I. Phần mở đầu
1. Lý do chọn đề tài
Từ xưa ông cha ta đã có câu ‘‘Trẻ lên ba cả nhà học nói ’’, vì vậy học nói là vấn
đề vô cùng quan trọng đối với trẻ nhỏ nói chung và các cháu là dân tộc thiểu số nói
riêng. Ở trường tôi các cháu là dân tộc thiểu số chiếm 42,5%, tổng số học sinh toàn
trường. Lớp tôi đang trực tiếp giảng dạy 100% các cháu đều là dân tộc thiểu số nên
bản thân tôi là giáo viên đứng lớp, luôn mong muốn các cháu được tiếp cận với tiếng
Việt một cách nhanh nhất, hiệu quả nhất trong công tác giảng dạy tiếng Việt cho trẻ,
để từ đó các cháu có một nền tảng ngôn ngữ vững vàng cho hành trang tiếp theo của
các cấp học.
Nhiệm vụ của giáo dục mầm non là khâu đầu tiên của hệ thống giáo dục Quốc
dân. Giáo viên Mầm non được xem là người thầy đầu tiên đặt nền móng cho việc đào
tạo nhân cách con người. Ở độ tuổi mầm non, trẻ mới bắt đầu trong quá trình học nói,
vì vậy mà cung cấp vốn tiếng Việt cho trẻ, đặc biệt trẻ dân tộc thiểu số là vô cùng
quan trọng. Bởi vì các cháu thường dùng tiếng mẹ đẻ hàng ngày do tiếp xúc những
người thân trong gia đình nên gặp khó khăn trong việc tiếp thu tiếng Việt, dẫn đến
cháu khó tiếp thu lời giảng của cô bằng ngôn ngữ tiếng Việt. Chính vì vậy việc cung
cấp vốn tiếng Việt cho trẻ Dân tộc thiểu số là vấn đề cần được quan tâm, nhằm hình
thành và phát triển những kỹ năng nghe, hiểu, và giao tiếp bằng tiếng Việt cho trẻ ở
các bậc học tiếp theo và trong cuộc sống hàng ngày.
Vì thực tế trong cuộc sống, chúng ta sử dụng lời nói để trò chuyện, đàm thoại,
thảo luận, trình bày những hiểu biết, suy nghĩ, giải thích một vấn đề nào đó trong cuộc
sống như: Kể lại được sự việc, câu chuyện đã được nghe, được chứng kiến, hay tự
mình nghĩ ra, sáng tạo ra. Trẻ cần tập nghe, hiểu lời nói của cô của những người xung
quanh. Sau đó tập trình bày suy nghĩ và sự hiểu biết của mình theo ngôn ngữ tiếng
Việt. Để trẻ hiểu và nói được tiếng Việt một cách thành thạo là cả một quá trình học
tập và rèn luyện cho cả cô và trẻ ở bậc học Mầm non, nhằm phát triển ở trẻ các kỹ
năng, hiểu, nói, trò chuyện, đàm thoại, kể chuyện, một cách thành thạo nhất. Chính vì
Trang 1
vậy, việc dạy làm quen tăng cường tiếng Việt và các bộ môn khác như làm quen chữ
cái hay làm quen Văn học là vô cùng quan trọng đối với các cháu là dân tộc thiểu số.
Bản thân tôi là một giáo viên của trường Mầm non Ea Na, dạy tại phân hiệu
buôn Tơ Lơ, xã Ea Na, nên 100% lớp là các em dân tộc Êđê. Hầu hết các em đến
trường đều nói bằng tiếng mẹ đẻ, khả năng nghe và hiểu tiếng Việt của trẻ rất hạn chế,
bên cạnh đó bố mẹ trẻ lại ít quan tâm đến việc động viên trẻ đến lớp, còn trẻ chưa có ý
thức về vấn đề nề nếp trong lớp học. Là giáo viên chủ nhiệm lớp, tôi trăn trở và xây
dựng kế hoạch từ đầu năm học.
Đối với trẻ dân tộc thiểu số chịu rất nhiều thiệt thòi do điều kiện tiếp xúc với
môi trường xung quanh, xã hội còn ít. Và tầm nhìn của trẻ còn hạn chế, ngôn ngữ phổ
thông đối với trẻ cũng thật xa lạ nên việc học đến với trẻ cũng thật ngỡ ngàng. Bởi
vậy, trẻ không hiểu hết ngôn ngữ tiếng Việt của cô.
Với tình hình thực tế của trẻ dân tộc thiểu số như vậy, bản thân tôi luôn trăn trở,
suy nghĩ nhiều lúc thấy vô cùng lo lắng, không biết làm gì và làm như thế nào, bằng
phương pháp gì để giúp trẻ hiểu và nói được tiếng Việt một cách trôi chảy, chính vì điều
băn khoăn trăn trở ấy tôi đã tìm tòi nghiên cứu “Một số biện pháp tăng cường tiếng Việt
cho trẻ dân tộc thiểu số độ tuổi 5- 6 tuổi tại lớp lá 4 trường Mầm non Ea Na ”.
Nhằm giúp trẻ dân tộc thiểu số học tiếng Việt một cách nhẹ nhàng nhưng hiểu
được tiếng Việt một cách sâu sắc hơn từ đó trẻ tự tin giao tiếp với nhau trong cuộc
sống và hứng thú học tập, tham gia vào các hoạt động trong trường Mầm non đạt kết
quả tốt hơn.
2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài
* Mục tiêu của đề tài
Tăng cường tiếng Việt cho trẻ dân tộc thiểu số là một việc làm hết sức cần thiết,
tưởng chừng như rất dễ nhưng thực tế lại rất khó, đòi hỏi cả một quá trình, phải có sự
kiên trì của cả giáo viên và trẻ. Dạy trẻ làm quen với tiếng Việt là dạy cái gì, dạy như
thế nào? Trẻ làm quen với tiếng Việt với tư cách là bộ môn Khoa học hay với tư cách
là một công cụ, một phương tiện giao tiếp. Cách trả lời những câu hỏi trên sẽ liên
Trang 2
quan tới việc lựa chọn nội dung, phương pháp cho trẻ dân tộc thiểu số tiếp cận, làm
quen dần với Tiếng việt. Từ đó tôi mạnh dạn đưa ra “Một số biện pháp tăng cường
tiếng Việt cho trẻ dân tộc thiểu số độ tuổi 5- 6 tuổi tại lớp lá 4 trường Mầm non Ea Na ”.
nhằm giúp trẻ nắm những kiến thức cơ bản của bậc học Mầm non như sau: Đưa ra một
số kinh nghiệm trong việc vận dụng phương pháp và các hình thức tổ chức tăng
cường tiếng Việt cho. Nhằm tạo điều kiện giúp trẻ nghe và hiểu được lời hướng dẫn
các hoạt động của giáo viên, thông qua việc tăng cường tiếng Việt cho trẻ dân tộc
thiểu số.
Người giáo viên tổ chức các hoạt động trong lớp đạt kết quả như: Trò chuyện với
trẻ bằng tiếng Việt, trẻ nghe, hiểu, giao tiếp với nhau bằng tiếng Việt và thể hiện các
hành động tương ứng với lời nói, giúp trẻ dần thích ứng với ngôn ngữ thứ hai.
* Nhiệm vụ của đề tài
Là đưa ra một số biện pháp tăng cường tiếng Việt cho trẻ mầm non nói chung và
trẻ dân tộc thiểu số ở trường Mầm non Ea Na, phân hiệu Buôn Tơ Lơ nói riêng.
Bản thân cần nắm được tâm lý và nguyện vọng của trẻ để từ đó xây dựng các
phương pháp, hình thức, biện pháp tăng cường tiếng Việt cho trẻ dân tộc thiểu số ngay
ở độ tuổi 5- 6 tuổi.
3. Đối tượng nghiên cứu
Một số biện pháp tăng cường tiếng Việt cho trẻ 5- 6 tuổi.
4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu
“Một số biện pháp tăng cường tiếng Việt cho trẻ dân tộc thiểu số độ tuổi 5- 6
tuổi tại lớp Lá 4 trường Mầm non Ea Na ”
Thời gian nghiên cứu từ tháng 9 năm 2016 đến tháng 2 năm 2017.
5. Phương pháp nghiên cứu
a. Phương pháp nghiên cứu lý luận
Sáng kiến này được tôi thực hiện với những phương pháp sau:
- Phương pháp phân tích tổng hợp tài liệu: Phương pháp này giúp cho sự định
hướng của sáng kiến.
Trang 3
- Phương pháp khái quát hoá các nhận định độc lập: Tôi kiểm tra tiếng Việt của
trẻ trong một năm học 2016- 2017.
b. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
Đây là phương pháp chính, để kiểm nghiệm những phương pháp và biện pháp
nêu ra có liên quan đến sáng kiến kinh nghiệm. Sáng kiến này được thực hiện trên
điều kiện thực tế của trường mầm non Ea Na tại lớp Lá 4 phân hiệu buôn Tơ Lơ năm
học 2016- 2017.
Phương pháp tổng kết kinh nghiệm giáo dục.
Phương pháp khảo nghiệm thử nghiệm.
Phương pháp lấy ý kiến chuyên gia.
c. Phương pháp thống kê toán học
Phương pháp này nhằm giúp cho quá trình nghiên cứu thống kê tỷ lệ % ở các
mục tiêu về kết quả đạt được và chưa đạt được ở trẻ.
II. Phần nội dung
1. Cơ sở lý luận
Tiếng Việt rất quan trọng đối với mọi người dân Việt Nam nói chung, đặc biệt
đối với trẻ dân tộc thiểu số nói riêng. Song, trong thực tế hiện nay đa số trẻ vùng sâu,
vùng xa vùng dân tộc thiểu số, trước khi đến trường chỉ sống trong gia đình, ở các
thôn buôn nhỏ, trong môi trường tiếng mẹ đẻ. Do vậy, trẻ chỉ nắm được tiếng mẹ đẻ ở
dạng khẩu ngữ.
Trẻ biết rất ít hoặc thậm trí không biết tiếng Việt. Trong khi đó tiếng Việt là
ngôn ngữ chính thức dùng trong trường và cơ sở giáo dục khác. Trên thực tế tiếng nói
các dân tộc thiểu số, hầu như chưa có vai trò rõ rệt trong việc hỗ trợ tiếng Việt trong
giáo dục. Vì vậy, cho đến nay nhìn chung việc dạy - học tiếng Việt cũng như việc dạy
học bằng tiếng Việt ở các vùng dân tộc thiểu số chỉ đạt kết quả thấp. Đặc biệt ở trường
Mầm non Ea Na phân hiệu Buôn Tơ Lơ chúng tôi đa số các cháu dân tộc Êđê nghe và
nói tiếng Việt rất hạn chế mặc dù cô giáo có kèm cặp nhiệt tình đến mức nào chăng
nữa thì trẻ vẫn nói bằng hai thứ tiếng, mà chủ yếu là tiếng mẹ đẻ, nhất là trong các giờ
Trang 4
chơi như chơi ở các góc, hay các giờ chơi tự do. Sở dĩ như vậy là do tiếng Việt không
phải là một phương tiện sử dụng dễ dàng đối với học sinh dân tộc thiểu số. Ở đây học
sinh chỉ dùng tiếng Việt nói với giáo viên khi cần thiết, còn ngoài ra trẻ vẫn thường
xuyên sử dụng ngôn ngữ riêng của dân tộc mình để nói chuyện với nhau. Chính vì
vậy, dẫn đến chất lượng chăm sóc giáo dục trẻ không thể đạt được kết quả như mong
muốn. Vì vậy là giáo viên trực tiếp giảng dạy lớp Lá 4 phân hiệu buôn Tơ Lơ trường
Mầm non Ea Na với 100% các cháu là dân tộc Êđê. Tôi nhận thấy cần có những biện
pháp bổ xung, tăng cường tiếng Việt cho trẻ ngay từ độ tuổi Mầm non 5- 6 tuổi. Với
khẩu ngữ “Học ăn, học nói, học gói, học mở ”.
Là giáo viên chủ nhiệm trực tiếp giảng dạy các cháu, tôi đã tích cực tham mưu
với Nhà trường kịp thời, có hiệu quả, tập trung chỉ đạo sâu sát phân hiệu, kịp thời tháo
gỡ vướng mắc, giải quyết khó khăn, đảm bảo kết quả dù rất nhỏ nhưng nhìn thấy rõ,
đo kiểm minh bạch, khách quan để cha mẹ học sinh và cộng đồng tin tưởng, đồng
thuận ủng hộ.
Nhà trường cần tranh thủ sự hỗ trợ về mọi mặt của nhiều tổ chức, trong quá trình
triển khai tổ chức thực hiện tăng cường tiếng Việt cho trẻ, đó là nhiệm vụ quan trọng
của ngành giáo dục nói chung, và trường Mầm non nói riêng.
Từ đó sẽ đáp ứng việc nâng cao được chất lượng giáo dục cho trẻ em vùng sâu,
vùng sa, vùng dân tộc thiểu số.
Dạy tiếng Việt cho trẻ nói chung, dạy tiếng Việt cho trẻ dân tộc nói riêng đều bắt
đầu bằng việc dạy và phát triển vốn từ cho trẻ. Trước hết, dạy trẻ tập nói các từ gần
gũi, sau đó các câu nói đơn giản, rồi mới đến câu phức tạp. Tùy theo khả năng của trẻ,
cô giáo dạy trẻ ở các mức độ khác nhau. Khi trẻ mới bắt đầu học tiếng Việt, cô giáo
dạy một vài từ trong một ngày. Khi trẻ đã có một số vốn từ nhất định, mức độ tiếp thu
ngôn ngữ của trẻ nhanh hơn thì cô giáo có thể dạy trẻ số từ nhiều hơn. Các từ được ôn
luyện thường xuyên trong các hoạt động khác nhau, ngữ cảnh, ngôn ngữ khác nhau,
trẻ mẫu giáo 5- 6 tuổi có khả năng học thông thạo được từ 600 đến 800 từ tiếng Việt
trong một năm.
Trang 5
Việc tăng cường tiếng Việt cho trẻ dân tộc thiểu số, tuỳ theo điều kiện khả năng
của từng lớp, từng trẻ để đưa ra các biện pháp tích cực như: Dạy tiếng Việt thông qua
chữ cái, kể chuyện, đọc thơ và các hoạt động khác… Việc lặp lại các từ chính là để trẻ
nghe và ghi nhớ các câu, từ trong từng nội dung bức tranh. Ví dụ: Cô mời bạn Y’
Nêpan đi tìm bức tranh có hình ảnh (người mẹ bế em bé )... Để trẻ làm quen với từ
“Mẹ bế em bé”.
2. Thực trạng
Năm học 2016- 2017 toàn trường có 404 học sinh trong đó có 172 học sinh dân
tộc thiểu số chiếm 42,5%. Với phần trăm học sinh dân tộc thiểu số chiếm tỷ lệ cao
như vậy, nên lãnh đạo nhà trường đã gặp không ít khó khăn trong công tác triển khai
và lên kế hoạch giảng dạy cho các lớp đặc biệt việc phân công giáo viên về đúng lớp
tại các lớp có 100% học sinh là dân tộc thiểu số.
* Về ưu điểm
Được sự quan tâm, chỉ đạo của lãnh đạo Phòng GD& ĐT huyện Krông Ana, sự
quan tâm chính quyền địa phương và lãnh đạo Nhà trường Mầm non Ea Na, nên phân
hiệu buôn Tơ Lơ đã có cơ sở vật chất kiên cố, phòng học thoáng mát sạch sẽ, sân chơi
rộng rãi, nhà trường đã đầu tư một số trang thiết bị trong công tác dạy và học. Bên
cạnh đó, giáo viên yêu nghề mến trẻ, tận tụy với học sinh, hết lòng hết sức nuôi dạy
trẻ.
Đặc biệt là có sự cần cù chịu khó và tinh thần đoàn kết, giáo viên và sự phối kết
hợp giúp đỡ từ phía Hội cha mẹ học sinh. Đã tạo cho trường Mầm non Ea Na yên tâm
về mặt tinh thần và ổn định về cơ sở vật chất.
Gây hứng thú cho trẻ hoạt động, có môi trường xanh- sạch- đẹp, tạo được môi
trường đảm bảo các hoạt động trong lớp, giúp trẻ có đủ điều kiện để phát triển tiếng
Việt.
Bên cạnh những ưu điểm trên vẫn còn một số tồn tại như sau:
Lớp lá 4 phân hiệu Buôn Tơ Lơ thuộc trường Mầm non Ea Na là vùng sâu,
vùng xa và đặc biệt khó khăn của xa Ea Na. Một số trẻ chưa học qua lớp mầm, chồi,
Trang 6
đã học thẳng lên lớp lá như cháu Y- Hur Ayun, Y – Thum Niê, Y- Quy Bkrông chính
vì vậy việc nghe và hiểu tiếng Việt của trẻ là rất khó khăn.
Dân cư sống không tập chung, 100% là đồng bào dân tộc Êđê, việc bất đồng
ngôn ngữ giữa cô và trẻ, do vậy làm ảnh hưởng đến việc chăm sóc giáo dục trẻ. Địa
hình phức tạp việc đi đến lớp học của trẻ mầm non còn gặp nhiều khó khăn.
Mặt bằng kinh tế của người dân còn thấp, chủ yếu làm ruộng, làm rẫy, một số
phụ huynh chưa nhận thức được rõ về tầm quan trọng của việc dạy tiếng Việt cho con
em mình nó có tác dụng cần thiết như thế nào đối với việc nhận thức và hình thành
nhân cách của trẻ.
Mặt khác, một số phụ huynh không biết chữ, không được học qua trường lớp
nào nên khả năng nhận thức của phụ huynh rất hạn chế dẫn đến không quan tâm đến
việc học của con em mình. Phụ huynh không kết hợp với giáo viên để chăm lo việc
học cho con em mình đạt kết quả tốt hơn
Chính từ những khó khăn đó vào đầu năm học khi tôi chưa áp dụng sáng kiến
kinh nghiệm trong công tác dạy học ở lớp Lá 4, chưa có kế hoạch đưa các biện pháp
dạy tiếng Việt cho trẻ dân tộc thiểu số thì chúng ta thấy kết quả thông qua các lĩnh
vực thể hiện qua bảng kiểm tra đầu vào như sau:
Lĩnh vực GD trẻ
Trẻ không hiểu
Trẻ hiểu
Trẻ rất hiểu
Phát triển ngôn ngữ
18/27 = 66,6%
6/27 = 22,2%
3/27 = 11,1%
Phát triển nhận thức
16/27 = 59,2%
8/27 = 29,6%
3/27 = 11,1%
Phát triển TC-XH
16/27 = 59,2%
7/27 = 25,9%
4/27 = 14,8%
Phát triển thể chất
13/27 = 48,1%
9/27 = 33,3%
5/27 = 18,5%
Phát triển thẩm mỹ
14/27 = 51,8%
10/27 = 37,0%
3/27 = 11,1%
Trang 7
Nguyên nhân chủ quan dẫn đến kết quả trên: Do đầu năm cô vẫn chưa có
phương hướng về công tác dạy trẻ làm quen tiếng Việt cho trẻ.
Nguyên nhân khách quan: Do môi trường sống tạo ra, trẻ sống trong gia đình,
thôn buôn 100% người dân dùng tiếng mẹ đẻ.
Từ những ưu điểm, khuyết điểm, và nguyên nhân trên đã thôi thúc tôi cần có
“Một số biện pháp tăng cường tiếng Việt cho trẻ dân tộc thiểu số độ tuổi 5- 6 tuổi tại
lớp Lá 4 trường Mầm non Ea Na”.
3. Nội dung và hình thức của giải pháp
a. Mục tiêu của giải pháp
- Hiểu được ngôn ngữ phổ thông.
- Biết lắng nghe và phát âm đúng tiếng Việt.
- Trẻ mạnh dạn tự tin giao tiếp với nhau bằng ngôn ngữ tiếng Việt
b. Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp
Biện pháp 1: Xây dựng kế hoạch, lựa chọn hình thức tổ chức hoạt động cho trẻ
làm quen tăng cường tiếng Việt.
Khi lên kế hoạch dạy trẻ làm quen tăng cường tiếng Việt, trước hết tôi bám sát
kế hoạch hoạt động của Nhà trường, trên cơ sở đó tôi xây dựng kế hoạch phù hợp với
tình hình của lớp, lựa chọn nội dung cho trẻ làm quen tăng cường tiếng Việt, nhẹ
nhang, đi từ dễ đến khó phù hợp với khả năng nhận thức của trẻ.
Trước tiên để xây dựng được một kế hoạch tôi dựa trên kế hoạch giáo dục trẻ
mầm non, bộ chuẩn phát triển trẻ 5- 6 tuổi, sau đó nhìn vào tình hình thực tế của nhà
trường, của lớp để lựa chọn nội dung phù hợp với trình độ nhận thức của trẻ mình.
Khi lựa chọn giải pháp này, tôi phải theo dõi sự phát triển của từng trẻ trong tiết học,
ở mọi lúc mọi nơi, để điều chỉnh các yêu cầu về hình thức luyện tập. Hệ thống câu
hỏi, đàm thoại từng trẻ giúp trẻ không khó khăn trong việc lĩnh hội kiến thức.
Xây dựng các góc hoạt động khác nhau trong lớp, có gắn các từ tiếng Việt nhằm
tạo điều kiện cho trẻ hoạt động cá nhân, theo nhóm nhỏ được nhiều hơn, hình thức
hoạt động phong phú, đa dạng hơn. Để trẻ học tiếng Việt thực sự có hiệu quả, giúp trẻ
Trang 8
tự khám phá và phát triển ngôn ngữ giao tiếp.
Ví dụ: Kế hoạch tổ chức cho trẻ làm quen tăng cường tiêng Việt cho trẻ 5- 6 tuổi.
Chủ đề: Trường Mầm non (3 tuần ), tôi chọn các đề tài như sau: Thơ “Bàn tay
cô giáo ”. Làm quen chữ cái o- ô- ơ. Sau khi chọn các đề tài phù hợp với chủ đề thì
đưa ra yêu cầu với trẻ, với bài thơ “Bàn tay cô giáo ” tôi dựa vào các CS65, CS79,
CS112. để đưa ra mục đích yêu cầu với trẻ lớp mình như sau.
Cô cho trẻ làm quen tăng cường tiếng Việt thông qua tiết dạy thơ bằng cách cho
trẻ đọc và phát âm chuẩn từng câu, từng từ trong bài thơ, cô cho trẻ đọc theo lớp, tổ,
cá nhân, cô nhấn mạnh những từ khó hiểu và lồng ghép giải thích cho trẻ hiểu ý nghĩa
của từ đó, như vậy sẽ giúp trẻ hiểu nhiều hơn ngôn ngữ tiếng Việt, từ đó giúp trẻ định
hướng và hình dung được ý nghĩa của từ.
Cần xây dựng các hoạt động học tiếng Việt phù hợp với mục tiêu và yêu cầu
giáo dục theo chủ đề.
Ngoài ra khi lên kế hoạch tôi bám sát vào từng tháng, từng mùa, từng sự kiện,
hoạt động diễn ra tại địa phương để lựa chọn đề tài cho phù hợp với các ngày lễ hội
các sự kiện đang diễn ra (Ví dụ chủ đề: Tết và mùa xuân) phải đưa vào học kỳ II, có
năm vào tháng một, có năm vào tháng hai nên phải lựa chọn thời gian diễn ra lễ hội đó
để trẻ hòa vào không khí phấn khởi, sây mê tìm hiểu và hứng thú với các hoạt động
học, từ đó trẻ lĩnh hội các kiến thức một cách nhẹ nhàng không bị gò bó hay gượng
ép, như vậy khả năng tiếp thu bài sẽ nhanh hơn.
Biện pháp 2: Tổ chức các tiết học làm quen tăng cường tiếng Việt nhẹ nhàng lôi
cuốn trẻ.
Giáo viên truyền thụ những kiến thức tăng cường tiếng Việt thông qua các tiết
học. Ví dụ cô cho trẻ làm quen với câu “Khai giảng năm học mới ” của chủ đề trường
Mầm non. Trước tiên, cô xếp trẻ ngồi sao cho hợp lí với quy trình của phòng học, sau
đó cô đưa tranh Ngày Khai giảng năm học mới, trẻ quan sát và cô gợi hỏi: Tranh gì?
Từ những câu hỏi gợi mở, cô nhẹ nhàng dẫn dắt trẻ vào hoạt động. Cô cho quan sát từ
“Khai giảng năm học mới ”, cô phát âm câu “Khai giảng năm học mới ”, sau đó cả
Trang 9
lớp phát âm lại, sau đó đến tổ rồi cá nhân phát âm lại càng nhiều càng tốt. Bên cạnh
đó, cô tổ chức một vài trò chơi nhỏ để tiết học không nhàm chán nhưng phải chú ý
sửa sai cho trẻ.
Mặt khác để góp phần đưa các biện pháp dạy tiếng Việt cho trẻ mầm non, giáo
viên trực tiếp giảng dạy các cháu, tôi đã tổ chức họp tuyên truyền phụ huynh tích cực
hợp tác với giáo viên, cùng thống nhất dạy tiếng Việt cho trẻ mọi lúc mọi nơi. Đặc
biệt khi trẻ ở nhà các thành viên trong gia đình cần dùng tiếng Việt giao lưu với trẻ
thường xuyên. Giáo viên cần phải có trách nhiệm gần gũi trò chuyện với trẻ kết hợp
với cử chỉ, hành động để trẻ dần được làm quen với tiếng Việt một cách tự nhiên
không gò bó.
Ví dụ: Thông qua biện pháp trực quan hành động giúp cho người học tiếp thu có
hiệu quả và học ngôn ngữ mới một cách tự nhiên hứng thú. Mục đích của phương
pháp này nhằm giúp cho người học đạt được các mục đích như: hiểu và sử dụng ngôn
ngữ mới trong giao tiếp, hình thành và rèn luyện kỹ năng nghe, nói một ngôn ngữ
mới. Không cho trẻ nói khi chưa thực hiện thành thạo được các hành động, để có thể
tập trung lắng nghe chuẩn xác. Khi đã nghe rõ, hiểu, thuộc và tự tin làm đúng, trẻ sẽ
tự muốn nói và có thể tự thực hành với bạn của mình, giáo viên cần cho trẻ đều được
thực hành ở mỗi lần học. Chỉ sử dụng ngôn ngữ đơn giản, ngắn gọn, không dẫn dắt,
giảng giải nhiều vì trẻ chưa hiểu tiếng việt.
Khi dạy trẻ, giáo viên cần xác định trước những loại từ, câu nào sẽ sử dụng khi
hướng dẫn trẻ. Nên sử dụng các điệu bộ cử chỉ để ra hiệu cho trẻ hiểu ý đồ của mình,
thay cho việc nói nhiều của người dạy. Lúc đầu dạy từ 1- 2 từ dễ hiểu kết hợp với
hành động như: Đứng lên, ngồi xuống... đến ngày hôm sau cô giáo cần cho trẻ ôn lại
những gì được học ngày hôm trước, để khắc sâu sự ghi nhớ bằng hình thức chơi mà
không cần phải giữ nguyên thứ tự từ các bước ngày hôm trước dạy nữa ví dụ: Đứng
lên- ngồi xuống, ngồi xuống- đứng lên, rửa tay- rửa chân… Dạy tiếng Việt với biện
pháp trực quan hành động với đồ vật, biện pháp này dạy trẻ các từ mới như: Cái bàn,
cái ghế, quyển vở…
Trang 10
Ngoài ra, tôi còn sử dụng các biện pháp dạy trẻ học tiếng Việt qua kể chuyện,
đóng vai, đối với mỗi câu chuyện, làm các đồ chơi minh hoạ, đơn giản tượng trương
cho các nhân vật chính, sử dụng các nhân vật có sẵn để làm đồ dùng minh hoạ. Hoặc
trẻ học tiếng Việt thông qua việc dạy trẻ nhận biết và phát âm đúng 29 chữ cái tiếng
việt. Nội dung chủ yếu của việc dạy này là giúp trẻ nhận biết và phát âm đúng chữ cái.
Chúng ta có thể coi việc giúp trẻ làm quen với chữ cái là cốt lõi của việc làm quen với
tiếng Việt có nghĩa là việc cho trẻ làm quen với chữ cái chưa phải là tất cả những nội
dung công việc giúp trẻ làm quen với tiếng Việt. Cách gọi làm quen với tiếng Việt
thường gợi ra một phạm vi nội dung rộng rãi hơn so với cách gọi làm quen với chữ
cái. Do đó có thể thấy nội dung dạy trẻ làm quen với tiếng Việt không chỉ là dạy trẻ
phát âm, dạy trẻ tập tô 29 chữ cái mà còn dạy trẻ đọc đúng các chữ cái, các từ trong
tranh, hiểu được nội dung của từ và biết dùng từ để diễn đạt thành câu, muốn được
như vậy trước hết ta phải giúp trẻ nhận biết và phát âm đúng 29 chữ cái trong tiếng
Việt.
Có một số ít trẻ nói được tiếng Việt nhưng chưa biết các chữ cái hay từ ngữ của
tiếng Việt. Vì vậy việc dạy trẻ làm quen với chữ cái giúp trẻ nhận biết chính xác cấu
tạo của chữ cái, cách phát âm để từ đó trẻ nghe cô phát âm để tìm được chữ cái tương
ứng, nhìn chữ cái phát âm được chữ cái.
Ví dụ: Hôm nay cô cho trẻ nhận biết chữ s –x chẳng hạn:
Cô cho trẻ xem tranh " Hoa Sen xanh " cho trẻ đọc từ: Hoa sen xanh
Trẻ nhận biết trong từ Hoa sen xanh có bao nhiêu tiếng ? Có mấy chữ cái ?
Rồi cô ghép thẻ chữ rời cho cháu nhận biết dấu thanh tìm chữ đã học rồi phát âm
lại những chữ đó. Còn lại cô giới thiệu cho trẻ làm quen s- x, tôi phân tích các nét cơ
bản cấu tạo nên chữ cái s- x, cho trẻ phát âm chữ s- x nhiều lần giúp trẻ khắc sâu cấu
tạo của chữ cái và trẻ nhận biết một cách chính xác từng chữ cái.
Cung cấp vốn tiếng Việt cho trẻ thông qua việc làm quen với chữ cái:
Sau khi giúp trẻ làm quen và nắm được 29 chữ cái trong tiếng Việt tôi tiến hành
cho trẻ tham gia các trò chơi với chữ cái, cho trẻ tập tô chữ cái giúp trẻ dần dần nắm
Trang 11
được toàn bộ hệ thống chữ cái qui định trong chương trình, đồng thời chính xác hoá
cách phát âm. Do đặc điểm của lứa tuổi nên việc giáo dục trẻ mẫu giáo được tiến hành
theo phương châm học mà chơi, chơi mà học. Từ đó tôi luôn nghĩ cần phải phát huy
hết tác dụng của các trò chơi để dạy trẻ. Điều đáng chú ý là trẻ mầm non xã Ea Na rất
ham thích được học qua hình ảnh trực quan, tổ chức hoạt động học thông qua các trò
chơi. Mỗi khi được nhìn thấy đồ dùng, đồ chơi trẻ rất vui, thích tìm hiểu sờ mó và
cùng nhau khám phá. nắm bắt được đặc điểm này chúng tôi đã không ngừng học và
sưu tầm những trò chơi hay, mới lạ trên báo chí, thông tin đại chúng để đưa vào dạy
trẻ phù hợp theo nội dung từng chủ đề.
Ví dụ: Trò chơi tìm chữ cái s- x trong từ “Hoa sen ” Tôi viết bài thơ lên giấy
Rô ki (mỗi tờ tranh đã được viết nôi nội dung một bài ), chia lớp thành 2 đội, mời đại
diện của 2 đội lên dùng bút tìm và gạch chân chữ s- x có trong các từ trong mỗi câu
thơ và đọc chữ cái gạch chân. Đội nào tìm và gạch chân được nhiều chữ s- x thì chiến
thắng và được tuyên dương.
Tôi còn cho trẻ nhận biết và phát âm chữ cái qua nhiều trò chơi khác như "Nối
chữ cái với từ có chứa chữ cái đó ”, “Tìm chữ cái trong đoạn thơ ”… Dạy trẻ phát âm
tiếng Việt thông qua trò chơi tìm chữ cái theo yêu cầu của cô"
Tăng cường tiếng Việt thông qua trò chơi gắn chữ cái trên đồ dùng, đồ chơi,
“Xếp chữ cái bằng hột hạt ".
"Xếp các nét cơ bản tạo thành chữ cái "...
Bên cạnh đó tôi luôn tranh thủ thời gian tự làm thêm một số đồ dùng đồ chơi để
cho trẻ được thực hành trải nghiệm. Tôi thiết nghĩ trẻ được thực hành trải nghiệm
nhiều với đồ dùng đồ chơi sẽ giúp trẻ ghi nhớ chữ cái một cách sâu sắc hơn, tập phát
âm tiếng Việt một cách chuẩn hơn. Từ đó cũng góp phần không nhỏ vào việc cung
cấp vốn tiếng Việt cho trẻ. Qua một thời gian thực hiện, lớp tôi tiến bộ rõ rệt, trẻ hứng
thú trong học tập, nhiều cháu thuộc chữ cái và phát âm đúng chữ cái do tôi cung cấp.
Tôi tiến hành lên kế hoạch nghiên cứu và áp dụng việc cung cấp tiếng Việt vào các
hoạt động như:
Trang 12
Tăng cường tiếng Việt cho trẻ thông qua môn văn học:
Để giúp trẻ học ngôn ngữ và nâng cao khả năng sử dụng ngôn ngữ tiếng Việt
trong học tập cũng như trong cuộc sống. Tôi nghĩ trước hết cần dạy trẻ những kỹ năng
chú ý nghe và phát âm thông qua môn văn học là vô cùng cần thiết. Trước khi vào dạy
học thơ hay kể một câu chuyện nào đó, điều đầu tiên tôi chú ý là lựa chọn bài thơ, câu
chuyện không quá dài, có nội dung hấp dẫn trẻ để cung cấp, vì trẻ dân tộc thiểu số rất
hiếu động thời gian tập trung chú ý nghe cô giảng rất ngắn, nắm được điểm yếu này
của trẻ vùng dân tộc thiểu số, là giáo viên tôi luôn tạo ra tình huống vui nhộn để lôi
cuốn trẻ vào giờ học bằng một giọng nói lúc trầm lúc bổng để gây sự chú ý, khơi gợi
tính tò mò của trẻ, đã tạo được tâm thế cho trẻ trước khi vào học tôi tiến hành đi vào
giờ học chính bằng ngôn ngữ giới thiệu hấp dẫn từ ngữ thật gần gũi, thật dễ hiểu đối
với trẻ, giáo viên đọc thơ hay kể chuyện với giọng thật truyền cảm, phối hợp các động
tác minh học phù hợp, để lôi cuốn trẻ chăm chú lắng nghe, để lĩnh hội từng câu, từng
lời của cô, tiếp đến tôi giảng nội dung câu chuyện, bài thơ một cách ngắn gọn để giúp
trẻ dễ hiểu, tôi tiến hành cho trẻ đọc thơ theo tôi từng câu, tôi luôn đổi cách cho trẻ
đọc thơ theo lớp tổ, nhóm, cá nhân, hay bạn nam và bạn nữ thi đua nhằm tạo khí thế
cho trẻ trong một giờ học thơ, còn đối với chuyện thì cần kể nhiều lần và đàm thoại
theo trình tự nội dung câu chuyện, và thể hiện giọng điệu, tính cách của từng nhân vật
trong chuyện một cách phù hợp nhằm giúp trẻ khắc sâu hơn nội dung cũng như tính
cách của các nhân vật trong chuyện, sau đó tôi tiến hành mời cháu khá lên kể lại
chuyện cho cả lớp nghe, tôi không quên khuyến khích trẻ bằng một món quà hay
thưởng bằng những tràng pháo tay động viên.
Chính nhờ như vậy học sinh lớp tôi ngày càng ham thích học thơ, kể chuyện,
nhiều cháu thuộc thơ, kể lại câu chuyện một cách hoàn chỉnh, như vậy việc cung cấp
vốn Tiếng Việt cho trẻ dân tộc thiểu số của tôi gặt hái được nhiều thành công hơn so
với trước, tôi vô cùng phấn khởi và tiếp tục áp dụng một số biện pháp khác để ngày
nâng cao hiệu quả hơn.
Cung cấp vốn Tiếng Việt cho trẻ ở mọi lúc mọi nơi:
Trang 13
Thực tế cho ta thấy rằng bất đồng ngôn ngữ là rất khó khăn trong giao tiếp, vì
vậy ngoài những biện pháp nêu trên áp dụng có hiệu quả, tôi tiến hành cung cấp vốn
Tiếng Việt cho trẻ thông qua mọi lúc mọi nơi.
Biệp pháp 3: Sử dụng phương tiện trực quan trong hoạt động làm quen tăng
cường tiếng Việt.
- Sử dụng công nghệ thông tin.
Để đáp ứng được nhu cầu cấp thiết của công nghệ thông tin mà ngành Giáo dục
đặt ra, khi hoạt động Làm quen tăng cường tiếng Việt cần đầu tư sử dụng có hiệu quả,
hơn nữa trẻ mầm non với đặc điểm tư duy trực quan hành động là chủ yếu, khả năng
tập trung của trẻ còn ngắn và chưa bên vững nhưng trẻ rất hứng thú với các hình ảnh
trực quan minh họa gây ấn tượng tá động đến mọi giác quan như: hình ảnh, âm thanh,
màu sắc, sống động … Vì thế, việc ứng dụng công nghệ thông tin để thiết kế và sử
dụng giáo án điện từ, cài đặt và sử dụng một số phần mềm vui chơi, học tập đa dạng
và phong phú. Sẽ kích thích hứng thú, sự tập trung chú ý và ghi nhớ có chủ định của
trẻ vào bài giảng.
Ví dụ: Cô cho tổ cho trẻ làm quen với từ “con vật sống trong rừng ” qua chủ để
thế giới động, cụ thể ở đây cô cho trẻ quan sát hình ảnh con “con voi, con sư tư, con
nai… ” dưới hình ảnh cô có từ “con vật sống trong rừng ”, cô sẽ tải hình ảnh video và
dạy trẻ thông qua máy tính, từ hình ảnh trong đoạn video trẻ sẽ được lôi cuốn bởi
những con vật mới lạ, ngộ nghĩnh, kích thích sự tò mò của trẻ, từ đó giúp tập trung
trong giờ học, trẻ tiếp thu bài tốt hơn và có hiệu quả hơn, mặt khác thông qua đó trẻ
không cảm thấy chán nản và mệt mỏi, mà giúp trẻ chú ý vào giờ học lâu hơn khả năng
tiếp thu bài nhanh mà những đồ dùng dạy học khác không thể nào mang lại được.
Ngoài việc sử dụng công nghệ thông tin cho việc minh họa cho một số bài dạy ở
trên lớp, giáo viên còn thiết kế các bài dạy để có thể đàm thoại về nội dung tác phẩm
hoặc cho trẻ thể hiện từng đoạn trong tác đề tài dạy tăng cường tiếng Việt.
Trang 14
Biện pháp 4: Tích hợp tăng cường tiếng Việt vào các hoạt động khác trong
ngày.
Như chúng ta đã biết khả năng tiếp thu của trẻ dân tộc thiểu số rất chậm, mau
quên nhưng khi đã nhớ được thì lại nhớ rất lâu nên tôi tiến hành cho trẻ tiếp xúc với
vốn tiếng Việt bằng phương châm “Mưa dầm thấm lâu ” cho nên việc cung cấp ngôn
ngữ tiếng Việt ở mọi lúc, mọi nơi vô cùng hiệu quả, ví dụ: Giáo viên luôn vui vẻ,
thương yêu trẻ, sửa sang quần áo, chải tóc cho trẻ và không quên kèm theo một số câu
hỏi giao lưu như: Con mặc quần áo đẹp quá. Con ăn cơm chưa ? Ăn bao nhiêu cơm ?
Ăn với thức ăn gì ? Con ăn có ngon không ? Hay tôi hỏi về gia đình trẻ: Nhà con có
bao nhiêu người ? Con có em bé không ? Mẹ con làm nghề gì ?... Qua trò chuyện với
trẻ như vậy. Giáo viên sẽ nắm được khả năng phát âm của mỗi trẻ để có biện pháp và
giành nhiều thời giờ hơn giúp trẻ phát âm đúng, phát âm chuẩn tiếng Việt.
Giờ chơi tự do tôi hay dẫn trẻ đến các góc trò chuyện và phát âm các từ có trong
tranh, từ ở các góc, giáo viên cần dạy trẻ phát âm nhiều lần và cho trẻ chỉ phát âm chữ
cái có trong tranh con vật, hoa, cây quả… có từ mang chữ cái đang học, trẻ đọc qua
nhiều lần như vậy. Trẻ dân tộc trường tôi phát âm chuẩn hơn và mạnh dạn hơn trong
giao tiếp với cô, với bạn, bạn biết chỉ cho bạn chưa biết, hoặc mạnh dạn đến hỏi cô, từ
đó trẻ không còn rụt rè như trước nữa. Ngoài ra trong giờ hoạt động ngoài trời tôi còn
chỉ đạo Giáo viên chủ nhiệm các lớp cho trẻ ôn kiến thức đã học qua trò chuyện, đọc
thơ, kể chuyện, chơi các trò chơi dân gian, cho trẻ đọc đồng dao, ca dao trong hoạt
động này giúp trẻ phát âm thành thạo hơn, lưu loát hơn. Tạo không khí thân thiện, gần
gũi giữa cô giáo và trẻ, vấn đề này đặc biệt cần thiết và không thể thiếu được đối với
trẻ dân tộc thiểu số.
Giờ vui chơi tôi cho trẻ đóng các vai khác nhau, trẻ được giao lưu trao đổi mua
bán và thể hiện hết vai chơi của mình, bên cạnh đó tôi luôn theo sát trẻ để kịp thời sửa
sai uốn nắn mỗi khi trẻ hỏi hoặc trả lời không có trọng tâm hay trẻ dùng tiếng mẹ đẻ.
Chính nhờ vậy mà học sinh trường tôi đa số trẻ biết dùng từ để diễn đạt thành câu có
nghĩa trong giao tiếp với bạn và cô giáo.
Trang 15
Biện pháp 5: Tuyên truyền phối hợp với cha mẹ tăng cường tiếng Việt cho trẻ.
Trong một buổi học trẻ được tiếp xúc với cô giáo rất nhiều nhưng chúng ta biết
phối hợp với gia đình trong việc cung cấp vốn tiếng Việt cho trẻ lại càng tốt hơn vì
vậy tôi đã tiến hành cho mời các bậc phụ huynh đến họp vào dịp đầu năm và cuối năm
học, thông báo kết quả học của mỗi cháu cho phụ huynh nắm và đặc biệt không quên
cho phụ huynh biết khả năng tiếp thu kiến thức bài học bằng ngôn ngữ tiếng Việt của
mỗi cháu ra sao và từ đó thống nhất với phụ huynh xây dựng nội quy của trường mầm
non là “Tất cả mọi người khi đến trường, lớp đều phải nói bằng Tiếng việt ” và nhà
trường rất mong phụ huynh hợp tác trong việc cung cấp tiếng Việt cho trẻ thường
xuyên ở nhà như: Phụ huynh dùng tiếng Việt để trao đổi với con em mình nhiều hơn,
kèm cặp con em nhiều hơn trong môn học chữ cái, trẻ nắm được chữ cái, thuộc chữ
cái, viết được chữ cái, phát âm đúng chữ cái và nhất là nói thạo tiếng Việt nhất định
con của phụ huynh tiếp thu bài một cách dễ dàng, học giỏi hơn trong cấp học mầm
non và nhất là trong các cấp học sau này. Từ những lời nói ấy đã thúc đẩy phụ huynh
quan tâm đến con em mình hơn, chăm lo cung cấp vốn tiếng Việt ở nhà cho trẻ nhiều
hơn.
Tôi tăng cường dạy tiếng Việt cho trẻ. Bên cạnh đó, tôi phối hợp cùng phụ huynh
tạo dựng cảnh quan môi trường đẹp và hấp dẫn tại lớp nhằm tạo động lực, sức hút đối
với trẻ trong tiết học. Qua đó công tác tăng cường dạy tiếng Việt cho trẻ dân tộc thiểu
số được tổ chức dễ dàng thực hiện và đạt kết quả tốt.
Đề tài này giúp giáo viên nhận thức đúng đắn hoạt động dạy tiếng Việt cho trẻ
dân tộc thiểu số bậc học mầm non. Trẻ biết thêm được một ngôn ngữ mới, nhằm giúp
trẻ tự tin khi giao tiếp với mọi người xung quanh. Từ đó trẻ tham gia vào các hoạt
động một cách hứng thú, tạo cơ hội mở rộng được tầm nhìn và kiến thức cho trẻ
bước vào bậc học tiếp theo đạt kết quả tốt hơn.
Kết hợp với cha mẹ học sinh tận dụng nguồn nguyên vật liệu sẵn có của địa
phương như: vỏ trứng gà hoặc vịt, nan tre hoặc nứa, vỏ hộp xốp, chai nước giải khát,
vỏ hộp thuốc, vỏ hộp dầu rửa bát… làm đồ dùng có ghi tên đồ vật tương ứng giúp trẻ
Trang 16
phát triển tiếng Việt.
Nhờ vậy học sinh lớp Lá 4 phân hiệu buôn Tơ Lơ trường mầm non Ea Na hiện
nay nói thành thạo, lưu loát ngôn ngữ tiếng Việt, biết dùng từ, câu để diễn đạt điều trẻ
muốn nói, không còn trẻ nói câu không rõ nghĩa, câu thiếu chủ ngữ, vị ngữ, mạnh dạn
giao lưu cùng cô giáo, cùng bạn bè và mọi người xung quanh
c. Mối quan hệ giữa các giải pháp, biện pháp
Các biện pháp có mối quan hệ chặt chẽ bổ xung cho nhau thì cần có những biện
pháp then chốt và hỗ trợ. Biện pháp xây dựng kế hoạch phù hợp với tình hình của lớp,
của trẻ là biện pháp cốt lõi của đề tài cùng với những biện pháp hỗ trợ như tích hợp
tăng cường tiếng Việt vào các hoạt động hàng ngày, tạo môi trường hoạt động tăng
cường tiếng Việt, sử dụng các phương tiện trực quan tổ chức tiết học nhẹ nhàng lôi
cuốn trẻ, phối hợp với cha mẹ trẻ. Mỗi một biện pháp có một tác dụng riêng và giải
quyết từng vấn đề của thực trạng nhưng củng cố chung một nhiệm vụ cung cấp kiến
thức về hoạt động làm quen tăng cường tiếng Việt cho trẻ hứng thú, mạnh dạn và phát
triển ngôn ngữ, điều đó đã làm nên thành công của sáng kiến kinh nghiệm cùng hướng
tới mục tiêu giúp trẻ học tốt tăng cường tiếng việt.
d. Kết quả khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu, phạm vi và
hiệu quả ứng dụng.
* Đánh giá: Qua thực tế giảng dạy tiếng Việt tại lớp Lá 4 phân hiệu Buôn Tơ
Lơ trường Mầm non Ea Na tôi thu được kết quả tnhư sau:
Lĩnh vực Gd trẻ
Trẻ không hiểu
Trẻ hiểu
Trẻ rất hiểu
Phát triển ngôn ngữ
2/27 = 7,4%
10/27 = 37,0%
5/27 = 55,5%
Phát triển nhận thức
1/27 = 3,7%
11/27 = 40,7%
15/27 = 55,5%
Phát triển TC-XH
1/27 = 3,7%
10/27 = 37,0%
16/27 = 59,2%
Phát triển thể chất
0/27 = 0%
9/27 = 33,3%
18/27 = 66,6%
Phát triển thẩm mỹ
1/27 = 3,7%
7/27 = 25,9%
19/27 = 70,3%
Trang 17
Sau đây là những hình ảnh tư liệu về điều kiện, cơ sở vật chất, trang thiết bị tại
lớp ở phân hiệu Mầm non Ea Na:
Tăng cường bổ sung tiếng Việt ở các góc hoạt động của trẻ
Trẻ học tiếng Việt thông qua giờ làm quen với chữ cái
Đây là biện pháp đơn giản tạo môi trường chữ viết, giúp tăng cường tiếng Việt
cho trẻ thiểu số ở độ tuổi mầm non mà tôi thực hiện từ tiếng Việt tương ứng với tranh
minh hoạ.
Qua một vài kinh nghiệm tôi tự nghiên cứu và áp dụng cung cấp tiếng Việt vào
lớp mình đạt được kết quả như sau:
Trang 18
Đến nay đã có trên 95% cháu nhận biết nhanh và phát âm đúng 29 chữ cái tiếng
Việt. 93% cháu biết cách tô các nét cơ bản và tô đúng quy trình. 95% cháu hiểu được
ngôn ngữ tiếng Việt, biết dùng ngôn ngữ tiếng Việt để diễn đạt thành câu có nghĩa, trẻ
nói lưu loát bằng ngôn ngữ tiếng Việt.
Ngoài việc học trẻ đã mạnh dạn tự tin khi giao tiếp với cô giáo, với bạn bè lúc ở
nhà cũng như lúc ở trường.
III. Phần kết luận, kiến nghị
1. Kết luận
Việc cung cấp tăng cường vốn tiếng Việt cho trẻ dân tộc thiểu số là một vấn đề
rất khó. Đòi hỏi cần có sự chỉ đạo sáng suốt của người quản lý trường học và giáo
viên phải thật sự yêu thương gần gũi trẻ. Luôn tạo tình cảm cho trẻ giao lưu trò
chuyện với cô, nghe hiểu lời nói của cô. Cuốn hút trẻ tham gia vào các hoạt động phát
triển ngôn ngữ thực sự hứng thú. Được thực hiện thông qua các hoạt động giáo dục ở
lớp và được tích hợp vào một số hoạt động khác trong chương trình chăm sóc giáo
dục trẻ. Từ những vốn kinh nghiệm tích luỹ ít ỏi về việc tăng cường tiếng Việt ấy tôi
đã áp dụng và có hiệu quả cao, ở tại trường mình. Cuối năm học này trẻ 95% trẻ dân
tộc thiểu số nói được tiếng Việt lưu loát, đủ câu, đủ ý.
Chỉ còn 0,5% số trẻ nói chưa được thành thạo nhưng cũng đã nghe hiểu được
tiếng Việt. Qua việc áp dụng sáng kiến kinh nghiệm “Một số biện pháp tăng cường
tiếng Việt cho trẻ dân tộc thiểu số độ tuổi 5- 6 tuổi tại lớp lá 4 trường mầm non Ea Na
” vào trường chúng tôi, tuy là một lớp 100% trẻ dân tộc thiểu số.
Phụ huynh rất nhiệt tình trong công việc quyên góp phế liệu cho cô giáo làm đồ
dùng đồ chơi. Một số phụ huynh rất thích con mình hiểu biết nhiều về ngôn ngữ tiếng
Việt đã tích cực hợp tác với giáo viên chủ nhiệm lớp trong việc dạy tiếng Việt cho con
em mình đạt kết quả. Bên cạnh đó cũng gặp không ít khó khăn. Cháu thường dùng
tiếng mẹ đẻ, ít hiểu tiếng Việt nên dẫn đến cháu khó tiếp thu lời hướng dẫn, chỉ bảo
của cô giáo bằng tiếng việt. Cha mẹ các cháu có một số không biết chữ, ít quan tâm
đến việc học hành của con cái.
Trang 19
Trên đây là một vài kinh nghiệm áp dụng trong quá trình dạy trẻ dân tộc thiểu số
được thực hiện và đạt hiệu quả cao, những biện pháp trên tuy không có gì mới lạ đối
với các bạn nhưng đối với trẻ dân tộc thiểu số thì vô cùng mới mẽ và có tác dụng. Tuy
nhiên sẽ không tránh khỏi những thiếu sót, rất mong được sự góp ý bổ sung của
chuyên môn mầm non, Ban Thi đua Phòng Giáo dục và Đào tạo Krông Ana. Để sáng
kiến kinh nghiệm của tôi được hoàn thiện và được vận dụng vào thực tế. Nhằm ngày
một nâng cao tiếng Việt cho trẻ dân tộc thiểu số. Tạo điều kiện thuận lợi cho trẻ mầm
non nghe hiểu và thực hiện tốt các hoạt động ở trường, tự tin khi bước vào bậc học
tiếp theo.
2. Kiến nghị
Tôi mong nhà trường đầu tư thêm trang thiết bị đồ chơi, tài liệu về tăng cường
tiếng Việt, hình ảnh, sách báo, đồ dùng theo thông tư để giáo viên dạy học hiệu quả
hơn và đồng thời giúp học sinh tiến bộ nhiều hơn nữa trong việc học tiếng Việt.
Trên đây là sáng kiến kinh nghiệm nhằm góp phần tăng cường dạy tiếng Việt
cho trẻ dân tộc thiểu số ở vùng có điều kiện kinh tế đặc biệt khó khăn, mà tôi nghiên
cứu. Trong quá trình nghiên cứu sáng kiến này qua một năm học. Tôi thấy còn có hạn
chế, nên không thể tránh khỏi những sai sót. Rất mong sự góp ý của chuyên cấp trên,
để sáng kiến này hoàn thiện và được áp dụng vào thực tế./.
Ea Na, ngày 15 tháng 2 năm 2017
Người viết sáng kiến
H’ Dra Bkrông
Trang 20
TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Tài liệu thử nghiệm dạy trẻ làm quen với tiếng Việt trong:
+ Tạp chí giáo dục Mầm non
+ Tài liệu tập huấn phương pháp dạy tiếng Việt cho trẻ em vùng dân tộc thiểu số.
- Sách Tâm lý học lứa tuổi (Bộ GD&ĐT)
- Các trang web về giáo dục trẻ mầm non.
- Hướng dẫn thực hiện chăm sóc giáo dục trẻ lứa tuổi 5- 6 tuổi.
- Tài liệu Bồi dưỡng thường xuyên – Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam.
- Thực trạng của trường MN Ea Na và kinh nghịêm bản thân.
- Sổ tay công tác giáo viên khối Mầm non.
Trang 21
MỤC LỤC
I. Phần mở đầu:.........................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài:..................................................................................1
2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài:..............................................................2
3. Đối tượng nghiên cứu............................................................................3
4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu của đề tài..............................................3
5. Phương pháp nghiên cứu.......................................................................3
a, Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận................................................3
b, Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn.............................................4
c, Phương pháp thống kê toán học............................................................4
II. Phần nội dung......................................................................................4
1. Cơ sở lý luận.........................................................................................4
2. Thực trạng.............................................................................................6
3. Nội dung và hình thức của giải pháp ..................................................8
a. Mục tiêu của giải pháp, biện pháp.........................................................6
b. Nội dung và cách thức thực hiện biện pháp..........................................8
c. Mối quan hệ giữa các biện pháp ..........................................................17
d. Kết quả khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứ..............17
III. Kết luận, kiến nghị..............................................................................19
1- Kết luận.................................................................................................19
2 - Kiến nghị .............................................................................................20
* Danh mục tài liệu tham khảo.................................................................21
* Mục lục
*Nhận xét của hội đồng sang kiến kinh nghiệm
* Hội đồng thẩm định các cấp nhận xét
Trang 22
NHẬN XÉT CỦA HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN
.........................................................................................................................
.........................................................................................................................
.........................................................................................................................
.........................................................................................................................
.........................................................................................................................
.........................................................................................................................
.........................................................................................................................
CHỦ TỊCH HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN
Trang 23
HỘI ĐỒNG THẨM ĐỊNH CÁC CẤP NHẬN XÉT
……………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
Trang 24