1. MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn đề tài.
Ngành học mầm non có một vị trí hết sức quan trọng, là ngành học mơ
đầu trong hệ thống giáo dục quốc dân, nó có vai trò hình thành những cơ sơ ban
đầu của phát triển nhân cách trẻ, chuẩn bị những tiền đề cần thiết cho trẻ bước
vào phổ thông; như Bác Hồ đã nói:“Giáo dục mẫu giáo tốt sẽ mở đầu cho một
nền giáo dục tốt”. Vì vậy, việc cải tiến phương pháp giáo dục, nâng cao chất
lượng phát triển toàn diện cho trẻ là một vấn đề hết sức cần thiết đối với mỗi
giáo viên, mỗi đơn vị trường mầm non và điều đó được thể hiện ơ các hoạt động
trong đó không thể thiếu được hoạt động tạo hình.
Hoạt động tạo hình là một trong những nội dung của giáo dục phát triển
thẩm mĩ, nhằm phát triển toàn diện cho trẻ. Thông qua các hoạt động vẽ, nặn,
cắt – xé – dán, trẻ có nhiều cơ hội để luyện tập các vận động tinh, vận động thô
và sự dẻo dai của các ngón tay. Đây cũng là một trong những hoạt động mà trẻ
mẫu giáo rất ưa thích. Hoạt động tạo hình đòi hỏi các thao tác trí tuệ như phân
tích, so sánh, tổng hợp, khái quát hoá…Khi trẻ tìm hiểu, tri giác các tính chất
của sự vật, hiện tượng xung quanh như màu sắc, kích thước, hình dạng, hoạt
động tạo hình cũng đòi hỏi trẻ phải biết vận dụng các kinh nghiệm và vốn hiểu
biết để tạo ra các hình ảnh mới cho mình. Hoạt động tạo hình góp phần phát
triển thẩm mĩ sáng tạo, phát triển cảm giác, tri giác thẩm mĩ, phát triển khả
năng cảm thụ và khả năng sáng tạo. Đồng thời, hoạt động tạo hình là sự biểu lộ
thái độ, tình cảm yêu ghét của trẻ đối với thế giới xung quanh của mình.(Trích
trong tài liệu: Tác giả: TS. Lê Thu Hương (Chủ biên). Lê Thị Đức - Phùng Thị
Tường - Nguyễn Thanh Thuỷ. Tổ chức hoạt động tạo hình cho trẻ mầm non theo
hướng tích hợp. Nhà xuất bản giáo dục. Năm 2007)
Trong hoạt động tạo hình, hoạt động thể loại nặn có một vai trò rất quan
trọng để phát triển thẩm mi cho trẻ rất hữu hiệu. Thông qua hoạt động nặn giúp
trẻ phát triển các chức năng tâm lí như khả năng tri giác các sự vật hiện tượng
xung quanh, từ đó kích thích trẻ phải tư duy và quá trình đó làm phát triển óc
tương tượng sáng tạo của trẻ, trẻ biết cảm nhận cái đẹp và ham muốn tạo ra cái
đẹp. Đây là yếu tố cần thiết góp phần giúp trẻ phát triển toàn diện về nhân cách.
Hoạt động tạo hình thông qua thể loại nặn giúp trẻ phát triển khả năng tri
giác đồ vật về hình dáng, cấu trúc và màu sắc. Hình thành ơ trẻ thao tác tư duy,
phát triển khả năng sáng tạo. Giúp trẻ có đức tính tốt như: Bền bỉ, kiên trì để có
sản phẩm đẹp, biết đoàn kết giúp đỡ lẫn nhau để hoàn thành nhiệm vụ, giúp trẻ
phát triển các cơ tay, khớp tay, bàn tay, ngón tay, giúp cho trẻ ngày càng khéo
léo linh hoạt và khả năng phối hợp giữa tay và mắt để hoàn thiện một số kỹ năng
cơ bản. Phát triển tính tự giác tập trung thực hiện hoạt động có mục đích để tạo
ra sản phẩm theo yêu cầu của bài học. Đối với trẻ 3-4 tuổi, đây là giai đoạn đầu
của trẻ mẫu giáo, hoạt động nặn của trẻ còn bất cập do trẻ còn nhỏ, các cơ bàn
tay còn mền yếu, chưa có kỹ năng nặn, bên cạnh đó giáo cụ trực quan có nhưng
đôi khi chưa đạt yêu cầu, đồ dùng và các phương tiện hoạt động cho cô và trẻ ơ
từng chủ đề vẫn còn thiếu nên chưa thu hút được sự hứng thú của trẻ vào hoạt
động.
Từ những vấn đề đó, bản thân tôi là giáo viên trực tiếp đứng lớp 3-4 tuổi,
1
tôi muốn đúc rút cho mình những kinh nghiệm thực tế, phải làm thế nào có biện
pháp truyền thụ kiến thức tốt nhất để trẻ tích cực tham gia vào tạo hình nói
chung và thể loại nặn nói riêng. Chính vì vậy tôi chọn đề tài: “Một số biện pháp
phát triển thẩm mỹ cho trẻ 3-4 tuổi thông qua hoạt động tạo hình (nặn),
trường mầm non Quang Lộc, năm học 2017-2018” làm đề tài nghiên cứu tại
trường mầm non Quang Lộc.
1.2. Mục đích nghiên cứu.
Mục đích tôi chọn đề tài này là muốn tìm ra một số biện pháp phát triển
thẩm mỹ cho trẻ 3-4 tuổi thông qua hoạt động tạo hình thể loại nặn, trường mầm
non Quang Lộc, năm học 2017-2018. Tạo cho trẻ có nền tảng vững chắc cho các
độ tuổi tiếp theo.
1.3. Đối tượng nghiên cứu.
Với trẻ mẫu giáo 3-4 tuổi hoạt động tạo hình còn đăng sơ đẳng, đặc biệt
đối với thể loại nặn trẻ chưa có kỹ năng trong hoạt động, trẻ 3-4 tuổi là nền tảng
ban đầu để hình thành cho trẻ tiếp theo ơ các lớp mẫu giáo vì thế tôi chọn đối
tượng nghiên cứu là trẻ mẫu giáo 3-4 tuổi A, trường mầm non Quang Lộc, năm
học 2017-2018.
1.4. Phương pháp nghiên cứu.
Để đạt được kết quả nghiên cứu thành công tôi đã sử dụng các phương
pháp sau:
- Phương pháp nghiên cứu xây dựng cơ sơ lí thuyết: Đọc và phân tích các tài
liệu có liên quan đến đề tài.
- Phương pháp điều tra khảo sát thực tế, thu thập thông tin: Khảo sát thực trạng
trước và sau khi sử dụng biện pháp nghiên cứu, tìm ra nguyên nhân.
- Phương pháp thống kê xử lí số liệu: Sử dụng phương pháp thống kê toán học
để xử lý phân tích kết quả khảo sát và thực nghiệm sản phẩm.
1.5. Những điểm mới của sáng kiến kinh nghiệm.
- Theo quan điểm “Giáo dục lấy trẻ làm trung tâm”, trẻ tự sáng tạo, trao đổi
thảo luận cùng nhau, để giải quyết vấn đề.
- Giáo viên sáng tạo và chỉ là người hướng dẫn, tổ chức linh hoạt các hoạt động
nặn phù hợp với nhận thức của trẻ sẽ phát huy tính tích cực, chủ động của trẻ.
2. NỘI DUNG
2.1. Cơ sở lý luận.
Như chúng ta đã biết với trẻ 3-4 tuổi, hầu hết các trẻ có tâm hồn nhạy cảm
với thế giới xung quanh, trẻ dễ bị cảm xúc, dễ bị cuốn hút trước cảnh vật có màu
sắc hài hoà, những con vật, đồ chơi ngộ nghinh có hình khối rõ ràng...trẻ bắt đầu
có sự hình thành về biểu tượng, về đối tượng trẻ tri giác, trẻ cũng bắt đầu đặt ra
các câu hỏi để giải đáp những thắc mắc về đối tượng, trẻ cảm nhận được cái đẹp,
thích thú làm ra cái đẹp, từ đó trẻ có thể miêu tả cái đẹp của nghệ thuật bằng lời
nói, song việc thể hiện cái đẹp nghệ thuật của trẻ qua đôi bàn tay thì mới bắt đầu
hình thành. Vì vậy việc giáo dục thẩm mỹ cho trẻ 3-4 tuổi cần được bồi dưỡng
ngay từ ban đầu, để ươm mầm những tài năng thẩm mỹ cho trẻ.
Hoạt động tạo hình thông qua thể loại nặn là hoạt động nghệ thuật đặc
biệt quan trọng không thể thiếu đối với trẻ mầm non. Thông qua hoạt động nặn
không chỉ giúp trẻ cảm nhận được cái hay, cái đẹp trong cuộc sống hàng ngày
2
mà nó còn giúp trẻ phát triển đôi bàn tay khéo léo, tính kiên trì và trí tương
tượng sáng tạo, lòng ham mê nghệ thuật biết tạo ra những sản phẩm đẹp, từ đó
giúp trẻ phát triển toàn diện đặc biệt là phát triển thẩm mỹ.
Xuất phát từ đặc điểm tâm sinh lí của trẻ 3-4 tuổi, đây là giai đoạn khủng
hoảng tâm lý của trẻ, trẻ rất bướng bỉnh và hay hờn dỗi, trẻ hoạt động theo cảm
tính. Với lứa tưổi này đây cũng là giai đoạn đầu của tuổi mẫu giáo, hoạt động
nặn của trẻ còn ơ mức độ thấp (thao tác cắt, véo đất, lăn dọc… còn vụng). Đặc
biệt đối với trẻ 3-4 tuổi phương pháp tổ chức trẻ nặn còn nhiều bất cập như: Trẻ
còn nhỏ, các cơ gân tay còn mềm yếu, khả năng nhận thức còn hạn chế, các thao
tác còn khó khăn và phải có năng khiếu nghệ thuật. Ở tuổi nhà trẻ, trẻ mới được
làm quen với các thao tác nặn đơn giản như: Lăn dọc, véo đất, xoay tròn… Mặt
khác trẻ 3-4 tuổi vẫn còn nhiều trẻ chưa đi học nhà trẻ, đây là lần đầu tiên trẻ rời
gia đình đến lớp với cô, với bạn, lúc này môi trường sống, sinh hoạt của trẻ rộng
hơn, mọi sự vật hiện tượng xung quanh trẻ còn rất mới lạ, trẻ chưa có khái niệm
về cái gì cụ thể, vốn kỹ năng nặn của trẻ chưa hình thành, còn mang tính chất
mới mẻ. Vốn ngôn ngữ của trẻ còn quá ít. Trẻ chưa thể diễn đạt được nguyện
vọng của mình bằng ngôn ngữ mạch lạc. Vì vậy hoạt động thể loại nặn chính là
một thứ ngôn ngữ riêng để trẻ biểu lộ tình cảm, tiếng nói của trẻ về vẻ đẹp của
mọi vật xung quanh đồng thời là phương diện thẩm mỹ rất đắc lực hình thành thị
hiếu và cảm xúc ơ trẻ.
Bên cạnh đó yêu cầu kỹ năng nặn đối với trẻ 3-4 tuổi là trẻ phải biết chơi
với đất nặn như véo đất, làm mềm dẻo đất…Biết một số kỹ năng nặn đơn giản
như: Lăn dọc đất trên bàn hoặc lòng bàn tay, xoay tròn, ấn bẹt…Biết phối hợp
các thao tác nặn để tạo thành các sản phẩm đơn giản có 2 hoặc 3 chi tiết. Trong
khi đó để nặn tạo ra một sản phẩm đẹp yêu cầu trước hết trẻ phải nhận biết về
đối tượng, có tình cảm với đối tượng và có kỹ năng mô phỏng tạo ra nó, thì trẻ
mới hoàn thành sản phẩm đó được.
Nắm được tình hình đặc điểm tâm sinh lý và yêu cầu kỹ năng nặn đối với
trẻ 3-4 tuổi. Để đưa ra được các biện pháp phát triển thẩm mỹ cho trẻ 3-4 tuổi
thông qua hoạt động tạo hình thể loại nặn tôi đã tìm hiểu và tiến hành khảo sát
thực trạng để đưa ra các biện pháp giải quyết vấn đề một cách hiệu quả.
2.2. Thực trạng của vấn đề.
Trường mầm non Quang Lộc là một trường luôn đạt danh hiệu “Tập thể
lao động xuất sắc”. Năm học 2014 - 2015 nhà trường được công nhận đạt chuẩn
mức độ I và được nhận cờ thi đua của UBND tỉnh Thanh Hóa.
Năm học 2017-2018 bản thân tôi được nhà trường phân công đứng lớp
mẫu giáo 3-4 tuổi. Trong quá trình chăm sóc và giáo dục cho trẻ tôi nhận thấy có
những thuận lợi và khó khăn như sau:
* Thuận lợi.
- Được sự quan tâm của Đảng uỷ và các cấp chính quyền địa phương, đặc biệt là
sự quan tâm sát sao của Phòng Giáo dục - Đào tạo huyện Hậu lộc và lãnh đạo
địa phương. Ban giám hiệu nhà trường luôn quan tâm dìu dắt, giúp đỡ, bồi
dưỡng chuyên môn cho giáo viên.
- Điều kiện cơ sơ vật chất trang thiết bị đầy đủ để thực hiện nhiệm vụ chăm sóc
giáo dục trẻ.
3
- Trường mầm non Quang lộc có khuôn viên trường lớp sạch sẽ, thoáng mát, sân
vui chơi được quy hoạch hợp lí và có nhiều đồ chơi. Đó là môi trường tốt cho trẻ
hoạt động.
- Đội ngũ giáo viên trẻ khoẻ, nhiệt tình với công việc, yêu nghề, mến trẻ.
- Các bậc phụ huynh luôn quan tâm đến việc chăm sóc - giáo dục trẻ.
- Các cháu đã được đến trường từ độ tuổi nhà trẻ chiếm tỷ lệ 35% nên trẻ đã có
nề nếp thói quen trong các hoạt động.
- Bản thân đã nắm bắt được nội dung phương pháp đổi mới trong chương trình
chăm sóc - giáo dục trẻ, hàng năm cũng đã được tiếp thu chuyên đề. Thường
xuyên được ban giám hiệu nhà trường cùng đồng nghiệp thăm lớp dự giờ góp ý,
đồng thời bản thân cũng rút ra được kinh nghiệm học hỏi đồng nghiệp để nâng
cao chất lượng môn học.
* Khó khăn.
Bên cạnh những thuận lợi trên vẫn gặp không ít khó khăn đó là:
- Với lớp tôi phụ trách số trẻ chỉ 25 cháu, số nữ nhiều hơn số nam nhưng hầu hết
các cháu đều hiếu động, qua việc chăm sóc - giáo dục hàng ngày cho trẻ tôi thấy
trẻ nói dớ còn rất nhiều, nhận thức của trẻ không đồng đều có trẻ nhanh nhẹn
thông minh, có trẻ lầm lì ít hoạt động.
- Bố mẹ các cháu 80% đều làm ruộng thu nhập thấp nên bố mẹ chưa có điều
kiện quan tâm đến việc học tập của con, hơn nữa nhiều gia đình còn chiều con,
nịnh trẻ bằng những câu từ không rõ ràng, chính xác nên trẻ bắt chước nhiều
cháu phát âm không rõ rang, có một số gia đình chưa chú trọng giáo dục trẻ ơ độ
tuổi này. Vì thế mà hầu hết các gia đình chưa có điều kiện để quan tâm đến việc
phát triển năng khiếu thẩm mỹ cho trẻ.
- Nhà trường còn thiếu nhiều giáo viên nên ảnh hương đến việc làm đồ dùng, đồ
chơi.
Đứng trước thuận lợi và khó khăn trên bản thân tôi muốn đưa ra “Một số
biện pháp phát triển thẩm mỹ cho trẻ 3-4 tuổi thông qua hoạt động tạo hình
(nặn)” nhằm giúp trẻ hứng thú, trẻ được rèn luyện, trải nghiệm sự khéo léo của
đôi bàn tay, từ đó hình thành phát triển thẩm mỹ cho trẻ thông qua hoạt động tạo
hình thể loại nặn.
* Khảo sát thực trạng.
Căn cứ vào tình hình thực tế khảo sát chất lượng ban đầu của lớp tôi chủ
nhiệm (mẫu giáo 3-4 tuổi) tôi thấy khả năng tiếp cận với hoạt động nặn còn hạn
chế nhận thức của trẻ không đồng đều, có trẻ thông minh nhanh nhẹn, có trẻ thì
lầm lì nhút nhát. Những câu hỏi mơ, suy luận trẻ trả lời chưa cao. Số trẻ chưa
đạt vẫn còn cao. Qua khảo sát kết quả đầu năm như sau:
Bảng 1: Kết quả thực trạng.
Đạt
Chưa đạt
Tổng
Trung
Nội dung khảo sát
Tốt
Khá
Yếu
số trẻ
bình
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
Trẻ chú ý lắng
25
1
4
5
28
17
66
2
8
nghe.
Trẻ có kỹ năng nặn,
25
2
8
6
24
15
60
2
8
4
sử dụng màu phù
hợp.
Đặt tên cho sản
25
3
12
7
24
13
52
2
8
phẩm.
Trẻ biết nhận xét
25
2
8
6
24
15
60
2
8
sản phẩm.
Nhìn vào bảng đánh giá trên ta thấy số trẻ chưa đạt ơ cả 4 nội dung chiếm
tỷ lệ cao. Nhìn nhận được điều này tôi đã tìm ra những nguyên nhân như sau:
* Nguyên nhân.
- Về phía trẻ: Vẫn còn trẻ chưa tham gia học lớp nhà trẻ, lần đầu tiên trẻ đến
trường đi học còn nhiều bỡ ngỡ. Do số trẻ cá biệt chưa thích hoạt động tạo hình
thể loại nặn, chưa tập trung chú ý vào sự hướng dẫn của cô, chưa có nề nếp thói
quen trong học tập.
- Về phía cô: Do hiện nay ơ bậc học mầm non nói chung, trường mầm non
Quang Lộc nói riêng đang còn thiếu giáo viên nhiều, nên việc làm đồ dùng, đồ
chơi để đáp ứng cho hoạt động tạo hình thể loại nặn theo Thông tư 02/2010 chỉ
mới đáp ứng được nhu cầu tối thiểu.
- Về phía phụ huynh: Đa phần bố mẹ đi làm ăn xa, trẻ ơ nhà với ông bà, chưa
quan tâm đến việc hoạt động trên lớp của con, chỉ nghi rằng trẻ 3-4 tuổi đến lớp
để chơi, ăn, ngủ, múa hát và đọc thơ.
Nhận thức được vai trò của hoạt động thể loại nặn đối với khả năng phát
triển thẩm mỹ của trẻ và kết quả khảo sát đầu năm học, tôi đã băn khoăn và
mạnh dạn đưa ra một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng cho trẻ hoạt động
với tạo hình thể loại nặn theo hướng tích cực lấy trẻ làm trung tâm với mong
muốn góp sức nhỏ bé của mình trong việc nâng cao chất lượng phát triển thẩm
mỹ cho trẻ mẫu giáo 3-4 tuổi A thông qua hoạt động tạo hình thể loại nặn,
trường mầm non Quang lộc.
2.3. Các biện pháp để giải quyết vấn đề.
* Biện pháp 1: Rèn thói quen nề nếp trong hoạt động tạo hình thông qua
thể loại nặn.
Nề nếp của trẻ là bước đầu của một hoạt động, nếu chúng ta không đưa trẻ
vào nề nếp thì giờ hoạt động không đạt kết quả cao. Khi trẻ có nề nếp tốt cùng
với sự hướng dẫn của cô, ngay ban đầu trẻ đã say mê với hoạt động, luôn thể
hiện cảm xúc trí tương tượng cho hoạt động nghệ thuật.
Với trẻ 3-4 tuổi việc rèn thói quen nề nếp trong hoạt động nặn cho trẻ là
rất cần thiết vì trẻ mới từ nhà trẻ lên mẫu giáo, có trẻ đây là lần đầu tiên trẻ đến
lớp học, hoạt động theo giờ học của trẻ vẫn còn nhiều bỡ ngỡ, đặc biệt đối với
hoạt động nặn. Vì thế ngay từ ban đầu tôi đã rèn cho trẻ có thói quen tự kê ghế
ngồi vào bàn, ngồi ngay ngắn, không gập lưng, vẹo hông, dựa nằm ra bàn. Khi
thực hiện ngồi chiếu hoặc bạt để hoạt động thì tôi rèn cho trẻ ngồi vào mép cuối
của chiếu hoặc bạt, ngồi theo tổ và khoanh chân lại. Tôi rèn cho trẻ có thói quen
đi lấy và cất đồ dùng đúng nơi quy định, biết nơi lấy và cất đồ dùng hoạt động
nặn như bảng, đất nặn. Rèn nề nếp cho trẻ khi lấy đồ dùng không tranh dành
nhau, lần lượt từng trẻ một lấy. Trong giờ hoạt động trẻ ngồi đúng tư thế, không
nói chuyện riêng, không nói leo, nói phải xin phép cô, nói rõ ràng, mạch lạc, đủ
5
câu…, khi trả lời câu hỏi phải giơ tay lên và nói “con thưa cô”. Khi cô cho trẻ về
chỗ ngồi nặn thì trẻ nhẹ nhàng về vị trí của mình, không chạy xô đẩy nhau. Trẻ
ngồi theo nhóm, tổ hoạt động của mình. Tôi rèn cho trẻ có thói quen tạo nhóm,
tạo tổ theo hiệu lệnh của cô.
Để hoạt động nặn của trẻ không bị sao nhãng trong khi sử dụng đồ dùng,
tôi rèn cho trẻ có thói quen sử dụng hộp đất nặn và bảng nặn, khăn lau. Tôi rèn
cho trẻ khi mơ hộp đất nặn ra lật vỏ hộp ngửa lên và để chồng hộp đất nặn lên để
về phía trước mặt, trước bảng con, bảng nặn tôi yêu cầu trẻ lật mặt có đường kẻ
xọc màu vàng để nặn và để ngay ngắn phía trước mặt, chỉ sử dụng khăn lau khi
trẻ thấy tay bị dính đất nặn.
Việc rèn luyện thói quen nề nếp trong trưng bày sản phẩm cũng rất quan
trọng, vì nếu không rèn thói quen nề nếp trẻ sẽ mang chạy lên ồ ạt, có thể xô đẩy
làm hư hỏng sản phẩm của trẻ. Vì thế tôi rèn cho trẻ có thói quen lên trưng bày
sản phẩm lần lượt theo từng tổ, không xô đẩy nhau và khi trưng bày xong thì
đứng xung quanh để quan sát, nhận xét sản phẩm. Khi thực hiện xong tôi rèn
cho trẻ có thói quen biết thu dọn đồ dùng học tập, biết cất đất nặn và bảng con
vào đúng quy định.
Với biện pháp trên, trẻ lớp tôi đã dần dần đi vào ổn định, hình thành được
thói quen nề nếp trong hoạt động như tự lấy đồ dùng, cất đồ dùng, biết sử dụng
đồ dùng nặn và ngồi đúng tư thế và thực hiện rửa tay sau khi hoạt động kết thúc.
* Biện pháp 2: Xây dựng môi trường trong và ngoài nhóm lớp theo quan
điểm giáo dục lấy trẻ làm trung tâm.
Môi trường hoạt động của trẻ bao gồm môi trường trong và ngoài lớp, nó
có vai trò tác động mạnh mẽ đến khả năng cảm thụ vẻ đẹp, yêu cái đẹp và muốn
tạo ra cái đẹp của trẻ. Trang trí tạo môi trường nghệ thuật trong và ngoài lớp để
gây cảm xúc, gây ấn tượng, cung cấp về hiểu biết cái đẹp cho trẻ về nghệ thuật
tạo hình nói chung và hoạt động nặn nói riêng.
Tôi đã tạo môi trường trong lớp một cách hấp dẫn, nổi bật để khi trẻ đến
lớp ấn tượng đầu tiên tác động vào trẻ là toàn bộ sự bố trí, cách sắp xếp trang trí
lớp học của bé với màu sắc hài hoà. Bé quan sát xung quanh bé sẽ nhận định
được ơ lớp có các điểm mới, khác lạ so với ơ nhà bé...từ đó sẽ tạo ấn tượng khó
phai trong tâm trí của bé. Đây là tác động cần thiết để hình thành cảm xúc nghệ
thuật cho trẻ. Vì vậy tôi đã tìm hiểu yêu cầu của chủ đề, căn cứ vào cấu trúc
phòng học của lớp mình và đặc điểm tâm lí của trẻ 3 tuổi mà tạo môi trường
nghệ thuật xung quanh trẻ sao cho phù hợp nhất.
Ở trong lớp, tôi trang trí đồ dùng, đồ chơi và các hình ảnh theo chủ đề.
Tôi bố trí đồ dùng, đồ chơi hợp lý, những đồ dùng tôi trưng bày phải đẹp, có các
màu sắc rõ ràng như đỏ, xanh, vàng…có các dạng hình, dạng khối cụ thể, được
bố trí đặt những nơi mà trẻ dễ nhìn thấy, dễ quan sát để giúp trẻ tri giác chính
xác cụ thể hơn. Các mảng chính trong lớp như mảng chủ đề, các tiêu đề của các
góc. Để gây ấn tượng cho trẻ tôi thường sưu tầm, thiết kế các hình ảnh ngộ
nghinh đáng yêu, có màu sắc đẹp, bố cục hợp lí và có tên thật gần gũi với trẻ.
Ví dụ: Với góc gia đình tôi trang trí các hình ảnh bé và mẹ đang nấu ăn…
Góc xây dựng tôi trang trí các khối như: Khối vuông, khối chữ nhật, khối tam
giác, khối trụ với các màu sắc khác nhau để trẻ thực hiện xếp chồng tạo nhà,
6
xếp cạnh tạo bờ tường…
Với góc nghệ thuật tôi thực hiện trang trí theo hình thức trưng bày sản phẩm
để nêu lên được tầm quan trọng và ý nghia của hoạt động tạo hình nói chung và
thể loại nặn nói riêng, đồng thời đưa ra những yêu cầu cụ thể cho từng thể loại.
Tôi đã trưng bày các sản phẩm mẫu tự làm và sưu tầm, cho trẻ quan sát nhằm
kích thích khả năng sáng tạo và có nghệ thuật của trẻ. Tôi giới thiệu đây là ngôi
nhà nghệ thuật của bé. Tôi cho trẻ đặt tên cho góc trưng bày như: Hoạ si nhí,
hoặc bé khéo tay, hoạ si tí hon,…Tôi giới thiệu với trẻ đây là góc để cô và trẻ
trưng bày những sản phẩm do bàn tay cô và trẻ làm ra…Bây giờ cô muốn mỗi
bạn hãy làm thật nhiều những sản phẩm để trang trí cho góc trưng bày của lớp
mình thêm đẹp hơn nhé. Cô muốn trong lớp mình bé nào cũng có sản
phẩm được trưng bày trên giá các con có đồng ý không? Từ lời gợi mơ như vậy
đã kích thích trẻ tạo ra sản phẩm mới. Sau trưng bày sản phẩm lên giá, ơ đây trẻ
được quan sát toàn bộ sản phẩm của mình và của bạn. Trẻ có thể tự so sánh sản
phẩm của bạn nào đẹp để lần sau trẻ cố gắng làm cho đẹp hơn để bằng bạn. Từ
kết quả đó sẽ kích thích sự ham muốn say mê học nặn của trẻ. Khi bố trí, trang
trí góc nghệ thuật này tôi sẽ bố trí ơ nơi trẻ dễ quan sát nhất, đối diện với cửa ra
vào để mỗi khi các bậc phụ huynh đưa đón trẻ đều có thể quan sát được những
sản phẩm của con em mình. Đặc biệt tôi để đồ dùng, dụng cụ phục vụ cho trẻ
hoạt động nặn tại góc trưng bày để trẻ dễ thấy, dễ lấy và sau khi trẻ được tham
gia hoạt động nặn xong tôi cho trẻ đem đến góc để trưng bày sản phẩm, được
trưng bày sản phẩm của mình trẻ sẽ rất thích thú và lần sau tích cực tham gia
hoạt động nặn để tạo ra sản phẩm trưng bày.
Ảnh 1: Góc nghệ thuật, trưng bày sản phẩm, bày đồ dùng của trẻ
(Phụ lục.)
Với môi trường bên ngoài đây là hoạt động để trẻ được trải nghiệm với
thiên nhiên với thế giới xung quanh. Ngay bên ngoài cửa lớp tôi trang trí góc
tuyên truyền “Bé với nghệ thuật”, ơ góc này tôi đưa các hình ảnh trẻ đang hoạt
động với tạo hình thể loại nặn, sản phẩm của các trẻ thực tế ơ lớp mà trẻ hoạt
động hàng tuần, trong từng chủ đề để phụ huynh nắm bắt được hoạt động của
con mình.
Được sự quan tâm của Sơ giáo dục và phòng giáo dục đào tạo, tổ chức
cuộc thi xây dựng môi trường hoạt động lấy trẻ làm trung tâm…Trường mầm
non Quang Lộc đã trang trí khuôn viên, môi trường ngoài theo quan điểm lấy trẻ
làm trung tâm, có khuôn viên vui chơi, vườn cổ tích, khuôn viên hoạt động trải
nghiệm như: trải nghiệm với cát nước…Tôi đã thường xuyên cho trẻ đi dạo,
thăm quan để tăng cường và củng cố kiến thức, trí tương tượng cho trẻ, trong
khi đi có gì mới lạ tôi giới thiệu và giải thích tỉ mỉ cho trẻ hiểu, điều đó khắc sâu
thêm trí nhớ và khi đến buổi hoạt động tôi lại gợi hỏi cho trẻ trả lời những gì mà
trẻ đã tận mắt nhìn thấy hôm đi dạo.
Ví dụ: Trước khi cho trẻ: “Nặn quả tròn” (Đề tài)
Tôi cho trẻ đi thăm quan vườn cây ăn quả trong đó có cây cam, bươi, hòng
xiêm, na…Trẻ nhận biết được màu sắc, hinh dáng của các loại quả thông qua
việc quan sát, trò chuyện trao đổi cùng cô và bạn. Đặc biệt trong khi trẻ quan
sát, được sờ vào quả, trẻ nhận biết được đặc điểm và màu sắc của các loại quả
7
…Từ đó hình thành ơ trẻ các biểu tượng về đặc điểm khác nhau của các loại quả
tròn và trẻ có thể nặn các loại quả một cách chính xác hơn.
Ngoài việc xây dựng môi trường vật chất bên ngoài và bên trong lớp, thì tôi
luôn quan tâm chú trọng thực hiện môi trường xã hội ngay từ trong lớp, luôn
niềm nơ, giao tiếp với phụ huynh trong khi đón, trả trẻ và thực hiện giao lưu tình
cảm với từng trẻ, khích lệ trẻ giao tiếp với bạn bè trong nhóm chơi, trong lớp...
Thông qua biện pháp này, tôi đã tạo cho trẻ có biểu tượng về cái đẹp, trẻ
biết tư duy, tri giác, phân tích các biểu tượng, hình thành các biểu tượng cụ thể
từ đó trẻ biết tạo ra sản phẩm một cách chính xác, phong phú. Vì vậy việc tạo
môi trường vật chất và môi trường xã hội hấp dẫn cho trẻ là một việc làm rất
quan trọng góp phần nâng cao chất lượng phát triển thẩm mỹ nói chung, hoạt
động nặn nói riêng cho trẻ.
* Biện pháp 3: Làm đồ dùng, đồ chơi và cách sử dụng đồ dùng trong hoạt
động.
Qua chuyên đề giáo dục thẩm mi cho trẻ, chuyên đề giáo dục lấy trẻ làm
trung tâm cũng như qua thực tế hàng ngày tôi dạy trẻ, tôi thấy rằng việc tăng
cường làm đồ dùng, đồ chơi là một biện pháp vô cùng quan trọng. Nó giúp tôi
chuyển tải kiến thức đến trẻ một cách dễ dàng hơn mà tiết kiệm được kinh phí,
ngoài ra giúp trẻ khắc sâu về biểu tượng. Vì thế tôi đã tiến hành làm đồ dùng, đồ
chơi tự tạo phục vụ vào việc cung cấp biểu tượng cho trẻ trong hoạt động tạo
hình nói chung và thể loại nặn nói riêng.
Để làm được đồ dùng, đồ chơi tôi đã trao đổi với phụ huynh cũng như bản
thân mình tự tìm kiếm phế liệu hư, cũ để tận dụng làm như: Vỏ hộp, thùng cát
tông, đất sét, bột mì, bóng hỏng cũ, vải, lưới vụn… tôi luôn lưu ý và cân nhắc
đảm bảo khi sử dụng các nguyên vật liệu, phế liệu đó là:
- Phải an toàn, không gây độc hai, không nhọn, không có cạnh sắt…
- Phải dễ kiếm, rẻ tiền, dễ bảo quản, cất giữ.
- Dễ cầm, phù hợp với tầm tay của trẻ.
- Dễ ứng dụng và dễ cung cấp kiến thức.
- Dễ sửa chữa.
Trước khi sử dụng phế liệu để làm đồ dùng, đồ chơi tôi phải rửa, giặt, vệ
sinh sạch sẽ rồi phơi khô. Với những đồ phế liệu sắc nhọn cạnh tôi phải mài dủa
cho nhẵn. Tôi có thể cho trẻ tham gia rửa các nguyên vật liệu phế thải mang tính
chất an toàn với trẻ như: Chai nước ngọt, lọ sữa su su,…cùng tôi để trẻ nhận biết
được rằng, để tái tạo sử dụng những nguyên vật liệu phế thải thì cần phải vệ sinh
sạch sẽ và phơi khô. Khi thực hiện làm đồ dùng, đồ chơi tái tạo, tôi hướng dẫn
và cho trẻ tham gia trải nghiệm làm cùng tôi những đồ dùng, đồ chơi dễ làm để
tạo cho trẻ hứng thú và yêu thích sản phẩm mình làm ra được.
Ảnh 2: Cô và trẻ đang rửa chai, lọ phế liệu để làm đồ dùng, đồ chơi.
( Phụ lục)
Ví dụ: Với chủ đề: Trường mầm non và bản thân. Tôi làm con lật đật,
vòng tay.
Vật liệu: Bằng bóng nhựa cũ hỏng, dây nhựa, xốp màu và keo dính.
Làm lật đật: Tôi hướng dẫn trẻ chồng quả bóng nhỏ lên quả bóng to giúp cô,
cô dùng keo dính gắn với nhau, dùng 2 khuy áo (hoặc sốp màu) làm mắt, xốp
8
màu cắt làm miệng.
Làm vòng tay: Tôi hướng dẫn trẻ cầm 2 đầu của chiếc dây chồng lại với nhau
dùng keo dính 2 đầu của đoạn dây nhựa lại với nhau tạo thành vòng tay, vòng to,
nhỏ làm tuỳ vào dây nhựa ngắn hay dây nhựa dài.
Ảnh 3: Trẻ thực hiện làm lật đật, vòng tay cùng cô. ( Phụ lục)
Sau khi trẻ được làm và quan sát lật đật và vòng tay, tôi đã vận dụng để cho
trẻ thực hiện “nặn quà tặng bạn”, trẻ có thể nặn lật đật hoặc vòng tay, kẹo…
Ví dụ: Chủ đề: Thực vật – Tết và mùa xuân. Tôi cùng trẻ thực hiện làm
các loại quả dạng tròn (cam, táo, na, hồng, bươi…), quả dạng dài (chuối, quả bí,
quả cà), cây cam, cây hòng, cây xoài, các loại củ (cà rốt, củ cải, khoai lang, củ
sắn…), bánh chưng, giò, bánh tét…
Tôi sử dụng nguyên vật liệu gồm: Vải vụn, bông cũ, chỉ, dây vòng nịt, thép
mềm, sốp, keo 502, keo bắn, vỏ hộp bánh phu thê, ống chè cũ, ống pháo bắn
đám cưới, xốp màu, giấy dạ, đề can…
- Làm các quả dạng tròn: Tôi hướng dẫn trẻ làm cùng cô, dùng vải vụn đùm
bông vào trong túm lại rồi dùng vòng nịt buộc lại tạo thành quả tròn, sau đó
dùng xốp làm tai và cuống.
Ảnh 4: Trẻ đang trải nghiệm làm quả hình tròn cùng cô ( Phụ lục.)
- Làm quả dạng dài: Tôi dùng giấy dạ cắt tạo thành hình quả chuối, quả bí, quả
cà…rồi may 2 mảnh quả chuối, quả bí, quả cà…lại với nhau, lấy bông nhét vào
trong quả may kín lại, rồi may tạo cuống quả. Tương tự tôi dùng giấy dạ và bông
làm cà rốt, củ cải, củ sắn, củ lang.
- Làm cây cam, cây hồng, cây xoài: Tôi hướng dẫn trẻ dùng vải màu cam nhét
bông tạo quả cam tròn, dùng vải màu đỏ nhét bông buộc lại tạo quả hồng màu
đỏ, tôi làm quả xoài bằng xốp. Thân cây tôi dùng thép cắt bẻ tạo thành thế cây,
dùng xốp cuốn kín thân cây, dùng xốp màu xanh cắt lá cam, lá hòng, lá xoài rồi
gắn vào thân cây, gắn quả từng loại cây lên như vậy là tôi đã làm tạo nên được
vườn cây ăn quả.
- Làm bánh chưng, giò, bánh tét: Tôi dùng đề can xanh dán bao quanh hộp bánh
phụ thê, hộp chè, ống pháo, dùng màu vàng dán làm nan tạo bánh chưng, giò,
bánh tét.
Với những đồ dùng, đồ chơi này tôi sử dụng làm đồ dùng trực quan hướng
dẫn trẻ “nặn quả tròn”, “nặn quả dài”, “nặn bánh ngày tết”... và bày vào góc
phân vai bán hàng.
Ngoài ra tôi còn làm các loại đồ chơi phù hợp với các chủ đề như:
Chủ đề động vật gồm: Làm cá, cua, ong, bướm, thỏ, mực…bằng vỏ nhựa,
giấy, bìa cát tông, vỏ con trai…
Chủ đề phương tiện giao thông: Ô tô, thuyền…bằng bìa cứng, xốp màu.
Ảnh 5: Đồ dùng đồ chơi tự làm từ phế liệu phục vụ vào hoạt động nặn
của trẻ. (Phụ lục)
Bên cạnh đó tôi còn hướng dẫn trẻ dùng bột mì bỏ màu vào tạo các màu sắc
khác nhau để nặn. Khi trẻ tham gia thực hiện cùng cô tôi thấy trẻ rất hứng thú và
tích cực thực hiện. Nhìn chung để giúp trẻ tích cực tham gia vào hoạt động nặn
thì trẻ cần được trải nghiệm nhiều hơn.
Sau khi làm được đồ dùng, đồ chơi tự tạo, tôi đã sử dụng vào trong hoạt
9
động nặn của trẻ một cách khéo léo, hấp dẫn, phù hợp với nội dung hoạt động,
để cung cấp kiến thức cho trẻ một cách phù hợp. Để một hoạt động nặn đạt kết
quả cao, yếu tố quan trọng là sự chuẩn bị cho hoạt động, đồ dùng, vật mẫu, vật
thật phải đẹp, chính xác, hấp dẫn, phù hợp.
- Đối với thể loại mẫu: Đồ dùng, vật mẫu của cô phải chính xác rõ dàng, dễ nhìn
dễ thấy. Cô sử dụng đưa ra đồ dùng, vật mẫu phải thật cụ thể.
Ví dụ: Chủ đề: Trường mầm non. Sau khi làm được vòng tay tôi đã sử
dụng vào đề tài: “Nặn vòng tay” (mẫu)
Vào đầu tiết hoạt động tôi cho trẻ quan sát cửa hàng vòng tay, trong đó có
bày những chiếc vòng mà tôi và trẻ đã làm. Tôi cho trẻ nhận xét về chiếc vòng.
Tôi cho trẻ quan sát mẫu nặn, trò chuyện cho trẻ nhận xét mẫu.
Tôi thực hiện nặn mẫu. Cho trẻ nêu lên cách nặn.
Trẻ thực hiện năn, tôi đặt vật mẫu ơ 3 nhóm nặn (Vật mẫu giống hệt nhau)
Kết thúc: Tôi cho trẻ trưng bày và nhận xét sản phẩm.
- Đối với thể loại đề tài: Làm đồ dùng trực quan, vật mẫu đa dạng phong phú
hơn (3 mẫu nặn với 3 cách nặn khác nhau nhưng đều thể hiện 1 nội dung) nhưng
nó phải gần gũi với trẻ, với yêu cầu của đề tài.
Ví dụ: Chủ đề: “Thực vật – tết và mùa xuân”. Khi thực hiện làm xong các
loại quả dạng tròn, tôi đã sử dụng vào đề tài: “Nặn quả tròn” (Đề tài)
Vào giờ hoạt động tôi giới thiệu cho trẻ đến thăm quan cửa hàng hoa quả,
trong đó tôi bày các loại quả có dạng hình tròn mà tôi và trẻ đã làm như: Qủa
cam, táo, na, hồng, bươi.
Tôi cho trẻ nhận xét về các loại quả dạng tròn.
Tôi cho trẻ quan sát các vật mẫu, nêu lên đặc điểm khác nhau của các loại
quả tròn.
Cô cho trẻ nêu lên cách nặn và thực hiện nặn.
Cho trẻ trưng bày sản phẩm, khuyến khích trẻ đặt tên cho sản phẩm và nhận
xét sản phẩm.
- Đối với thể loại theo ý thích: Cô đưa đồ dùng trực quan cho trẻ quan sát hoặc
gợi ý để trẻ hứng thú và mô phỏng lại hình ảnh, tạo ra sản phẩm tạo hình nhưng
không phụ thuộc vào sự gợi ý của cô.
Ví dụ: Với tiết nặn theo ý thích, trong chủ đề: Bản thân.
Với đề tài này tôi chuẩn bị đồ dùng trực quan bằng vật thật bao gồm: Bánh
kẹo, vòng, lật đật, …trưng bày.
Vào hoạt động tôi giới thiệu cho trẻ đến quan sát và trò chuyện tạo hứng thú
giúp trẻ thích tạo ra sản phẩm. Tôi hỏi trẻ xem trẻ có ý tương nặn gì?
Khi trẻ thực hiện tôi cho trẻ thực hiện theo ý thích của mình, tôi chỉ hỏi và gợi
ý cho trẻ nặn mô phỏng sản phẩm.
Việc sử dụng đồ dùng, đồ chơi tự tạo trong việc cho trẻ hoạt động nặn, tôi
thấy điều cần lưu ý khi sử dụng đồ dùng, đồ chơi tự tạo là sử dụng phù hợp với
nội dung hoạt động. Đồ dùng, đồ chơi tự tạo đó phải mô phỏng được đúng đối
tượng trẻ cần được tri giác, từ màu sắc đến hình dạng. Và hầu hết tôi sử dụng đồ
dùng, đồ chơi tự tạo ngay vào đầu của hoạt động nặn.
Với biện pháp này, tôi không chỉ tiết kiệm được về mặt kinh tế mà còn
gây được sự hứng thú của trẻ và khi được tiếp xúc với đồ dùng, đồ chơi do trẻ
10
và tôi tự làm, kỹ năng làm đồ dùng, đồ chơi của cô và trẻ ngày càng được rèn
luyện, số lượng đồ dùng, đồ chơi ngày càng đa dạng, phong phú hơn, trẻ rất
thích thú, tích cực trong hoạt động, khắc sâu được biểu tượng cho trẻ, tạo ra sản
phẩm một cách rất khéo léo đạt kết quả cao và đặc biệt hơn nữa là đã góp phần
vào việc tạo môi trường vật chất đáp ứng nhu cầu chơi và trải nghiệm của trẻ.
* Biện pháp 4: Rèn kỹ năng nặn cho trẻ.
Rèn luyện kỹ năng nặn cho trẻ là một biện pháp rất quan trọng vì trẻ 3-4
tuổi kỹ năng nặn của trẻ còn hạn chế. Tôi đã tiến hành rèn kỹ năng nặn cho trẻ
ngay từ đầu năm học.
Ban đầu tôi cho trẻ tiếp xúc làm quen với đất năn, tôi cho trẻ cằm đất nặn
và thực hiện hoạt động mà trẻ thích, sau đó tôi thực hiện rèn kỹ năng cho trẻ từ
dễ đến khó và yêu cầu cao dần đối với trẻ như sau:
- Rèn kỹ năng cho trẻ biết chơi với đất nặn: Trẻ biết nắm, đập, véo từ cục đất to
thành những viên đất nhỏ, chia nhỏ đất hoặc gộp đất lại để nặn, có thể đặt viên
nọ lên viên kia, lăn trên bàn hoặc ấn bẹp viên đất.
- Rèn kỹ năng cho trẻ làm quen một số cách nặn đơn giản: Véo viên đất, gom
chúng lại với nhau, làm mềm đất, lăn tròn, ấn dẹt. Tôi có thể đưa ra các câu hỏi
như: Con làm mềm đất như thế nào ? Con đã lăn tròn như thế nào?...
- Rèn kỹ năng tạo thành một vài sản phẩm đơn giản như: Lăn dọc viên đất tạo
thành viên phấn, đôi đũa, xúc xích, con giun. Lăn xoay tròn viên đất tạo thành
hòn bi, quả cam, chùm quả, con lật đật. Ấn dẹt viên đất tạo thành chiếc bánh,
bánh xe. Phối hợp các thao tác lăn dọc, uốn cong, xoay tròn, ấn dẹt…với nhau
tạo thành đồ vật có 2 hoặc 3 chi tiết như: cái vòng, quả cam có cuống, con lật
đật, cây nấm…
Thời gian đầu cho trẻ lăn đất trên bảng con. Sau đó cho trẻ lăn bằng hai
lòng bàn tay.
Ví dụ: Vào đầu năm học, ơ chủ đề: “Trường mầm non”. Tôi tổ chức cho
trẻ chơi với đất nặn.
Tôi chuẩn bị đất nặn, bảng con, khăn lau cho trẻ. Một số mẫu nặn cục phấn,
hòn bi…
Tôi cho trẻ quan sát những sản phẩm tôi nặn ra như: Viên phấn, hòn bi…
Tôi thực hiện bóp đất, nhào đất, véo cục to ra cục nhỏ, rồi gộp lại, lăn tạo nên
đồ chơi.
Tôi cho trẻ bắt chước hoạt động theo cô: bóp, nhào đất, véo đất, kéo dài viên
đất ra…trẻ vừa làm vừa nói: “đất mềm dẻo”.
Tôi cho trẻ tự làm các động tác như: Chia nhỏ, bóp bẹp và gộp lại.
Tôi cho trẻ thực hiện lăn dọc, xoay tròn tạo ra sản phẩm.
Đến chủ đề: “Bản thân”. Tôi tổ chức cho trẻ “Nặn quả bóng”(mẫu)
Tôi có thể đưa ra các câu hỏi như: Để nặn được quả bóng cần phải làm gì?
Làm thế nào để cho đất dẻo? Các con lăn đất như thế nào? Với hoạt động này tôi
đã rèn cho trẻ được kỹ năng làm mềm đất, lăn tròn và cho trẻ nhận biết rằng để
nặn được quả bóng tròn đẹp thì trẻ cần lăn tròn đất bằng lòng bàn tay, lăn đều
tay.
Tiếp theo tôi tổ chức cho trẻ hoạt động “Nặn vòng tay” (mẫu). Tôi rèn cho trẻ
được kỹ năng lăn dọc, rồi bẻ cong tạo thành vòng. Tôi tổ chức cho trẻ “Nặn
11
bánh xèo” (mẫu). Tôi rèn cho trẻ được kỹ năng lăn tròn, ấn bẹp...
Đến chủ đề: “Gia đình”. Tôi cho trẻ “Nặn bánh hình tròn” (Đề tài), rồi
cho trẻ “Nặn bánh hình dài” (Đề tài)
Tôi cho trẻ luyện được kỹ năng nhào, làm mềm đất, lăn tròn, ấn dẹt, lăn dọc,
bẻ cong để tạo được bánh dạng tròn, lăn dọc, bóp bẹp, ấn bột để tạo bánh mỳ,
cuốn thừng để tạo bánh xoắn....
Ở chủ đề: “Thực vật- tết và mùa xuân”. Tôi tổ chức cho trẻ “Nặn quả
cam” (mẫu), sau đó tôi tổ chức cho trẻ hoạt động “Nặn quả tròn”.
Khi cho trẻ hoạt động “nặn quả cam” trẻ đã rèn được kỹ năng lăn tròn ơ hoạt
động “Nặn quả bóng”, đến hoạt động này tôi củng cố được kỹ năng lăn tròn cho
trẻ và phát huy được kỹ năng lăn dọc, xoay, ấn dẹt để tạo cuống và lá cho quả
cam. Và tôi đã mơ rộng kỹ năng nặn cho trẻ hơn nữa với hoạt động tổ chức cho
trẻ “Nặn quả tròn” (đề tài). Ở hoạt động này yêu cầu trẻ nặn được các quả tròn
khác nhau như quả bươi to, quả táo nhỏ,... màu sắc khác nhau.
Với biện pháp này, tôi đã rèn luyện được ơ trẻ một số kỹ năng cơ bản
trong việc sử dụng đất nặn, trẻ đã có kỹ năng nhào đất, cắt chia đất, nhào luyện
đất một cách khéo léo, nhanh nhẹn. Bên cạnh đó với phương pháp rèn kỹ năng
từ dễ đến khó tôi đã cung cấp được kỹ năng cho trẻ giúp trẻ tạo ra được những
sản phẩm đơn giản phù hợp với khả năng của trẻ.
* Biện pháp 5: Sử dụng linh hoạt các hình thức tổ chức cho trẻ 3-4 tuổi hoạt
động tạo hình thể loại nặn để nhằm phát triển thẩm mĩ.
Để có những hoạt động hay phù hợp với trẻ 3-4 tuổi, bản thân tôi cần phải
nắm vững kiến thức hướng dẫn thực hiện hoạt động nặn cho trẻ 3-4 tuổi. Bên
cạnh đó tôi lựa chọn đề tài gần gũi với trẻ, phù hợp với lứa tuổi, khả năng của
trẻ, rồi xây dựng kiến thức, kỹ năng cho trẻ thật chính xác, giáo án soạn chi tiết
rõ ràng, nội dung bài dạy phải sáng tạo phù hợp với độ tuổi của trẻ. Cần tích cực
học tập tiếp thu những kiến thức, công nghệ mới để ứng dụng vào bài dạy.
Muốn có hoạt động mà phát huy được tính tích cực ơ trẻ thì ơ trong lớp tôi
đã sắp xếp các nguyên vật liệu hợp lý để cho trẻ dễ thấy, dễ lấy, trẻ được hoạt
động và trưng bày sản phẩm của mình. Tôi luôn coi trọng việc tạo cho trẻ hoạt
động tích cực vì vậy khi hướng dẫn tôi luôn dựa vào trẻ, lấy trẻ làm trung tâm
làm chủ thể của hoạt động, tôi luôn tạo điều kiện để trẻ phát triển khả năng,
phân tích suy nghi về nhiệm vụ, tìm cách thực hiện và luôn khuyến khích, động
viên giúp trẻ tự tin, tích cực, chủ động thể hiện sự sáng tạo của trẻ. Để đạt được
điều này việc thay đổi hình thức trong từng hoạt động là rất quan trọng trong
việc nhằm phát triển hiệu quả sự truyền đạt đến với trẻ. Cụ thể đi vào từng thể
loại hoạt động như sau:
- Với hoạt động nặn theo mẫu: Thể loại nặn theo mẫu cung cấp biểu tượng kỹ
năng mới cho trẻ thông qua các hoạt động mô tả chính xác hình dạng, kích
thước, màu sắc, đặc điểm của một vật thật cụ thể với vật mẫu, trẻ phải được
quan sát tổng quát đến chi tiết. Với hoạt động này tôi cần giúp trẻ tiếp tục suy
nghi bằng các câu hỏi gợi ý. Rồi sau đó tôi làm mẫu và phân tích cách làm, tuy
nhiên quá trình làm mẫu của tôi luôn lấy trẻ làm trung tâm làm chủ thể của hoạt
động.
Ví dụ: Chủ đề: Thực vật – Tết và mùa xuân. Đề tài: “Nặn quả cam” (mẫu)
12
+ Chuẩn bị: Trước ngày hoạt động tôi cho trẻ quan sát quả cam thật, tôi cho trẻ
nêu được đặc điểm của quả cam. Chuẩn bị mô hình vườn cam, mẫu nặn quả
cam, đất nặn, bảng, khăn lau tay.
+ Hoạt động của cô và trẻ: Vào giờ hoạt động tôi giới thiệu cho trẻ đi thăm quan
vườn cam. Tôi trò truyện cho trẻ nhận xét về vườn cam, quả cam.
Tôi cho trẻ quan sát và nhận xét vật mẫu: Con có nhận xét gì về quả cam?
(Trẻ nêu lên được đặc điểm, hình dạng, màu sắc của quả cam).
Tôi khích lệ trẻ nặn quả cam để bày bán trong siêu thị của bé.
Tôi nặn mẫu tiếp tục cho trẻ quan sát kết hợp với phân tích bằng lời nói nhẹ
nhàng để cung cấp kỹ năng nặn chi tiết như: Nhào đất, véo đất cho đất mềm,
xoay tròn,...
Cho 2-3 trẻ nêu lại cách nặn quả cam.
Cho cả lớp cùng làm miêu tả động tác xoay tròn.
Trẻ thực hiện: Tôi để trẻ tự véo đất, tự nặn, chỉ hướng dẫn khi trẻ chưa biết
làm.
Khi trẻ nặn xong, tôi gợi ý cho trẻ nặn cuống, lá cho quả cam sinh động hơn
hoặc gợi ý cho trẻ xé giấy làm lá gắn vào cuống (tôi giúp trẻ xé giấy nếu trẻ
chưa biết xé)
Kết thúc: Tôi cho trẻ trưng bày sản phẩm, nhận xét sản phẩm và cho trẻ
mang đến quầy bán hàng bày trong siêu thi của bé.
Ảnh 6: Sử dụng đồ dùng trực quan vườn cam cho trẻ quan sát ( Phụ lục)
- Hoạt động nặn theo đề tài: Tôi thay đổi hình thức nhằm thu hút trẻ tập trung
vào hoạt động. Với hoạt động nặn theo đề tài thì phải có vật mẫu (thường thì 3
vật để trẻ quan sát, tìm hiểu từ đó trẻ sáng tạo), cả 3 vật mẫu đều thể hiện một
nội dung giống nhau nhưng cách nặn có sự sáng tạo dần, mỗi mẫu thêm một chi
tiết, để khi trẻ quan sát tranh trẻ tìm ra những chi tiết khác biệt, từ đó hình thành
ơ trẻ tư duy, khả năng sáng tạo. Giới thiệu và hướng dẫn trẻ các ki năng tỉ mỉ và
theo trình tự từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp. Cho trẻ nói lên sự khác
nhau giữa 3 vật mẫu.
Ví dụ: Chủ đề: Bản thân. Đề tài: “Nặn những chiếc vòng tay” (đề tài).
Trước khi vào hoạt động, tôi nhắc trẻ về quan sát những chiếc vòng tay mà
trẻ yêu thích. Ngoài giờ cô cho trẻ quan sát và trò chuyện với trẻ đặc điểm của
các loại vòng khác nhau, như vòng to, vòng nhỏ, màu sắc của các loại vòng khác
nhau…
+ Chuẩn bị: Tôi chuẩn bị sử dụng Paboy (Hình ảnh cửa hàng các loại vòng tay
tròn, to, nhỏ và màu sắc khác nhau). Vật mẫu, đất nặn, bảng, khăn lau tay.
+ Hoạt động của cô và trẻ:
Vào bài tôi cho trẻ hát và vận động bài: “Bàn tay nắm lại”
Tôi giới thiệu và trình chiếu baboy cho trẻ quan sát trò chuyện với trẻ về đắc
điểm của các loại vòng.
Cho trẻ quan sát vật mẫu: Con có nhận xét gì về những chiếc vòng này? Hai
chiếc vòng này có đặc điểm gì khác nhau? (gợi ý để trẻ nêu được những chiếc
vòng to, nhỏ, màu sắc khác nhau)
Tôi cùng trẻ nhắc lại động tác nhào đất, chia đất (Vòng to phải lấy nhiều đất
hơn, vòng nhỏ lấy ít đất hơn) và lăn dọc trên bảng.
13
Trẻ thực hiện, tôi động viên, khuyến khích trẻ. Gợi ý cho trẻ chia viên đất
thành 2 hoặc 3 phần nhỏ, sau đó lần lượt lăn dọc trên bảng nhẹ nhàng và đều tay
để thỏi đất dài ra, nhỏ đều. Tôi gợi cho trẻ cách bẻ cong các thỏi đất để tạo thành
vòng tròn to, nhỏ. Khuyến khích trẻ nặn được nhiều sản phẩm, màu sắc khác
nhau.
Kết thúc: Tôi cho trẻ trưng bày sản phẩm, nhận xét sản phẩm và khuyến
khích trẻ đặt tên cho sản phẩm.
Ảnh 7: Sản phẩm của trẻ nặn những vòng tay ( Phụ lục.)
- Hoạt động nặn theo ý thích: Với hoạt động này, tôi ít khi cho trẻ xem vật mẫu
mà tôi gợi cho trẻ sự hứng thú và tạo cho trẻ nhớ lại các biểu tượng mà trẻ mô
phỏng lại các biểu tượng đó nằm trong chủ đề, như vậy là nhằm kích thích trẻ
tích cực tư duy, làm tăng tính tích cực hoạt động trí tuệ của trẻ.
Ví dụ: Chủ đề: Trường mầm non. Đề tài: Nặn đồ chơi theo ý thích.
+ Chuẩn bị: Cờ líp quay đồ dùng, đồ chơi trong lớp học (Lật đật, vòng, gậy thể
dục, ô tô, các khối ghép,…ơ các góc)
+ Hoạt động của cô và trẻ:
Tôi cho trẻ xúm xít bên tôi, tôi cho trẻ xem cờ líp rồi cùng trẻ trò chuyện.
Tôi hỏi trẻ: Trẻ thích những đồ chơi nào trong lớp? (tên gọi, hình dạng, công
dụng của chúng).
Trẻ cùng tôi nói về cách nặn chúng (lăn dọc, xoay tròn…)
Trẻ thực hiện: Tôi khuyến khích trẻ tạo nên những sản phẩm phong phú, tuỳ
theo ý thích.
Tôi cho cả lớp bày sản phẩm xem chung. Cho trẻ nhận xét sản phẩm trẻ yêu
thích.
Tôi cho trẻ đặt tên cho sản phẩm của trẻ.
Tôi cho trẻ mang đến trưng bày ơ cửa hàng lưu niệm bán đồ dùng, đồ chơi.
Ảnh 8: Cô và trẻ đang quan sát và trò chuyện về đồ dùng, đồ chơi qua
clíp. (Phụ lục)
Với biện pháp này, sau khi sử dụng linh hoạt các hình thức hoạt động, tôi
thấy trẻ hứng thú, say mê, thích thú tham gia hoạt động nặn tạo ra sản phẩm đạt
hiệu quả cao hơn, có sự sáng tạo phát triển được thẩm mỹ cho trẻ.
* Biện pháp 6: Cho trẻ trải nghiệm mọi lúc, mọi nơi.
Bên cạnh những biện pháp trên, để hỗ trợ cho việc rèn luyện kỹ năng nặn
cho trẻ tôi thường tổ chức cho trẻ hoạt động nặn ơ các hoạt động khác như: Hoạt
động ơ ngoài trời, hoạt động góc, hoạt động chiều, hoạt động lồng ghép ơ các
tiết học…
- Hoạt động đón, trả trẻ: Tôi có thể trao đổi với phụ huynh về khả năng, năng
khiếu vốn có của trẻ để cùng bồi dưỡng phối hợp với nhà trường. Trong lúc chờ
bố mẹ đón về. Tôi chuẩn bị đồ dùng để trẻ nặn theo ý thích. Những lúc này tôi
chỉ cần đến gần và hỏi trẻ đang nặn gì? nặn như thế nào? có thể gợi ý động viên
và khuyến khích để trẻ nặn. Khi bố mẹ đến đón trẻ, tôi giới thiệu cho bố mẹ xem
sản phẩm của trẻ. Từ đó kích thích trẻ hoạt động tích cực, ham muốn được nặn.
- Hoạt động lồng ghép ơ các hoạt động học chủ đích: Với hoạt động này tôi
thường lồng ghép hoạt động nặn vào cuối hoạt động để củng cố hoạt động, tuỳ
14
từng hoạt động mà tôi lồng ghép cho phù hợp, khắc sâu được nội dung hoạt
động mà lại rèn được kỹ năng nặn cho trẻ.
Ví dụ: + Với hoạt động dạy hát bài “Mừng sinh nhật” ơ chủ đề: “Bản
thân”. Cuối hoạt động tôi cho trẻ nặn quà tặng sinh nhật bạn búp bê, trẻ có thể
nặn bánh dạng tròn, bánh dạng dài, nặn kẹo, nặn vòng … để tặng bạn búp bê.
Ảnh 9: Sản phẩm của trẻ nặn quà tặng bạn búp bê ( Phụ lục.)
+ Với hoạt động văn học, truyện: “Đôi bạn tốt” ơ chủ đề: Trường
mầm non. Cuối hoạt động tôi cho trẻ nặn thức ăn để tặng gà và vịt (trẻ nặn giun,
thóc..).
+ Với hoạt động khám phá khoa học: Một số con vật nuôi trong
gia đình. Cuối tiết học tôi cho trẻ nặn thức ăn cho các con vật như: Trẻ nặn giun,
hạt thóc…
- Chơi hoạt động góc: Với hoạt động này đa số tôi cho trẻ được trải nghiệm thực
hiện nặn ơ góc nghệ thuật, góc xây dựng và góc phân vai, nấu ăn được thể hiện
phù hợp theo chủ đề.
Ví dụ: Chủ đề: “Thực vật – tết và mùa xuân”.
Ở góc nghệ thuật: Tôi cho trẻ nặn các loại quả có dạng tròn hoặc nặn quả có
dạng dài...
Ở góc phân vai: Tôi cho trẻ nặn bánh để nấu ăn.
Ở góc xây dựng: Tôi cho trẻ nặn lá ghép vào cây, để xây dựng được công viên
cây xanh, vườn cây ăn quả...
Ảnh 10: Trẻ đang nặn quả ở góc nghệ thuật ( Phụ lục)
- Hoạt động dạo chơi ngoài trời: Tôi cho trẻ quan sát các sự vật, hiện tượng
trong thiên nhiên cuộc sống. Tôi cho trẻ trải nghiệm hoạt động gần gũi với sự
vật. Tôi khuyến khích trẻ nặn tạo ra sản phẩm.
Ví dụ: Tôi cho trẻ trải nghiệm chơi với cát, trẻ dùng khuôn in bánh hình
vuông, hình tròn, in hoa…Hoặc cho trẻ quan sát “Con giun”, vào hoạt động nặn
tôi cho trẻ nặn con giun.
Ảnh 11: Trẻ đang trải nghiệm đúc cát thành bánh tròn, vuông ( Phụ lục.)
- Hoạt động chiều: Tôi khuyến khích trẻ tham gia hoạt động nặn theo ý thích để
trẻ được thể hiện theo khả năng và mô phỏng lại biểu tượng hoặc cho trẻ nặn để
củng cố kiến thức. Qua đó tôi giúp đỡ trẻ không biết nặn để tạo ra những sản
phẩm mà trẻ yêu thích.
Ví dụ: Chủ đề: “Phương tiện giao thông” Buổi sáng trẻ học hát bài: “Đèn
xanh, đèn đỏ”, buổi chiều tôi cho trẻ nặn đèn giao thông (đèn xanh, đèn đỏ).
Ngoài ra vào hoạt động chiều tôi còn tổ chức hội thi cho trẻ như thi nặn ơ
trong lớp, các cá nhân, các tổ thi nặn với nhau để tạo ra sản phẩm...
Ví dụ: Nhân ngày 8/3 tôi tổ chức hội thi “Bé khéo tay” cho các tổ thi
nhau nặn bánh. Tôi phân giải nhất, giải nhì, giải ba để khuyến khích trẻ thể hiện
hết mình. Cuối cuộc thi tôi cho các tổ nhận xét và trao quà cho các tổ. Do vậy
trẻ rất thích thú, phấn khơi, trẻ được giải cao sẽ cố gắng giỏi hơn bạn, trẻ được
giải thấp hơn sẽ gắng để lần sau cho bằng bạn. Qua đó kích thích trẻ tạo ra sản
phẩm và rèn kỹ năng nặn cho trẻ đạt kết quả cao.
Với biện pháp này, trẻ được trải nghiệm trong mọi hoạt động, sẽ giúp trẻ
khắc sâu được kiến thức, trẻ hào hứng, tích cực trong hoạt động và rèn luyện
15
được kỹ năng nặn cho trẻ.
* Biện pháp 7: Lồng ghép tích hợp các hoạt động học, chuyên đề vào hoạt
động tạo hình thông qua thể loại nặn.
Để giờ học không nhàm chán, tạo hứng thú, sự chú ý của trẻ và mang tính
chất giáo dục cao, tôi thường lồng ghép các hoạt động học và chuyên đề vào
hoạt động nặn của trẻ. Song tôi chú ý lồng ghép tích hợp thế nào sao cho phù
hợp, không làm sao nhãng hoạt động chính. Vì thế tôi thường lồng ghép vào đầu
hoạt động hoặc kết thúc hoạt động.
Ví dụ: Chủ đề: Bản thân. Đề tài: “Nặn bánh hình tròn” (mẫu)
Tôi lồng ghép hoạt động văn học, giáo dục vệ sinh cá nhân.
Vào giờ học tôi cho trẻ đọc bài thơ: “Bé ơi”
Cô và các con vừa đọc bài thơ gì? Bài thơ nói về điều gì? (Nhắc nhơ trẻ chơi
bóng mát, ăn xong rửa tay sạch sẽ, sớm ngủ dạy rửa mặt đánh răng). Tôi kết hợp
giáo dục trẻ vệ sinh cá nhân.
Tôi dẫn dắt hướng trẻ đến với hoạt động “Nặn các bánh hình tròn”.
Ví dụ: Chủ đề: Gia đình. Đề tài: “Nặn đôi đũa” (mẫu)
Vào bài tôi kể cho trẻ nghe đoạn truyện “Đôi đũa thần”
Các con thấy đôi đũa trong câu truyện như thế nào? (Trẻ nêu lên nhận xét của
mình)
Hôm này cô và các con sẽ cùng nhau nặn những đôi đũa nhé.
Tôi cho trẻ quan sát, nhận xét mẫu nặn. Tôi thực hiện nặn mẫu cho trẻ quan
sát.
Tôi cho trẻ nêu cách nặn và thực hiện nặn (tôi động viên, khuyến khích trẻ
nặn)
Tôi cho trẻ trưng bày, nhận xét sản phẩm.
Kết thúc: Tôi hỏi trẻ đôi đũa dùng để làm gì?
Tôi giáo dục trẻ trong ăn uống phải xúc ăn gọn gàng không làm vơi vãi, ăn
hết xuất.
Như vậy, vào đầu hoạt động khi tôi lồng ghép tích hợp hoạt động văn học
truyện kể, tôi đã lôi cuốn được sự chú ý của trẻ, từ nội dung câu truyện trẻ muốn
tự tay mình nặn nên những đôi đũa thần như trong câu truyện vì thế trẻ rất thích
thú và hào hứng trong hoạt động. Kết thúc hoạt động tôi đã lồng ghép giáo dục
được trẻ trong vệ sinh ăn uống hàng ngày.
Ví dụ: Chủ đề: Phương tiện giao thông. Đề tài: “Nặn những chiếc bánh
xe” (Đề tài)
Tôi lồng ghép hoạt động “Âm nhạc” và chuyên đề an toàn giao thông.
Vào bài tôi cho trẻ hát bài: “Em tập lái ô tô”
Tôi trò chuyện với trẻ về ô tô và dẫn dắt trẻ vào hoạt động “Nặn những chiếc
bánh xe”
Tôi cho trẻ quan sát trò chuyện về những chiếc bánh xe
Trẻ thực hiện nặn, tôi động viên, khuyến khích, gợi ý cho trẻ nặn.
Kết thúc: Tôi cho trẻ trưng bày, nhận xét sản phẩm.
Hàng ngày đến trường ông bà, bố mẹ đưa các con đi học bằng phương tiện
giao thông gì? (Trẻ kể)
Khi ngồi trên xe tham gia giao thông các con ngồi như thế nào?
16
Khi đi trên đường chúng ta đi về phía tay của mình nào?
(Tôi giáo dục trẻ chấp hành luật lệ giao thông)
Với biện pháp này, tôi thấy trẻ rất hứng thú tham gia vào hoạt động, trẻ
không chỉ nắm được kiến thức hoạt động trọng tâm mà tôi còn giúp trẻ nắm
được các kiến thức hoạt động trong chuyên đề, hình thành kỹ năng sống cho trẻ
và khi kết thúc hoạt động trẻ đã không bị hụt hững, nhàm chán.
* Biện pháp 8: Phối kết hợp giữa cô giáo, gia đình và nhà trường.
Bác Hồ kính yêu đã dạy: “Giáo dục nhà trường chỉ là một phần còn cần
có sự giáo dục ở gia đình, ngoài xã hội, giáo dục ở nhà trường dù tốt đến mấy
nhưng thiếu giáo dục ở gia đình và xã hội thì kết quả cũng không hoàn toàn”.
Vì vậy việc phối kết hợp giữa gia đình và nhà trường vô cùng quan trọng, đặc
biệt là với cô giáo chủ nhiệm sẽ đi đến sự thống nhất về mục đích, nội dung,
phương pháp, hình thức hoạt động đến trẻ, nhằm mang lại hiệu quả trong công
tác chăm sóc giáo dục trẻ nói chung và hoạt động tạo hình thể loại nặn nói riêng.
Qua thực tế cho thấy nhiều phụ huynh vẫn cho rằng, trẻ mẫu giáo 3-4 tuổi
đến trường chỉ để múa hát, đọc thơ, chơi, vẫn chưa nghi đến trẻ được làm quen
với tất cả các hoạt động giáo dục, đặc biệt hoạt động tạo hình thể loại nặn phụ
huynh vẫn chưa nghi tới.
Hiểu rõ được điều này, ngay từ đầu năm học khi họp phụ huynh học sinh tôi
đã trao đổi với phụ huynh về tình hình của lớp, về đặc điểm tâm sinh lý của trẻ
3-4 tuổi, về tầm quan trọng của các hoạt động ơ lớp 3-4 tuổi trong đó có “hoạt
động tạo hình thể loại nặn”, về ý tương sử dụng các nguyên vật liệu sẵn có vào
hoạt động tạo hình nói chung và thể loại nặn nói riêng, để phụ huynh cùng tôi
tạo điều kiện cho trẻ học tập, hoạt động một cách tích cực nhất. Có rất nhiều phụ
huynh lớp tôi, khi tôi đưa ra một số biện pháp sử dụng các nguyên vật liệu ơ
nhà, nguyên vật liệu sẵn có trong tự nhiên như đất sét, bột mì…vào việc để trẻ
hoạt động nặn thì nhiều phụ huynh không yên tâm lắm, nhiều phụ huynh còn
cho rằng con mình còn quá bé chẳng biết làm gì? Có những phụ huynh thì rất
ngạc nhiên khi được tôi trao đổi về cách sử dụng đồ dùng, đồ chơi tự tạo vào
hoạt động cho trẻ. Cũng có phụ huynh khi tham gia không mấy hào hứng.
Nhưng sau một thời gian tôi cho trẻ hoạt động có hiệu quả thì hầu hết các bậc
phụ huynh tích cực, hăng hái tham gia.
Tôi thường xuyên trao đổi với phụ huynh về tình hình của trẻ để phụ huynh
nắm bắt được tâm sinh lý của từng trẻ, những trẻ yếu kém và những trẻ có năng
khiếu gia đình bồi dưỡng thêm. Bên cạnh đó trước và sau giờ hoạt động tôi còn
trao đổi cho phụ huynh biết được đề tài của buổi hoạt động, để các bậc phụ
huynh bồi dưỡng thêm cho con, để con nắm sâu kiến thức hơn và tạo điều kiện
giúp trẻ ôn luyện khắc sâu và củng cố kiến thức đã học ơ trên lớp và ơ nhà.
Ví dụ: Trước ngày hoạt động đề tài: “Nặn đôi đũa”. Tôi trao đổi với phụ
huynh về cho con quan sát đôi đũa, để khi đến lớp trẻ trao đổi cùng cô và trẻ biết
mô phỏng lại biểu tượng về đôi đũa.
Để đạt kết quả tốt hơn nữa tôi đã xây dựng góc trao đổi với phụ huynh
ngay trước cửa lớp để phụ huynh nắm bắt được nội dung hoạt động của con.
Ngoài ra tôi còn huy động các bậc phụ huynh ủng hộ khuyên góp các nguyên vật
liệu, phế thải để giúp trẻ tham gia hoạt động tạo hình nói chung và thể loại nặn
17
nói riêng đạt hiểu quả cao. Các bậc phụ huynh lớp tôi đã rất phấn khơi tham gia
quyên góp nguyên vật liệu, phế thải. Về phía nhà trường, tôi đã tham mưu với
nhà trường mua sắm thêm trang thiết bị, bổ xung đồ dùng, đồ chơi, xây dựng tạo
môi trường hoạt động phục vụ cho hoạt động tạo hình, trong đó có hoạt động
nặn.
Ảnh 12: Phụ huynh đang mang nguyên vật liệu, phế liệu để quyên góp.
(Phụ lục.)
Với biện pháp này, tôi đã không những giúp trẻ biết hoạt động với tạo
hình thể loại nặn tốt hơn mà còn giúp phụ huynh hiểu rõ hơn về tầm quan trọng
của việc giáo dục trẻ của ngành học mầm non và đồng thời làm cho các bậc phụ
huynh phấn khơi với sự hiểu biết của con em mình, các bậc phụ huynh đã phối
hợp chặt chẽ và ủng hộ nhà trường về học liệu, ngày công, nhằm tăng cường cơ
sơ vật chất, trang thiết bị đáp ứng nhu cầu giáo dục trẻ tại trường.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm.
Sau khi áp dụng các biện pháp trên với trẻ 3-4 tuổi thông qua hoạt động
tạo hình thể loại nặn, trường mầm non Quang Lộc, năm học 2017-2018, đã đạt
được kết quả như sau:
Bảng 2: Kết quả đạt được sau khi áp dụng các biện pháp
Đạt
Chưa đạt
Tổng
Trung
Nội dung khảo sát
Tốt
Khá
Yếu
số trẻ
bình
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
Trẻchú ý lắng
25
8
32
13
52
4
16
0
0
nghe.
Trẻ có kỹ năng nặn,
sử dụng màu phù
25
7
28
13
52
5
20
0
0
hợp.
Đặt tên cho sản
25
7
28
13
52
5
20
0
0
phẩm.
Trẻ biết nhận xét
25
6
24
14
56
5
20
0
0
sản phẩm.
* Đối với trẻ:
Với việc áp dụng các biện pháp trên, tôi đã thu được kết quả trên trẻ rất
khả quan và chất lượng phát triển thẩm mỹ của trẻ được nâng lên, được biết là
trong hoạt động nặn của trẻ được nâng lên rõ rệt cụ thể là:
Trẻ chú ý lắng nghe: Đạt tốt, khá: 84%. Yếu: 0
Trẻ có kỹ năng nặn, sử dụng màu phù hợp: Đạt tốt, khá: 80%. Yếu: 0
Đặt tên cho sản phẩm: Đạt tốt, khá: 80%. Yếu: 0
Trẻ biết nhận xét sản phẩm: Đạt tốt, khá: 80%. Yếu: 0
Trẻ hứng thú vào hoạt động một cách tích cực, sáng tạo, hình thành kỹ năng
nặn, tạo ra được sản phẩm.
Trẻ thích được tự mình tạo ra sản phẩm mà mình yêu thích, biết nhận xét và
đạt tên cho sản phẩm, biết yêu quý, giữ gìn sản phẩm.
Trẻ được rèn luyện có đôi bàn tay khéo léo, và sự phối hợp nhịp nhàng giữa
các giác quan, phát triển ngôn ngữ cho trẻ.
18
Trẻ được mơ rộng, hiểu biết thêm về thiên nhiên, cuộc sống con người.
Hình thành ơ trẻ những phẩm chất đạo đức tốt, biết yêu cái đẹp và làm ra
cái đẹp. Biết yêu thương những người gần gũi với trẻ, biết quý trọng bảo vệ cái
đẹp trong cuộc sống gia đình - xã hội, môi trường thiên nhiên, góp phần phát
triển thẩm mỹ cho trẻ.
* Đối với bản thân:
Trong hoạt động tạo hình thì hoạt động thể loại nặn là một trong những
hoạt động đòi hỏi tính kiên trì, sự khéo léo, dẻo dai của đôi bàn tay rất là cao.
Thông qua nghiên cứu bản thân tôi đã đúc rút thêm cho mình những kiến thức
về biện pháp hướng dẫn trẻ hoạt động với tạo hình nói chung và thể loại nặn nói
riêng. Bên cạnh đó còn cho tôi rút ra được những kinh nghiệm trong việc làm đồ
dùng, đồ chơi và tổ chức các hoạt động tạo hình (thể loại nặn)
Với kết quả đó là niềm vui lớn, luôn động viên tôi yêu nghề mến trẻ và
hoàn thành tốt nhiệm vụ chăm sóc, giáo dục trẻ.
* Đối với đồng nghiệp:
Sau khi tôi áp dụng một số biện pháp trên và đạt kết quả, tôi đã trao đổi
chia sẻ với đồng nghiệp trong khối để nhân ra diện rộng.
* Với nhà trường:
Tổ chức dự giờ, thao giảng để bồi dưỡng cho giáo viên trong toàn trường
và tăng cường trang thiết bị, đồ chơi cho hoạt động tạo hình nói chung và hoạt
động nặn nói riêng.
3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận.
Thông qua tổ chức cho trẻ hoạt động tạo hình nói chung, thể loại nặn nói
riêng, đã hình thành và phát triển thẩm mỹ cho trẻ. Sau khi vận dung “Một số
biện pháp phát triển thẩm mỹ cho trẻ 3-4 tuổi thông qua hoạt động tạo hình
(nặn), trường mầm non QuangLộc, năm học 2017-2018”, từ những kết quả đạt
được ơ trên, tôi đã rút ra bài học kinh nghiệm:
Cần nắm vững đặc điểm tâm sinh lý của trẻ, thực trạng của lớp, cũng như
điều kiện của lớp, của trẻ để tổ chức cho trẻ hoạt động tốt tạo hình nói chung thể
loại nặn nói riêng.
Ngay ban đầu cần rèn luyện cho trẻ một thói quen nề nếp trong hoạt
động. Cô luôn nhẹ nhàng, tình cảm. Động viên, khích lệ, khen gợi trẻ kịp thời.
Xây dựng được môi trường trong và ngoài lớp thật hấp dẫn, màu sắc hài
hoà, gần gũi và thu hút sự chú ý của trẻ.
Tăng cường làm đồ dùng, đồ chơi tự tạo để cung cấp biểu tượng cho trẻ.
Tìm ra nguyên vật liệu sẵn có để phục vụ cho hoạt động. Nguyên vật liệu phải
an toàn, tạo ra đồ chơi phải thu hút được trẻ vào giờ hoạt động tốt. Cho trẻ tham
gia trải nghiệm làm đồ dùng, đồ chơi cùng để khắc sâu biểu tượng cho trẻ.
Luôn có sự uốn nắn, rèn kỹ năng cho trẻ theo hình thức từ dễ đến khó, từ
đơn giản đến phức tạp.
Vận dụng kiến thức vào hoạt động phải phù hợp với khả năng nhận thức
của trẻ. Cần sử dụng linh hoạt các hình thức tổ chức. Khi cô làm mẫu phải chính
xác, tỉ mi, rõ dàng.
Luôn phát huy tính tích cực sáng tạo của trẻ để trẻ tư duy, suy nghi và để
19
tạo ra sản phẩm đẹp.
Tận dụng, tranh thủ mọi lúc, mọi nơi để tạo cơ hội cho trẻ được trải nghiệm
nhiều (hoạt động nặn).
Luôn có sáng tạo, có lồng ghép tích hợp các hoạt động khác phải phù hợp
vào từng đề tài, chủ đề.
Làm tốt công tác phối kết hợp giữa giáo viên, nhà trường và với phụ
huynh, có thái độ niềm nơ, tế nhị để trao đổi, gặp gỡ phụ huynh cùng thống nhất
quan điểm, các biện pháp giáo dục trẻ để giúp trẻ phát triển một cách toàn diện.
3.2. Kiến nghị.
Qua nghiên cứu và giảng dạy tôi nhận thấy rằng để trẻ hoạt động tạo hình
thể loại nặn đạt kết quả cao, ngoài sự cố gắng nỗ lực của giáo viên còn rất cần sự
quan tâm giúp đỡ tạo điều kiện của nhà trường và các cấp lãnh đạo vì vậy tôi xin
có một số kiến nghị sau:
* Ban giám hiệu:
- Thường xuyên tổ chức các chuyên đề, tổ chức thao giảng, thường xuyên tổ
chức các ngày hội, ngày lễ cho học sinh được tham gia để phát huy được năng
khiếu ơ trẻ, tạo cho trẻ tính mạnh dạn, tự tin, độc lập trước đông người.
- Nhà trường tạo điều kiện thêm về thời gian cũng như kinh phí để giáo viên làm
thêm đồ dùng, đồ chơi tự tạo phục vụ cho nội dung hoạt động thêm phong phú,
kích thích hứng thú và sáng tạo của trẻ trong hoạt động nặn.
* Phòng giáo dục:
- Phòng giáo dục định biên đủ giáo viên để đảm bảo cho việc chăm sóc, giáo
dục, nuôi dưỡng trẻ.
Trên đây là “Một số biện pháp phát triển thẩm mỹ cho trẻ 3-4 tuổi thông
qua hoạt động tạo hình (nặn), trường mầm non Quang Lộc, năm học 20172018”. Rất mong nhận được sự đánh giá, đóng góp ý kiến của các cấp lãnh đạo
và các bạn đồng nghiệp để đề tài được hoàn thiện hơn cho những năm học tiếp
theo.
Tôi xin chân thành cảm ơn !
XÁC NHẬN CỦA HỘI ĐỒNG
KHOA HỌC NGÀNH GD&ĐT
HẬU LỘC
Hậu Lộc, ngày 18 tháng 05 năm
2018
Tôi xin cam đoan đây là SKKN
của mình viết, không sao chép nội
dung của người khác.
Tác giả
Tống Thị Tuyến
20
MỤC LỤC
Nội dung
1. MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn đề tài.
1.2. Mục đích nghiên cứu.
1.3. Đối tượng nghiên cứu.
1.4. Phương pháp nghiên cứu.
1.5. Những điểm mới của sáng kiến kinh nghiệm.
2. NỘI DUNG
2.1. Cơ sơ lý luận.
2.2. Thực trạng của vấn đề.
2.3. Các biện pháp để giải quyết vấn đề.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm.
3. KẾT LUẬN VÀ KIỄN NGHỊ
3.1. Kết luận.
3.2. Kiến nghị.
Trang
1
1
2
2
2
2
2
2
3
5
18
19
19
20
21
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Tác giả: Lương Thị Bình – Hoàng Thị Dinh – Hoàng Thị Thu Hương – Bùi
Thị Lâm – Nguyễn Thị Quyên – Nguyễn Thị Thanh Giang – Bùi Thị Kim
Tuyến. Hướng dẫn thực hành áp dụng quan điểm giáo dục lấy trẻ làm trung tâm
trong trường mầm non. Nhà xuất bản giáo dục Việt Nam. Năm 2017.
2. Tác giả: TS. Lê Thu Hương - PGS. TS. Lê Thị Ánh Tuyết - TS. Trần Thị
Ngọc Trâm (Đồng chủ biên). Hướng dẫn tổ chức thực hiện chương trình giáo
dục mầm non. Mẫu giáo bé (3-4 tuổi). Nhà xuất bản giáo dục Việt Nam. Năm
2010.
3. Tác giả: TS. Lê Thu Hương (chủ biên). Lê Thị Đức - Phùng Thị Tường Nguyễn Thanh Thuỷ. Viện chiến lược và chương trình giáo dục. Trung tâm
nghiên cướu chiến lược và phát triển chương trình Giáo Dục Mầm Non. Tổ chức
hoạt động tạo hình cho trẻ mầm non theo hướng tích hợp. Nhà xuất bản giáo
dục. Năm 2017.
4. Tác giả: Phan Lan Anh - Hoàng Công Dụng - Nguyễn Thị Hiếu - Nguyễn
Thanh Giang - Đặng Lan Phương. Tuyển tập trò chơi, bài hát, thơ ca, truyện kể,
câu đố dành cho trẻ, 3-4 tuổi theo chủ đề (Theo Chương trình Giáo dục mầm
non). Nhà xuất bản giáo dục Việt Nam. Năm 2014.
22
DANH MỤC
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN KINH
NGHIỆM NGHÀNH GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HUYỆN, TỈNH VÀ CÁC
CẤP CAO HƠN XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN.
Họ và tên tác giả: Tống Thị Tuyến
Chức vụ và đơn vị công tác: Trường mầm non Quang lộc.
T
T
1
2
3
4
Tên đề tài sáng kiến kinh
nghiệm
Một số biện pháp “Nâng cao
chất lượng cho trẻ 5-6 tuổi
làm quen với tạo hình”
trường mầm non Quang Lộc.
Một số biện pháp “Nâng cao
chất lượng làm quen với tác
phẩm văn học cho trẻ 4-5
tuổi” trường mầm non
Quang Lộc.
Một số biện pháp “Nâng cao
chất lượng cho trẻ 4-5 tuổi
làm quen với tác phẩm văn
học” trường mầm non
Quang Lộc.
Một số biện pháp phát triển
thẩm mỹ cho trẻ 3-4 tuổi
thông qua hoạt động tạo
hình (nặn), trường mầm non
QuangLộc, năm học 20172018.
Cấp đánh
giá xếp loại
Kết quả
đánh giá
xếp loại
Năm học
đánh giá
xếp loại
Cấp tỉnh
B
2010-2011
Cấp huyện
B
2013-2014
Cấp huyện
C
2015-2016
Cấp huyện
A
2017-2018
23