền, trách nhiệm của mỗi
loại cơ quan; mỗi cơ quan phải xác lập mối quan hệ đúng đắn giữa chúng, phải có
những phương pháp tổ chức và hoạt động phù hợp để tạo ra một cơ chế đồng bộ,

19


×