Tải bản đầy đủ (.pdf) (90 trang)

Pháp luật về bồi thường khi nhà nước thu hồi đất từ thực tiễn tỉnh Thừa Thiên Huế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (906.34 KB, 90 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
------

NGUYỄN TIẾN DŨNG

PHÁP LUẬT VỀ BỒI THƯỜNG
KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT
TỪ THỰC TIỄN TỈNH THỪA THIÊN HUẾ

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI, năm 2018


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
------

NGUYỄN TIẾN DŨNG

PHÁP LUẬT VỀ BỒI THƯỜNG
KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT
TỪ THỰC TIỄN TỈNH THỪA THIÊN HUẾ

Chuyên ngành : Luật Kinh tế
Mã số
: 838.01.07


LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. BÙI NGUYÊN KHÁNH

HÀ NỘI, năm 2018


LỜI CẢM ƠN
Để có được luận văn này, trước tiên, tôi xin bày tỏ sự cảm ơn tới quý thầy
cô của Học viện Khoa học xã hội đã tận tình giảng dạy, chỉ bảo, hướng dẫn tôi
trong suốt thời gian của khóa học.
Đăc biệt, tôi xin trân trọng cảm ơn PGS.TS Bùi Nguyên Khánh đã tận
tình, tận tâm hướng dẫn, giúp đỡ, cung cấp, giới thiệu các bản luận án cũng như
các tư liệu nghiên cứu để tôi hoàn thiện luận văn này.
Nhân đây, tôi cũng xin phép cảm ơn Ban Giám đốc Công an tỉnh Thừa
Thiên Huế, quý cơ quan, ban ngành trên địa bàn tỉnh, nhất là sở Tài nguyên –
Môi trường đã tạo điều kiện, quan tâm giúp đỡ tôi hoàn thành luận văn.
Cám ơn gia đình, bạn bè và anh chị em lớp cao học Luật Kinh tế, Khóa
VII, Học viện Khoa học xã hội đã cổ vũ, động viên, khích lệ và giúp đỡ tôi trong
suốt quá trình học tập và hoàn thiện đề tài.
Trân trọng cảm ơn!
Tác giả

Nguyễn Tiến Dũng


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn “Pháp luật về bồi thường khi nhà nước thu hồi
đất từ thực tiễn tỉnh Thừa Thiên Huế” là công trình nghiên cứu khoa học độc lập

của tôi, được hoàn thành sau quá trình học tập và nghiên cứu thực tiễn, với sự
hướng dẫn khoa học của PGS.TS. Bùi Nguyên Khánh.
Các số liệu, kết quả nêu trong Luận văn là trung thực và có nguồn gốc rõ
ràng. Các phân tích, lập luận, đánh giá được đưa ra trên quan điểm cá nhân sau
khi nghiên cứu.
Luận văn không sao chép, không trùng lặp với bất kỳ nghiên cứu khoa học
đã được công bố nào.
Tác giả

Nguyễn Tiến Dũng


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ......................................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ NỘI DUNG BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI
KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT .............................................................................. 8
1.1. Tổng quan về bồi thường thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất .................................. 8
1.2. Nội dung về bồi thường thiệt hại khi Nhà nước tiến hành thu hồi đất ................... 14
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ BỒI THƯỜNG KHI NHÀ
NƯỚC THU HỒI ĐẤT TỪ THỰC TIỄN TỈNH THỪA THIÊN HUẾ ................. 27
2.1. Quy định của pháp luật về bồi thường thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất tại tỉnh
Thừa Thiên Huế ............................................................................................................. 27
2.2. Thực tiễn thực thi pháp luật về bồi thường thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất
của tỉnh Thừa Thiên Huế ............................................................................................... 42
CHƯƠNG 3. PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT
VỀ BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT TẠI TỈNH
THỪA THIÊN HUẾ .................................................................................................... 60
3.1. Phương hướng hoàn thiện và dự báo tình hình thu hồi đất, giải phóng mặt bằng
trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế thời gian tới ............................................................. 60
3.2. Giải pháp hoàn thiện ............................................................................................... 65

KẾT LUẬN .................................................................................................................. 80
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BTTH

: Bồi thường thiệt hại

CĐT

: Chủ đầu tư

GCN

: Giấy chứng nhận

GPMB

: Giải phóng mặt bằng

KT-XH

: Kinh tế - xã hội

MTTQVN

: Mặt trận Tổ quốc Việt Nam

NĐT


: Nhà đầu tư

PTQĐ

: Phát triển quỹ đất

QSDĐ

: Quyền sử dụng đất

SDĐ

: Sử dụng đất

TĐC

: Tái định cư

THĐ

: Thu hồi đất

TN&MT

: Tài nguyên và Môi trường

UBND

: Ủy ban nhân dân



MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thừa Thiên Huế là một trong những trung tâm kinh tế, chính trị, văn hóa xã hội
lớn của khu vực miền Trung nói riêng, cả nước nói chung. Những năm qua, thực hiện
chủ trương hội nhập, toàn cầu hóa, Đảng bộ và nhân dân toàn tỉnh đã và đang đẩy
nhanh tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đô thị hóa các khu dân cư, khu công
nghiệp, khu kinh tế,… từng bước triển khai có hiệu quả Đề án đưa Huế trở thành
Thành phố trực thuộc Trung ương. Để thực hiện mục tiêu trên, một trong những công
tác trọng tâm được Tỉnh ủy, UBND tỉnh xác định mang tính chiến lược và lâu dài đó là
THĐ, GPMB nhằm xây dựng và triển khai các loại hình dự án mang tầm vĩ mô, tạo
động lực thúc đẩy phát triển KT-XH. Việc THĐ, GPMB là điều kiện tiên quyết và
mang tính tất yếu khách quan, nhằm mục đích mở rộng quỹ đất, tạo không gian, diện
tích cho dự án đi vào hoạt động. Đây là vấn đề có tính quy luật không chỉ phổ biến ở
Việt Nam mà còn ở nhiều quốc gia khác trên thế giới. Tuy vậy, công tác GPMB, THĐ
có tính đặc thù và độ nhạy cảm cao, không những ảnh hưởng lớn đến tiến độ đầu tư
mà còn liên quan đến sự ổn định tình hình kinh tế, chính trị- xã hội của đất nước, địa
phương. Việc SDĐ để triển khai các dự án phát triển KT-XH một mặt đem lại những
lợi ích rõ rệt về kinh tế, hạ tầng đô thị, làm thay đổi chất lượng cuộc sống của người
dân nhưng mặt khác cũng gây không ít khó khăn cho một bộ phận dân cư do bị ảnh
hưởng bởi việc THĐ mà mất đi tư liệu sản xuất chính, mất nguồn thu nhập và kế sinh
nhai của mình. Do đó, nếu giải quyết không tốt, không thỏa đáng quyền lợi của người
dân có đất bị thu hồi và những người bị ảnh hưởng khi THĐ sẽ rất dễ dẫn đến những
phản ứng gay gắt từ phía người dân, gây ra những bất ổn về chính trị, kinh tế, đặc biệt
là tình hình khiếu nại, khiếu kiện tập thể, tập trung đông người gây mất an ninh trật tự
trên địa bàn, ảnh hưởng đến môi trường đầu tư và an sinh xã hội.
Đến nay, tại địa phương vẫn còn tồn tại một số dự án đã quy hoạch từ nhiều
năm nhưng chưa được thực hiện do sự vướng mắc trong việc đền bù giữa Nhà nước,
chủ dự án và người dân trong diện giải tỏa, hàng trăm hộ dân khiếu nại, không chịu

bàn giao mặt bằng bởi công tác bồi thường, hỗ trợ TĐC còn nhiều bất cập. Tại một số
địa phương cấp huyện, việc xác định loại đường, vị trí để áp giá các loại đất trên cơ sở
khung giá của UBND tỉnh còn tuỳ tiện, không phù hợp với giá chuyển nhượng thực tế,
1


gây bất bình đối với một bộ phận người dân có đất bị thu hồi. Một số cán bộ làm công
tác GPMB không được đào tạo nghiệp vụ, không nghiên cứu các văn bản pháp luật
hiện hành, nên việc đề xuất giá bồi thường còn lúng túng, thiếu hợp lý. Như vậy, vấn
đề đặt ra là, công tác THĐ, GPMB phải tính toán như thế nào để hạn chế đến mức thấp
nhất thiệt hại cho người dân, đảm bảo cuộc sống họ sau khi bồi thường được ổn định.
Đây đã và đang là một vấn đề mang tính thời sự cấp bách, đòi hỏi được sự quan tâm và
nỗ lực của nhiều cấp, nhiều ngành, mọi tổ chức, cá nhân và xã hội.
Để giải quyết vấn đề trên, lãnh đạo tỉnh bên cạnh việc quán triệt, triển khai thực
hiện nghiêm túc các chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về
THĐ, GPMB đã xây dựng, ban hành các văn bản, chính sách về đền bù thiệt hại cho
người dân khi THĐ tại địa phương để thực hiện các dự án phát triển KT-XH, đồng
thời thành lập Ban Chỉ đạo GPMB do đồng chí Bí thư Tỉnh ủy làm Trưởng ban nhằm
giải quyết hiệu quả, thỏa đáng các vấn đề nảy sinh trong thực hiện công tác THĐ,
GPMB. Mặc dù đã có nhiều cố gắng trong việc thiết lập, vận hành hoạt động của
BCĐ, song việc thực thi các chính sách, văn bản về đền bù do THĐ, GPMB vẫn còn
bộc lộ những bất cập, hạn chế nhất định, chưa theo kịp tình hình phát triển KT-XH
trong giai đoạn hiện nay, nhất là mức giá bồi thường đối với đất đai và tài sản trên đất
đối của người dân bị thiệt hại, ảnh hưởng.
Do đó, việc nghiên cứu sâu hơn pháp luật về BTTH khi Nhà nước THĐ nhằm
hoàn thiện hơn nữa cơ sở pháp lý cho việc định giá đất đai theo hướng cân đối hài hòa
lợi ích giữa Nhà nước, doanh nghiệp và người dân, đáp ứng yêu cầu và quyền lợi của
người dân bị THĐ và bị thiệt hại về tài sản trên đất đang đặt ra như một nhu cầu cấp
thiết. Xuất phát từ tình hình trên, học viên đã mạnh dạn chọn vấn đề “Pháp luật về bồi
thường khi nhà nước thu hồi đất từ thực tiễn tỉnh Thừa Thiên Huế” làm luận văn Thạc

sĩ chuyên ngành Luật Kinh tế, đây là đề tài có ý nghĩa trên cả phương diện lý luận và
thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến luận văn
Về BTTH khi Nhà nước THĐ, đã có một số công trình, bài báo khoa học nói về
vấn đề này. Trong công trình “Nghiên cứu cơ sở lý luận, thực tiễn và đề xuất việc sửa
đổi, bổ sung hoàn thiện Luật đất đai”, Viện Chiến lược chính sách tài nguyên và môi
trường (Bộ Tài nguyên và Môi trường) đã đề nghị sửa đổi, bổ sung các nội dung liên
2


quan đến THĐ, bồi thường, GPMB. Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (Bộ
Kế hoạch và Đầu tư) có Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ (2009) “Vấn đề bồi thường
trong THĐ nông nghiệp ở Việt Nam: Thực trạng chính sách và giải pháp hoàn thiện”
do Nguyễn Mạnh Hải làm Chủ nhiệm đề tài. Đánh giá những bất cập trong công tác
thu hồi, bồi thường khi THĐ nông nghiệp, đề tài kiến nghị: (i) Cần xây dựng đạo luật
riêng về THĐ (trong đó có đất nông nghiệp); (ii) Thành lập Tòa án riêng để giải quyết
các tranh chấp phát sinh trong lĩnh vực THĐ; (iii) Xác định rõ tiêu chí “giá chuyển
nhượng quyền sử dụng đất trên thị trường trong điều kiện bình thường” đối với đất
nông nghiệp; (iv) Xây dựng phương án chi tiết về đào tạo chuyển đổi nghề nghiệp đối
với từng đối tượng. Thời gian hỗ trợ phải bằng hai đến ba chu kỳ sản xuất nông nghiệp
để người dân có thời gian điều chỉnh cho việc tìm sinh kế mới.
Vũ Thị Minh Hồng có tham luận “Đánh giá, kiến nghị pháp luật hiện hành về
THĐ, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư” tại Hội thảo “Tài chính đất đai, giá đất và cơ
chế, chính sách trong bồi thường, hỗ trợ, tái định cư” do Viện Chiến lược chính sách
tài nguyên và môi trường (Bộ Tài nguyên và Môi trường) tổ chức tại Hà Nội ngày
12/07/2011. Tác giả phân tích những điểm hợp lý và bất hợp lý trong các quy định
hiện hành về THĐ, bồi thường khi THĐ. Đồng thời, kiến nghị một số giải pháp góp phần
hoàn thiện các quy định này, đóng góp cho quá trình soạn thảo Luật Đất đai sửa đổi.Ngân
hàng Thế giới xuất bản cuốn sách: “Compulsory Land Acquisition and Voluntary Land
Conversion in Vietnam: The Conceptual Approach, Land Valuation and Grience

Redress Mechanisms” (Cơ chế Nhà nước THĐ và chuyển dịch đất đai tự nguyện ở
Việt Nam: Phương pháp tiếp cận, định giá đất và giải quyết khiếu nại của dân). Trong
đó đề cập nội dung chuyển dịch đất đai bắt buộc (Nhà nước giao đất và THĐ), chuyển
dịch đất đai tự nguyện (các NĐT trực tiếp nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất của
người đang sử dụng đất) ở Việt Nam. Ngân hàng Thế giới khuyến nghị: (i) Hoàn thiện
chính sách Nhà nước THĐ và cơ chế chuyển dịch đất đai tự nguyện ở Việt Nam với
các nội dung: Đề xuất đổi mới, điều chỉnh cơ chế chuyển dịch đất đai tự nguyện, bắt
buộc; xác định giới hạn cơ chế chuyển dịch đất đai bắt buộc và chuyển dịch đất đai tự
nguyện; các biện pháp tăng hiệu quả của triển khai thực tế; (ii) Hoàn chỉnh quy định
của pháp luật về định giá đất áp dụng cho bồi thường, hỗ trợ và tái định cư, bao gồm:
Quy định về phương pháp định giá đất phù hợp với thị trường; hoàn chỉnh hệ thống
3


khung pháp luật cho hoạt động cung cấp dịch vụ định giá đất; bổ sung quy định về
trình tự, thủ tục thực hiện định giá đất, quyết định về giá đất làm cơ sở cho việc bồi
thường, hỗ trợ, tái định cư; (iii) Nâng cao hiệu quả giải quyết bức xúc, khiếu nại về
THĐ, bồi thường, hỗ trợ và tái định cư, với các nội dung: Thực hiện cơ chế độc lập
giải quyết các khiếu nại hành chính về THĐ và thực hiện bồi thường, hỗ trợ, tái định
cư để áp dụng cho các dự án đầu tư; sửa đổi, bổ sung cần thiết đối với quy định pháp
luật và thực thi pháp luật về giải quyết khiếu nại hành chính trong quản lý đất đai.
Phạm Duy Nghĩa có bài viết “Giải quyết tranh chấp trong THĐ nông
nghiệp”trên Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 14/2014. Tác giả đề cập, Luật Đất đai
năm 2013 đã quy định rõ các lý do THĐ và thắt chặt quy trình thu hồi, nhưng đạo Luật
này vẫn giành cho Nhà nước quyền ấn định giá đất, khi đền bù thì giá này là cơ sở để
tính tiền bồi thường. Vì vậy, vẫn đưa đến tranh chấp và khiếu kiện bởi cùng một khu
vực đền bù nhưng giá đền bù khác nhau do giá đất ấn định theo địa giới hành chính.
Tuy Luật Đất đai năm 2013 đã hoàn thiện hơn, nhưng vẫn chưa giải quyết hoàn toàn
mối quan hệ hài hòa giữa Nhà nước, NĐT và người sử dụng đất. Lượng đơn thư khiếu
nại về THĐ, bồi thường giải phóng mặt bằng không giảm so với trước thời điểm Luật

Đất đai năm 2013 có hiệu lực.
Bộ Tài nguyên và Môi trường năm 2013 có Đề án“Hoàn thiện cơ chế, chính
sách, pháp luật về THĐ, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư để đẩy nhanh tiến độ giải
phóng mặt bằng thực hiện các dự án đầu tư”. Đây là một trong những nội dung quan
trọng thực hiện Nghị quyết số 13-NQ/TW. Mục tiêu chính của Đề án nhằm hoàn thiện
chính sách, pháp luật về THĐ, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước THĐ để
thực hiện các dự án đầu tư và tập trung vào 6 nhóm vấn đề. Cụ thể là: (i) Quy định rõ
trách nhiệm thực hiện, cắt giảm, lồng ghép các bước công việc trong công tác THĐ,
bồi thường, hỗ trợ, tái định cư để rút ngắn thời gian thực hiện, đẩy nhanh tiến độ bồi
thường, giải phóng mặt bằng; (ii) Quy định cơ chế về sự tham gia và tiếp thu giải trình
ý kiến của người dân trong việc thực hiện THĐ, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư; cơ chế
giải quyết việc bồi thường, hỗ trợ, tái định cư đối với trường hợp người có đất thu hồi
đồng thuận bàn giao mặt bằng trước khi ban hành quyết định THĐ và các hộ dân hiến
một phần giá trị quyền sử dụng đất để triển khai thực hiện dự án đầu tư, đặc biệt là các
dự án quy hoạch nông thôn mới (iii) Sửa đổi, bổ sung các quy định về xác định giá đất
4


để tính bồi thường khi Nhà nước THĐ. Trong đó trọng tâm là trình tự, thủ tục, phương
pháp xác định giá đất tính bồi thường; về xác định giá đất nông nghiệp trong khu dân
cư, khu đô thị theo hướng bảo đảm phù hợp với giá trị quyền sử dụng đất và điều kiện
về thông tin để áp dụng phương pháp định giá đất; về xác định giá đất tại khu vực giáp
ranh giữa các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương để bảo đảm tính khả thi trong tổ
chức thực hiện; (iv) Nghiên cứu, đề xuất đa dạng các hình thức bồi thường, hỗ trợ và
phương thức chi trả tiền bồi thường, hỗ trợ để bảo đảm sinh kế lâu dài cho người bị
THĐ. Nghiên cứu, đề xuất đổi mới các phương thức tạo quỹ nhà, quỹ đất tái định cư
gắn với các dự án phát triển nhà ở, phát triển đô thị, xây dựng khu dân cư nông thôn,
các khu xen cài, các khu nhỏ lẻ... Nâng cao chất lượng các khu tái định cư đáp ứng yêu
cầu của người có đất bị thu hồi; (v) Bổ sung quy định hỗ trợ tái định cư để bảo đảm có
chỗ ở và ổn định đời sống của người có đất ở bị thu hồi: Hỗ trợ đối với trường hợp tái

định cư tại chỗ trong thời gian chờ bố trí tái định cư, hỗ trợ đối với trường hợp giá trị
nhà đất tại khu tái định cư lớn hơn giá trị đất bị thu hồi theo hướng hỗ trợ kinh phí xây
dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật khu tái định cư; (vi) Nghiên cứu, đề xuất ban hành chính
sách khuyến khích NĐT tự nhận chuyển nhượng, thuê quyền sử dụng đất, nhận góp vốn
bằng quyền sử dụng đất để thực hiện các dự án đầu tư.
Tuy nhiên, đến nay vẫn chưa có công trình nghiên cứu chuyên biệt về BTTH
đối với đất đai và tài sản trên đất khi Nhà nước THĐ tại địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế. Đây là lần đầu tiên vấn đề này được đặt ra nghiên cứu một cách toàn diện với tư
cách là một luận văn thạc sĩ.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Luận văn là nhằm làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về BTTH khi Nhà nước THĐ;
phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật về bồi thương thiệt hại khi Nhà nước THĐ và
thực tiễn thực thi của tỉnh Thừa Thiên – Huế; để từ đó đề xuất các phương hướng, giải
pháp hoàn thiện pháp luật về về BTTH khi Nhà nước THĐ ờ nước ta hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện mục đích nghiên cứu kể trên, luận văn có các nhiệm vụ nghiên
cứu cụ thể như sau:
- Nghiên cứu nhằm làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về BTTH khi Nhà nước
5


THĐ;
- Phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật về BTTH khi Nhà nước THĐ ở nước
ta hiện nay;
- Phân tích, đánh giá thực tiễn thực thi pháp luật về BTTH khi Nhà nước THĐ
của tỉnh Thừa Thiên – Huế;
- Đề xuất các phương hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật về về BTTH khi
Nhà nước THĐ ờ nước ta hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu

- Các dự án có THĐ của người dân trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế.
- Tổ chức, cá nhân có đất bị thu hồi và những thiệt hại của họ sau khi bị THĐ.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về địa bàn: Luận văn tập trung nghiên cứu, khảo sát trên địa bàn tỉnh Thừa
Thiên Huế.
- Về thời gian: từ năm 2010 đến hết năm 2016.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Để làm rõ các vấn đề thuộc nội dung nghiên cứu, luận văn sử dụng phương
pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Marx-Lenin, đường lối,
chính sách phát triển kinh tế - xã hội, chính sách đất đai của Đảng và Nhà nước ta
trong thời kỳ đổi mới nền kinh tế theo cơ chế thị trường.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Ngoài ra, luận án còn sử dụng các phương pháp nghiên cứu mang tính truyền
thống chủ yếu như sau:
- Phương pháp phân tích, diễn giải, đánh giá và tổng hợp: Phương pháp này
được sử dụng trong tất cả các chương nhằm lý giải những vấn đề thuộc về bản chất,
các quan điểm liên quan đến vấn đề nghiên cứu, đánh giá thực trạng, để từ đó, đề xuất
các giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật về bồi
thường khi Nhà nước thu hồi đất ở Việt Nam.
- Phương pháp thống kê: Tiến hành thu thập, thống kê về kết quả thực hiện pháp
luật về bồi thường khi Nhà nước THĐ tại địa bàn tỉnh Thừa Thiên – Huế.
6


- Phương pháp so sánh: So sánh kinh nghiệm pháp luật của một số quốc gia
trên thế giới và của các địa phương khác về THĐ, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi
Nhà nước THĐ.
- Phương pháp xử lý thông tin: Sử dụng để xử lý các tài liệu tham khảo từ sách,
báo, tạp chí, các tài liệu từ cơ sở dữ liệu ProQues, Springer và Google Scholar liên

quan đến vấn đề nghiên cứu. Từ đó, tổng thuật theo từng chủ đề trong giới hạn phạm
vi nghiên cứu đặt ra, trên cơ sở đó, khẳng định tính mới trong nội dung nghiên cứu của
Luận văn
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Luận văn được hoàn thành sẽ có một số đóng góp mới trên cả phương diện lý
luận và thực tiễn.
6.1. Ý nghĩa lý luận
Những kết quả thu được thông qua thực hiện đề tài sẽ bổ sung cơ sở thực tiễn để
đánh giá chung về pháp luật bồi thường và tình hình đời sống của người dân sau khi bị
THĐ. Đồng thời, bổ sung, hoàn thiện những quy định về pháp luật của Nhà nước, địa
phương về bồi thường THĐ nhằm đảm bảo cho cuộc sống của người dân sau khi bị THĐ.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Góp phần hoàn thiện pháp luật, chính sách, phương thức đền bù thiệt hại khi
Nhà nước THĐ; góp phần hạn chế, giải toả những bức xúc về khiếu kiện của công dân
bị thiệt hại do phải giải toả mặt bằng, bàn giao đất để triển khai các dự án trên địa bàn
TT. Huế nói riêng, cả nước nói chung.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục tham khảo, luận văn được bố cục thành
03 chương. Cụ thể như sau:
Chương 1. Những vấn đề lý luận của pháp luật về bồi thường thiệt hại khi Nhà
nước thu hồi đất.
Chương 2. Thực trạng pháp luật về bồi thường thiệt hại khi Nhà nước thu hồi
đất qua thực tiễn tỉnh Thừa Thiên Huế.
Chương 3. Phương hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về bồi thường thiệt
hại khi Nhà nước thu hồi đất ở Việt Nam hiện nay

7


CHƯƠNG 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ NỘI DUNG BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI
KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT
1.1. Tổng quan về bồi thường thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất
1.1.1. Khái niệm thu hồi đất
Thuật ngữ “thu hồi” trong tiếng Việt thường được hiểu là “lấy lại cái đã phát
ra” hoặc “thu về lại, lấy lại cái trước đó đã đưa ra, đã cấp phát hoặc bị mất vào tay
người khác” [24]. Dựa vào khái niệm trên, có thể hiểu THĐ là việc Nhà nước lấy lại
đất đã giao, đã cho thuê hoặc lấy lại đất đai của một tổ chức, cá nhân nào đó đang nắm
giữ, quản lý, sử dụng, vì một mục đích nào đó của Nhà nước.
Trong lịch sử lập pháp Việt Nam cho đến nay, THĐ trong quy hoạch mới được ghi
vào Hiến pháp năm 2013, đánh dấu bước phát triển mới về cơ sở pháp lý cho việc THĐ.
Trước đó, cơ sở pháp lý cao nhất của THĐ chủ yếu nằm trong các văn bản pháp luật về
đất đai. Luật Đất đai qua các thời kỳ, kể từ khi Hiến pháp năm 1980 được ban hành đến
nay, đều quy định về hoạt động THĐ như là một công cụ quản lý Nhà nước và cũng nhằm
để thực hiện quyền đại diện chủ sở hữu của Nhà nước đối với đất đai. Trong điều kiện
kinh tế thị trường, THĐ còn được xem như là một giai đoạn của quá trình điều tiết, phân
phối đất đai, tức là chuyển dịch QSDĐ từ người này qua người khác để tạo ra giá trị đất
đai cao hơn nhằm mục đích phát triển KT-XH ở mức cao hơn, hiện đại hơn. Cùng với quá
trình phát triển của pháp luật đất đai, chế định THĐ cũng dần được hoàn thiện.
Nhà nước với tư cách đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý về đất đai, có
quyền THĐ bằng một quyết định hành chính. Quyết định THĐ của CQNN có thẩm
quyền là sự kiện pháp lý làm phát sinh, thay đổi và chấm dứt quan hệ pháp luật đất đai
của người được Nhà nước trao QSDĐ. Từ năm 1987 đến nay đã có bốn Luật Đất đai
được ban hành (Luật Đất đai năm 1987, 1993, 2003, 2013) đều xác định có tính
nguyên tắc “đất đai thuộc sở hữu toàn dân” do Nhà nước thống nhất quản lý. Luật Đất
đai năm 1987 và Luật Đất đai năm 1993 đã có quy định về THĐ, nhưng chưa định
nghĩa rõ thế nào là THĐ mà chỉ liệt kê các trường hợp bị THĐ (Điều 14 Luật Đất đai
năm 1987 và Điều 26 Luật Đất đai năm 1993). Khi Luật Đất đai năm 2003 ra đời,
thuật ngữ THĐ đã được giải thích tại khoản 5, Điều 4: “THĐ là việc Nhà nước ra
quyết định hành chính để thu lại QSDĐ hoặc thu lại đất đã giao cho tổ chức, UBND

xã, phường, thị trấn quản lý theo quy định của Luật này”.
8


Dù đã có sự điều chỉnh và mở rộng nội hàm của vấn đề THĐ, song cách quy
định này chưa thật sự cụ thể, bởi nó có thể dẫn đến cách hiểu rằng, người SDĐ bị thu
hồi chỉ là tổ chức hay UBND xã, phường, thị trấn, trong khi theo quy đinh pháp luật,
người SDĐ bị thu hồi còn có thể là hộ gia đình, cá nhân SDĐ, và trên thực tế hộ gia đình,
cá nhân là chủ thể bị THĐ phổ biến nhất. Trên cơ sở hiến định rõ ràng về THĐ trong
Hiến pháp năm 2013, Luật Đất đai năm 2013, tại khoản 11, Điều 4 đã quy định: “Nhà
nước THĐ là việc Nhà nước quyết định thu lại QSDĐ của người được Nhà nước trao
QSDĐ hoặc thu lại đất của người SDĐ vi phạm pháp luật về đất đai”.
THĐ sẽ dẫn đến hậu quả pháp lý chấm dứt QSDĐ của người SDĐ. Việc THĐ
có thể xuất phát từ những nguyên nhân khác nhau nhưng đều hướng đến hai mục đích:
Thứ nhất, THĐ nhằm bảo vệ quyền sở hữu đất đai của Nhà nước khi người SDĐ có
hành vi vi phạm pháp luật đất đai có khả năng gây tổn hại đến tài sản của Nhà nước.
Thứ hai, THĐ để hỗ trợ cho quá trình điều phối đất đai khi Nhà nước cần điều chỉnh
lại việc SDĐ về mục đích, chủ thể sử dụng theo quy hoạch, kế hoạch SDĐ.
Từ phân tích trên, khái niệm THĐ có thể được hiểu như sau: “THĐ là việc
CQNN có thẩm quyền ra quyết định hành chính để thu lại đất hoặc QSDĐ đã trao cho
tổ chức, hộ gia đình, cá nhân. Việc THĐ xuất phát từ nhu cầu phát triển KT-XH vì lợi
ích quốc gia, công cộng; do chấm dứt việc SDĐ theo pháp luật, tự nguyện trả lại đất,
có nguy cơ đe dọa tính mạng con người hoặc là việc áp dụng các chế tài nhằm xử lý
các hành vi vi phạm pháp luật đất đai của người sử dụng, quản lý đất đai”.
1.1.2. Khái niệm bồi thường thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất
Theo Từ điển tiếng Việt thông dụng [53]: “Bồi thường” là “đền bù những tổn
hại gây ra”. Trong lĩnh vực pháp luật, trách nhiệm bồi thường được đặt ra khi một chủ
thể có hành vi vi phạm pháp luật gây thiệt hại cho chủ thể khác trong xã hội. Trong
lĩnh vực pháp luật đất đai, thuật ngữ “bồi thường” (hay đền bù) khi Nhà nước THĐ
được đặt ra từ rất sớm:

Nghị định số 151/TTg ngày 14/01/1959 của Hội đồng Chính phủ quy định tạm
thời về trưng dụng ruộng đất, tại Chương II đã đề cập việc “Bồi thường cho người có
ruộng đất bị trưng dụng” . Tiếp đến Thông tư số 1792/TTg ngày 11/01/1970 của Thủ
tướng Chính phủ về quy định một số điểm tạm thời về bồi thường nhà cửa, đất đai, cây
cối lâu niên, các hoa màu cho nhân dân ở những vùng xây dựng kinh tế mở rộng thành
phố cũng đề cập vấn đề bồi thường khi Nhà nước THĐ .
9


Đặc biệt khi Luật đất đai năm 1987 ra đời, Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính
phủ) đã ban hành quyết định số 186/HĐBT ngày 31/05/1990 quy định về đền bù thiệt
hại đất nông nghiệp, đất có rừng khi chuyển sang sử dụng vào mục đích khác, thuật
ngữ “bồi thường” được thay thế bằng thuật ngữ “đền bù”. Thuật ngữ này tiếp tục được
sử dụng trong Luật Đất đai 1993, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Đất đai
năm 1998. Khi Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Đất đai năm 2001 được
Quốc hội ban hành, thuật ngữ “bồi thường” được sử dụng trở lại bởi sự hợp lý của nó
và tiếp tục xuất hiện trong Luật Đất đai năm 2003, Nghị định số 197/2004/NĐ-CP ngày
03/12/2004 của Chính phủ quy định “Về bồi thường, hỗ trợ và TĐC khi Nhà nước THĐ”.
Theo Khoản 6 Điều 4 Luật Đất đai 2003: “Bồi thường khi Nhà nước THĐ là
việc Nhà nước trả lại giá trị QSDĐ đối với diện tích đất bị thu hồi cho người bị
THĐ”. Khái niệm nêu trên chỉ xác định bồi thường về đất, trong khi đó việc THĐ
không chỉ gây thiệt hại về đất, mà còn là những thiệt hại liên quan đến QSDĐ, công
trình xây dựng, kiến trúc, cây trồng, vật nuôi trên đất, thậm chí là thiệt hại về sức khỏe
do áp lực căng thẳng, lo âu của người SDĐ. Còn tại Luật Đất đai năm 2013, tại Khoản
12, Điều 3 về giải thích từ ngữ đã quy định rõ: “Bồi thường về đất là việc Nhà nước
trả lại giá trị QSDĐ đối với diện tích đất thu hồi cho người SDĐ”. Còn vấn đề hỗ trợ
và bồi thường thiệt hại về tài sản được quy định tại mục 2, mục 3 chương VI của Luật
này. Như vậy, khi Nhà nước THĐ, Nhà nước có nghĩa vụ bồi thường cho người SDĐ
hợp pháp bị THĐ những giá trị, thiệt hại hợp lý về đất và tài sản trên đất, việc bồi
thường được thực hiện theo những quy định của pháp luật đất đai.

Bản chất của BTTH khi THĐ không phải là quan hệ mua bán đất đai (hay
quyền sử dụng đất) dù nhìn nhận dưới bất kỳ góc độ nào. Thực chất nhà nước có trách
nhiệm xác định những thiệt hại để bồi thường nhằm ổn định và nâng cao đời sống
người dân khi bị thu hồi đất. Thu hồi và bồi thường thiệt hại về đất mang ý nghĩa của
việc thực hiện quyền của nhà nước chứ không phải đơn thuần là một quan hệ giao dịch
có tính chất ngang giá. Trong tổ chức thực hiện, Nhà nước có thể trực tiếp đứng ra thu
hồi và BTTH, nhưng cũng có thể giao cho các tổ chức khác thực hiện quyền này, theo
những quy định mà nhà nước đã ban hành.
Từ những phân tích trên, có thể hiểu một cách đầy đủ về bồi thường khi Nhà nước
THĐ như sau: Bồi thường thiệt hại khi THĐ là việc Nhà nước hoặc tổ chức, cá nhân được
Nhà nước giao đất, cho thuê đất để sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích
10


quốc gia, lợi ích công cộng, phát triển kinh tế phải bù đắp những tổn hại về đất và tài sản,
công trình, kiến trúc, cây trồng, vật nuôi và những thiệt hại khác trên đất do hành vi THĐ
gây ra, cho người SDĐ tuân theo những quy định của pháp luật đất đai.
1.1.3. Đặc điểm và ý nghĩa của bồi thường thiệt hại khi thu hồi đất
1.1.3.1. Đặc điểm của bồi thường thiệt hại khi thu hồi đất
Thứ nhất, về đối tượng được bồi thường, là những chủ thể SDĐ: hộ gia đình, cá
nhân, tổ chức trong nước, tổ chức nước ngoài, cộng đồng dân cư, cơ sở tôn giáo, người
Việt Nam định cư ở nước ngoài về đầu tư tại Việt Nam…, khi thỏa mãn các điều kiện
theo quy định của pháp luật.
Thứ hai, về phạm vi bồi thường, chỉ khi Nhà nước THĐ để sử dụng vào mục
đích quốc phòng, an ninh; THĐ để phát triển KT-XH vì lợi ích quốc gia, công cộng;
THĐ do vi phạm pháp luật về đất đai; THĐ do chấm dứt việc SDĐ theo pháp luật, tự
nguyện trả lại đất, có nguy cơ đe dọa tính mạng con người,... người sử dụng đất mới được
bồi thường. Điều 61-65, Luật Đất đai năm 2013 đã quy định các căn cứ THĐ là (1) Nhà
nước THĐ vì mục đích quốc phòng, an ninh, (2) Nhà nước THĐ để phát triển KT-XH vì
lợi ích quốc gia, công cộng, (3) THĐ do vi phạm pháp luật về đất đai, (4) THĐ do chấm dứt

việc SDĐ theo pháp luật, tự nguyện trả lại đất, có nguy cơ đe dọa tính mạng con người.
Thứ ba, về giá đất bồi thường, Nhà nước chủ động trong việc xác định giá đất bồi
thường dựa trên các căn cứ khoa học và tôn trọng giá đất trên thị trường trong điều kiện
bình thường của thửa đất. Nguyên tắc chung về vấn đề bồi thường trong quá trình GPMB
của Nhà nước theo pháp luật đất đai là Nhà nước thu hồi phần nào thì sẽ tiến hành bồi
thường phần đó. Nếu trong trường hợp phần đất bị Nhà nước thu hồi dẫn đến hệ quả lấn
vào diện tích căn nhà gia đình đang sinh sống phải phá đi thì Nhà nước có thể tiến hành
hỗ trợ TĐC cho gia đình. Theo quy định tại Khoản 3 và Khoản 4 Điều 114 Luật đất đai
năm 2013, UBND tỉnh quyết định giá đất cụ thể. Bảng giá bồi thường khi Nhà nước THĐ
sẽ do UBND tỉnh quy định phù hợp với tình hình KT-XH ở từng địa phương và quy
hoạnh đã được phê duyệt. Cơ quan quản lý đất đai cấp tỉnh có trách nhiệm giúp UBND
cấp tỉnh tổ chức việc xác định giá đất cụ thể. Trong quá trình thực hiện, cơ quan quản lý
đất đai cấp tỉnh được thuê tổ chức có chức năng tư vấn xác định giá đất để xác định giá
đất cụ thể. Việc xác định giá đất cụ thể phải dựa trên cơ sở điều tra, thu thập thông tin về
thửa đất, giá đất thị trường và thông tin về giá đất trong cơ sở dữ liệu đất đai; áp dụng
phương pháp định giá đất phù hợp. Căn cứ kết quả tư vấn xác định giá đất, cơ quan quản
11


lý đất đai cấp tỉnh trình Hội đồng thẩm định giá đất xem xét trước khi trình UBND cùng
cấp quyết định. Hội đồng thẩm định giá đất gồm Chủ tịch UBND cấp tỉnh làm Chủ tịch và
đại diện của cơ quan, tổ chức có liên quan, tổ chức có chức năng tư vấn xác định giá đất.
Bồi thường khi THĐ: mức bồi thường sẽ được tính dựa trên mục đích SDĐ và
giá cụ thể của từng loại đất tại thời điểm có quyết định THĐ. Theo đó, về cơ bản, việc
bồi thường được thực hiện bằng việc giao đất có cùng mục đích sử dụng với loại đất
thu hồi, nếu không có đất để bồi thường thì được bồi thường bằng tiền theo giá đất cụ
thể của loại đất thu hồi do UBND cấp tỉnh quyết định tại thời điểm quyết định THĐ tại
Khoản 2 Điều 74 Luật Đất đai năm 2013 .
Thứ tư, các phương pháp tiến hành: kết hợp phương pháp hành chính và
phương pháp thỏa thuận. Ngoài ra, cần sử dụng tổng hợp nhiều phương pháp như:

phương pháp tuyên truyền, giáo dục, thuyết phục và phương pháp kinh tế.
1.1.3.2. Ý nghĩa của bồi thường thiệt hại khi thu hồi đất
Thứ nhất, đảm bảo chia sẻ lợi ích và bù đắp những thiệt hại cho các chủ thể
SDĐ, đồng thời nhanh chóng ổn định đời sống, sản xuất, tạo việc làm và thu nhập ổn
định cho người bị THĐ:
Người lao động bị THĐ sẽ được hỗ trợ vay vốn ưu đãi tại Ngân hàng Chính
sách xã hội để đào tạo nghề và giải quyết việc làm; bên cạnh đó, hiện nhiều địa
phương cũng đang tính đến việc ban hành các chính sách ưu đãi, quan tâm đến người
dân bị giải tỏa đất như: Chính sách về đào tạo việc làm, chính sách an sinh xã hội...
Trong đó, vấn đề tạo việc làm cho người lao động sau khi bị mất đất sản xuất là rất
quan trọng. Bên cạnh đó, có thể yêu cầu các doanh nghiệp đào tạo và thu hút lao động
tại chỗ, những người có đất bị thu hồi vào làm việc tại doanh nghiệp. Các chính sách
này sẽ tạo cơ chế thông thoáng, thuận lợi cho công tác THĐ, GPMB để thực hiện các dự
án tại hầu hết các địa phương trong cả nước. Những chính sách này cần được thực hiện
trước khi tiến hành THĐ để ngay sau khi bị THĐ, người lao động có thể chuyển đổi
nghề nghiệp và hộ gia đình có thể chuyển đổi sinh kế một cách bền vững.
Thứ hai, nâng cao nhận thức về tầm quan trọng, ý nghĩa nhân văn cũng như tính
chất phức tạp của việc bồi thường khi Nhà nước THĐ của các nhà quản lý, của chính
quyền địa phương.
Trong thực tiễn quản lý Nhà nước, tiến độ thực hiện các công trình nhìn chung
vẫn còn rất chậm. Một trong những trở ngại lớn nhất cần tập trung khắc phục chính là
12


công tác bồi thường, GPMB. Để giải quyết vấn đề này, CQNN có thẩm quyền phải
ban hành, sửa đổi một cách hợp lý các chính sách liên quan đến bồi thường, nhưng vẫn
còn một bộ phận dân cư chưa hiểu, gây trở ngại cho việc thực hiện. Trong thực tế,
không phải cứ đền bù thấp hay không đúng là xảy ra khiếu kiện mà vẫn có trường hợp
giá cả đền bù rất cao song khiếu kiện vẫn xảy ra và ngược lại, có những nơi, giá cả đền bù
không cao lắm, nhưng do làm tốt công tác tuyên truyền nên hiệu quả mang lại rất cao.

Chính vì vậy, tuyên truyền, vận động trong bồi thường, GPMB, TĐC là công việc
hết sức quan trọng góp phần to lớn trong việc giữ vững ổn định chính trị, giúp cho người
dân am hiểu và đồng thuận chấp hành tốt việc di dời, đẩy nhanh tiến độ các dự án để xây
dựng địa phương trở thành một đô thị văn minh hiện đại.
Thứ ba, tìm ra lời giải hợp lý cho bài toán “lợi ích ba bên” là Nhà nước - Người
bị THĐ - Người nhận lại QSDĐ đã thu hồi trong quá trình thực hiện việc bồi thường
khi Nhà nước THĐ.
Bài toán “lợi ích ba bên” là Nhà nước - Người bị THĐ - Người nhận lại QSDĐ
đã thu hồi nếu được giải quyết tốt thì sẽ hạn chế khiếu kiện kéo dài, đông người khi
THĐ. Sở dĩ người dân khiếu nại là vì quyền lợi của họ bị thiệt thòi nhiều. Người dân
bị mất đất không được hưởng lợi gì từ dự án. Khi bồi thường THĐ, Nhà nước và các
doanh nghiệp chỉ mới nghĩ đến chuyện bồi thường giá trị vật chất mà chưa bù đắp
được những thiệt hại về tinh thần của người dân. Việc từ bỏ mảnh đất của cha ông đã
gắn bó nhiều đời không đơn giản. Do đó, dù có tăng mức hỗ trợ lên cao mà không giải
quyết được những vấn đề về tinh thần thì người dân luôn thấy không thỏa đáng.
Thứ tư, bồi thường khi Nhà nước THĐ đã góp phần chuyển đổi cơ cấu nền kinh tế,
chuyển đổi nghề nghiệp cho người bị THĐ, nhất là đối với người nông dân.
Những năm qua, diện tích đất nông nghiệp ở nước ta đã bị thu hẹp nhanh để thực
hiện các dự án xây dựng kết cấu hạ tầng, phát triển khu công nghiệp, đô thị... Điều này
làm cho một số người lao động nông thôn không còn tư liệu sản xuất, vấn đề chuyển dịch
cơ cấu lao động, giải quyết công ăn việc làm cho người bị THĐ trở nên hết sức nhạy cảm,
phức tạp, tác động đến mọi mặt đời sống KT-XH của cộng đồng dân cư nông thôn. Nhìn
chung lao động nông thôn đa số còn trẻ, chiếm tỷ trọng cao trong tổng lao động xã hội,
song sự chuyển dịch cơ cấu lao động nông thôn mặc dù đã theo hướng tích cực nhưng còn
chậm. Chuyển dịch dưới nhiều hình thức trong nhiều lĩnh vực và từ nông nghiệp sang phi
nông nghiệp nhưng không đồng đều, không hoàn toàn cùng nhịp với chuyển dịch cơ cấu
13


kinh tế. Những năm gần đây, khi có chính sách THĐ, phát triển kết cấu hạ tầng, đô thị hóa

ở các địa phương thì cơ cấu lao động nông thôn đã bị tác động nhất định. Lường trước
những yếu tố tác động đến đời sống của người dân, chính quyền các địa phương trước khi
THĐ đều đã ban hành nhiều chính sách cụ thể đối với người dân có đất bị thu hồi như bồi
thường, hỗ trợ giải quyết việc làm, đào tạo chuyển đổi nghề, hỗ trợ nghề cũ... theo luật và
các văn bản chỉ đạo của Chính phủ như: Luật Đất đai, về bồi thường, hỗ trợ và TĐC khi
Nhà nước THĐ, về một số giải pháp chủ yếu tập trung chỉ đạo, điều hành thực hiện ngân
sách Nhà nước... Vì vậy, đã có một số lượng lao động nông nghiệp nhất định chuyển sang
làm việc ở các ngành phi nông nghiệp như công nghiệp, dịch vụ, góp phần thúc đẩy sự
chuyển dịch cơ cấu lao động theo hướng tích cực.
1.2. Nội dung về bồi thường thiệt hại khi Nhà nước tiến hành thu hồi đất
1.2.1. Nội dung bồi thường thiệt hại
1.2.1.1. Về bồi thường thiệt hại về đất ở khi thu hồi đất
Luật Đất đai năm 2013 tách riêng việc bồi thường về đất và BTTH về tài sản,
ngừng sản xuất, kinh doanh khi Nhà nước THĐ thành hai điều riêng biệt tại Điều 74
và Điều 88 với các quy định cụ thể để thống nhất thực hiện. Đối với đất sử dụng có
thời hạn, mức bồi thường cho người có đất thu hồi không chỉ căn cứ loại đất, đối tượng
SDĐ mà còn phải căn cứ thời hạn SDĐ còn lại của người SDĐ đối với đất đó. Luật
Đất đai năm 2013 cũng quy định cụ thể về bồi thường chi phí đầu tư vào đất còn lại
cho một số trường hợp không được bồi thường về đất; bổ sung quy định về việc bồi
thường, hỗ trợ và TĐC đối với các dự án đặc biệt. Đồng thời, theo quy định của pháp
luật hiện hành, theo đó, các trường hợp không được bồi thường về đất:
* Đất nông nghiệp thuộc quỹ đất công ích của xã, phường, thị trấn; đất nhận
khoán để sản xuất nông lâm nghiệp, nuôi trồng thủy sản, làm muối...
* Đất được Nhà nước giao để quản lý.
* Đất bị THĐ do vi phạm pháp luật về đất đai; do thuộc trường hợp quy định như
cá nhân SDĐ chết mà không có người thừa kế; người SDĐ tự nguyện trả lại đất; đất
được Nhà nước giao, cho thuê có thời hạn nhưng không được gia hạn… Trường hợp
không đủ điều kiện cấp GCN (trừ trường hợp đất nông nghiệp đã sử dụng trước
01/7/2004 mà hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp nhưng không có GCN
hoặc không đủ điều kiện để được cấp GCN).

Về hỗ trợ, Luật Đất đai năm 2013 bổ sung quy định ngoài việc được bồi thường
14


theo quy định, người SDĐ còn được Nhà nước xem xét hỗ trợ và việc hỗ trợ này phải
bảo đảm khách quan, công bằng, kịp thời, công khai và đúng quy định của pháp luật khi
Nhà nước THĐ. Có nhiều khoản hỗ trợ như hỗ trợ ổn định đời sống và sản xuất; hỗ trợ
đào tạo, chuyển đổi nghề và tìm kiếm việc làm đối với trường hợp THĐ nông nghiệp
của hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp; THĐ ở kết hợp kinh doanh dịch
vụ của hộ gia đình, cá nhân mà phải di chuyển chỗ ở; hỗ trợ TĐC đối với trường hợp
THĐ ở của hộ gia đình, cá nhân, người Việt Nam định cư ở nước ngoài mà phải di
chuyển chỗ ở; hỗ trợ khác.
1.2.1.2. Về việc bồi thường thiệt hại về đất, chi phí đầu tư vào đất còn lại khi
Nhà nước thu hồi đất phi nông nghiệp không phải là đất ở của hộ gia đình, cá nhân
Theo quy định tại Điều 80 Luật Đất đai năm 2013, việc bồi thường về đất, chi
phí đầu tư vào đất còn lại khi Nhà nước THĐ phi nông nghiệp không phải là đất ở của
hộ gia đình, cá nhân được quy định như sau:
Nếu hộ gia đình, cá nhân đang SDĐ phi nông nghiệp không phải là đất ở khi
Nhà nước THĐ, nếu có đủ điều kiện được bồi thường quy định tại Điều 75 của Luật
Đất đai 2013 thì được bồi thường bằng đất có cùng mục đích sử dụng; trường hợp
không có đất để bồi thường thì được bồi thường bằng tiền theo thời hạn SDĐ còn lại
đối với đất sử dụng có thời hạn.
Nếu hộ gia đình, cá nhân đang SDĐ phi nông nghiệp không phải là đất ở được Nhà
nước cho thuê đất thu tiền thuê đất hàng năm; cho thuê đất trả tiền thuê đất một lần cho cả
thời gian thuê nhưng được miễn tiền thuê đất, khi Nhà nước THĐ thì không được bồi
thường về đất nhưng được bồi thường chi phí đầu tư vào đất còn lại, trừ trường hợp hộ gia
đình, cá nhân SDĐ do thực hiện chính sách đối với người có công với cách mạng.
Nếu hộ gia đình, cá nhân đang SDĐ phi nông nghiệp không phải là đất ở khi
Nhà nước THĐ, nếu đủ điều kiện được bồi thường: Đối với đất sử dụng có thời hạn thì
được bồi thường bằng đất có cùng mục đích sử dụng với đất thu hồi; thời hạn SDĐ

được bồi thường là thời hạn sử dụng còn lại của đất thu hồi; nếu không có đất để bồi
thường thì được bồi thường bằng tiền. Trường hợp hộ gia đình, cá nhân được bồi
thường bằng đất mà có nhu cầu sử dụng với thời hạn dài hơn thời hạn sử dụng còn lại
của đất thu hồi thì được CQNN có thẩm quyền tăng thời hạn sử dụng nhưng người
SDĐ phải thực hiện nghĩa vụ tài chính đối với thời gian được tăng theo quy định của
pháp luật về đất đai.
15


Nếu hộ gia đình, cá nhân SDĐ phi nông nghiệp không phải là đất ở được Nhà
nước cho thuê đất thu tiền thuê đất hàng năm, cho thuê đất thu tiền thuê đất một lần
cho cả thời gian thuê nhưng được miễn tiền thuê đất thì không được bồi thường về đất
nhưng được bồi thường chi phí đầu tư vào đất còn lại nếu có.
Nếu hộ gia đình, cá nhân đang SDĐ phi nông nghiệp không phải là đất ở được
Nhà nước cho thuê đất thu tiền thuê đất một lần cho cả thời gian thuê nhưng được
miễn tiền thuê đất do thực hiện chính sách đối với người có công với cách mạng thì
được bồi thường về đất. Căn cứ vào điều kiện thực tế, quỹ đất tại địa phương, UBND
cấp tỉnh quy định cụ thể việc bồi thường. Hộ gia đình, cá nhân đang SDĐ thương mại,
dịch vụ, đất cơ sở sản xuất phi nông nghiệp, đất phi nông nghiệp khác có thời hạn sử
dụng ổn định lâu dài mà có đủ điều kiện được bồi thường theo quy định của pháp luật
khi Nhà nước THĐ thì được bồi thường về đất theo giá đất ở.
Nếu hộ gia đình, cá nhân đang SDĐ có nhà ở trước ngày 01/7/2004 mà có
nguồn gốc do lấn, chiếm, khi Nhà nước THĐ nếu không có chỗ ở nào khác thì được
Nhà nước giao đất ở mới có thu tiền SDĐ hoặc bán nhà ở TĐC. Giá đất ở tính thu tiền
SDĐ, giá bán nhà ở TĐC do UBND cấp tỉnh quy định.
1.2.1.3. Về bồi thường thiệt hại về đất, chi phí đầu tư vào đất còn lại khi Nhà
nước thu hồi đất phi nông nghiệp không phải đất ở của tổ chức kinh tế, doanh nghiệp
liên doanh
Việc bồi thường về đất khi Nhà nước THĐ nghĩa trang, nghĩa địa của tổ chức
kinh tế được thực hiện theo quy định sau:

Trường hợp thu hồi toàn bộ hoặc một phần diện tích đất mà phần còn lại không
đủ điều kiện để tiếp tục thực hiện dự án xây dựng nghĩa trang, nghĩa địa thì chủ dự án
được Nhà nước bồi thường bằng việc giao đất mới có cùng mục đích sử dụng nếu dự
án đã có chuyển nhượng QSDĐ gắn với hạ tầng; được bồi thường bằng tiền nếu dự án
đang trong thời gian xây dựng kết cấu hạ tầng và chưa có chuyển nhượng QSDĐ gắn
với hạ tầng đó;
Trường hợp thu hồi một phần diện tích đất mà phần còn lại đủ điều kiện để tiếp
tục sử dụng làm nghĩa trang, nghĩa địa thì chủ dự án được bồi thường bằng tiền đối với
diện tích đất thu hồi. Nếu trên diện tích đất thu hồi đã có mồ mả thì bố trí di dời mồ mả
đó vào khu vực đất còn lại của dự án; trường hợp khu vực đất còn lại của dự án đã
chuyển nhượng hết thì chủ dự án được Nhà nước bồi thường bằng giao đất mới tại nơi
16


khác để làm nghĩa trang, nghĩa địa phục vụ việc di dời mồ mả tại khu vực có đất thu hồi.
Việc giao đất tại nơi khác để làm nghĩa trang, nghĩa địa phải phù hợp với quy
hoạch, kế hoạch SDĐ đã được cơ quan, Nhà nước có thẩm quyền phê duyệt.
Nếu doanh nghiệp liên doanh SDĐ phi nông nghiệp không phải là đất ở do nhận
góp vốn bằng QSDĐ khi Nhà nước THĐ thì được bồi thường trong các trường hợp sau:
+ Đất do tổ chức kinh tế góp vốn theo quy định tại Điều 184 của Luật Đất đai
có nguồn gốc được Nhà nước giao đất có thu tiền SDĐ, cho thuê thu tiền thuê đất một
lần cho cả thời gian thuê mà tiền SDĐ, tiền thuê đất đã nộp không có nguồn gốc từ
ngân sách Nhà nước;
+ Đất do tổ chức kinh tế được Nhà nước giao đất không thu tiền SDĐ, giao đất
có thu tiền SDĐ mà tiền SDĐ có nguồn gốc từ ngân sách Nhà nước, cho thuê đất thu
tiền thuê đất hàng năm mà được sử dụng giá trị QSDĐ như ngân sách Nhà nước cấp cho
doanh nghiệp, không phải ghi nhận nợ và không phải hoàn trả tiền thuê đất theo quy
định của pháp luật về đất đai để góp vốn liên doanh với tổ chức, cá nhân nước ngoài;
+ Đất do tổ chức kinh tế góp vốn có nguồn gốc nhận chuyển nhượng QSDĐ
theo quy định của pháp luật mà tiền đã trả cho việc nhận chuyển nhượng không có

nguồn gốc từ ngân sách Nhà nước;
+ Đất do người Việt Nam định cư ở nước ngoài được Nhà nước giao đất có thu
tiền SDĐ, cho thuê đất thu tiền thuê đất một lần cho cả thời gian thuê; doanh nghiệp
liên doanh mà bên Việt Nam góp vốn bằng QSDĐ nay chuyển thành doanh nghiệp có
100% vốn nước ngoài.
1.2.1.4. Về việc bồi thường, hỗ trợ, tái định cư đối với các trường hợp đặc biệt
Các trường hợp đặc biệt trong thực hiện cơ chế, chính sách bồi thường, hỗ trợ,
TĐC, như: Các dự án đầu tư do Quốc hội quyết định chủ trương đầu tư, Thủ tướng
Chính phủ chấp thuận chủ trương đầu tư mà phải di chuyển cả cộng đồng dân cư, làm
ảnh hưởng đến toàn bộ đời sống, KT-XH, truyền thống văn hóa của cộng đồng, các dự
án THĐ liên quan đến nhiều tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; các dự án sử dụng
vốn vay của các tổ chức quốc tế, nước ngoài mà Nhà nước Việt Nam có cam kết về
khung chính sách bồi thường, hỗ trợ, TĐC. Chính sách bồi thường, hỗ trợ, TĐC đối
với các trường hợp này:
Đối với các dự án do Quốc hội quyết định chủ trương đầu tư, Thủ tướng Chính
phủ chấp thuận chủ trương đầu tư thì Thủ tướng Chính phủ quyết định khung chính
17


sách bồi thường, hỗ trợ, TĐC. Căn cứ vào khung chính sách về bồi thường, hỗ trợ,
TĐC đã được Thủ tướng Chính phủ quyết định, Bộ, ngành có dự án đầu tư tổ chức lập,
thẩm định và phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ, TĐC cho toàn bộ dự án.
UBND cấp tỉnh căn cứ phương án bồi thường, hỗ trợ, TĐC đã được Bộ, ngành
phê duyệt, tổ chức lập, thẩm định và phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ, TĐC đối
với dự án thực hiện tại địa phương sau khi đã có ý kiến chấp thuận bằng văn bản của
Bộ, ngành có dự án đầu tư; tổ chức thực hiện và quyết toán kinh phí bồi thường, hỗ
trợ, TĐC với Bộ, ngành có dự án đầu tư.
Đối với trường hợp THĐ ở trong khu vực bị ô nhiễm môi trường có nguy cơ đe
dọa tính mạng con người; đất ở có nguy cơ sạt lở, sụt lún, bị ảnh hưởng bởi hiện tượng
thiên tai khác đe dọa tính mạng con người thì người có đất thu hồi được bồi thường, hỗ

trợ, TĐC để ổn định đời sống, sản xuất thuộc Khoản 3 Điều 87 của Luật Đất đai năm
2013. Theo đó, ngân sách Nhà nước chi trả trong trường hợp THĐ ở do thiên tai gây ra
và doanh nghiệp chi trả trong trường hợp THĐ ở trong khu vực bị ô nhiễm môi trường
có nguy cơ đe dọa tính mạng con người do doanh nghiệp đó gây ra; trường hợp doanh
nghiệp đã giải thể, phá sản thì tiền bồi thường, hỗ trợ do ngân sách Nhà nước chi trả
theo quy định tại Điều 16 Nghị định số 47/2014/NĐ-CP.
1.2.2. Trách nhiệm của các cơ quan Nhà nước và chủ đầu tư về thực hiện bồi
thường thiệt hại khi thu hồi đất
1.2.2.1. Đối với trách nhiệm của các Sở, ban, ngành cấp tỉnh
- Sở TN&MT có trách nhiệm:

Chủ trì công tác thẩm định phương án bồi

(1)

thường, hỗ trợ và TĐC đối với trường hợp THĐ thuộc thẩm quyền của UBND tỉnh;

(2

Hướng dẫn việc xác định và xử lý những vướng mắc về đất đai, xác định quy mô diện
tích đất thuộc đối tượng được bồi thường hoặc không được bồi thường, mức độ bồi
thường hoặc hỗ trợ cho từng người SDĐ bị thu hồi làm cơ sở cho việc tính toán bồi
thường và hỗ trợ; (3)Hướng dẫn, kiểm tra và tổ chức thực hiện: các quy định, chính sách,
xác định giá đất về bồi thường, hỗ trợ và TĐC;

(4)

Tổng hợp và thông qua UBND tỉnh

báo cáo Bộ TN&MT về tình hình và kết quả thực hiện THĐ, bồi thường, hỗ trợ, TĐC.

- Sở Tài chính có trách nhiệm:

(1)

Thẩm định dự toán chi phí cho công tác tổ

chức thực hiện bồi thường, hỗ trợ và TĐC đối với các dự án theo thẩm quyền; (2)Kiểm
tra, hướng dẫn tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, GPMB lập dự toán, báo cáo quyết
toán về kinh phí tổ chức thực hiện bồi thường, hỗ trợ và TĐC theo quy định.
18


- Sở Kế hoạch và Đầu tư có trách nhiệm:

(1)

Chủ trì, phối hợp với các cơ quan

liên quan trình xem xét chấp thuận chủ trương đầu tư xây dựng hạ tầng khu TĐC, nhà
ở TĐC thuộc thẩm quyền của UBND tỉnh;

Hướng dẫn, kiểm tra việc lập và thực

(2)

hiện các dự án TĐC, theo quy định của pháp luật về quản lý đầu tư và xây dựng;
Chủ trì phối hợp với Sở Tài chính cân đối và bổ sung nguồn vốn ngân sách đáp ứng

(3)


kịp thời nhu cầu vốn cho bồi thường, hỗ trợ, TĐC theo kế hoạch được UBND tỉnh giao.
- Sở Xây dựng có trách nhiệm:

Phối hợp với các cơ quan chức năng xác định

(1)

quy mô quỹ đất, quỹ nhà TĐC, cấp nhà để xây dựng khu TĐC cho phù hợp với quy
hoạch phát triển chung của địa phương trình CQNN có thẩm quyền phê duyệt; (2)Hướng
dẫn việc xác định diện tích, tính hợp pháp, không hợp pháp của các công trình xây dựng
gắn liền với đất bị thu hồi làm cơ sở cho việc tính toán bồi thường và hỗ trợ;

(3)

Hướng

dẫn phương pháp tính giá trị xây dựng mới của nhà, công trình; đơn giá bồi thường nhà
cửa, vật kiến trúc; (4)Tham mưu UBND tỉnh ban hành quy định về diện tích đất ở còn lại
sau khi thu hồi không đủ điều kiện để ở; quy định đơn giá nhà ở, công trình kiến trúc;
Chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan hướng dẫn xử lý những vướng mắc về

(5)

việc xác định giá nhà, công trình xây dựng khác để bồi thường, hỗ trợ và TĐC theo
phạm vi quyền hạn được giao.
- Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn có trách nhiệm:

Tham mưu UBND

(1)


tỉnh ban hành quy định về đơn giá cây trồng, vật nuôi; (2)Chủ trì, phối hợp với các cơ quan
liên quan hướng dẫn xử lý những vướng mắc về việc xác định giá cây trồng, vật nuôi để
bồi thường, hỗ trợ theo phạm vi quyền hạn được giao.
- Sở Lao động, Thương binh và Xã hội có trách nhiệm: Lập và tổ chức thực
hiện phương án đào tạo, chuyển đổi nghề và tìm kiếm việc làm cho người trong độ
tuổi lao động tại địa phương và trình UBND tỉnh quy định mức hỗ trợ phù hợp với
từng loại hộ gia đình, cá nhân có đất thu hồi.
- Trung tâm PTQĐ có trách nhiệm: Thực hiện ứng vốn cho Tổ chức làm nhiệm
vụ bồi thường, GPMB tạo quỹ đất sạch để giao đất, cho thuê đất thực.
1.2.2.2. Đối với trách nhiệm của Ủy ban nhân dân cấp huyện, thị xã, thành phố
Chỉ đạo, tổ chức, điều hành: các cơ quan chuyên môn trực thuộc và Tổ chức

(1)

làm nhiệm vụ bồi thường, GPMB phối hợp thực hiện nhiệm vụ bồi thường, hỗ trợ và
TĐC được quy định theo thẩm quyền; tuyên truyền, vận động tổ chức, cá nhân về
chính sách bồi thường, hỗ trợ, TĐC và thực hiện GPMB theo đúng quy định THĐ của
19


×