MỤC LỤC
STT
NỘI DUNG
TRANG
1
1.Mở đầu
1
2
1.1 .Lý do chon đề tài
1
3
1.2.Mục đích nghiên cứu
2
4
1.3.Đối tượng nghiên cứu
2
5
1.4. Phương pháp nghiên cứu
2
6
2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm
3
7
2.1.Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm
3
8
2.2. Thực trạng vấn đề
4
9
2.3. Các biện pháp thực hiện sáng kiến kinh nghiệm
7
10
2.4.Hiệu quả sáng kiến kinh nghiệm
16
11
3. Kết luận, kiến nghị
17
12
3.1.Kết luận
17
13
3.2. Kiến nghị
18
0
1.Mở đầu
1.1. Lý do chọn đề tài:
Trong thực tế chúng ta đã biết nhiệm vụ giáo dục mầm non là khâu đầu tiên
của hệ thống giáo dục quốc dân. Giáo viên mầm non được xem là người thầy
đầu tiên đặt nền móng cho việc đào tạo nhân cách con người mới cho xã hội chủ
nghĩa tùy theo độ tuổi mà giáo dục khác nhau tuổi mầm non trẻ mới bắt đầu
trong quá trình học nói chính vì vậy mà cung cấp vốn Tiếng Việt cho trẻ đặc biệt
là dân tộc thiểu số là vô cùng quan trọng bởi vì các cháu dân tộc thiểu số thường
hay dùng tiếng mẹ đẻ, nên khó khăn trong việc tiếp nhận Tiếng Việt dẫn đến
cháu khó tiếp thu lời giảng của cô bằng ngôn ngữ Tiếng Việt, hay còn gọi cách
khác là tiếng phổ thông.
Chính vì vậy việc cung cấp Tiếng Việt cho trẻ dân tộc thiểu số là vấn đề cần
quan tâm nhằm hình thành kỹ năng cần thiết cho việc học Tiếng Việt ở các bậc
học theo ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Ngôn ngữ Tiếng Việt của trẻ dân tộc phát
triển tốt sẽ giúp cho trẻ nhận thức và giao tiếp tốt. Việc phát triển ngôn ngữ
Tiếng Việt cho trẻ trong giao tiếp sẽ giúp trẻ dễ dàng tiếp cận với các môn học
hàng ngày trên lớp.
Như chúng ta đã biết ngôn ngữ là thứ công cụ thiết yếu để trẻ giao tiếp, để
liên hệ với người khác qua giao lưu trao đổi ngôn ngữ, để diễn đạt ý kiến, bày tỏ
tình cảm của mình….vv. Ngôn ngữ còn là công cụ, là sản phẩm của hoạt động
trí óc khi suy nghĩ, tưởng tượng, sáng tạo. Ngoài những hình ảnh “ chụp ” được
từ các sự vật hiện tượng xung quanh người ta còn phải tự nói thầm, trong những
trường hợp đó ngôn ngữ được phát ra thành lời nói để diễn đạt những suy nghĩ
của mình. Nhưng những âm, những tiếng của câu nói phát ra có chuẩn xác hay
không ta còn phải rèn luyện kỹ năng nói chuẩn xác Tiếng Việt cho trẻ, ngay từ
trường Mầm non để cung cấp thêm vốn từ cho trẻ.
Ngôn ngữ càng phong phú thì việc hoà nhập với cuộc sống xã hội cũng như
việc học hành nghiên cứu diễn ra càng thuận lợi hơn. Việc sử dụng ngôn ngữ để
trao đổi được thực hiện trong xuốt quá trình học tập và đời sống sinh hoạt hàng
ngày.
Năm học 2017-2018 nhà trường phân công tôi đứng lớp 4-5 tuổi với 100%
trẻ là người dân tộc thiểu số (dân tộc mường). khả năng giao tiếp và sử dụng
Tiếng Việt của trẻ còn hạn chế, môi trường Tiếng Việt của trẻ chỉ thu gọn trong
trường lớp mầm non vì vậy để chuẩn bị tốt khả năng sử dụng Tiếng Việt cho trẻ
giúp trẻ phát âm thành thạo lưu loát thì cần chuẩn bị tốt Tiếng Việt ban đầu cho
trẻ bằng nhiều hình thức và phương pháp khác nhau phù hợp với đặc điểm tâm
sinh lý của trẻ, phát huy được tính tích cực, chủ động sáng tạo ở trẻ bằng các
phương pháp giáo dục như: Qua trò chuyện, quan sát đàm thoại, kể chuyện, đọc
cho trẻ nghe, qua dạo chơi ngoài, qua chơi hoạt động góc, qua hoạt động vui
chơi mọi lúc mọi nơi giúp trẻ học tập có hiệu quả thông qua các thủ thuật lôi
cuốn, gây hứng thú trẻ, lôi cuốn trẻ đảm bảo cho trẻ tự tin không lo lắng khi học
Tiếng Việt.
1
Chuẩn bị Tiếng Việt cho trẻ vùng dân tộc thiểu số là một vấn đề rất thiết
thực trong giảng dạy trẻ mầm non vùng dân tộc thiểu số hiện nay nói chung và
lớp mẫu giáo 4-5 tuổi (Thôn Muốt) Trường Mầm Non Cẩm Thành nói riêng.
Chính vì vậy muốn nâng cao khả năng nhận thức cho trẻ cần phải chuẩn bị tốt
Tiếng Việt cho trẻ ngay từ lứa tuổi mầm non.
Nhận thức được tầm quan trọng của việc chuẩn bị Tiếng Việt cho trẻ dân
tộc thiểu số 4-5 tuổi có nguồn Tiếng Việt tốt để bước vào lớp lớn và các lớp học
sau này tôi đã lựa chọn đề tài: “ Một số biện pháp tăng cường Tiếng Việt cho
trẻ dân tộc thiểu số 4-5 tuổi”
1.2. Mục đích nghên cứu:
Bản thân nghiên cứu đề tài này với mục đích tăng cường Tiếng Việt cho trẻ
dân tộc thiểu số. Việc làm hết sức cần thiết, tưởng chừng như rất dễ nhưng thực
tế lại rất khó, mà nó đòi hỏi cả một quá trình, phải có sự kiên trì của cả giáo viên
và trẻ. Dạy trẻ làm quen với Tiếng Việt là dạy cái gì? dạy như thế nào? Trẻ làm
quen với Tiếng Việt với tư cách là bộ môn khoa học hay với tư cách là một công
cụ, một phương tiện giao tiếp. Cách trả lời những câu hỏi trên sẽ liên quan tới
việc lựa chọn nội dung, phương pháp cho trẻ dân tộc tiếp cận, làm quen dần với
Tiếng Việt.
Bởi việc dạy trẻ biết nói Tiếng Việt là nội dung hết sức quan trọng trong nội
dung giáo dục mầm non. Phát triển ngôn ngữ là một trong 5 lĩnh vực của giáo
dục: phát triển thể chất, phát triển quan hệ tình cảm xã hội, phát triển nhận thức,
phát triển thẩm mỹ và phát triển ngôn ngữ. Vì vậy từ khi trẻ học ở trường mầm
non giáo viên phải có nhiệm vụ xây dựng vốn ngôn ngữ ban đầu cho trẻ.
Tôi nhận thức rõ sự khác nhau về khả năng diễn đạt ngôn ngữ giữa trẻ này
với trẻ khác để khi rèn luyện ngôn ngữ cho trẻ dân tộc đạt kết quả tốt nhất, tập
cho trẻ nói đúng Tiếng Việt giáo viên phải có những phương pháp phù hợp với
từng độ tuổi, từng trường, từng vùng địa phương. Khi nghiên cứu đề tài này tôi
thực sự muốn trao dồi về ngôn ngữ và khả năng nói Tiếng Việt thành thạo, lưu
loát cho trẻ để giúp trẻ phát triển toàn diện.
1.3. Đối tượng nghiên cứu:
Tổng hợp một số biện pháp tăng cường Tiếng Việt cho trẻ dân tộc thiểu số
4-5 tuổi. Nhằm tăng cường nguồn Tiếng Việt cho trẻ dân tộc thiểu số, để trẻ có
thể học tập và giao lưu, giao tiếp hằng ngày lưu loát bằng Tiếng Việt thứ tiếng
chung của quốc gia.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu xây dựng cơ sở lý thuyết: Phương pháp này bản
thân đã dựa vào tài liệu tham khảo để làm cơ sở lý thuyết để nghiên cứu.
Phương pháp điều tra khảo sát thực tế: Khi nghiên cứu đề tài này bản thân
đã điều tra và khảo sát thực tế về đối tượng trẻ và thực tế lớp đang trực tiếp
giảng dạy.
2
Phương pháp thu thập thông tin: Đối với phương pháp này bản thân đã thu
thập mọi thông tin, có liên quan đến nội dung đề tài như tài liệu nghiên cứu,
trông tin về lớp, về trẻ, về các hoạt động trong của trẻ.
Phương pháp thống kê: Từ những phương pháp trên tôi đã thống kê và mô
tả lại thực trạng, đưa ra hướng giải quyết vấn đề trong qua trình nghiên cứu.
2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm
2.1. Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm
Ngày 2 tháng 6 năm 2016, Thủ tướng chính phủ phê duyệt quyết định số
1008/QĐ-TTg về đề ắn tăng cường Tiếng Việt cho trẻ mầm non và học sinh tiểu
học vùng dân tộc thiểu số giai đoạn 2016-2020, định hướng đến 2025”. Thực
hiện Quyết định số 1682/QĐ-UBND ngày 23/5/2017 của Chủ tịch UBND tỉnh
phê duyệt Kế hoạch thực hiện Đề án “Tăng cường tiếng Việt cho trẻ mầm non,
học sinh tiểu học vùng dân tộc thiểu số giai đoạn 2016-2020, định hướng đến
2025”. Phòng Giáo dục đã tham mưu QĐ số 900 ngày 22 tháng 06 năm 2016
kèm theo kế hoạch thực hiện giai đoạn 2016-2020, định hướng đến 2025” đến
từng địa phương để thực hiện và nhà trường đã cụ thể hóa QĐ theo giai đoạn và
từng năm học cụ thể tại nhà trường.
Qua quá trình nghiên cứu về ngôn ngữ của trẻ dân tộc thiểu số, cho thấy
việc làm quen Tiếng Việt và chuẩn bị Tiếng Việt cho trẻ dân tộc thiểu số có tác
động rất lớn đối với sự phát triển toàn diện nhân cách trẻ sau này.
Việc học Tiếng Việt của trẻ dân tộc thiểu số phụ thuộc rất nhiều vào giáo
viên, vì trong mỗi chủ đề chủ điểm giáo viên sẽ dạy trẻ cái gì và cần dạy như thế
nào để trẻ dễ hiểu, dễ nhớ, hứng thú tham gia vào các hoạt động, phát huy được
tính tích cực chủ động sáng tạo ở trẻ.
Ngôn ngữ cho trẻ giao tiếp là một chủ thể tích cực, là tiền đề để trẻ tích cực
giao tiếp với bạn bè và chủ động trong giao tiếp. Trong cuộc sống hằng ngày,
con người sử dụng lời nói để trò chuyện, đàm thoại, thảo luận, trình bày hiểu
biết suy nghĩ, giải thích vấn đề nào đó trong cuộc sống như: Kể lại được sự việc,
câu chuyện đã đươc nghe, được chứng kiến, hay tự mình nghĩ ra, sáng tạo ra.
Trẻ cần tập nghe, hiểu lời nói của cô của những người của những người xung
quanh. Sau đó tập trình bày suy nghĩ và sự hiểu biết của mình theo ngôn ngữ
Tiếng Việt.
Muốn phát triển kỹ năng, hiểu và nói được ngôn ngữ Tiếng Việt theo cô,
trước hết phải cuốn hút trẻ tham gia vào hoạt động phát triển ngôn ngữ qua trò
chuyện, đàm thoại, kể chuyện, đọc cho trẻ nghe, qua chơi hoạt động góc, chơi
ngoài trời, hoạt động vui chơi mọi lúc, mọi nơi ... Là vô cùng quan trọng nhưng
hình thành như thế nào đây mới thật là điều không phải dễ.
Trẻ em mẫu giáo dân tộc thiểu bắt đầu học Tiếng Việt trên cơ sở kinh
nghiệm tiếng mẹ đẻ không phải là Tiếng Việt. Môi trường giáo tiếp Tiếng Việt
cho trẻ mẫu giáo dân tộc thiểu số thu hẹp cả về mặt không gian lẫn thời gian
3
(trong phạm vi trường lớp mầm non). Việc học Tiếng Việt của trẻ mẫu giáo dân
tộc thiểu số chịu ảnh hưởng của ngôn ngữ thứ nhất là sự giáo thoa ngôn ngữ
giữa tiếng mẹ đẻ với Tiếng Việt.
Sự khác biệt về văn hóa giữa các dân tộc, trong đó có khía cạnh ngôn ngữ cũng
ảnh hưởng tới việc học Tiếng Việt của trẻ mẫu giáo dân tộc thiểu số. Sự khác biệt
về điều kiện sống của các dân tộc thiểu số có tác động nhất định đối với việc học
Tiếng Việt của trẻ em mẫu giáo dân tộc thiểu số.
Một số dân tộc sống ở khu vực gần nơi có nhiều người Kinh sinh sống,
Tiếng Việt trở thành ngôn ngữ giao tiếp chung giữa các dân tộc trong cộng đồng
đó nên việc học Tiếng Việt của trẻ có nhiều thuận lợi. Một số dân tộc sống ở
vùng sâu, điều kiện sống tách biệt, hoặc khu vực chỉ có một dân tộc thuần túy,
không có nhu cầu giao tiếp giữa các dân tộc với nhau và Tiếng Việt không phải
là ngôn ngữ giao tiếp chung trong cộng đồng, chỉ sử dụng tiếng mẹ đẻ để giao
tiếp nên trẻ em ở môi trường này chỉ có duy nhất kinh nghiệm ngôn ngữ trong
phạm vi tiếng mẹ đẻ.
Ngoài ra, do đời sống kinh tế còn khó khăn, đại bộ phận các gia đình đồng
bào dân tộc thiểu số ở vùng sâu, vùng xa còn thiếu các phương tiện thông tin
như máy thu thanh, vô tuyến truyền hình, sách báo... trình độ văn hóa của các
bậc cha mẹ còn thấp, một bộ phận không biết đọc, biết viết nên khi ở nhà trẻ em
ít có cơ hội giao tiếp với những người thân trong gia đình và cộng đồng bằng
Tiếng Việt. Phần lớn trẻ em dân tộc thiểu số trước khi tới trường, lớp mầm non
đều sống trong môi trường tiếng mẹ đẻ không phải là Tiếng Việt, ít có môi
trường giao tiếp bằng Tiếng Việt.
Khi đến trường, trẻ em thích trao đổi với nhau bằng tiếng mẹ đẻ và có thói
quen giao tiếp bằng tiếng mẹ đẻ trong hoạt động chơi, trò chuyện hàng ngày và
thậm chí ngay cả trong môi trường học tập. Do đó, trẻ em dân tộc thiểu số sẽ
không có vốn Tiếng Việt ban đầu cần thiết để học tập bằng Tiếng Việt ở trường
phổ thông nếu không được chuẩn bị Tiếng Việt
Tiếng Việt rất qua trọng đối với người dân Việt Nam. Đặc biệt đối với trẻ
dân tộc thiểu số. Song thực tế hiện nay đa số trẻ vúng sâu, vùng xa, vùng dân tộc
thiểu số, trước khi đến trường chỉ sống trong gia đình, ở trong thôn bản nhỏ
trong môi trường tiếng mẹ đẻ do vậy trẻ chỉ nắm được tiếng mẹ đẻ ở dạng khẩu
ngữ, trẻ biết rất ít hoặc thậm chí không biết Tiếng Việt và cơ sở giáo dục khác.
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm.
2.2.1.Thuận lợi
Được sự quan tâm của sở giáo dục và phòng giáo dục tổ chức lớp tập huấn
chuyên đề “ Hướng dẫn tăng cường Tiếng Việt cho trẻ em người dân tộc thiểu số
trong cơ sở giáo dục mầm non”
Dưới sự quan tâm giúp đỡ của ban giám hiệu nhà trường về chuyên môn,
xây dựng phương pháp đổi mới hình thức tổ chức hoạt động giáo dục mầm non
tạo mọi điều kiện giúp tôi những tài liệu dạy học, nguyên vật liệu làm đồ dùng,
đồ chơi dạy học.
4
Được sự quan tâm của lãnh đạo địa phương đến giáo dục mầm non đã từng
bước chăm lo cho cơ sở vật chất nhà trường, cho lớp học tai địa phương.
Được sự ủng hộ từ phụ huynh nhận thức được tầm quan trọng của bậc học
mầm non nên luôn quan tâm đến việc chăm sóc giáo dục trẻ. Đã quan tâm trong
việc phối hợp với nhà trường, giáo viên để chăm sóc con em mình. Luôn giúp
đỡ tạo điều kiện để hỗ trợ cô giáo như: Ủng hộ cao các khoản đóng góp xã hội
hóa giáo dục; tham gia làm đồ chơi cùng; sưu tầm đóng góp phế liệu để làm đồ
dùng đồ chơi như: vải vụn, bông , chai lọ… để làm đồ chơi phục vụ cho môn
học từ đó quá trình phát triển ngôn ngữ của được nâng lên.
Đặc điểm của lớp tôi được phân công phụ trách:
Lớp mẫu giáo 4-5 tuổi của tôi phụ trách tại thôn Muốt xã Cẩm thành Thuộc
điểm lẻ của trường mầm non Cẩm Thành. Lớp học ở tại khu trung tâm thôn
Muốt nên thuận lợi cho việc đưa đón trẻ đến lớp .
Bản thân luôn tâm huyết với nghề, yêu trẻ như con của mình .
2.2.2. Khó khăn
Cẩm Thành là một xã vùng cao đời sống kinh tế xa hội còn gặp nhiều khó
khăn và đặc biệt là lớp tôi trực tiếp giảng dạy là một lớp điểm lẻ. Địa bàn sinh
sống của toàn người dân tộc Mường và đặc biệt lớp tôi phụ trách 100% trẻ là
người dân tộc Mường vì vậy khả năng truyền thụ bài học bằng ngôn ngữ Tiếng
Việt cho trẻ là một điều đặc biệt khó khăn.
Ngay cả người lớn cũng vậy việc phát âm chuẩn tiếng phổ thông cũng gặp
những khó khăn. Ví dụ: Cán bộ thôn, bản là người dân tộc mường trong các
cuộc họp đang triển khai bằng tiếng phổ thông là tiếng kinh cho mọi người nghe
nhưng có những đoạn khó diễn đạt thì ông cán bộ đó lại sử dụng bằng tiếng địa
phương của mình là tiếng mường. Hay có những người dân tộc đang giao tiếp
bằng tiếng phổ thông lại nói lẫn cả tiếng dân tộc.
Vì đa số chưa phát âm chuẩn tiếng phổ thông dẫn đến phát âm lẫn lộn, chưa
rõ ràng làm cho người nghe hiểu sai lệch về nội dung diễn đạt. Điều này làm ảnh
hưởng đến cách diễn đạt ý của trẻ, vì thế cần rèn luyện khả năng phát âm chuẩn,
nói đúng Tiếng Việt - tiếng phổ thông cho trẻ từ độ tuổi mẫu giáo là việc làm hết
sức cần thiết.
2.2.3. Kết quả thực trạng như sau
Từ những nguyên nhân hạn chế trên trên tôi thấy việc rèn luyện kỹ năng
nói đúng Tiếng Việt - tiếng phổ thông cho trẻ còn hạn chế. Trẻ chưa thực sự
hứng thú với hoạt động do giáo viên tổ chức vì trẻ còn ngại giao tiếp.
Các Trẻ dân tộc mường chưa nói rõ tiếng kinh, khi đến trường đến lớp giao
tiếp cùng cô giáo, cùng bạn bè bằng tiếng phổ thông vẫn bị lẫn những câu bằng
tiếng mường. Trẻ giao tiếp bằng tiếng phổ thông chủ yếu bằng mấy câu xã giao
còn những điều cần diễn đạt hơi khó một chút trẻ lại sử dụng bằng tiếng địa
phương của mình.
5
Ví dụ: Điện sáng trẻ nói “điện cháy”. Thịt gà - trẻ gọi - “canh”. Con Trâutrẻ gọi con tru…. Khi nói không những trẻ sử dụng tiếng địa phương mà khi
phát âm trẻ còn phát âm ngọng, phát âm sai, ví dụ: Cô Thảo - trẻ gọi - Cô sảo;
Cô Thơm - trẻ gọi – Cô Sơm. Bên cạnh đó trong quá trình học tập vui chơi và
giao tiếp với mọi người trẻ thường nói lẫn dấu hỏi (?) sang dấu ngã (~), hoặc
dấu (~) sang dấu (?), chữ S thành chữ Th, ví dụ: Con thỏ - trẻ gọi - Con sỏ; Con
Lợn - trẻ gọi - Con cùn…vv. Có nhiều cháu muốn nói lên ý kiến của mình cháu
thường lúng túng trong khi diễn đạt ý của mình.
Đấy chỉ là một trong một trong số rất nhiều ví dụ mà tôi muốn đưa ra. Cụ
thể hơn tôi đã khảo sát thực trạng sử dụng Tiếng Việt và hiểu Tiếng Việt lớp tôi
phụ trách như sau:
Kết quả khảo sát
TT
1
2
3
Tiêu chí
Trẻ nói chưa chuẩn
Tiếng Việt
Trẻ có thể nói và
nghe được các câu
bằng Tiếng Việt
Trẻ biết sử dụng
Tiếng Việt thường
xuyên trong giao
tiếp
Tổng
số
trẻ
kết quả khảo sát
Tốt
Khá
TB
Yếu
13
2 = 15,4% 4=30,8%
5=38,5% 3=23,1%
13
3 = 23,1% 3 =23,1% 5=38,5% 3=23,1%
13
2 =15,4% 3= 23,1% 4=30,8% 4=30,8%
Qua thực trạng khảo sát trên bản thân tôi thấy ngôn ngữ có vai trò hết sức
quan trọng trong việc phát triển toàn diện cho trẻ. Nó không chỉ ảnh hưởng trong
học tập về nhận thức cho trẻ mà còn ảnh hưởng trong quan hệ xã hội tác động
đến trẻ rất nhiều. Ngôn ngữ Tiếng Việt còn là phương tiện thể hiện tình cảm, thái
độ ước mơ và nhu cầu giao tiếp của trẻ. Nhu cầu giao tiếp, mong muốn được nói
chuyện với người xung quanh ở trẻ có từ rất sớm, vì vậy giáo viên phải khuyến
khích trẻ thực hiện những mong muốn đó. Chỉ có ở trường mầm non trẻ mới
được những chuẩn mực về ngôn ngữ mà cô giáo cũng là người trực tiếp cung
cấp các vốn từ và uốn nắn cho trẻ chuẩn mực trong phát âm Tiếng Việt.
Để khắc phục vấn đề còn vướng mắc trong thực hiện kỹ năng nói đúng
Tiếng Việt trong hoạt động đạt hiệu quả tốt hơn tôi đã mạnh dạn trao đổi cùng
các bạn đồng nghiệp một số nội dung, phương pháp nói đúng Tiếng Việt cho trẻ.
6
2.3. Các biện pháp thực hiện.
2.3.1. Biện pháp 1: Xác định nội dung tăng cường Tiếng Việt cho trẻ dân
tộc thiểu số.
Qua nghiên cứu bản thân tôi đã căn cứ vào nội dung giáo giục phát triển ngôn
ngữ trong chương trình GDMN Nội dung cụ thể theo độ tuổi trong chương trình
GDMN và tùy thuộc vào khả năng cụ thể của trẻ lớp tôi đang trực tiếp phụ trách.
Tôi dựa vào chuyên đề hướng dẫn xây dựng kế hoạch giáo dục tăng
cường Tiếng Việt cho trẻ em người dân tộc thiểu số. Tôi luôn chú ý đến khả
năng nghe nói Tiếng Việt đối với nhóm lớp.
Khả năng nghe của trẻ.
Nghe các từ chỉ sự vật, hiện tượng, đặc điểm, tính chất, hoạt động các từ
chỉ biểu cảm, từ chỉ khái quát.
Nghe lời nói trong giao tiếp hằng ngày.
Nghe kể chuyện, đọc thơ, ca dao, đồng dao phù hợp với độ tuổi.
Khả năng Nói:
Phát âm rõ các tiếng trong Tiếng Việt
Bày tỏ nhu cầu, tình cảm và hiểu biết của bản thân bằng các kiểu câu khác
nhau.
Sử dụng đúng từ ngữ trong câu giao tiếp hằng ngày. Trả lời và đặt câu hỏi.
Đọc thơ, ca dao, đồng dao và kể chuyện.
Lễ phép và tự tin trong giao tiếp.
Nội dung tăng cường Tiếng Việt cho trẻ bản thân đã dựa vào kế hoạch giáo
dục tháng hoặc chủ đề được lựa chọn trên cơ sở các nội dung giáo dục theo độ
tuổi chương trình GDMN, phù hợp với khả năng Tiếng Việt của trẻ.
Nội dung tăng cường Tiếng Việt được tích hợp phù hợp với các nội dung
giáo dục của các lĩnh vực phát triển.
Nội dung tăng cường Tiếng Việt cho trẻ có thể có nội dung được thực hiện
trong một hoặc một số tháng hoặc chủ đề nhưng với những nội dung khuyến
khích cho trẻ nghe, nói đúng ngữ pháp, các kiểu câu diễn đạt cảm xúc phù hợp
cần chú ý trong tổ chức thực hiện theo hướng tích hợp thông qua các hoạt động
giáo dục trong kế hoạch tất cả các chủ đề trong năm học.
Hiểu rõ tầm quan trọng của bộ môn tăng cường Tiếng Việt chính là rèn
luyện kỹ năng nghe và nói đúng Tiếng Việt cho trẻ Mầm non, nên Ban Giám
Hiệu nhà trường đã đặc biệt quan tâm cho giáo viên đi tham quan dự giờ dạy
mẫu ở các trường bạn, tạo điều kiện để giáo viên được tham gia gia đầy đủ các
chuyên đề đặc biệt là chuyên đề “ cho trẻ làm quen Tiếng Việt”… để tham khảo
thêm một số phương pháp, biện pháp rèn luyện cho trẻ kỹ năng nói đúng Tiếng
Việt - tiếng phổ thông theo hướng đổi mới hình thức giáo dục.
7
2.3.2. Biện pháp 2: Tăng cường Tiếng Việt cho trẻ dân tộc thiểu số bằng
cách trò chuyện với trẻ
Nhận thức được tầm quan trọng của việc rèn luyện kỹ năng nói đúng Tiếng
Việt cho trẻ mẫu giáo 4-5 tuổi, trẻ nói chưa chuẩn Tiếng Việt, diễn đạt câu còn
vụng về, thiếu ý để chuẩn bị cho trẻ bước vào lớp mẫu giáo lớn và các cấp học
được tốt. Là người giáo viên chủ nhiệm trực tiếp đứng lớp 4-5 tuổi tôi luôn trăn
trở suy nghĩ sau khi tìm hiểu thực trạng và trên cở sở lý thuyết tôi đã thử nghiệm
một số thực trạng trên như sau: Cung cấp vốn Tiếng Việt cho trẻ bằng cách trực
tiếp trò chuyện với trẻ để tạo cho trẻ sự gần gũi thân thiết. Thực tế cho ta thấy
rằng bất đồng ngôn ngữ là rất khó khăn trong giao tiếp, vì vậy ngay từ những
buổi đầu trẻ đến lớp cô luôn ân cần gần gũi trò chuyện giao tiếp hỏi trẻ các câu
hỏi hàng ngày trẻ thường va chạm hoặc cho trẻ quan sát các hình ảnh, đồ dùng,
đồ chơi trong lớp để rèn Tiếng Việt cho trẻ. Như chúng ta đã biết khả năng tiếp
thu của trẻ dân tộc thiểu số rất chậm, mau quên nhưng khi đã nhớ được thì lại
nhớ rất lâu nên tôi tiến hành cho trẻ tiếp xúc với vốn Tiếng Việt bằng phương
châm " Mưa dầm thấm lâu" cho nên việc cung cấp ngôn ngữ Tiếng Việt ở mọi
lúc, mọi nơi vô cùng hiệu quả,
Ví dụ: Giáo viên luôn vui vẻ, thương yêu trẻ, sửa sang quần áo, chải tóc
cho trẻ và không quên kèm theo một số câu hỏi giao lưu như: Con mặc quần áo
đẹp quá. Con ăn cơm chưa? Ăn bao nhiêu cơm? Ăn với thức ăn gì? Con ăn có
ngon không? Hay tôi hỏi về gia đình trẻ: Nhà con có bao nhiêu người? Con có
em bé không? Mẹ con làm nghề gì?... Qua trò chuyện với trẻ như vậy. Giáo viên
nắm được khả năng phát âm của mỗi trẻ để có biện pháp và giành nhiều thời
gian hơn giúp trẻ phát âm đúng, phát âm chuẩn Tiếng Việt. Giờ chơi tự do tôi
hay dẫn trẻ đến các góc trò chuyện và phát âm các từ có trong tranh, từ ở các
góc, giáo viên cần dạy trẻ phát âm nhiều lần và cho trẻ chỉ phát hình ảnh có
trong tranh con vật, hoa, cây quả, các phương tiện giao thông…Trẻ đọc qua
nhiều lần như vậy. Từ đó trẻ dân tộc lớp tôi phụ trách, phát âm chuẩn hơn và
mạnh dạn hơn trong giao tiếp với cô, với bạn, biết chỉ cho bạn chưa. Tạo không
khí thân thiện, gần gũi giữa cô giáo và trẻ, vấn đề này đặc biệt cần thiết và
không thể thiếu được đối với trẻ dân tộc thiểu số.
Qua những việc làm đó thấy các cháu tiến bộ rất nhiều trong phát âm
Tiếng Việt. Đối với những trẻ người dân tộc Mường chưa nói thạo tiếng phổ
thông qua giao tiếp hàng ngày trò chuyện với trẻ đôi lúc tôi cũng phải dùng
tiếng địa phương trao đổi với trẻ những từ khó mà trẻ chưa phát âm được khi trẻ
và cô đã có sự gần gũi cởi mở tôi dùng tiếng phổ thông để giao tiếp với trẻ. Có
nhiều câu từ tôi phải nói tiếng địa phương sau đó dịch ra tiếng phổ thông. Ví dụ:
Con Ngan tiếng Mường gọi là con Xiêm, rau trẻ thường phát âm râu, bông hoa
thì nói là bông hoa, cây thì bảo cân…. Cứ dần dần như vậy trẻ biết sử dụng tiếng
phổ thông một cách thông dụng. Ngoài việc dạy trẻ nói tiếng phổ thông ở
trường, lớp tôi còn thường xuyên trao đổi với phụ huynh khi ở nhà nên nói
chuyện với con em mình bằng tiếng phổ thông, để khi đến trường trẻ hoà nhập
giao lưu với bạn bè nhiều hơn. Ví dụ: Bố, mẹ có thể hỏi trẻ những con vật, đồ
vật trong gia đình mình…vv khi nói tiếng phổ thông thì nói như thế nào, hoặc
8
cho, mẹ đọc truyện thiếu nhi cho trẻ nghe trước khi đi ngủ. Cô cũng sưu tầm
một số loại truyện cho trẻ mượn về cho bố mẹ đọc, mai đến lớp lại trao đổi
truyện khác với bạn khác….vv.
Qua việc làm này tôi thấy các cháu có tiến bộ rất nhiều, khi đến lớp các
cháu ít sử dụng tiếng địa phương hơn, nói tiếng phổ thông lưu loát hơn và đặc
biệt các cháu hoà đồng với bạn bè nhiều hơn không còn nhút nhát rụt rè như
trước.
Ngoài ra tôi cho trẻ tiếp xúc với các đồ chơi, đồ dùng trong lớp chỉ vào các
hình ảnh để trẻ nói khi trẻ nói cô chú ý hướng dẫn trẻ nói bằng Tiếng Việt.
2.3.3. Biện pháp 3: Cung cấp vốn Tiếng Việt cho trẻ thông qua bộ môn
văn học.
Bộ môn văn học đối với trẻ mẫu giáo là một loại hình gần gũi với trẻ ở độ
tuổi mẫu giáo và đặc không thể thiếu được đối với trẻ. Nó có tầm quan trọng đối
với trẻ mầm non. Văn học luôn gắn bó với trẻ qua các câu chuyện, bài thơ, qua
các thể loại như thơ ca hò vè, là món ăn tinh thần cho trẻ nó cũng như dòng sưa
mẹ để nuôi dưỡng và phát triển tâm hồn trẻ truyền cho các con vẻ đẹp truyền
thống của cha ông. Cho trẻ làm quen tác phẩm văn học góp phần giáo dục phát
triển toàn diện nhân cách trẻ. Đặc biệt nó gần gũi với trẻ thơ, từ thời thơ ấu trẻ
đã biết sống chan hòa, trong không khí đầy tình yêu thương của người lớn qua
rời u ầu ơ ngọt ngào của bà của mẹ ....Từ đó là cánh cửa mở ra chân trời nhận
thức cho trẻ. Từ đó trẻ được hình thành kinh nghiệm sống.
Trẻ hiểu được một số hiện tượng quy luật tự nhiên, mối quan hệ bên ngoài
của sự vật hiện tượng, hiểu được các mối quann hệ xã hội, gia đình, thông qua
tác phẩm văn học trẻ thấy được các mối quan hệ đa dạng phức tạp.
Luôn tạo ra tình huống vui nhộn để lôi cuốn trẻ vào giờ học bằng một
giọng nói lúc trầm lúc bổng để gây sự chú ý, khơi gợi tính tò mò của trẻ, đã tạo
được tâm thế cho trẻ trước khi vào học tôi tiến hành đi vào giờ học chính bằng
ngôn ngữ giới thiệu hấp dẫn từ ngữ thật gần gũi, thật dễ hiểu đối với trẻ, giáo
viên đọc thơ hay kể chuyện với giọng thật truyền cảm, phối hợp các động tác
minh học phù hợp, để lôi cuốn trẻ chăm chú lắng nghe, để lĩnh hội từng câu,
từng lời của cô, tiếp đến tôi giảng nội dung câu chuyện, bài thơ một cách ngắn
gọn để giúp trẻ dễ hiểu, tôi tiến hành cho trẻ đọc thơ theo tôi từng câu, tôi luôn
đổi cách cho trẻ đọc thơ theo tổ, nhóm, lớp, cá nhân, hay bạn nam và bạn nữ thi
đua nhằm tạo khí thế cho trẻ tự nói chuyện tự hỏi nhau bằng Tiếng Việt.
Khi dạy thơ, kể chuyện, điều đầu tiên tôi chú ý đến đó là lựa chon nội dung
của câu chuyện và bài thơ phù hợp có nội dung gần gũi với tuổi thơ trẻ. Và đặc
biệt trẻ là người dân tộc nên khi tham gia vào hoạt động trẻ chưa hứng thú nếu
như nội dung xa lạ. Quá trình dạy bản thân đã nắm được tâm lý trẻ vì sự tập
trung chú ý của trẻ là rất ngắn nên bản thân luôn tạo ra tình huống vui vẻ thoải
mái lúc trầm lúc bổng tạo sự chú ý, khơi gợi tính tò mò của trẻ.
9
Ví dụ: Đối với môn kể chuyện thì cần kể vài lần và trò chuyện với trẻ về
nội dung câu chuyện khi thấy khả năng hiểu truyện và khả năng ngôn ngữ của
trẻ đã phát triển tốt, giáo viên khuyến khích trẻ kể lại chuyện.
Kể chuyện theo tranh: Sau khi trò chuyện với trẻ theo nội dung bức tranh
giáo viên cho trẻ tập kể theo nội dung tranh hoặc theo bộ tranh.
Kể về sự việc đã xảy ra: Trước hết giáo viên trò chuyện với trẻ theo sự kiện
đã xảy ra và trẻ chứng kiến giáo viên cho trẻ kể lại trình tự sự việc đã xảy ra
nhằm nhằm buộc trẻ tập trình bày suy nghĩ của bản thân bằng lời nói của mình.
Kể theo từng đoạn và kêt thúc chuyện: Giáo viên bắt đầu câu chuyện, sau
đó cho trẻ lần lượt kể tiếp theo câu chuyện cho đến hết.
Kể chuyện theo nhân vật cho trước: Giáo viên có thể đạt ra một vài nhân
vật sau đó trò chuyện với trẻ. Sau đó tập cho trẻ liên kết các nhân vật và tưởng
tượng sự kiện để kể thành câu chuyện.
Kể chuyện theo chủ đề: khi kết thúc chủ đề cô gợi ra các câu hỏi để trẻ kể
chuyện.
Kể chuyện sáng tạo là giáo viên cho trẻ kể hoàn toàn theo sự sáng tạo mà
trẻ thích.
Ví dụ : Khi cho trẻ làm quen câu chuyện “ Chú Dê đen” Tôi có thể dùng
hình thức giới thiệu tên chuyện qua hình ảnh của “Chú Dê đen” con vật này có
thể đối với trẻ dân tộc thiểu số không có gì là xa lạ trẻ có thể trả lời bằng tiếng
mẹ đẻ “ Con Tê dầm” khi nghe trẻ nói cô cần sửa sai lại cho trẻ và cho trẻ phát
âm lại nhiều lần qua hình ảnh “ Chú Dê đen”. Trong quá trình kể chuyện tôi có
thể kể lại nhiều lần và đặc biết là nhấn mạnh qua tính cách các nhân vật để trẻ
hiểu sâu hon về nội dung truyện, hỏi các câu hỏi đàm thoại về tên các nhân vật,
tính cách các nhân vật. Sau đó tôi cho trẻ kể chuyện theo cô chú ý sủa sai cho trẻ
và đạc biệt là đối với cháu là người dân tộc cô cần chú ý rèn Tiếng Việt cho trẻ.
Khi cung cấp từ mới từ khó phát âm tôi luôn chú ý cho trẻ phát âm nhiều lần
nếu cháu nào phát âm sai cô sửa sai luôn cho trẻ. Khi trẻ không nhớ được từ mới
thì cô đọc lại từ đó cho trẻ nghe, kết hợp với xem tranh minh hoạ, nếu trẻ không
hiểu tôi dịch bằng tiếng địa phương cho trẻ hiểu sau đó dạy từ mới cho trẻ.
Giờ kể chuyện để khắc sâu hơn về hình ảnh các nhân vật cô có thể cho trẻ
chơi trò chơi găn tên các nhân vật theo nội dung chuyện ở “Góc văn học kể
chuyện cùng bé yêu” . Đối với trẻ dân tộc đây là quá trình học bổ ích vì qua
hình ảnh sẽ khắc sâu được khả năng sử dụng Tiếng Việt qua hình ảnh.
Đây chính là biện pháp giúp trẻ dân tộc thiểu số học ngôn ngữ, nói tốt
Tiếng Việt và sử dụng tốt Tiếng Việt trong học tập cũng như cuộc sống. Bản
thân tôi thấy trước hết phải dạy trẻ những kỹ năng chú ý nghe và phát âm thông
qua môn văn học là hết sức cần thiết.
10
Hình ảnh trẻ chơi trò chơi gắn hình ảnh các nhân vật trong giờ kể chuyện
Quá trình cho trẻ làm quen tác phẩm văn học bản thân có thể nhận thấy rõ
về khả năng nói Tiếng Việt của trẻ và khả năng nói lưu loát của trẻ, không con
rụt rè tự tin hon trong học tập và giáo tiếp với cô giáo, bạn bè.
2.3.4. Biện pháp 4: Tăng cường Tiếng Việt cho trẻ thông qua hoạt động
chơi ngoài trời.
Tôi thường tổ chức cho trẻ tham gia các hoạt động chơi dạo chơi ngoài trời
thăm quan trong sân trường và các khu vực gần trường trong giò chơi ngoài trời.
Tôi cho trẻ ôn lại kiến thức đã học qua các hoạt động quan sát có mục đích, qua
trò chuyện, đọc thơ, kể chuyện, qua các trò chơi dân gian, cho trẻ đọc đồng dao,
ca dao ....Trong hoạt động này giúp trẻ dân tộc thiểu số phát âm thành thạo hơn,
lưu loát hơn. Tôi thường tổ chức cho trẻ đi dạo chơi thăm quan tìm hiểu về thế
giới xung quanh trẻ.
Ví dụ : Thăm quan, quan sát các loại cây, hoa, các con vật, thăm quan các
lễ hội địa phương như lẽ hội khai hạ truyền thống của làng...
Qua các buổi dạo chơi ngoài trời tôi luôn tạo tình huống đưa ra các câu hỏi
để trò chuyện với trẻ, Trong quá trình trò chuyện tôi luôn chú ý sửa sai cho
những trẻ dân tộc chưa nói chuẩn. Tôi hỏi trẻ các con đang quan sát gi? Trẻ trả
lời “ Con Kha con , con Cà tìn rạc hoặc con Cua cua ...” tôi có thể nói lại là con
Gà con , con Cá dưới nước. Tôi trò chuyện và sửa sai cho trẻ sau đó cho trẻ
nhắc lại câu trả lời chính xác.
Bằng sự quan tâm sát sao và sửa sai cho trẻ đúng lúc, kịp thơi khi trẻ còn
phát âm chưa chuẩn hay nói Tiếng Việt chưa đúng thì tôi thấy trẻ dân tộc lớp tôi
phụ trách giờ đã biết dùng từ để diễn đạt thành câu có nghĩa trong giao tiếp với
bạn và với cô thói quen giao tiếp bằng tiếng mẹ đẻ ở lớp đã không còn nữa.
11
Hình ảnh tổ chức cho trẻ chơi dạo chơi ngoài trời
2.3.5. Biện pháp 5: Tăng cường Tiếng Việt cho trẻ dân tộc thiểu số thông
qua chơi hoạt động góc.
Thông qua việc cho trẻ chơi ở hoạt động góc giúp cho trẻ cỏ thể làm một số
công việc hàng ngày trong cuộc sống, tái hiện lại trong trẻ sự việc xẩy ra và từ
đó trẻ được tắm mình vào môi trường Tiếng Việt sẽ có tác dụng tích cực, giúp
trẻ giao tiếp bằng Tiếng Việt. Vậy nên bản thân tôi luôn tạo mọi điều kiện xây
dựng các góc để trẻ được tham gia và có thể bố trí thêm cho lớp học có trẻ dân
tộc thiểu số thêm góc địa phương ở ngoài lớp học để nâng cao chất lượng dạy
học, rèn Tiếng Việt cho trẻ em người dân tộc thiểu số, Từ đó tăng cường khả
năng Tiếng Việt cho các trẻ.
Thông qua góc phân vai tôi cho trẻ đóng các vai khác nhau, trẻ được giao
lưu trao đổi mua bán và thể hiện hết vai chơi của mình, bên cạnh đó tôi luôn
theo sát trẻ để kịp thời sửa sai uốn nắn mỗi khi trẻ hỏi hoặc trả lời không có
trọng tâm hay trẻ dùng tiếng mẹ đẻ.
Với hoạt động góc cô cho trẻ tự nhiên giao lưu Tiếng Việt với nhau thông
qua các trò chơi kể chuyện đọc thơ, đóng vai, nói tên các đồ chơi đò dùng trên
các góc bằng cach một trẻ hỏi và một trẻ trả lời, đóng các vai như nấu ăn, bán
hàng.....Ở góc địa phương ngoài lớp học giáo viên có thể tổ chức như chợ quê ở
địa phương, nơi được trưng bày các sản phẩm ở địa phương và bán hàng. Cô có
thể tổ chức cho trẻ đóng vai người bán hàng, người mua hàng.
Ở đây tôi thường tập cho trẻ phân loại các mặt hàng ở địa phương như Ngô,
Khoai, Sắn....Tập cho trẻ nói Tiếng Việt. Vì các loại thực phẩm này trẻ chỉ được
nói tiếng mẹ đẻ nên khi tham gia chơi co cháu nói “ Cô ơi bán cho cháu Buồng
12
Khậu, Củ Lang......Lúc đó tôi trực tiếp sử lại để trẻ nói đúng Tiếng Việt. Tôi
cảm thấy những lần chơi sau trẻ nói khả hẳn và không còn sử dụng tiếng địa
phương nhiều.
Hình ảnh trẻ chơi ở hoạt động góc trong lớp
Hình ảnh trẻ Trẻ chơi ở môi trường ngoài lớp học
Việc rèn luyện kỹ năng nói đúng tiếng phổ thông cho trẻ trong các nhà
trường Mầm non là hết sức quan trọng và cần thiết. Ở trường Mầm non nhiều
công tác giáo dục được tổ chức đúng đắn, nghiêm túc và khoa học trẻ được giao
13
tiếp trong các hoạt động chơi ngoài trời như dạo chơi, thăm qua...qua các hoạt
động này giúp trẻ ngày càng phát triển hoàn hảo hơn, cách phát âm bằng Tiếng
Việt của trẻ ngày càng chính xác hơn.
2.3.6. Biện pháp 6:Tăng cường Tiếng Việt cho trẻ dân tộc qua vui chơi
lúc mọi nơi.
Bản thân tôi nhận thấy thông qua chơi trẻ được vận dung, củng cố mở rộng
kiến thức, kỹ năng, kinh nghiệm sẵn có của bản thân, đồng thời trẻ được làm
quen bài mới hoặc ôn luyện, nghe, hiểu lời nói, nghe nhắc lại các âm, các tiếng
và các câu, Sủ dụng lời nói để giáo tiếp theo cách tích hợp phù hợp hoạt động
này được diễn ra tại các khu vực, góc chơi , trong lớp theo nhóm nhỏ hoặc khu
vực vui chơi ngoài lớp học.
Trước hết tôi lên kế hoạch tổ chức các trò chơi cho trẻ, khi trẻ chơi trẻ được
hoạt động với đồ vật được giao tiếp, được giải quyết các tình huống và khi đó
ngôn ngữ được xuất hiện ở trẻ. Vì vậy phải chú ý gợi mở, trao đổi với trẻ để trẻ
được nói, được biểu lộ tình cảm, ý tưởng của mình. Từ đó khi trẻ phát âm sai cô
nhẹ nhàng gợi ý cho trẻ phát âm lại ( cô chú ý phải tạo ra không khí thoải mái,
không gây sự căng thẳng cho trẻ làm trẻ sợ và hiệu quả giáo dục không cao). Và
cô có thể nhập vai người chơi cùng trẻ tạo sự thoải mái gần gũi cho trẻ khi giao
tiếp qua các trò chơi.
Bản thân qua nghiên qua quá trình hướng dẫn dân tộc trẻ làm quen Tiếng
Việt nhận thấy rặng biện pháp hoạt động vui chơi mọi lúc mọi nơi là rất cần thiết
đối với trẻ dân tộc. Vì ở biện pháp này trẻ được trải nghiệm và được thể hiện
ngôn ngữ của mình bằng tiếng phổ thông khi trò chuyện giáo tiếp với cô giáo,
các bạn cùng lớp.
Vui chơi là hoạt động chủ đạo của trường mầm non.Trẻ mầm non học qua
trò chơi vì trò chơi luôn mang lại hứng thú cho trẻ nên việc tổ chức chơi trò chơi
để trẻ dân tộc học Tiếng Việt là rất cần thiết. Được tham gia vào các hoạt động
vui chơi trẻ rất thích.
Thông qua một số các trò chơi hàng ngày ở trường mầm non các trò chơi
nói tên các đồ vật, nói tên các bộ phận trên cơ thể, từ đó trẻ cũng hiểu về công
dụng, tác dụng của các bộ phận trên cơ thể hoặc là các đồ dùng, đồ chơi, hoặc
cho trẻ trải nghiệm bằng cách nếm, ngủi các loại hoa quả, lá cây để trẻ học từ
chỉ đặc điểm các vị (chua, chát, mặn, đắng).
Tích hợp các môn học dưới dạng trò chơi, thi ca, hò vè…hướng dẫn trẻ nói
Tiếng Việt trong hoạt động học, hoạt động vui chơi, chơi hoạt động góc, chơi
ngoài trời đưa nội dung rèn luyện kỹ năng nói đúng Tiếng Việt - tiếng phổ
thông cho trẻ được làm quen ở mọi lúc mọi nơi.
Cô có thể nâng cao lên cho một trẻ đố sau đó xem “ai trả lời nhanh nói
đúng”. Một trẻ được cô chỉ định lên gọi tên nói bất kỳ bộ phận nào trên cơ thể
và nói tên. Cô có thể đổi trò chơi ngược lại bằng cách một trẻ được chỉ định lên
chỉ vào bộ phận hoạc đồ chơi bất kỳ trong lớp, các bạn trong lớp phải quan sát
kỹ và gọi tên ai gọi tên không đúng sẽ bị phạt nhảy lò cò hoăc hát.....ngoài ra cô
14
có thể tổ chức cho trẻ chơi một số các trò chơi dân gian như: Trò chơi Con Kiến,
Mèo đuổi Chuột, Rồng Rắn lên mây, Nu Na Nu Nống........
Hình ảnh trẻ nói nói Tiếng Việt thông qua hoạt động vui chơi ở mọi lúc mọi nơi.
2.3.7. Biện pháp 7: Kết hợp với phụ huynh để tăng cường Tiếng Việt cho
trẻ dân tộc thiểu số.
Sự phối kết hợp chặt chẽ giữ nhà trường và phụ huynh trong việc chuẩn bị
Tiếng Việt cho trẻ sẽ giúp trẻ thường xuyên giao tiếp bằng Tiếng Việt và có thêm
cơ hội sử dụng Tiếng Việt.
Ngay từ buổi họp phụ huynh đầu năm tôi đã giải thích cho phụ huynh nhận
thấy được sự cần thiết của Tiếng Việt đối với trẻ trong quá trình học tâp và giao
tiếp của trẻ hằng ngày ...Hợp tác trong việc cung cấp Tiếng Việt cho trẻ thường
xuyên ở nhà như: Phụ huynh dùng Tiếng Việt để trao đổi với con em mình nhiều
hơn, kèm cặp con em nhiều hơn trong môn học, Trao đổi với phụ huynh về tầm
quan trọng của Tiếng Việt. Khi nới tốt Tiếng Việt nhất định con của phụ huynh
tiếp thu bài một cách dễ dàng, học giỏi hơn trong cấp học mầm non và nhất là
trong các cấp học sau này.Từ những lời nói ấy đã thúc đẩy phụ huynh quan tâm
đến con em mình hơn, chăm lo cung cấp vốn Tiếng Việt ở nhà cho trẻ nhiều hơn.
Cho nên trẻ đến trường mầm non hiện nay nói thạo, nói lưu loát ngôn ngữ Tiếng
Việt, biết dùng từ, câu để diễn đạt điều trẻ muốn nói, không còn trẻ nói câu
không rõ nghĩa, câu thiếu chủ ngữ, vị ngữ, trẻ mạnh dạn giao lưu cùng cô giáo,
cùng bạn bè và mọi người xung quanh.
Trong thực hiện chương trình chăm sóc giáo dục trẻ tôi luôn thông báo cho
phụ huynh biết được các chủ đề, chủ điểm, các bài học trẻ được học bằng cách
thông báo trên bảng và trao đổi với phụ huynh để cùng phối kết hợp với phụ
huynh hướng dẫn tìm hiểu thêm nội dung chủ điểm bằng Tiếng Việt với trẻ khi ở
gia đình.
15
Với cách này trẻ lớp tôi hiện nay đã nói thạo, nói lưu loát ngôn ngữ Tiếng
Việt, biết dùng từ, dùng câu để diễn đạt điều trẻ muốn nói, không còn trẻ nói câu
không rx nghĩa, câu thiếu chủ ngữ, vị ngữ, trẻ mạnh dạn giao lưu cùng cô, cùng
bạn.
Giáo viên kết hợp với phụ huynh để dạy Tiếng Việt cho trẻ dân tộc
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục,
với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường.
2.4.1. Đối với hoạt động giáo dục
Sau khi thực hiện đề tài:“Một số biện pháp tăng cường Tiếng Việt cho trẻ
dân tộc thiểu số 4-5 tuổi” đã đạt kết quả tốt cho đa số trẻ dân tộc thiểu số, trẻ sử
dụng tốt Tiếng Việt, phát âm lưu loát trong giao tiếp cũng như trong quá trình
học giao lưu chơi với các bạn.
2.4.2. Đối với trẻ
Sau một thời gian nghiên cứu và áp dụng thực hiện một số biện pháp tăng
cường Tiếng Việt cho trẻ dân tộc thiểu số. Nhìn vào thực tế ta thấy được khả
năng nghe hiểu, nói Tiếng Việt của trẻ dân tộc thiểu số lớp tôi hiện nay đã có
thay đổi rõ rệt trẻ không còn rụt rè ngại ngùng trong các hoạt động hằng ngày ở
lớp nữa, ngoài ra trẻ rất mạnh dạn tự tin giao tiếp với cô, với các bạn lúc ở nhà
cũng như lúc ở trường.
Qua một thời gian ngian nghiên cứu áp dụng vào thực hiện kết quả khào sát
cuối năm đã tăng lên rõ rệt. Trẻ dân tộc thiểu số lớp tội phụ trách hầu như đã sủ
dụng và giao lưu Tiếng Việt một cách lưu loát.
16
Kết quả khảo sát sau khi áp dụng sáng kiến
STT
Tiêu chí
Tổng
số
trẻ
kết quả khảo sát
1
Trẻ nói chưa chuẩn
Tiếng Việt
13
6 = 46,2% 6= 46,2% 1= 7,7%
2
Trẻ có thể nói và
nghe được các câu
bằng Tiếng Việt
13
5 = 38,5% 7= 53,8% 1= 7,7%
3
Trẻ biết sử dụng
Tiếng Việt trong giao
tiếp
13
7 =53,8% 5= 38,5% 1= 7,7%
Tốt
Khá
TB
Yếu
2.4.3. Đối với bạn bè đồng nghiệp
Tuy việc tăng cường Tiếng Việt cho trẻ dân tộc thiểu số là một vấn đề rất
khó. nhưng nếu giáo viên thực sự yêu thương gần gũi trẻ, luôn tạo tình cảm cho
trẻ giao lưu, trò chuyện với cô, nghe hiểu lời nói của cô, cuốn hút trẻ tham gia
vào các hoạt động phát triển ngôn ngữ thực sự thu hút trẻ như hoạt động học,
hoạt, chơi hoạt động góc, chơi ngoài trời, chơi ở mọi lúc mọi nơi..... Được thực
hiện thông qua các hoạt động giáo dục ở lớp và được tích hợp vào một số hoạt
động khác trong chương trình chăm sóc giáo dục chăm sóc trẻ.
Giáo viên trường tôi đã thực hiện khá tốt những nội dung này nên trẻ dân
tộc thiểu số trường Mầm non Cẩm Thành chúng tôi đã nói Tiếng Việt khá tốt,
khả năng giao tiếp lưu loát.
2.4.4. Đối với nhà trường
Nhà trường luôn tạo mọi điều kiện giúp đỡ để bản thân tôi thực hiện sáng
kiến và mang lại kết quả cao cho học sinh dân tộc của trường trong quá trình
tăng cường Tiếng Việt cho trẻ dân tộc nên kết quả tăng cường Tiếng Việt rất tốt,
khả năng giao tiếp giữ trẻ với cô, giữa trẻ với trẻ qua các hoạt động trong ngày
tăng lên rõ rệt so với kết quả đầu năm.
3. kết luận, kiến nghị
3.1.kết luận
Để đạt được kết quả cao trong việc cung cấp Tiếng Việt cho trẻ mẫu giáo 45 tuổi người dân tộc thiểu số phát âm tốt Tiếng Việt tại lớp mẫu giáo 4-5 tuổi
Muốt Trường mầm non Cẩm Thành – Cẩm Thủy tôi có một số kêt luận như sau:
Trước hết phải bám sát chuyên đề “ Hướng dẫn tăng cường Tiếng Việt cho
trẻ em người dân tộc thiểu số trong cơ sở giáo dục mầm non” của năm học
2017-2018. và bám sát chương trình chăm sóc giáo dục trẻ nầm non.
17
Xác định nội dung hướng dẫn sử dụng Tiếng Việt cho trẻ mầm mầm non là
người dân tộc thiểu số.
Nắm được đặc điểm tâm sinh lý của trẻ lớp mình phụ trách.
Là người giáo viên phải luôn luôn tự học hỏi, tự nghiên cứu, tham gia học
tập để nâng cao trình độ chuyên môn, đồng thời luôn bám sát thực tế và nhu cầu
đổi mới của ngành học, kịp thời cải tiến phương pháp giảng dạy phù hợp với
chương trình.
Giáo viên có trình độ chuyên môn vững vàng, có nhiếu sáng tạo khi truyền
đạt kiến thức cho trẻ
Chuẩn bị giáo án, đồ dùng đồ chơi chu đáo trước khi lên lớp, phải biết đổi
mới phương pháp giảng dạy thì kết quả mới cao.
Không ngừng nâng cao học hỏi bạn bè, đồng nghiệp qua sách báo, các lớp
chuyên đề.
Luôn là tấm gương sáng để trẻ noi theo ở mọi lúc, mọi nơi, từng cử chỉ,
hành vi lời nói, hành động...
Dạy trẻ mọi lúc mọi nơi trong các hoạt động để có kế hoạch bồi dưỡng cho
những trẻ yếu, tiếp thu chậm...
Nếu trẻ phát âm chưa chính xác, cô cần sửa sai cho trẻ lỗi phát âm, lỗi về
sử dụng từ ngữ, đối với những từ khó cô cho trẻ phát âm lại nhiều lần, và thường
xuyên luyện tập để trẻ không quên.
Nên chọn lựa những trò chơi phù hợp với khả năng của trẻ để lồng ghép
kiến thức cần cung cấp cho trẻ.
Luôn cố gắng tìm tòi sáng tạo các hình thức, phương pháp trong các hoạt động.
Luôn tạo ra được môi trường học tập một cách gần gũi thân thiện với trẻ.
Mở rộng sự giao lưu giữa các bé trong lớp để cho trẻ được học tập lẫn nhau
và trẻ cảm thấy gần gũi yên tâm hơn khi được ở bên cô và học cùng các bạn từ
đó sẽ giúp trẻ tự tin hơn trong quá trình giao tiếp.
Cho trẻ làm quen với Tiếng Việt trong tất cả các thời điểm hoạt động của
trẻ hàng ngày.
3.2. Kiến nghị
3.2.1. Đối với Ban Giám Hiệu.
Để thực hiện tốt hơn nữa việc chuẩn bị Tiếng Việt cho trẻ dân tộc thiểu số
vào học phổ thông. Là một giáo viên dục trực tiếp giảng dạy học sinh là người
dân tộc thiểu số. Bản thân tôi có một số kiến nghị đề xuất như sau:
Cần tạo điều kiện cho giáo viên thăm quan học tập ở các đơn vị bạn để trao
đổi kinh nghiệm, nâng cao năng lực công tác, kịp thời triển khai các chuyên đề
do phòng giáo dục tổ chức để giáo viên kịp thời nắm bắt và thực hiện chương
trình chăm sóc giáo dục trẻ đạt kết quả cao.
18
3.2.2. Đối với phòng giáo dục.
Mở thêm các lớp tập huấn chuyên đề về chuẩn bị Tiếng Việt cho trẻ vùng
dân tộc thiểu số.
Qua thực tế giảng dạy trẻ dân tộc việc giáo viên không phải là người dân
tộc không biết tiếng dân tộc gặp rất nhiều khó khăn trong công tác giảng dạy. Vì
vậy rất mong lãnh đạo cấp trên quan tâm tổ chức các lớp tập huấn về tăng cường
cường Tiếng Việt cho trẻ dân tộc, sắp xếp giáo viên là người địa phương, người
dân tộc về trường giảng dạy học sinh.
3.2.3. Đối với sở giáo dục.
Mở thêm các lớp tập huấn chuyên đề về chuẩn bị Tiếng Việt cho trẻ vùng
dân tộc thiểu số.
Cung cấp thêm các tài liệu làm nguồn phục vụ cho giáo viên trong công tác
dạy học sinh người dân tộc thiểu số.
Trên đây là một vài kinh nghiệm áp dụng trong lớp tôi là lớp dân tộc thiểu
số được thực hiện và đạt kết quả cao, những biện pháp trên tuy không có gì mới
lạ. Nhưng đối với trẻ dân tộc thiểu số thì vô cùng mới mẻ và có tác dụng. Tuy
nhiên sẽ không tránh khỏi những thiếu sót, rất mong được sự góp ý bổ sung của
hội đồng khoa học các cấp.
Cẩm Thành, ngày 20 tháng 03 năm 2018
XÁC NHẬN CỦA
THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ
Tôi xin cam đoan đây là sáng kiến kinh
nghiệm của mình viết, không sao chép của
người khác .
Người viết
Phạm Thị Thắng
Trương Thị Thơm
19
TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Tài liệu hướng dẫn tăng cường Tiếng Việt cho trẻ em người dân tộc thiểu
số của sở giáo dục đào tạo Thanh hóa năm học 2017-2018
- Phương pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ qua bộ môn văn học.
- Tâm lý học trẻ em
- Phương pháp tăng cường Tiếng Việt cho trẻ dưới 6 tuổi.
20
DANH MỤC
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN KINH
NGHIỆM NGÀNH GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HUYỆN, TỈNH VÀ CÁC
CẤP CAO HƠN XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN
Họ và tên tác giả: Trương Thị Thơm
Chức vụ và đơn vị công tác: Giáo viên trường mầm non Cẩm Thành
TT
1.
2.
Tên đề tài SKKN
Cấp đánh giá
xếp loại
(Ngành GD cấp
huyện/tỉnh; Tỉnh...)
Một số biện pháp phát triển
ngôn ngữ mạch lạc cho trẻ
dân tộc 3-4 tuổi thông qua tác
phẩm văn học
Hội đồng khoa
học phòng
GD&ĐT huyện
Cẩm Thủy
Một số biện pháp tăng cường
Tiếng Việt cho trẻ dân tộc
thiểu số 4-5 tuổi
Hội đồng khoa
học phòng
GD&ĐT huyện
Cẩm Thủy
Kết quả
đánh giá
xếp loại
(A, B, hoặc C)
B
A
Năm học
đánh giá
xếp loại
2016-2017
2017-2018
21
Ý KIẾN NHẬN XÉT VÀ XẾP LOẠI CỦA HĐKH
TRƯỜNG MẦM NON CẨM THÀNH
…………………………………………………………………………………..
…………………………………………………………………………………..
…………………………………………………………………………………..
…………………………………………………………………………………..
…………………………………………………………………………………..
…………………………………………………………………………………..
…………………………………………………………………………………..
…………………………………………………………………………………..
…………………………………………………………………………………..
…………………………………………………………………………………..
…………………………………………………………………………………..
…………………………………………………………………………………..
…………………………………………………………………………………..
…………………………………………………………………………………..
…………………………………………………………………………………..
…………………………………………………………………………………..
…………………………………………………………………………………..
…………………………………………………………………………………..
…………………………………………………………………………………..
…………………………………………………………………………………..
…………………………………………………………………………………..
…………………………………………………………………………………..
…………………………………………………………………………………..
…………………………………………………………………………………..
…………………………………………………………………………………..
…………………………………………………………………………………..
…………………………………………………………………………………..
…………………………………………………………………………………..
22
Ý KIẾN NHẬN XÉT VÀ XẾP LOẠI CỦA
PHÒNG GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO HUYỆN CẨM THỦY
…………………………………………………………………………………..
…………………………………………………………………………………..
…………………………………………………………………………………..
…………………………………………………………………………………..
…………………………………………………………………………………..
…………………………………………………………………………………..
…………………………………………………………………………………..
…………………………………………………………………………………..
…………………………………………………………………………………..
…………………………………………………………………………………..
…………………………………………………………………………………..
…………………………………………………………………………………..
…………………………………………………………………………………..
…………………………………………………………………………………..
…………………………………………………………………………………..
…………………………………………………………………………………..
…………………………………………………………………………………..
…………………………………………………………………………………..
…………………………………………………………………………………..
…………………………………………………………………………………..
…………………………………………………………………………………..
…………………………………………………………………………………..
…………………………………………………………………………………..
…………………………………………………………………………………..
…………………………………………………………………………………..
…………………………………………………………………………………..
…………………………………………………………………………………..
…………………………………………………………………………………..
23
Ý KIẾN NHẬN XÉT VÀ XẾP LOẠI CỦA
SỞ GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO
…………………………………………………………………………………..
…………………………………………………………………………………..
…………………………………………………………………………………..
…………………………………………………………………………………..
…………………………………………………………………………………..
…………………………………………………………………………………..
…………………………………………………………………………………..
…………………………………………………………………………………..
…………………………………………………………………………………..
…………………………………………………………………………………..
…………………………………………………………………………………..
…………………………………………………………………………………..
…………………………………………………………………………………..
…………………………………………………………………………………..
…………………………………………………………………………………..
…………………………………………………………………………………..
…………………………………………………………………………………..
…………………………………………………………………………………..
…………………………………………………………………………………..
…………………………………………………………………………………..
…………………………………………………………………………………..
…………………………………………………………………………………..
…………………………………………………………………………………..
…………………………………………………………………………………..
…………………………………………………………………………………..
…………………………………………………………………………………..
…………………………………………………………………………………..
…………………………………………………………………………………..
24