Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

skkn một số biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho trẻ 5 6 tuổi ở trường mầm non

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.8 MB, 22 trang )

1. Mở đầu.
1.1. Lý do chọn đề tài:
Trẻ em là tài sản lớn nhất của mỗi gia đình, là tương lai của đất nước.
Việc chăm sóc giáo dục trẻ là trách nhiệm của mỗi gia đình, nhà nước và toàn xã
hội. Việc giáo dục kỹ năng sống cho trẻ ngay từ khi còn nhỏ là vô cùng quan
trọng trong sự nghiệp giáo dục, nhằm hình thành và phát triển toàn diện nhân
cách cho trẻ sau này. Sản phẩm của giáo dục là con người mà con người là mục
tiêu, động lực của sự phát triển đất nước trong tương lai.
Giáo dục “Kỹ năng sống” cho trẻ trong vui chơi và học tập cho trẻ mầm
non giúp trẻ thích ứng được với môi trường xã hội, tự giải quyết được một số
vấn đề thiết thực trong cuộc sống như vấn đề lao động tự phục vụ cho chính bản
thân mình, tự làm chủ bản thân mình...để trẻ có thể tự tin, chủ động không còn
phụ thuộc vào người lớn mà vẫn có thể tự chăm sóc rèn kỹ năng sống cho mình,
tự đem lại lợi ích chính đáng, điều kiện thuận lợi cho bản thân mình rèn luyện,
học tập phấn đấu để vươn lên. Cha mẹ trẻ luôn quan tâm đến việc làm sao để
kích thích tính tích cực học tập của trẻ.
Là một người giáo viên mầm non tôi thường lo lắng đối với những trẻ có
một số vấn đề về hành vi và khả năng tập trung trong những năm tháng đầu tiên
trẻ đến trường. Đơn giản là vì những trẻ này thường không có khả năng chờ đến
lượt, không biết chú ý lắng nghe và làm việc theo nhóm, điều này làm cho trẻ
không thể tập trung lĩnh hội những điều cô giáo dạy. Vì vậy, vào đầu năm học
tôi đã dành nhiều thời gian để giúp trẻ có được những kỹ năng sống cơ bản ở
trường mầm non giúp trẻ ổn định nề nếp nhóm lớp và có các thói quen tốt trong
sinh hoạt hàng ngày của trẻ tại trường. Qua nắm bắt tình hình thực tế từ cha mẹ
trẻ tôi thấy phụ huynh nào cũng muốn con mình được tham gia và trải nghiệm
vào các hoạt động vui chơi hay học tập tích cực để từ đó trẻ lĩnh hội được các
kinh nghiệm sống giúp trẻ mạnh dạn, tự tin hơn và sẵn sàng ứng phó với các
tình huống trong cuộc sống. Đặc biệt, khi trẻ chuẩn bị vào lớp 1, các bậc phụ
huynh lại luôn lo lắng liệu rằng con mình có đủ sức khỏe và khả năng để theo
học thật tốt cùng các bạn ở trường tiểu học hay không.
Ở trẻ mầm non đây là giai đoạn rất quan trọng để trẻ học, tiếp thu, lĩnh hội


những giá trị sống để phát triển nhân cách, đồng thời trẻ rất dễ bộc lộ cảm xúc,
chưa có nhiều kỹ năng ứng phó với căng thẳng và cảm xúc, vốn hiểu biết về thế
giới xung quanh còn nhiều hạn chế do đó nhiều trẻ còn thụ động, không biết ứng
phó với các tình huống nguy cấp, không biết tự bảo vệ mình trước những nguy
hiểm. Do đó, việc dạy kỹ năng sống cho trẻ là rất cần thiết bởi kỹ năng sống
thúc đẩy sự phát triển cá nhân trẻ, giúp trẻ có nhận thức đúng đắn và hành vi
ứng xử phù hợp ngay từ độ tuổi mầm non để làm nền tảng cho cuộc sống sau
này của trẻ.
Với ý nghĩa và tầm quan trọng của việc “Giáo dục kỹ năng sống” và vai
trò là một giáo viên trẻ tuổi, tôi đã rất lo lắng về việc phải làm sao để giáo dục
kỹ năng sống cho trẻ biết cách ứng xử tốt với mọi tình huống mọi hoàn cảnh
1


trong cuộc sống đời thường một cách văn minh và hồn nhiên đúng với độ tuổi của
trẻ. Một tập thể trẻ có kỹ năng sống tốt sẽ tạo nên môi trường sống ấm áp, hoà
thuận, vui vẻ và phát triển ở tại lớp mình. Vì vậy tôi đã chọn đề tài: "Một số biện
pháp giáo dục kỹ năng sống cho trẻ 5 - 6 tuổi ở trường mầm non".
1.2. Mục đích nghiên cứu
Đánh giá thực trạng dạy kỹ năng sống cho trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi ở trường
mầm non Cẩm Tú, trên cơ sở đó tôi đề xuất một số biện pháp nâng cao hiệu quả
giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mầm non, giúp trẻ chuyển tải những gì trẻ biết
(nhận thức), những gì trẻ cảm nhận (thái độ) và những gì trẻ quan tâm (giá trị)
chuyển tải thành những khả năng thực thụ giúp trẻ biết phải làm gì và làm như
thế nào (hành vi) trong những tình huống khác nhau của cuộc sống hàng ngày.
Từ đó phát triển toàn diện nhân cách trẻ để trẻ sẵn sàng bước vào lớp 1.
1.3. Đối tượng nghiên cứu
Tổng hợp một số biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mẫu giáo 5 - 6
tuổi ở trường Mầm non Cẩm Tú.
1.4. Phương pháp nghiên cứu

* Phương pháp điều tra: Điều tra về mức độ trẻ đạt được các nhóm kỹ
năng sống. Tìm hiểu các biện pháp dạy kỹ năng sống cho trẻ đạt kết quả cao
nhất.
* Phương pháp quan sát: Quan sát các biểu hiện, hành vi, các kỹ năng
của trẻ thông qua ngôn ngữ và hoạt động hàng ngày.
* Phương pháp đàm thoại: Đàm thoại với các đồng nghiệp để trao đổi các
kinh nghiệm hay trong dạy kỹ năng sống cho trẻ. Đàm thoại với phụ huynh để
tìm hiểu đặc điểm của trẻ khi ở gia đình. Đàm thoại trực tiếp với trẻ trong quá
trình thực hiện các biện pháp giáo dục.
* Phương pháp trực quan: Bao gồm phương pháp làm mẫu, làm gương…
giúp trẻ quan sát và bắt trước thực hành thường xuyên những kỹ năng sống cần
hình thành.
* Phương pháp thực hành: Bao gồm các phương pháp trò chơi, giao việc,
trải nghiệm. Những phương pháp này giúp trẻ bắt chước, tập thử và tích cực
thực hành thường xuyên các kỹ năng sống giáo viên cần dạy trẻ.
2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm
Giáo dục kỹ năng sống là một trong những kỹ năng nền tảng giúp trẻ mẫu
giáo hình thành và phát triển toàn diện nhân cách, sẵn sàng cho trẻ bước vào lớp
1. Giáo dục kỹ năng sống là một trong những nội dung quan trọng cho trẻ mầm
non. Chưa bao giờ việc giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mầm non được giáo viên
và các bậc phụ huynh quan tâm nhiều như hiện nay. Tuy nhiên vẫn còn những
2


giáo viên và phụ huynh còn lúng túng về kiến thức và phương pháp giáo dục kỹ
năng sống cho trẻ.
Môi trường sống đã ảnh hưởng rất lớn đến kỹ năng sống của trẻ: Thời
gian trong những năm đầu đời giai đoạn học mầm non của trẻ, trẻ sống trong gia
đình, nhà trẻ và lớp mẫu giáo, trẻ đã bước đầu tích luỹ được một số ít kinh

nghiệm, kĩ năng, tri thức, kinh nghiệm, các thói quen đạo đức để trẻ được sống
hàng ngày bằng cách học lỏm, học mót, học tại chỗ, học qua trải nghiệm, học
trực tiếp nhờ phương pháp kèm cặp, truyền tay từ các cô đã giúp cho trẻ học
được những kỹ năng sống tốt từ người lớn và những người xung quanh trẻ.
Lứa tuổi mầm non là giai đoạn học, tiếp thu và lĩnh hội giá trị sống để
phát triển nhân cách. Kỹ năng sống là những kỹ năng nền tảng để hình thành và
phát triển nhân cách trẻ. Phát triển về các mặt thể chất, tình cảm kỹ năng xã hội,
ngôn ngữ, nhận thức, thẩm mỹ giúp trẻ sẵn sàng bước vào lớp 1 ở trường phổ
thông sau này. Cụ thể được thể hiện như sau:
Giúp trẻ được an toàn, khỏe mạnh, khéo léo bền bỉ, có khả năng thích ứng
với thay đổi của điều kiện sống xung quanh trẻ.
Giúp trẻ biết kiểm soát cảm xúc, thể hiện tình yêu thương, đồng cảm với
mọi người xung quanh.
Giáo dục kỹ năng sống giúp trẻ mạnh dạn, tự tin, tôn trọng người khác, có
khả năng giao tiếp tốt với mọi người hơn.
Giúp trẻ ham hiểu biết, sáng tạo, có những kỹ năng thích ứng với hoạt
động học tập ở lớp 1 như: sẵn sàng hòa nhập với các bạn mới, thầy cô giáo mới,
vượt qua khó khăn để hoàn thành nhiệm vụ và hòa nhập ở trường tiểu học.
Các nhóm kỹ năng có thể dạy cho trẻ mầm non như: Kỹ năng nhận thức
về bản thân, kỹ năng quản lý cảm xúc, kỹ năng giao tiếp và quan hệ xã hội, kỹ
năng học tập, kỹ năng tương tác…Từ đó, chương trình giáo dục mầm non đã
đưa ra các nội dung đơn giản và hết sức gần gũi với trẻ như: Dạy trẻ có kỹ năng
hợp tác với mọi người, kỹ năng nhận và hoàn thành nhiệm vụ, kỹ năng tự phục
vụ, kỹ năng kiểm soát cảm xúc…các kỹ năng này không tách rời nhau mà có
liên quan chặt chẽ với nhau, được thể hiện đan xen vào nhau, có thể thực hành
trong bất cứ tình huống nào xảy ra hàng ngày. Cho nên, việc giáo dục và vận
dụng tốt sẽ giúp trẻ có những kỹ năng sống tốt hơn. Khi giáo dục kỹ năng sống
còn góp phần mở rộng nhận thức, phát triển trí tuệ, giáo dục đạo đức, giáo dục
thẩm mĩ, phát triển ngôn ngữ cho trẻ.
Nội dung dạy kỹ năng sống cho trẻ mầm non đã được áp dụng từ những

năm học trước, tuy nhiên kết quả đạt trên trẻ chưa cao và chưa đồng đều giữa
các trẻ. Nếu giáo viên thực hiện chuyên sâu và có phương pháp giáo dục phù
hợp thì kết quả trên trẻ sẽ có bước tiến bộ nhanh chóng. Thực tế giáo viên còn
lúng túng cả về nội dung, biện pháp “Rèn kỹ năng sống” trong học tập và vui
chơi cho trẻ chưa tốt. Nhận thức của giáo viên chưa tâm huyết với nghề nên khi
dạy còn để trẻ nói chuyện trong giờ học làm việc riêng của mình. Chính vì lí do
3


đó tôi đã chọn đề tài "Một số biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho trẻ 5 - 6
tuổi ở trường mầm non" để nghiên cứu và áp dụng trên trẻ lớp mình phụ trách.
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm:
Năm học 2017 - 2018, tôi được nhà trường phân công nhiệm vụ chủ
nhiệm nhóm lớp 5 - 6 tuổi B của trường. Với số cháu 29, trong đó 16 cháu nữ,
13 cháu nam, tất cả đều đã qua lớp mẫu giáo nhỡ nên đã có một số kỹ năng cơ
bản. Đa số trẻ ngoan ngoãn, mạnh dạn, hồn nhiên, đạt yêu cầu về phát triển thể
chất, phát triển nhận thức, phát triển ngôn ngữ, phát triển thẩm mĩ và tình cảm
kỹ năng xã hội, trẻ biết cảm thụ cái hay cái đẹp trong cuộc sống xung quanh trẻ.
Trong quá trình giáo dục kỹ năng sống cho trẻ tại trường mầm non. Tôi đã
gặp những khó khăn và thuận lợi như sau:
2.2.1 Thuận lợi.
Trường, lớp có đủ đồ dùng đồ chơi cần thiết trong các hoạt động giáo dục.
Trẻ khoẻ mạnh và rất hào hứng, sôi nổi với các hoạt động do cô tổ chức,
lĩnh hội nhanh các kiến thức cô giáo truyền đạt.
Phụ huynh luôn quan tâm đến trẻ, tích cực tham gia vào các hoạt động của
nhà trường, của nhóm lớp.
Bản thân tôi luôn nắm vững phương pháp, có trình độ trên chuẩn, có sự
nhiệt tình chia sẻ và luôn quan tâm tới trẻ, thường xuyên dành thời gian trao đổi
với phụ huynh để cùng chăm sóc giáo dục trẻ. Hàng năm tôi được tham gia tập
huấn các lớp chuyên đề về nội dung dạy kỹ năng sống cho trẻ mầm non, bản

thân tôi tích cực nghiên cứu tài liệu về giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mầm non.
Năm học này các cháu được nhà trường tổ chức các hoạt động trải nghiệm
rất bổ ích qua hội thi: "Xây dựng môi trường giáo dục lấy trẻ làm trung tâm" qua
đó trẻ được vui chơi, học tập và trải nghiệm giúp trẻ mạnh dạn tự tin hơn.
2.2.2. Khó khăn
Trường, lớp còn hạn chế về không gian hoạt động của trẻ.
Trình độ nhận thức của trẻ không đồng đều, do đó cùng một thời gian và
biện pháp dạy trẻ các nội dung kỹ năng sống nhưng kết quả trên trẻ đạt chưa
đồng đều với nhau.
Một số trẻ nhút nhát nên không tự tin khi tham gia vào các hoạt động trải
nghiệm, một số trẻ lại quá hiếu động nên khi hoạt động chưa chú ý vào sự hướng
dẫn của cô, kỹ năng sống của trẻ còn nhiều hạn chế. Trong lớp có 1/2 là trẻ dân
tộc thiểu số nên trẻ giao tiếp còn chưa tự tin bạo dạn kỹ năng sống còn hạn chế.
Sự quan tâm của gia đình dành cho các cháu là không đồng đều, phụ
huynh chủ yếu làm nghề nông nghiệp. Một số phụ huynh đi làm ăn xa, thời gian
phụ huynh quan tâm đến trẻ còn ít, không dành thời gian trò chuyện để tìm hiểu
tâm tư nguyện vọng của trẻ để giáo dục trẻ mà chỉ biết chiều theo mọi đòi hỏi
của trẻ, trẻ được đáp ứng quá đầy đủ về nhu cầu trẻ cần.
4


Nhà trường tổ chức còn ít các hoạt động tham quan dã ngoại do kinh phí
còn hạn hẹp, phạm vi thăm quan còn chưa được mở rộng.
2.2.3. Kết quả khảo sát đầu năm học 2017 - 2018 của trẻ lớp 5 - 6 Tuổi B:
Tổng số
Tên kỹ năng được khảo sát
Số trẻ đạt Trẻ chưa đạt
học sinh
Nhóm kỹ năng nhận thức bản thân
18 = 63 % 11 = 37 %

Nhóm kỹ năng tự tin
18 = 63 % 11 = 37 %
Nhóm kỹ năng giao tiếp và quan hệ xã hội
17 = 49 % 12 = 41 %
29
Nhóm kỹ năng học tập
19 = 66 % 10 = 34 %
Nhóm kỹ năng hợp tác
20 = 69 % 9 = 31 %
Mặc dù thực trạng giáo dục kỹ năng sống cho trẻ ở trường còn nhiều khó
khăn, tuy nhiên tôi đã dần khắc phục, nghiên cứu các giải pháp và thực hiện giáo
dục kỹ năng sống cho trẻ theo mục tiêu của chương trình giáo dục đã đề ra, chuẩn
bị tốt về mọi mặt cho trẻ trước khi bước vào lớp 1. Qua khảo sát thực tế trẻ trên
lớp và được sự giúp đỡ của Ban Giám Hiệu nhà trường và các đồng nghiệp, tôi
mạnh dạn đưa ra một số biện pháp sau đây nhằm giáo dục kỹ năng sống cho trẻ
mẫu giáo tại lớp mình phụ trách như sau.
2.3. Các sáng kiến kinh nghiệm hoặc các giải pháp đã sử dụng để giải
quyết vấn đề
2.3.1. Xác định rõ những kỹ năng sống cơ bản cần dạy trẻ ở lứa tuổi
mẫu giáo 5 - 6 tuổi.
Qua khảo sát thực tế tôi nhận thấy để rèn kỹ năng sống cho trẻ thì điều
đầu tiên giáo viên cần xác định rõ các nội dung, cách nhóm kỹ năng cần dạy trẻ,
tù đó tôi tiến hành khảo sát và đã xác định được các kỹ năng sống cơ bản phù
hợp với lứa tuổi sẽ giúp tôi lựa chọn đúng những nội dung trọng tâm để dạy trẻ
ở lớp mình phụ trách.
Đối với tâm sinh lý trẻ em dưới 6 tuổi thì có nhiều kỹ năng quan trọng mà
trẻ cần phải biết trước. Thực tế kết quả của nhiều nghiên cứu đều cho thấy các kỹ
năng quan trọng nhất trẻ cần được giáo dục chính là những kỹ năng sống như:
Nhóm kỹ năng tự tin: Nhận biết, thể hiện cảm xúc, suy nghĩ cá nhân với
mọi người.

Nhóm kỹ năng hợp tác: Kỹ năng tổ chức hoạt động, làm việc theo nhóm,
kỹ năng ra quyết định, giải quyết vấn đề.
Nhóm kỹ năng nhận thức về bản thân: Kỹ năng tự bảo vệ trước những
tình huống nguy hiểm, nhận biết về giá trị bản thân.
Nhóm kỹ năng giao tiếp và quan hệ xã hội: kỹ năng ứng xử phù hợp với
người xung quanh, kỹ năng hợp tác, kỹ năng nhận và hoàn thành nhiệm vụ được
giao, kỹ năng tuân thủ các quy tắc xã hội, giao tiếp lịch sự và lễ phép, kỹ năng tự
phục vụ.
5


Nhóm kỹ năng học tập: Ý thức trách nhiệm, kỹ năng thiết lập và thực hiện
mục tiêu.
Để xác định được những kỹ năng này tôi đã thường xuyên quan tâm đọc,
nghiên cứu tài liệu bồi dưỡng thường xuyên dành cho giáo viên mầm non và các tài
liệu khác về giáo dục kỹ năng sống cho trẻ do các nhà xuất bản có uy tín phát hành.
Cụ thể hóa những biện pháp để giáo dục kỹ năng sống cho trẻ như sau:
* Hình thành kỹ năng tự tin:
Đây là kỹ năng mà tôi cần chú tâm nhất để phát triển sự tự tin của trẻ.
Giúp trẻ cảm nhận được mình bản thân trẻ là ai?, cả về cá nhân cũng như trong
mối quan hệ với những người khác, trẻ tự tin làm theo ý tưởng, tự tin bày tỏ cảm
xúc của mình với mọi người xung mà không phải e ngại. Kỹ năng sống này giúp
trẻ nhanh chóng thực hiện được mong muốn của mình đồng thời có khả năng
hòa nhập với cộng đồng và những người xung quanh.
- Những biện pháp tôi đã sử dụng để phát triển kỹ năng tự tin ở trẻ là:
+ Tôi luôn tôn trọng, giúp trẻ xây dựng hình tượng tốt của chính mình: Từ
đặc điểm sự tự tin của trẻ bắt nguồn từ lòng tự tôn, một trẻ không có sự tự tôn
thì không thể có sự tự tin. Do đó, tôi luôn tôn trọng trẻ và khích lệ những khả
năng của trẻ mọi lúc mọi nơi một cách kịp thời.
Ví dụ: khi trẻ xung phong đứng lên hát trước cả lớp, tôi sẽ khen ngợi là

con rất giỏi, rất mạnh dạn…để lần sau trẻ tham gia mà không còn e ngại khi biểu
diễn trước đám đông…

( Hình ảnh động viên khen ngợi, khích lệ trẻ thể hiện trước đám đông)

+ Tôi nói cho trẻ biết “con có thể làm được”: Tôi dùng lời động viên trẻ
một cách chân thành, không quá lời khen, nghĩ một đường nói một nẻo. Và
trong mọi việc tôi luôn nói “con có thể làm được” để dần củng cố niềm tin vào
bản thân cho trẻ.
6


Ví dụ: Trong giờ thể dục, một số trẻ sợ độ cao nên không dám trèo lên
xuống thang, tôi không ép buộc trẻ phải thực hiện hoạt động đó ngay lập tức mà
sẽ khuyến khích trẻ với lời động viên “Con có thể trèo được” để trẻ tự tin thể
hiện bản thân mình trước các bạn.
+ Tôi cho phép trẻ mắc sai lầm: Một đứa trẻ nếu không phạm sai lầm sẽ
không thể trưởng thành. Cho nên, khi trẻ mắc sai lầm tôi luôn lưu tâm đến sai
lầm đó để trao đổi thân thiện, cởi mở với trẻ giúp trẻ hiểu rằng ai cũng có thể
mắc sai lầm nhưng điều quan trọng nhất là biết sửa chữa và không bao giờ mắc
phải sai lầm đó nữa. Đồng thời không phê bình hay chê bai trẻ quá thẳng thắn sẽ
làm trẻ mất hứng thú và tự ti về bản thân mình.
Ví dụ: khi trẻ tranh dành đồ chơi với bạn, tôi sẽ hỏi trẻ xem vì sao lại như
vậy, tôi bày ra các trò chơi với món đồ chơi đó để 2 trẻ cùng được chơi với nhau.
Sau đó hỏi 2 trẻ xem chơi cùng nhau như vậy có vui hơn là tranh dành nhau
không và từ đó tôi giáo dục trẻ lần sau nên chơi đoàn kết với bạn bè không tranh
dành đồ chơi của nhau ...
+ Quy định hành vi: Đầu năm học tôi đề ra 1 số quy định phù hợp với lớp
tôi nhằm đạt được mục tiêu chăm sóc giáo dục trẻ, tạo thói quen nề nếp tốt cho
trẻ. Yêu cầu trẻ trong lớp thực hiện theo các nội quy đó để tạo tính chủ động và

làm việc có kế hoạch cho trẻ trong lớp.
Ví dụ: Đến giờ thể dục sáng, tôi hỏi trẻ các con nhớ lại xem hoạt động
đầu tiên trong ngày hôm nay là gì? Và cho trẻ cùng chuẩn bị đồ dùng dụng cụ
hoạt động đó với cô...
+ Tôi tổ chức một số hoạt động khác để phát triển sự tự tin của trẻ:
Tôi có thể trò chuyện với trẻ với những câu hỏi như tự tin là gì?. Khi con
tự tin con cảm thấy như thế nào?. Khi không tự tin con cảm thấy ra sao? Hoặc
sử dụng những câu hỏi gắn với thực tế của trẻ như "con hãy kể những việc con
muốn tự làm; Con học cách làm này như thế nào?; hãy kể những việc con tự
làm; khi tự làm con cảm thấy như thế nào?”. Qua hoạt động trò chuyện đó giúp
trẻ hiểu rằng khi trẻ tự tin là khi trẻ mạnh dạn nói lên ý tưởng của mình, thể
hiện cảm xúc và suy nghĩ của mình với mọi người. Nếu trẻ tự tin ở mình thì kết
quả hoạt động của trẻ sẽ tốt hơn.
Tạo cơ hội cho trẻ được trải nghiệm: để trẻ tự làm mọi việc cho bản thân
mình càng nhiều càng tốt.
Ví dụ: Trẻ tự lấy đồ dùng học tập hoặc dạy trẻ cách nhờ 1 người bạn khác
giúp đỡ mình 1 việc gì đó...
* Hình thành kỹ năng hợp tác:
- Ca dao tục ngữ Việt Nam có câu “Một cây làm chẳng nên non
Ba cây chụm lại nên hòn núi cao”
Vì vậy việc giáo dục kỹ năng hợp tác cho trẻ mầm non là rất cần thiết. Bởi
trẻ mầm non còn nhỏ, có nhiều việc không thể tự làm được nếu không có người
khác giúp đỡ. Khi trẻ được bạn giúp đỡ và khi trẻ giúp đỡ được bạn trẻ sẽ nhanh
7


chóng hoàn thành nhiệm vụ của mình. Qua đó trẻ có niềm vui, có bạn bên cạnh
để chia sẻ công việc, giúp phát triển kỹ năng và tình cảm xã hội của trẻ.
- Để giáo dục kỹ năng hợp tác cho trẻ tôi luôn tạo cơ hội cho trẻ chơi và
làm việc theo nhóm với các trẻ khác trong tất cả các hoạt động.

Ví dụ: Cho trẻ thảo luận theo tổ để cùng nhau nhận xét về đặc điểm của 1
đối tượng nào đó trong các hoạt động, tạo những cảm nhận giúp trẻ tôn trọng
những quyền lợi của trẻ khác qua việc chia sẻ, hướng dẫn trẻ cư xử lịch sự với
bạn khác.
- Tổ chức 1 số hoạt động phát triển kỹ năng hợp tác như:
+ Thảo luận về sự hợp tác: Trò chuyện với trẻ có sử dụng câu hỏi như
“Con và bạn đã cùng nhau làm những việc gì? Trò chơi nào con thích hơn khi
có bạn cùng chơi? Tại sao con phải hợp tác với bạn, một mình con có làm được
việc này không? Điều gì con cảm thấy vui khi hợp tác?....Qua việc trò chuyện
giúp trẻ hiểu hợp tác là có nhiều người cùng thực hiện 1 việc gì đó, cùng vui
thích khi làm việc.
+ Trò chơi “Đôi bạn hợp tác”: Cho trẻ tìm thêm 1 bạn để ghép đôi với
nhau. Sau đó hai bạn cùng nhau chơi một trò chơi hoặc cùng thực hiện một bài
tập theo yêu cầu của cô.

(Hình ảnh thể hiện sự hợp tác của trẻ trong khi chơi)
+ Trò chơi “Những chiếc tháp tập thể”: Yêu cầu trẻ ngồi xung quanh 1 cái
bàn và đưa cho trẻ những khối đồ chơi có hình dáng và kích thước khác nhau.
Nhiệm cụ của trẻ là xếp những khối đó thành 1 cái tháp càng cao càng tốt.
+ Trưng bày các hình ảnh sưu tập: Có nội dung các bé cùng chơi, làm
việc với nhau và cho trẻ thảo luận nội dung của các hình ảnh đó.
8


(Hình ảnh trẻ cùng xem sách và thảo luận về các nội dung của sách)

* Hình thành kỹ năng tự nhận thức bản thân :
- Kỹ năng tự nhận thức là trẻ tự nhận diện về bản thân, phát triển quan
niệm tích cực về bản thân. Trẻ nhận thức sự khác nhau giữa các trẻ, nhận thức
mỗi cá nhân có điểm riêng biệt cần được tôn trọng, phát triển những suy nghĩ

tích cực về bản thân trẻ. Kỹ năng tự nhận thức giúp trẻ hiểu đúng mình là ai? Trẻ
yêu thích gì? Điểm mạnh và sở thích của mình là gì? để kết nối chúng vào
những lĩnh vực liên quan và phát huy những điểm mạnh một cách tối đa. Trẻ
nhận ra điểm yếu của mình cũng giúp trẻ dự đoán được những khó khăn trong
quá trình hoạt động từ đó tìm ra cách khắc phục khó khăn đó.
- Để hình thành kỹ năng tự nhận thức tôi đã thực hiện 1 số biện pháp sau:
+ Tôi trò chuyện giúp trẻ tìm hiểu về bản thân thông qua 1 số câu hỏi
như: Con là ai? Con thấy mình có những tính tốt đẹp nào? Con thích gì và không
thích gì? Con có mong muốn gì? cùng trẻ trò chuyện về các bộ phận trên cơ thể
của trẻ, trò chuyện về bản thân và các bộ phận trên cơ thể trẻ qua hoạt động
khám phá khoa học.....

(Hình ảnh trò chuyện cùng trẻ về bản thân)

9


+ Chấp nhận sự đa dạng của trẻ và giúp trẻ chấp nhận lẫn nhau: Tôi luôn
tôn trọng cá tính của từng cá nhân trẻ trong lớp, đồng thời có biện pháp giáo dục
để hạn chế điểm yếu, phát huy điểm mạnh của trẻ. Tôi nhận thấy rằng khi tôi tôn
trọng tất cả các trẻ thì trẻ trong lớp sẽ noi gương theo cô, biết tôn trọng các bạn
trong lớp mình.
Ví dụ: Trong lớp có một cháu ít nói, trẻ trong lớp không chơi cùng với
bạn đó, tôi sẽ trò chuyện để các cháu thấy rằng bạn đó có rất nhiều điểm tốt như
ngoan ngoãn, chăm đi học, bạn hát hay…các con cần quan tâm giúp đỡ và chia
sẻ với bạn chơi cùng bạn. Đồng thời, bản thân tôi cũng luôn đối xử công bằng,
yêu thương, tôn trọng trẻ đó để trẻ trong lớp học theo.
+ Tôi giúp trẻ đạt được thành công nhất định trong lớp học: Thành công
là một trong những yếu tố quan trọng tác động đến sự phát triển ý thức bản thân.
Trẻ ở lứa tuổi này cần trải qua thành công để trẻ có cảm giác tự tin rằng mình làm

được những điều tốt. Thực tế, có một số trẻ sợ thất bại đến nỗi không dám thử
một hoạt động nào đó, lúc này tôi sẽ giúp trẻ đạt được thành công trong việc đó
từng bước một đồng thời khen ngợi khả năng đó để trẻ thêm tự tin vào mình. Trẻ
sẽ tự hào về thành công của mình nếu cô giáo cho trẻ thấy rằng cô tự hào về trẻ.
+ Tôi tổ chức một số hoạt động, trò chơi phát triển kỹ năng tự nhận thức
cho trẻ:
Ví dụ: Hoạt động “Soi gương”: Giúp trẻ tự quan sát, cảm nhận về hình
dáng của mình bằng cách cho trẻ tự ngắm mình trong gương với các động tác
như làm điệu, đội mũ, mặc quần áo… lúc đó tôi có thể hỏi trẻ: Con thấy ai trong
gương, người trong gương có đáng yêu không?

( Hình ảnh trẻ soi gương và làm điệu trước gương)
10


* Hình thành kỹ năng giao tiếp và quan hệ xã hội:
Trẻ mầm non cần phải học rất nhiều trong những năm đầu đời: Học cách
làm chủ ngôn ngữ, học cách nhận biết và đối phó với cảm xúc của mình cũng
như của người khác, học cách tin vào mình và can đảm để khám phá thế giới
rộng lớn xung quanh.
Phát triển kỹ năng này là một nhiệm vụ phức tạp đối với trẻ. Yêu cầu trẻ
biết cách ứng xử theo quy tắc xã hội, biết tạo các mối quan hệ cũng như tương
tác với cảm giác thoải mái với những người khác đồng thời biết điều chỉnh hành
vi phù hợp với hoàn cảnh mà trẻ đang sống. Để giáo dục tốt cho trẻ nội dung
này tôi thực hiện 1 số biện pháp sau:
+ Tôi dạy trẻ học cách kiểm soát xung đột và điều chỉnh hành vi của mình:
Tôi làm cầu nối giúp trẻ biểu lộ cảm xúc của mình và biết lắng nghe ý
kiến của người khác. Nếu trẻ bất hòa với bạn khác tôi thường chỉ cho trẻ thấy trẻ
chưa đúng ở điểm nào, điểm nào cần khắc phục và điểm tốt nào cần phát huy.
Cho trẻ thấy những mối bất hòa thường dẫn đến những cảm xúc tiêu cực như tức

giận, sợ hãi, còn nếu chơi đoàn kết với bạn sẽ tạo nên nhưng tình cảm tốt đẹp và
tinh thần thoải mái, vui vẻ…
Ví dụ: Có 2 trẻ đánh nhau do tranh dành đồ chơi, điều đầu tiên cần làm là
hỏi hai trẻ lý do vì sao lại như vậy để từng trẻ có cơ hội nói lên những suy nghĩ
của mình bằng lời nói về sự việc đó. Sau đó giải thích cho trẻ hiểu bạn nào đúng,
bạn nào chưa đúng. Giáo dục trẻ lần sau chơi phải đoàn kết với bạn hơn.

(Hình ảnh cô giải thích khi 2 trẻ tranh giành đồ chơi)

+ Dạy trẻ cách giải quyết vấn đề: Mỗi tình huống khó khăn mà trẻ gặp
phải sẽ có tác dụng giúp trẻ lĩnh hội được kinh nghiệm sống thông qua việc tìm
cách giải quyết vấn đề đó. Cho nên với mỗi tình huống xảy ra hàng ngày tôi đều
tận dụng cho trẻ quan sát và gợi ý để trẻ tìm ra cách giải quyết một cách nhanh
chóng và hiệu quả nhất.
11


Ví dụ: Khi trẻ làm lăn đồ dùng vào gầm tủ mà tay không với tới được, tôi
gợi ý để trẻ biết dùng gậy để lấy đồ dùng đó ra…
+ Tôi tạo cơ hội cho trẻ tham gia vào các mối quan hệ với trẻ khác:
Nếu trẻ tương tác với nhau một cách phù hợp, qua đó trẻ sẽ học được các
quy tắc ứng xử trong xã hội. Vì vậy, tôi thường xuyên tổ chức các hoạt động tập
thể cho trẻ trong lớp như tổ chức sinh nhật, biểu diễn văn nghệ tổng hợp cuối
chủ đề, hoạt động góc…để các trẻ được làm việc theo nhóm với nhau. Trong quá
trình hoạt động luôn khuyến khích trẻ giao tiếp thỏa thuận với bạn cùng chơi,
biểu lộ mong muốn một cách thích hợp, biết giúp đỡ bạn trong khi chơi.

(Hình ảnh trẻ tham gia vào mối quan hệ người mua hàng và người bán hàng)

+ Tổ chức 1 số trò chơi:

Giúp trẻ biết lắng nghe người khác nói.
Ví dụ: Hoạt động“Điện thoại bạn bè”: Cho 2 trẻ chơi gọi điện cho bạn (2
bạn ở gần nhau). Theo dõi quá trình trò chuyện của trẻ. Sau đó hỏi trẻ: Hai
người cùng nói 1 lúc thì có nghe rõ điều gì không? Khi nào con nghe thấy tiếng
bạn? Con cảm thấy thế nào khi nghe được, khi không nghe được?.
Qua hoạt động này giúp trẻ biết quan tâm và chia sẻ với người khác.
* Hình thành kỹ năng học tập:
Mặc dù những kiến thức mà trẻ học ở trường mầm non chỉ là sơ đẳng
nhưng có vai trò rất quan trọng, nó là nền tảng vững chắc cho việc học văn hóa
ở trường phổ thông sau này. Với trẻ ở lớp tôi, trong mỗi hoạt động tôi đều xác
định cụ thể mục tiêu, hướng dẫn cụ thể nội dung, gợi ý cách thực hiện và cho trẻ
trao đổi cách thực hiện với các bạn để trẻ tìm ra cách thực hiện của riêng mình,
đồng thời tôi cũng khuyến khích và tuyên dương kịp thời sự sáng tạo của trẻ,
giúp đỡ những trẻ thực hiện kém, động viên trẻ cố gắng hoàn thành tốt nhiệm vụ
được giao với tâm trạng thoải mái và hứng thú nhất.
Ví dụ: Trong hoạt động tạo hình xé dán con thuyền (theo đề tài). Tôi cho
trẻ quan sát và nhận xét 1 số tranh xé dán chiếc thuyền đã chuẩn bị trước để gợi
12


ý cách xé dán cho trẻ. Trong quá trình trẻ thực hiện tôi bao quát để kịp thời
tuyên dương những trẻ có sáng tạo như biết vẽ thêm các chi tiết trang trí cho bức
tranh, đồng thời giúp đỡ những trẻ chưa biết cách thực hiện hoàn thành sản
phẩm của mình.

( Hình ảnh cô cùng trẻ quan sát và nhận xét về bức tranh chiếc thuyền)

Sau khi áp dụng biện pháp này kết quả là đa số trẻ lớp tôi đã có ý thức
trách nhiệm, trẻ tự tin hơn, nhận thức của trẻ tốt hơn, trẻ có thể giao tiếp với các
bạn và những người xung quanh một cách thoải mái, trẻ có kỹ năng thiết lập và

thực hiện mục tiêu trong tất cả các hoạt động, nhất là trong các hoạt động học
tập của trẻ tại trường mầm non.
2.3.2. Giúp trẻ phát triển các kỹ năng sống qua việc tổ chức các hoạt
động tập thể vui tươi, lành mạnh trong nhà trường.
Hoạt động vui chơi là hoạt động chủ đạo của trẻ mầm non, được người lớn
tổ chức, hướng dẫn nhằm giúp trẻ thoả mãn các nhu cầu vui chơi và nhận thức,
đồng thời nhằm giáo dục trẻ và phát triển toàn diện cho trẻ. Qua nội dung phong
trào“ Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực”, trong đó có nội dung:
Nhà trường cần tổ chức các hoạt động văn nghệ một cách thiết thực, khuyến
khích sự tham gia chủ động, tự giác của trẻ. Tổ chức các trò chơi dân gian và các
hoạt động vui chơi giải trí tích cực khác phù hợp với lứa tuổi của trẻ.
Nắm bắt được nội dung quan trọng trên và hiểu được tâm tư ngyện vọng
của trẻ, tôi đã xây dựng kế hoạch và thực hiện nhiều hoạt động một cách thiết
thực, khuyến khích sự tham gia chủ động, tự giác của trẻ qua các hoạt động vui
tươi lành mạnh. Cụ thể như sau:
Cùng với nhà trường tham gia hội "Xây dựng môi trường giáo dục lấy trẻ
làm trung tâm" cấp trường, cấp huyện và cấp tỉnh, tôi cùng các giáo viên làm đồ
chơi dân gian, tạo môi trường giáo dục trong và ngoài lớp học, môi trường tự
nhiên, môi trường xã hội và các trò chơi dân gian gắn bó với trẻ.
13


Bên cạnh đó tôi huy động và tạo điều kiện để có sự tham gia hoạt động đa
dạng và phong phú của các bậc phụ huynh,cá nhân sưu tầm các ngyên vật liệu
sẵn có ở địa phương để tạo làm các đồ dùng, đồ chơi tự tạo như các loại vải vụn,
bìa, vỏ hộp sữa… làm thành các con rối và các đồ chơi dụng cụ sử dụng trong
các trò chơi dân gian cho trẻ nhằm giáo dục văn hóa, truyền thống bản sắc dân
tộc, giáo dục lòng yêu nước cho trẻ qua các trò chơi dân gian và các hoạt động
vui chơi của trẻ.
Ví dụ: Tăng cường cho trẻ chơi các trò chơi dân gian trong giờ hoạt động

ngoài trời vào các ngày thứ tư, sáu; riêng chiều thứ hai hàng tuần, trẻ được xem
các kịch bản rối qua các câu chuyện cổ tích, giao lưu hỏi đáp giữa các trẻ về nội
dung các câu chuyện.
Cụ thể tôi đã tổ chức thực hiện các hoạt động nổi bật như sau:
Tôi tổ chức cho trẻ lớp tôi thi góc chơi “khám phá khoa học” theo chủ đề
bản thân, tôi lên tiết thực hành giúp trẻ trải nghiệm bằng các giác quan, những
trải nghiệm trong đời sống hàng ngày của trẻ .
Tôi cùng nhà trường đã tổ chức cho trẻ tham quan các địa điểm, các công
trình công cộng (như thăm viếng tượng đài nghĩa trang liệt sỹ, quan sát trò
chuyện về khu bưu điện văn hóa xã…) nhằm rèn luyện kỹ năng giao tiếp, giáo
dục lòng yêu quê hương đất nước con người và biết ơn những người đã có công
với cách mạng đã hy sinh vì bảo vệ độc lập tổ quốc.

( Hình ảnh cô hướng dẫn trẻ thăm viếng tượng đài nghĩa trang liệt sỹ)

Tổ chức ngày hội “Bánh chưng, bánh giày” lồng ghép giáo dục qua câu
chuyện lịch sử “Sự tích bánh chưng, bánh giày” ở chủ đề nhánh tết và mùa xuân.
Hoạt động vui chơi giải trí này còn dành thời gian cho học sinh trẻ 5 tuổi thực
hành chuyên đề “Bé tập làm nội trợ” qua góc phân vai. Qua hội thi "Xây dựng
môi trường giáo dục lấy trẻ làm trung tâm" trẻ được cùng cô gói bánh chưng
ngày tết tại hội chợ quê giúp trẻ hiểu thêm về tục lệ gói bánh chưng ngày tết cổ
truyền dân tộc Việt Nam.
14


( Hình ảnh cô hướng dẫn trẻ gói bánh chưng ngày têt )

Cũng qua hoạt động tham gia hội thi "Xây dựng môi trường giáo dục lấy
trẻ làm trung tâm", vui chơi các trò chơi dân gian trong dịp đầu xuân như: Kéo
co, ném còn, đi cà kheo, ô ăn quan, kéo mo cau, đánh mẳng, nhảy sạp...., giúp

trẻ lớp tôi có dịp tìm hiểu nét văn hóa đặc trưng ở địa phương trẻ sống.
Tôi tổ chức buổi biểu diễn văn nghệ mừng xuân cho trẻ của lớp tôi tại các
góc chơi với chủ đề “Bé hát dân ca” thi “Trang phục dân gian”, tổ chức các gian
hàng ẩm thực mùa xuân, trò chơi dân gian, thi giải câu đố hay….
Thông qua biện pháp này khi trẻ được tham gia các hoạt động ngoại khóa,
hoạt động nghệ thuật, trò chơi dân gian và các hoạt động trải nghiệm qua trải
qua hội thi: "Xây dựng môi trường giáo dục lấy trẻ làm trung tâm" và các hoạt
động tại lớp tôi thấy trẻ lớp tôi đã trưởng thành và tự tin hơn khi giao tiếp, mạnh
dạn hơn đứng trước đám đông rất nhiều, đặc biệt là trẻ được tham gia trải
nghiệm nên trẻ rất hứng thú. Tôi thấy các hoạt động này rất cần thiết và hữu ích
cho trẻ để giáo dục kỹ năng sống cho trẻ đạt được kết quả cao hơn.
2.3.3. Tạo môi trường thuận lợi để dạy trẻ kỹ năng sống.
Môi trường giáo dục trong trường mầm non gồm môi trường bên trong và
môi trường bên ngoài lớp học. Cả hai môi trường đều rất quan trọng đến việc
dạy và học của cô và trẻ. Trẻ sẽ tham gia vào các hoạt động và các loại trò chơi
khác nhau tuỳ thuộc vào môi trường trẻ đang sống. Vì vậy trẻ cần có cơ hội để
trẻ chơi và học ở môi trường bên trong và bên ngoài lớp học. Môi trường giáo
dục có ảnh hưởng rất lớn đến kết quả giáo dục trẻ.
Môi trường bên trong lớp học gồm có:
Trong lớp học không thể thiếu những góc chơi của trẻ, do đó để lớp học
thêm lôi cuốn trẻ tôi đã tạo nên một môi trường trong lớp học với những màu
sắc sinh động và ngộ nghĩnh. Môi trường có không gian, cách sắp xếp phù hợp,
gần gũi, quen thuộc với cuộc sống hàng ngày của trẻ, khi thiết kế các góc hoạt
động trong lớp cần chú ý:
15


Tôi đã bố trí các góc hoạt động hợp lí: Góc hoạt động yên tĩnh cần bố trí xa
góc hoạt động ồn ào, góc thư viện sử dụng sách tranh ở những nơi nhiều ánh sáng…
Các góc hoạt động có ranh giới rõ ràng có lối đi cho trẻ di chuyển thuận

tiện khi liên kết giữa các góc chơi.
Tên các góc hoặc ký hiệu các góc đơn giản, gần gữi với trẻ, được viết theo
đúng quy định mẫu chữ quy định.
Các góc tôi đã bày biện hấp dẫn.
Các góc có đầy đủ đồ dùng, đồ chơi, học liệu và phương tiện đặc chưng
cho từng góc.
Đồ dùng, đồ chơi, nguyên vật liệu có giá đựng ngăn nắp, gọn gàng, để nơi
trẻ dễ thấy, dễ lấy, dễ dùng, dễ cất.
Đồ dùng, đồ chơi phải được thay đổi và bổ xung phù hợp theo chủ đề và
hứng thú trẻ.
Đồ dùng đồ chơi có sản phẩm của cô và trẻ tự làm, sản phẩm của ddiwj
phương đặc trưng văn hoá vùng miền nơi trẻ sống.
Đồ dùng, đồ chơi nguyên vật liệu an toàn, vệ sinh, phù hợp với thể chất và
tâm sinh lí trẻ mầm non.
Dưới đây là một số hình ảnh các góc hoạt động trong lớp tôi đã hoạt động:

( Hình ảnh một số góc trẻ được hoạt động môi trường bên trong lớp học )

Với việc bố trí xắp xếp các góc học tập trong lớp hợp lý, cùng với đồ
dùng đồ chơi phong phú đã khích thích trẻ hứng thú tham gia các hoạt động và
biết được cách xắp xếp đồ dùng của cô, từ đó giúp hình thành và phát triển các
kỹ năng cho trẻ như: Kỹ năng giao tiếp, kỹ năng quan hệ xã hội …..
Môi trường bên ngoài lớp học là yếu tố góp phần tích cực trong các hoạt
động rèn kỹ năng sống cho trẻ. Xây dựng môi trường bên ngoài lớp học phù
hợp, an toàn, sạch sẽ, hấp dẫn sẽ tạo cơ hội cho trẻ hoạt động đáp ứng nhu cầu
chơi của trẻ. Cần bố trí các khu vực hoạt động ngoài trời phù hợp để góp phần
vào việc giáo dục kỹ năng sống cho trẻ.
Môi trường bên ngoài lớp học như khu phát triển vận động, khu chơi với
cát nước, góc thiên nhiên, vườn hoa, vườn rau, vườn cây thuốc nam…giúp trẻ
phát triển tình cảm kỹ năng xã hội qua môi trường bên ngoài lớp học.

16


Đây là một số hình ảnh các góc môi trường bên ngoài của nhà trường
được trẻ thích thú khi tham gia hoạt động.

( Hình ảnh một số góc trẻ được hoạt động môi trường bên ngoài lớp học )

Trang trí sân trường bằng các khẩu hiệu nhắc nhở giáo viên, người lớn
phải gương mẫu như: “Cô mẫu mực, trò chăm ngoan, trường khang trang, lớp
thân thiện”; “Mỗi thầy cô giáo là một tấm gương sáng về đạo đức, tự học, sáng
tạo” bằng chính hình ảnh giáo viên và học sinh của trường, đặc biệt chú ý đưa
hình ảnh đẹp của các trẻ hiếu động, cá biệt để từ đó giúp trẻ tự điều chỉnh hành
vi, giúp trẻ thể hiện bản thân và luôn biết giữ gìn, là điều kiện để khen ngợi sự
cố gắng của trẻ.
Nhằm tạo môi trường giúp giáo viên và các bậc cha mẹ tăng cường đọc
sách cho con trẻ. Tại lớp, tôi đã trang trí, sắp xếp góc thư viện và văn học, để nơi
dễ hoạt động với nhiều tên gọi khác nhau theo chủ đề : “Kể chuyện cùng bé”
thiết kế phân chia nhiều ngăn để sách, truyện nhiều kích cỡ, vừa tầm với của trẻ.
Vận động cha mẹ thường xuyên tặng sách cho góc thư viện của trẻ tại trường, tại
lớp và ngay ở gia đình trẻ.

( Hình ảnh góc sách truyện của lớp )

17


Có thể nói tạo môi trường giáo dục thuận lợi cho trẻ trong trường mầm
non đã giúp trẻ lớp tôi hình thành nhân cách của trẻ và giúp trẻ được phát triển
toàn diện về thể chất, ngôn ngữ, trí tuệ, khả năng thẩm mỹ và tình cảm xã hội và

đặc biệt là rèn kỹ năng sống rất hiệu quả. Thông qua biện pháp này đã giúp cho
tôi hiểu rằng tạo môi trường giáo dục thuận lợi rất quan trọng và là hình thức rất
có hiệu quả. Giúp trẻ lớp tôi có môi trường hoạt động tốt nhất và vui chơi thoải
mái và kỹ năng sống của trẻ tốt hơn.
2.3.4. Tuyên truyền, phối hợp với cha mẹ để thực hiện dạy trẻ các kỹ
năng.
Sự phối hợp của gia đình và nhà trường tốt sẽ đem lại kết quả cao trong
việc chăm sóc giáo dục trẻ, đặc biệt là trong công tác hình thành và rèn các kỹ
năng sống cho trẻ. Nắm bắt được tầm quan trọng này nên tôi lên kế hoạch cụ thể
để phối hợp với các bậc phụ huynh trong công tác rèn kỹ năng cho trẻ. Qua việc
tích cực giao lưu với phụ huynh vào giờ đón trả trẻ giúp tôi dễ dàng nắm bắt tình
hình của trẻ, hiểu được tính cách, hoàn cảnh sống của trẻ từ đó đề ra các biện
pháp phù hợp cũng như cách tác động, phối hợp với phụ huynh trong việc rèn
luyện trẻ đúng phương pháp. Việc đầu tiên mà tôi thực hiện đó là tuyên truyền
với các bậc phụ huynh qua góc tuyên truyền của lớp. Qua góc tuyên truyền này
phụ huynh có thể tìm hiểu và nắm bắt được các nội dung và các hoạt động hàng
ngày của con em mình tại trường gồm những hoạt động gì.

( Hình ảnh tuyên truyền với phụ huynh trong giờ đón trẻ )

Tôi thường trao đổi, tuyên truyền, phối hợp với phụ huynh hiểu những việc
nên và không nên đối với trẻ để giúp trẻ có kỹ năng sống tốt, trẻ có kỹ năng tự
bảo vệ bản thân, tự tin trong cuộc sống. Trẻ luôn bắt chước người lớn và cha mẹ
trẻ là những người lớn gần gũi trẻ nhất. Vì vậy các bậc làm cha làm mẹ đừng vô
tình bỏ qua những cơ hội đơn giản và thuận lợi hàng ngày để hướng dẫn con
những thói quen tốt để rồi sau đó lại bắt trẻ mất thời gian học lại những điều này ở
một nơi khác với những người xa lạ. Cha mẹ trẻ hãy chú ý giúp trẻ hình thành
những kỹ năng sống tốt như kỹ năng giao tiếp xã hội để tự khám phá, đánh giá
bản thân mình và người khác.
18



Ví dụ: Cha hoặc mẹ cho phép trẻ vui chơi bày biện đồ chơi theo theo ý
thích của trẻ, đừng bao giờ cấm đoán hay la mắng. Điều quan trọng là hãy để trẻ
tự thu dọn đồ chơi sau khi chơi xong. Cha mẹ có thể cùng con thu dọn nhưng
tuyệt đối không bao giờ được làm thay trẻ.
Cha mẹ và người lớn phải gương mẫu, yêu thương, tôn trọng, đối xử công
bằng với trẻ và đảm bảo an toàn cho trẻ.
Ví dụ: Hướng dẫn và nhắc nhở trẻ đội mũ bảo hiểm khi đi trên xe máy
mỗi buổi đến trường, khi tham gia giao thông.
Tôi tuyên truyền với phụ huynh để tạo mối liên kết với bạn bè cho trẻ khi
ở gia đình: Có thể thấy, trẻ thường dễ dàng kết bạn khi chơi theo đôi bạn trong
môi trường của riêng chúng hơn là chơi trong một nhóm bạn tại trường, một số
trẻ có khó khăn trong việc kết bạn hoặc chia sẻ với bạn theo nhóm lớn, lại có thể
hình thành mối liên kết thân thiết với bạn mới trong môi trường gia đình trẻ.
Tôi tuyên truyền với phụ huynh liên tục đọc sách, trò chuyện, kể chuyện
cho trẻ nghe. Tăng cường kể cho trẻ nghe các câu chuyện cổ tích qua đó rèn
luyện giáo dục đạo đức cho trẻ, giúp trẻ hoàn thiện mình, biết đọc sách, dạy trẻ
yêu thương bạn bè, yêu thương con người và thiên nhiên xung quanh trẻ. Tạo
hứng thú cho trẻ nhỏ qua các truyện bằng tranh tùy theo lứa tuổi, gợi mở tính tò
mò, ham học hỏi, phát triển khả năng thấu hiểu ở trẻ.
Tôi đã phối hợp với phụ huynh dạy trẻ những nghi thức văn hóa trong ăn
uống: Dạy trẻ biết cách sử dụng các đồ dùng ăn uống. Việc này được thực hiện
trong giờ học, giờ sinh hoạt hàng ngày của trẻ tại lớp và trong bữa cơm gia đình.
Tôi cũng tuyên truyền với phụ huynh quan sát những biểu hiện của trẻ
trong điều kiện và tình huống tự nhiên hàng ngày như quan sát xem trẻ có tự tin
và tự nhiên khi giao tiếp với mọi người hay không?. Trẻ có thích tham gia dã
ngoại hay tham gia các nhóm sinh hoạt không? Trẻ có tự nhiên sáng tạo khi chơi
với đồ chơi không?. Trẻ có lễ phép trong cách nói năng với người lớn hay
không?… để từ đó có biện pháp rèn luyện và giáo dục trẻ thêm.

Sau khi áp dụng biện pháp này và nhờ có sự phối kết hợp chặt chẽ giữa tôi
với cha mẹ trẻ mà tôi thấy trẻ lớp tôi rất mạnh dạn, tự tin và hầu hết trẻ có kỹ
năng sống rất tốt cần thiết theo đúng độ tuổi của trẻ 5 - 6 tuổi. Với sự cố gắng
của tôi cùng với sự giúp đỡ của phụ huynh chúng tôi đã khắc phục, hình thành
và rèn cho trẻ những kỹ năng sống tốt trong phục vụ bản thân, trong giữ gìn vệ
sinh trường lớp cũng như cho cơ thể của từng trẻ. Từ đó phụ huynh đều rất vui
mừng trước sự tiến bộ rõ rệt của con em mình và tin tưởng gửi con em mình đến
trường mầm non.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục,
với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường:
Qua một thời gian thực hiện và theo dõi, tôi nhận thấy những biện pháp
trên rất có hiệu quả, học sinh lớp tôi có chuyển biến rất rõ rệt, đặc biệt đối với
19


những trẻ nhút nhát, rụt rè thì giờ trẻ đã tự tin và khéo léo hơn. Từ khi áp dụng
sáng kiến kinh nghiệm và những biện pháp trên cùng với sự cố gắng nỗ lực của
bản thân, sự đồng thuận hợp tác của tập thể sư phạm, sự ủng hộ tích cực của các
bậc cha mẹ đã giúp tôi đạt được một số kết quả trong việc dạy trẻ lớp mình các
kỹ năng sống cơ bản được thể hiện ở các kết quả sau:
* Kết quả trên trẻ:
100% trẻ đều được cô giáo và cha mẹ tạo mọi điều kiện khuyến khích
khơi dậy tính tò mò, phát triển trí tưởng tượng, năng động, mạnh dạn, tự tin,
100% trẻ được rèn luyện khả năng sẵn sàng học tập ở trường tiểu học sau này.
100% trẻ có thói quen lao động tự phục vụ, được rèn luyện kỹ năng tự
lập; kỹ năng nhận thức; kỹ năng vận động thô, vận động tinh thông qua các hoạt
động hàng ngày trong cuộc sống của trẻ; ngoài trẻ được rèn luyện kỹ năng vận
động tinh, kỹ năng tự kiểm soát bản thân, phát triển óc sáng tạo, tính tự tin thông
qua các hoạt động năng khiếu vẽ, thể dục Aerobic.
100 % trẻ được giáo dục, chăm sóc nuôi dưỡng, bảo vệ sức khỏe, được

bảo đảm an toàn, phòng bệnh, được theo dõi cân đo bằng biểu đồ phát triển.
Trẻ đi học đều hơn, đạt tỷ lệ chuyên cần đạt từ 98% trở lên, trẻ chăm
ngoan đạt từ 99% trở lên và ít gặp khó khăn khi ở lớp, trẻ có kỹ năng lao động
tự phục vụ, sắp xếp bàn ăn, tự chuẩn bị khăn ăn, bát, thìa ….trong các giờ ăn, tự
xếp chăn và gối trước và sau khi ngủ.
Đa số trẻ có các kỹ năng học tập tốt, biết cố gắng hoàn thành công việc
của mình đến cùng, biết kết hợp với nhóm bạn trong các hoạt động hàng ngày.
*Kết quả khảo sát sau khi áp dụng các giải pháp đạt được cụ thể như sau:
Các kỹ năng được
khảo sát

Tổng
số học
sinh

Trước khi áp dụng
Trẻ đạt

Trẻ chưa
đạt

Sau khi áp dụng
Trẻ đạt

Trẻ
chưa
đạt

Nhóm kỹ năng nhận
13 = 45 % 16 = 55 % 27= 93% 2 = 6 %

thức bản thân
Nhóm kỹ năng tự tin
15 = 52 % 14 = 48 % 28= 97% 1 = 3 %
Nhóm kỹ năng giao
29
15 = 52 % 14 = 48 % 26= 91% 3 = 9%
tiếp và quan hệ xã hội
Nhóm kỹ năng học tập
13 = 45 % 16 = 55 % 27= 93% 2 = 6%
Nhóm kỹ năng hợp tác
12 = 42 % 17 = 58 % 28 =97% 1 = 3%
*Về phía phụ huynh:
Phụ huynh hưởng ứng, thường xuyên trao đổi và cùng phối kết hợp với
tôi để cùng rèn kỹ năng sống cho trẻ và rất tin tưởng cô giáo bởi họ tự nhận thấy
sự tiến bộ rõ rệt của con mình.
Các bậc phụ huynh đã có thói quen liên kết phối hợp chặt chẽ với cô giáo
trong việc dạy trẻ các kĩ năng sống, trao đổi với giáo viên bằng nhiều hình thức
20


thông qua bảng tuyên truyền dành cho phụ huynh, bảng đánh giá trẻ ở lớp, số
lượng phụ huynh học sinh tham gia dự họp phụ huynh đông.
Đa số cha mẹ đã thay đổi trong cách rèn kĩ năng cho trẻ, phân việc cho
trẻ, không cung phụng trẻ thái quá.
Phụ huynh đã tin tưởng, mãn nguyện với cách giáo dục của nhà trường,
chia sẻ những khó khăn của cô giáo.
* Về phía giáo viên:
Bản thân luôn đối xử công bằng với trẻ, chú ý đến hoạt động cá nhân của
từng trẻ.
Mạnh dạn, tự tin điều khiển cuộc họp phụ huynh, biết tự chuẩn bị, phối

hợp chặt chẽ, trao đổi thường xuyên với cha mẹ trẻ nhằm giúp trẻ có những kỹ
năng thật tốt để làm nền tảng cho sự phát triển của trẻ sau này.
Với những kết quả khả quan như vậy tôi thấy bản thân cần phải cố gắng
phát huy hơn nữa, nghiên cứu tài liệu và tích cực hơn nữa trong việc tiếp tục
giáo dục và rèn kỹ năng sống cho trẻ để làm tốt nhiệm vụ của một người giáo
viên mầm non để được phụ huynh tin tưởng, trẻ yêu mến và luôn hoàn thành tốt
nhiệm vụ được giao trước nhà trường.
3. Kết luận, kiến nghị.
3.1. Kết luận.
Qua một thời gian trực tiếp giảng dạy nghiên cứu. Với lòng kiên trì khi
thực hiện các biện pháp rèn kỹ năng sống cho trẻ. Bản thân tôi đã rút ra một số
kinh nghiệm sau:
Trước hết cần phải có lòng nhiệt tình tâm huyết với nghề, yêu mến trẻ.
Không ngừng học tập và nâng cao trình độ chuyên môn nắm chắc phương
pháp bộ môn, thực hiện nghiêm túc kế hoạch chuyên môn và của nhà trường.
3.2. Kiến nghị: Không có kiến nghị.
Trên đây là một số kinh nghiệm rèn kĩ năng sống cho trẻ 5 - 6 tuổi mà tôi
được đúc rút trong quá trình giảng dạy, bài sáng kiến vẫn còn nhiều thiếu xót và
hạn chế, vì vậy tôi mong muốn được cấp trên đóng góp ý kiến và góp ý cho tôi
được hoàn thành tốt hơn trong quá trình công tác của mình./.
Xác nhận của thủ

Cấm Tú, ngày 13 tháng 03 năm 2018

trưởng đơn vị

Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình
..................................................... viết, không sao chép nội dung của người
khác.
.....................................................

Người viết
.....................................................
Hiệu Trưởng
Phan Thị Lan

Cao Thị Liên
21


22



×