Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

skkn một số biện pháp phát triển thể chất cho trẻ 5 6 tuổi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (158.44 KB, 21 trang )

1. MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài:
Như Bác Hồ đã nói:
“Trẻ em như búp trên cành
Biết ăn biết ngủ biết học hành là ngoan”
Vì vậy mọi người, mọi nhà và xã hội hãy dành những gì tốt đẹp nhất cho
trẻ.
Và trường mầm non là nơi đầu tiên hình thành và phát triễn nhân cách cho
trẻ. Đây là một nhiệm vụ hết sức quan trọng và nặng nề đối với mỗi người giáo
viên mầm non. Chúng tôi là những người con trực tiếp dạy dỗ và chăm sóc các
cháu hàng ngày với mong muốn làm sao tất cả trẻ đến trường đều khỏe mạnh,
ngoan ngoãn thông minh và nhanh nhẹn. Đối với bậc học mầm non có một nét
đặc thù riêng biệt đó là:
Trẻ rất nhỏ, mọi hoạt động hầu như không thể thiếu sự chăm sóc hướng
dẫn, giám sát của cô. Song song với với việc dạy trẻ về số lượng kiến thức sơ
đẳng thì việc chăm sóc nuôi dưỡng trẻ là nhiệm vụ không thể thiếu được. Bởi vì
trẻ có sức khỏe thì trẻ mới chịu ăn chịu chơi. Cho nên việc tổ chức các hoạt
động cho trẻ tôi luôn luôn thực hiện đầy đủ, nghiêm túc theo các thời điểm qui
định trong ngày. Đặc biệt quan tâm đến các hoạt động nhằm phát triễn tốt về thể
chất cho trẻ như: Thể dục sáng; Hoạt động học; chơi và hoạt động ở các góc;
chơi ngoài trời; chất lượng bữa ăn; giấc ngủ, giáo dục nếp sống văn hóa, văn
minh trong ăn uống và lao động tự phục vụ...
Người ta thường nói: “Mọi tài năng đều ẩn chứa trong một cơ thể khỏe
mạnh”. Đúng vậy, cuộc sống ngày nay việc chăm sóc sức khỏe cho trẻ là mối
quan tâm hàng đầu của toàn xã hội, cũng chính vì muốn trẻ có một cơ thể khỏe
mạnh được phát triển toàn diện và bản thân tôi đã nghiên cứu đề tài “Một số
biện pháp phát triển thể chất cho trẻ 5-6 tuổi”.
Bởi vì phát triển thể chất là một quá trình thay đổi hình thái bên ngoài và
các chức năng của cơ thể. Mục tiêu của Chương trình chăm sóc giáo dục Mầm
non là tạo điều kiện để giúp trẻ phát triển về các mặt như: Thể chất, ngôn ngữ,
nhận thức, thẩm mỹ và tình cảm xã hội.


Ở lứa tuổi mẫu giáo tất cả các cơ quan và hệ cơ quan của cơ thể trẻ tuy
phát triển mạnh nhưng chưa ổn định, khả năng vận động còn hạn chế, hệ thần
kinh dần dần phát triển về quá trình ức chế tích cực. Trẻ có khả năng phân tích,
đánh giá hình thành các kỹ năng, kỹ xảo, phân biệt được hiện tượng xung quanh,
cũng trong giai đoạn này trẻ có điều kiện thuận lợi để tiếp thu và củng cố các kỹ
năng cần thiết giúp cơ thể trẻ phát triển một cách toàn diện. Xuất phát từ lý do
trên đã thúc đẩy tôi lựa chọn đề tài này.
1.2. Mục đích nghiên cứu:
Nghiên cứu thực trạng giáo dục phát triễn thể chất cho trẻ 5 – 6 tuổi để đề
xuất các biện pháp phát triển thể chất cho trẻ 5-6 tuổi, nâng cao chất lượng giáo
dục thể chất ở trường Mầm non nhằm góp phần giúp trẻ tích cực tự giác trong
giờ học, khỏe mạnh, nhanh nhẹn, có thể lực và các kỹ năng kỹ xảo vận động,
1


hào hứng trong các bài tập đồng thời nâng cao chất lượng giáo dục của nhà
trường.
1.3. Đối tượng nghiên cứu:
Đề tài sẽ nghiên cứu: Một số biện pháp phát triển thể chất cho trẻ 5-6 tuổi.
1.4. Phương pháp nghiên cứu:
Tôi đã sử dụng phối hợp các phương pháp để nghiên cứu đề tài như sau:
- Phương pháp nghiên cứu lý thuyết.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp lý thuyết: thông qua đọc tài liệu sách
báo, tạp chí có liên quan đến môn giáo dục thể chất cho trẻ 5-6 tuổi.
- Phương pháp nghiên cứu thực tiễn.
- Phương pháp quan sát sư phạm.
+ Quan sát trẻ: thông qua các hành động, lời nói, nét mặt, cử chỉ, biểu
hiện xúc cảm tình cảm... của trẻ trong và sau các giờ tâp.
+ Quan sát giáo viên: Dự giờ và quan sát cách tổ chức hoạt động các giờ
thể dục cho trẻ.

- Phương pháp đàm thoại: Đàm thoại trực tiếp với trẻ.
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN:
2.1. Cơ sở lý luận của sáng kiến:
Khi nói đến giáo dục thể chất cho trẻ mầm non là quá trình tác động nhiều
mặt vào cơ thể trẻ, tổ chức cho trẻ vận động hợp lý nhằm làm cho cơ thể trẻ phát
triễn đều đặn, sức khỏe được tăng cường, tạo cơ sở cho phát triễn toàn diện. [1]
Tầm vóc cơ thể là trạng thái phát triển và hình thái, cấu trúc cơ thể bao
gồm sự sinh trưởng hình thể và tư thế thân người của một cơ thể. Sinh trưởng
chủ yếu chỉ qua quá trình biến đổi dần về khối lượng cơ thể từ nhỏ đến lớn, từ
thấp đến cao, từ nhẹ đến nặng.
Năng lực tham gia vận động thể lực của một cơ thể, đây là một nhân tố
hết sức quan trọng nó thúc đẩy và giúp cho các chức năng sinh lý của cơ thể
phát triển một cách nhịp nhàng. Khả năng thích ứng của cơ thể đối với môi
trường bên ngoài, trong đó có khả năng chống lại bệnh tật.
Trạng thái tâm lý là chỉ tình cảm, ý chí, cá tính của con người, nếu một
con người có trạng thái tâm lý tốt thì cơ thể sẽ phát triển khỏe mạnh. Những yếu
tố ảnh hưởng đến quá trình phát triển thể chất cho trẻ:
Có rất nhiều yếu tố ảnh hưởng đến quá trình phát triển thể chất của trẻ
như: Di truyền bệnh tật, biến dị, môi trường, dinh dưỡng, rèn luyện thể dục thể
thao. Trong đó nhân tố thích hợp nhất, tích cực nhất và có hiệu quả nhất để giúp
cơ thể trẻ phát triển khỏe mạnh là hoạt động thể dục thể thao.
Nội dung giáo dục thể chất được phát triển qua tất cả các hoạt động trong
ngày của trẻ nhất là qua thể dục sáng, các tiết học thể dục, qua hoạt động ngoài
trời, qua các hội thi… và được tích hợp phù hợp vào hoạt động phải từ dễ đến
khó, từ đơn giản đến phức tạp, phù hợp với đặc điểm lứa tuổi của trẻ. Các hoạt
động phải gần gũi không xa lạ gắn với thực tế của địa phương, đảm bảo tự nhiên
nhẹ nhàng.
2



Ở trường Mầm non việc giáo dục để phát triển thể lực cho trẻ thông qua
nhiều nội dung như: Chăm sóc nuôi dưỡng, phát triển các vận động tinh – thô
cho trẻ… và chúng ta có thể khẳng định rằng một cơ thể khỏe mạnh luôn là tiền
đề cho mọi tài năng. Do vậy giúp trẻ phát triển thể lực là một trong những nhiệm
vụ quan trọng của người giáo viên Mầm non.
Việc giáo dục thể chất không chỉ bảo vệ và tăng cường sức khỏe mà nó
còn là tiền đề cho mọi quá trình phát triển của một cơ thể để trẻ vững bước và
lớp một.
2.2. Thực trạng vấn đề:
2.2.1. Thuận lợi:
Trường được công nhận là trường mầm non đạt chuẩn quốc gia mức độ1.
Trường được sự quan tâm của lãnh đạo địa phương, Ban giám hiệu đã hổ
trợ mua sắm trang thiết bị, đồ dùng phục vụ cho hoạt động giáo dục thể chất gần
đầy đủ, phòng học sân bãi có diện tích rộng rãi, sạch sẽ, thoáng mát phục vụ cho
việc dạy và học.
Ngay từ đầu năm học ban chuyên môn nhà trường đã chỉ đạo trang trí lớp,
chia khu vực sân tập phù hợp và xây dựng các giờ vận động làm giờ mẫu cho
chị em được dự và học tập kinh nghiệm.
Bản thân là giáo viên trực tiếp giảng dạy với kinh nghiệm lâu năm tôi có
tinh thần trách nhiệm cao, tâm huyết với nghề, luôn yêu nghề mến trẻ luôn
khiêm tốn học hỏi kinh nghệm của các bạn đồng nghiệp.
Bản thân luôn cố gắng nhiều trong quá trình tự học, tự rèn luyện thường
xuyên làm các đồ dùng đồ chơi phục vụ cho các hoạt động vận động.
Đa số phụ huynh nhiệt tình có nhận thức việc học tập của con em mình,
luôn kết hợp với giáo viên tìm kiếm các nguyên vật liệu và hỗ trợ giáo viên
trong việc làm đồ dùng, đồ chơi.
Năm học 2017-2018 bản thân được phân công dạy lớp 5-6 tuổi lớp tôi có
30 cháu cùng độ tuổi đa số cháu được học qua lớp 4-5 tuổi nên trẻ dễ hòa đồng
với các bạn trong các hoạt động.
2.2.2.Khó khăn:

Trong quá trình tổ chức hoạt động cho trẻ giáo viên chưa có nhiều hình
thức tổ chức linh hoạt sáng tạo vào hoạt động khiến trẻ gò bó chưa hứng thú học
cho nên giờ hoạt động thể chất chưa đạt hiệu quả cao.
Tài liệu tham khảo còn hạn chế.
Tuy nhà trường đã quan tâm mua sắm một số đồ dùng đồ chơi, dụng cụ
luyện tập cho trẻ song để đáp ứng với mục tiêu phát triển thể chất cho trẻ thì còn
thiếu, đồ dùng trực quan chưa hấp dẫn đối với trẻ.
Là một trong những trường thuộc vùng nông thôn, đa số phụ huynh làm
nông nên ít có điều kiện quan tâm đến con cái, đặc biệt là vấn đề phát triển thể
lực cho trẻ. Do vậy, tình trạng sức khoẻ của trẻ trong toàn trường nói chung và
của lớp tôi nói riêng là không đồng đều. Kết quả được thể hiện trong bảng khảo
sát sau:
Về Giáo dục
3


T
T

1
2
3

Nội dung khảo sát

Sự tập trung chú ý,
hứng thú của trẻ khi
tham gia vận động
Trẻ tích cực tự giác
trong hoạt động

Trẻ có kỹ năng vận
động thành thạo

Tổn
g số
trẻ

Đạt
Tốt

Khá

Trung
bình

Chưa
đạt

Số
trẻ

Tỷ
lệ %

Số
trẻ

Tỷ lệ
%


Số
trẻ

Tỷ
lệ %

Số
trẻ

Tỷ
lệ %

30

6

20

7

23

9

30

8

27


30

5

17

6

20

11

36

8

27

30

6

20

7

23

10


34

7

23

Về sức khỏe:
Tổng
Nội dung
số trẻ
Cân nặng
Chiều cao
B.
Tỷ lệ % SDD Tỷ lệ B.
Tỷ lệ Thấp Tỷ lệ
Thường
%
Thường %
còi
%
30
26
87
4
13
26
87
4
13
Qua bảng khảo sát trên tôi thấy việc các mặt phát triển của trẻ còn khá

thấp, trẻ chưa hứng thú tham gia các giờ học thể dục, kỹ năng thực hiện các vận
động còn kém, trẻ chưa tập trung chú ý trong giờ học, trẻ chưa linh hoạt, chưa
nhanh nhẹn, nhiều trẻ có nguy sơ suy dinh dưỡng, thấp còi nên tôi luôn băn
khoăn làm sao để nâng cao tỉ lệ cho trẻ và đưa ra một số biện pháp nâng cao chất
lượng giáo dục thể chất cho trẻ.
2.3.Một số biện pháp, giải pháp sử dụng để giải quyết vấn đề.
2.3.1. Xây dựng môi trường, đồ dùng, dụng cụ cho trẻ hoạt động thể
chất và đảm bảo an toàn cho trẻ.
Môi trường học tập.
Để gây hứng thú cho trẻ mỗi khi đến lớp việc tạo môi trường hoạt động là
điều tất yếu. Muốn có môi trường học tập tốt phải đảm bảo tạo dựng được cơ sở
vật chất, trang bị đồ chơi, thiết bị cho trẻ phát triển vận động phù hợp (phòng
giáo dục thể chất, sân chơi, đồ chơi ngoài trời, thiết bị, đồ dùng trong lớp) đồng
thời phải xây dựng được môi trường thân thiện đối với trẻ. Để làm được điều đó
ngay từ đầu năm học tôi đã chủ động bàn bạc hai cô trong một lớp nghiên cứu
chương trình dựa vào việc phân phối các chủ đề trong năm để xây dựng kế
hoạch lớp theo năm, tháng, chủ đề, có kế hoạch cụ thể rõ ràng kết hợp xây dựng
kế hoạch chuyên đề “Nâng cao chất lượng giáo dục phát triển thể chất” của lớp
được nhà trường triển khai theo từng năm học. Từ đó tôi đã chủ động sắp xếp
trang trí môi trường lớp học phù hợp, bố trí các góc logic, đặc biệt là góc vận
động, thường là những đồ dùng luyện tập cồng kềnh, tôi giành khoảng rộng hơn
4


để trưng bày được những đồ dùng tập luyện mà trẻ thích. Ở trong môi trường đó,
trẻ được tiếp thu tri thức trong một bầu không khí thân thiện, gần gũi giúp trẻ
hứng thú trong học tập.
Tùy vào từng góc chơi tôi thường xuyên cho trẻ trải nghiệm các hoạt
động, giúp trẻ tạo ra các sản phẩm để trẻ phát triển được các vận động tinh như:
xé, dán, cắt. nặn. Những sản phẩm từ chính bàn tay trẻ làm ra trẻ rất yêu thích

giúp trẻ hăng say thể hiện ý tưởng của mình.
Bên cạnh đó môi trường ngoài lớp học là yếu tố không thể thiếu được, để
có được môi trường ngoài lớp học phù hợp tôi đã chủ động đề xuất với Ban
giám hiệu nhà trường bố trí 6-7 loại đồ chơi ngoài trời phù hợp với sân trường,
tạo khoảng không gian, vị trí chơi, tập luyện cho trẻ thoải mái, đặc biệt đảm bảo
an toàn cho trẻ. Tuỳ theo vị trí mỗi loại đồ chơi tôi đều tận dụng các loại nệm
mỏng đã cũ đặt vào vị trí phù hợp để khỏi bị trầy xước khi trẻ chơi, ví dụ như:
cầu trượt, thang leo,..thường xuyên kiểm tra trước khi trẻ luyện tập. Ngoài ra,
tùy theo thời tiết trong ngày tôi có thể cho trẻ lao động, vệ sinh, chăm sóc vườn
hoa, đây cũng là một hoạt động giúp trẻ phát triển thể lực qua đó giúp cho trẻ
biết yêu thiên nhiên, yêu lao động.
Đồ dùng, dụng cụ cho trẻ luyện tập.
Để trẻ hứng thú vào hoạt động, bám sát kế hoạch và chủ đề trong năm,
ngoài những đồ dùng đồ chơi được nhà trường cung cấp tôi đã chủ động bàn bạc
giữa hai cô để tự làm mới được nhiều đồ dùng dụng cụ luyện tập cho trẻ, tôi đã
dùng các loại ống nước để làm vòng thể dục, dùng các loại vải vụn để làm bao
cát cho trẻ ném, dùng các dây hoa để trang trí cổng thể dục cho trẻ chui qua,
dùng các bánh xe cỡ lớn làm xích đu cho trẻ chơi. Tuy nhiên các loại đồ dùng
phục vụ cho trẻ hoạt động đều được làm đảm bảo an toàn, không sắc nhọn, phải
bền, chắc, có độ mềm dẻo.
H1. Đồ dùng tự tạo góc vận động
H2. Cô và trẻ cùng làm đồ dùng đồ chơi góc vận động.
Các hoạt động trong trường mầm non đặc biệt là trong hoạt động phát
triển vận động việc sử dụng đồ dùng trực quan là một biện pháp vô cùng quan
trọng bởi vì hoạt động thể chất chủ yếu thông qua các bài tập có tính thực tế, các
bài luyện tập khác nhau đều có những loại đồ dùng, dụng cụ khác nhau, giúp
cho trẻ chơi mà học một cách nhẹ nhàng.
2.3.2.Tổ chức hoạt động phát triển thể chất cho trẻ.
Tổ chức hoạt động giáo dục thể chất cho trẻ là nội dung thiết yếu trong
quá trình phát triển vận động cho trẻ mầm non, vì vậy khi lựa chọn nội dung

giáo dục phát triển vận động cho trẻ tôi cần theo các nguyên tắc:
Bám sát chương trình giáo dục mầm non hiện hành để lựa chọn nội dung,
mục tiêu phù hợp độ tuổi.

5


Đảm bảo tính liên tục và tính hệ thống, tính cá biệt. Sự kết hợp, hợp lý
giữa các vận động có tính chất động và tĩnh, phù hợp với điều kiện thực tế của
trường, lớp và địa phương.
Nội dung giáo dục thể chất bao gồm : phát triễn vận động và giáo dục
dinh dưỡng sức khỏe.
Phát triễn vận động.
Giáo dục phát triễn vận động nhằm giúp trẻ khỏe mạnh và có kỹ năng vận
động trong các hoạt động hàng ngày. Các bài tập ngoài vai trò phát triễn các kỹ
năng vận động còn giúp phát triễn các tố chất nhanh nhẹn, sức mạnh của cơ bắp,
sự khéo léo và dẻo dai cũng như khả năng giữ thăng bằng của cơ thể trong quá
trình vận động.
Giáo dục phát triển vận động cho trẻ trong trường mầm non” có 9 hình
thức:
“Giờ thể dục, thể dục sáng, phút thể dục, trò chơi vận động, dạo chơi
ngoài trời, tuần lễ sức khoẻ ở trường mầm non, ngày hội thể dục, thể thao ở
trường mầm non, bài tập phát triển vận động cá nhân, các hoạt động nhằm giáo
dục phát triển cử động của bàn tay, ngón tay phối hợp vận động tay, mắt và kỹ
năng phối hợp sử dụng các đồ dùng dụng cụ”[3]
Để đạt được những kỹ năng kỹ xảo vận động có mục đích và hình thành
những kỹ năng vận động đúng thì giờ thể dục được coi là hình thức cơ bản để tổ
chức hoạt động giáo dục phát triển vận động cho trẻ.
Ở mỗi hình thức tùy theo từng nội dung bài dạy mà tôi có thể lựa chọn
phương pháp đồ dùng dụng cụ luyện tập khác nhau.

Nắm vững phương pháp tổ chức hoạt động học và sử dụng những thủ
thuật gây hứng thú cho trẻ.
Muốn trẻ hào hứng tích cực tham gia vận động trong hoạt động giáo dục
thể chất thì phải xây dựng nề nếp thói quen tốt trong học tập cho trẻ và cách sử
dụng đồ dùng trực quan khi tham gia các hoạt động như thế nào? Cách thực hiện
các bước trong hoạt động giáo dục thể chất ra sao? phải phân nhóm số trẻ có khả
năng vận động nhanh nhẹn, bình thường, hoặc lười vận động để tiện theo dõi và
có kế hoạch cụ thể để bồi dưỡng đồng thời kết hợp với phụ huynh cùng giáo dục
trẻ. Trong quá trình giảng dạy thực nghiệm tôi đã tìm ra một số phương pháp
đơn giản nhưng hợp lý và phù hợp như sau:
Giáo dục thể chất thông qua thể dục sáng.
Việc tổ chức cho trẻ tập “Thể dục sáng” thường xuyên giúp trẻ hít thở
sâu, điều hoà nhịp thở, tăng cường quá trình trao đổi chất và tuần hoàn trong cơ
thể, nó hỗ trợ cho các hoạt động trong ngày của trẻ thêm nhịp nhàng, nhanh
nhẹn.
Khi tổ chức cho trẻ tập thể dục sáng, tôi thường chú ý những điểm sau:
Trang phục quần áo thích hợp để dễ vận động.
Đảm bảo sân bãi an toàn cho trẻ.
Đảm bảo 3 phần như một giờ thể dục.
6


Các động tác thể dục trẻ phải được làm quen trước đó, các động tác lựa
chọn phải tác động lên các nhóm cơ chính của cơ thể và hệ hô hấp.
Các động tác luyện tập phải thực hiện theo thứ tự các bộ phận trên cơ thể
(hô hấp – tay – lườn – lưng – bụng – chân).
Tổ chức cho trẻ tập theo nhạc các bài hát “Nhà mình rất vui”, “Bé yêu
biển lắm”…, để thêm phần hứng thú, hấp dẫn tôi cho trẻ tập với cờ, nơ, vòng,
gậy thể dục.
Kết quả: Qua các động tác thể dục sáng giúp cho trẻ tích lũy được sự sảng

khoái cả ngày, thúc đẩy sự hình thành tư thế đúng, gây sự hoạt động tích cực của
các cơ quan hô hấp, tuần hoàn, các nhóm cơ… giúp trẻ nhanh nhẹn, linh hoạt
khi bước vào một này mới.
H3. Giờ thể dục sáng trong lớp.
Giáo dục thể chất thông qua tiết dạy thể dục.
Khi tổ chức một tiết thể dục: Bám vào kế hoạch năm, vào chuyên đề năm
học “ Xây dựng trường học gắn với thực tiễn và rèn luyện kỹ năng sống cho trẻ”
trước hết tôi phải lựa chọn nội dung bài dạy, sau đó xác định mục tiêu cần đạt
sau bài dạy.
“Giờ thể dục” gồm có 3 phần: Khởi động, trọng động và hồi tĩnh, mỗi
phần đều giải quyết một nhiệm vụ nhất định, mỗi phần có tác dụng và hỗ trợ lẫn
nhau và hoàn thiện cho nhau, để trẻ hứng thú hơn giữa các phần tôi cho trẻ thực
hiện phần chuyển tiếp nhẹ nhàng như trò chơi nhỏ “Chuông reo ở đâu?” “Bạn ở
phía nào của con” hay trò chơi “Tiếng gọi của ai?”. Ngoài ra, tuỳ theo mỗi phần
tôi có thể kết hợp những bài hát, bản nhạc cho trẻ thêm thoải mái, hứng thú
trong khi luyện tập.
Ví dụ: Chủ đề: Giao thông
Phần khởi động: Kết hợp bài hát “ Đi tàu lửa”
Phần trọng động:
Tập những động tác mới, hoặc ôn động tác cũ hay nâng cao trình độ luyện
tập của trẻ.
Rèn luyện phát triển thân thể toàn diện và các tố chất thể lực.
Bồi dưỡng và giáo dục ý chí, phẩm chất đạo đức tốt cho trẻ.
Thực hiện bài tập phát triển chung:
Phát triển và rèn luyện các nhóm cơ chính: cơ bả vai, cơ chân, cơ mình
những động tác phát triển hệ hô hấp và những động tác hỗ trợ cho bài tập vận
động cơ bản.
Ví dụ: Bài tập vận động cơ bản là “ném xa” thì khi chọn động tác cho
bài tập phát triển chung, giáo viên lưu ý chọn động tác tay đưa từ dưới lên cao
và tập động tác này số lần nhiều hơn (động tác nhấn) các động tác còn lại. Hoặc

bài tập vận động cơ bản là “bật xa”, nhiệm vụ chính là tập cho trẻ biết nhún
chân, giáo viên nên chọn bài tập phát triển chung có động tác đứng lên ngồi
xuống nhiều hơn (động tác nhấn).
7


Ví dụ: Bài tập vận động cơ bản là “Bật liên tục” thì khi chọn động tác
cho bài tập phát triển chung, giáo viên lưu ý chọn động tác chân bật và tập động
tác này số lần nhiều hơn các động tác còn lại. Hoặc bài tập vận động cơ bản là
“bật xa”, nhiệm vụ chính là tập cho trẻ biết nhún chân, giáo viên nên chọn bài
tập phát triển chung có động tác đứng lên ngồi xuống nhiều hơn.
Vận động cơ bản:
Hình thành cho trẻ thực hiện được các vận động cơ bản một cách vững
vàng đúng tư thế. Có khả năng phối hợp các giác quan và vận động; vận động
nhịp nhàng, biết định hướng không gian thời gian.[2] Và vận động kĩ năng cơ
bản ở trẻ. Giáo viên cần hướng dẫn tỉ mỉ tiến hành theo các bước sau: Tập mẫu,
cho một số trẻ tập thử, cả lớp tập. Giáo viên áp dụng các hình thức tổ chức: Cả
lớp, nhóm, cá nhân tùy thuộc vào bài tập và khả năng của trẻ.
H4. Trẻ tập thể dục : Bật liên tục qua 5 vòng.
Khi trẻ thực hiện giáo viên phải động viên, khích lệ, chú ý sửa sai cho trẻ.
Khi đa số trẻ đã thực hiện tốt vận động thì thực hiện lần 2 có thể cho 2
nhóm, hoặc 2 đội thực hiện theo hình thức thi đua để tăng sự hào hứng, phấn
khởi ở trẻ. Còn khi đa số trẻ chưa thực hiện tốt thì không nên tổ chức thực hiện
với hình thức thi đua.
Thi đua cá nhân: Giáo viên chúng ta cần lưu ý nên chọn các cháu có sức,
mức độ thực hiện động tác gần ngang nhau để tránh gây chán nản ở trẻ.
Thi đua đồng đội: Giáo viên phải chú ý phân chia đội làm sao cho tương
đối vừa sức, số lượng bằng nhau, các đội bắt đầu thực hiện cùng lúc.
Khi trẻ chơi xong giáo viên phải là người phân xử thắng thua một cách
khách quan, không thiên vị thì sẽ có tác dụng giáo dục sự công bằng trong một

tập thể trẻ nhỏ.
Sau khi tổ chức ở hoạt động học, giáo viên củng cố kỹ năng cho trẻ qua
trò chơi ở mọi lúc mọi nơi.
Tận dụng môi trường sẵn có: Chơi cát nước, các đồ chơi phát triển thể lực
giáo viên định hướng và bao quát cho trẻ chơi tránh sợ trẻ mệt, ngã mà không
cho trẻ chơi những vận động mà trẻ thích. Bao quát và xử lý kịp thời đối với
những trẻ hiếu động tránh để trẻ hoạt động quá sức và không đám bảo an toàn
cho trẻ đồng thời chú ý đến trẻ có thể lực, sức khỏe yếu hơn mà giao nhiệm vụ
vừa sức khi chơi.
Ví dụ: Dạy trẻ bài chạy 40m, đây là yêu cầu dành chung cho tất cả các
cháu trong lớp, song nếu lớp có 1-2 cháu thể lực yếu hơn thì cô có thể chạy cùng
trẻ, để động viên và dìu chân trẻ chạy, nếu thấy trẻ mệt không đủ sức chạy tiếp
cô giáo có thể ra lệnh cho trẻ ngừng chạy, đi vừa, đi chậm… để đảm bảo sức
khỏe, hoặc có trẻ chạy hơn 40m mà vẫn không dừng lại vì quá phấn khích, các
bạn hoan hô nhiều, hiếu thắng… thì cô giáo nên ra lệnh cho cháu ngừng lại vì đã
đạt yêu cầu.
Trò chơi vận động:
8


Khi chơi trò chơi vận động có tác dụng gây hứng thú cho trẻ, khi tham gia
vào trò chơi, trẻ vận động tích cực hơn, tự nhiên, thoải mái. Trò chơi vận động
cũng có thể là vừa đồng thanh đọc một bài thơ, bài ca, bài đồng dao, vừa hát,vừa
vận động.
Giáo viên cần lựa chọn các bài thơ, bài ca về nội dung phải ngắn gọn dễ
thuộc và phù hợp với chủ đề chủ điểm, bài thơ và bài ca phải vui nhộn.
Ví dụ: Bài thơ “Con sói xấu tính”, trước khi chơi giáo viên cần giúp trẻ
đọc lại bài thơ, nếu trong trò chơi có sự phân vai thì giáo viên giúp trẻ tự chọn
vai chơi của mình.
Ví dụ: Trò chơi “Gà tìm mồi”: Chơi tập thể

Luật chơi: Khi nghe hiệu lệnh những bạn làm mồi phải ngồi im, nếu đứng
dậy sẽ bị các bạn làm gà bắt.
Cách chơi: Chia trẻ làm 2 nhóm chơi. Một nhóm là gà, một nhóm là mồi.
Khi bắt đầu chơi nhóm làm gà sẽ nắm tay nhau nhảy đi kiếm mồi xung
quanh các bạn làm mồi. Những bạn làm mồi khi thấy những chú gà phải ngồi im
lặng nhắm mắt giả vờ như đi ngủ. Bạn nào đứng dậy và sẽ bị bắt và đổi chỗ cho
bạn làm gà. Khi bắt đầu chơi bạn làm gà sẽ hát các bài hò vè do cô tự sưu tầm.
Với trò chơi này sẽ giúp trẻ phát triển các cơ, sự khéo léo nhanh nhẹn của
tay chân đồng thời rất hứng thú khi được tham gia các vận động.
Khi chơi trò chơi vận động, hệ vận động được củng cố, các hệ cơ bắp của
cơ thể trẻ trở nên rắn chắc hơn, tăng cường sức khỏe cho trẻ, tạo điều kiện cho
việc rèn luyện thể lực.
Củng cố rèn luyện và hỗ trợ cho bài tập vận động cơ bản. Giáo viên lựa
chọn những trò chơi vận động cơ bản như trò chơi: Tín hiệu, chó sói xấu tính,
bắt chước tạo dáng, cáo và thỏ …
Ví dụ 1: Bài tập vận động đi, chạy thì trò chơi vận động là “Đi, chạy theo
tính hiệu”; ném xa bằng một tay thì trò chơi vận động là “Ném quai dây”. Mục
đích nhằm rèn luyện những kĩ năng của các vận động cơ bản.
Ví dụ 2: Với đề tài: “Trèo lên xuống thang” cô chọn trò chơi “đua ngựa”
việc chạy nâng cao đùi sẽ có tác dụng hỗ trợ cơ đùi đối với kỹ năng trèo của trẻ.
Phần hồi tĩnh: Cho trẻ đi nhẹ nhàng kết hợp những tiếng nhạc du dương
của gió, tiếng suối chảy róc rách.
Đặc biệt trong giờ học tôi dùng một loại tín hiệu thống nhất để khỏi ảnh
hưởng đến sự chú ý của trẻ, bên cạnh đó tôi luôn sử dụng khẩu lệnh, mệnh lệnh
như: “Nghiêm”, “Nghỉ”, “Đi”, “Chạy”, “Dừng lại”, mệnh lệnh, khẩu lệnh rõ
ràng, dứt khoát và lôi cuốn sự tập trung chú ý của trẻ. Trong quá trình trẻ tập
luyện tùy theo đối tượng cháu tôi có thể nâng cao dần yêu cầu của hoạt động,
tùy theo từng chủ đề tôi lựa chọn các bài hát phù hợp.
Như vậy, trong một giờ thể dục, để đạt được kết quả giáo viên phải biết
kết hợp nhiều yếu tố để tổ chức cho trẻ tham gia hoạt động có hiệu quả.

Nhận xét tiết học :
Giáo viên có thể nhận xét ngay trong tiết học hoặc cuối tiết học, trong tiết
học khen chê trẻ kịp thời. Cuối tiết học chủ yếu động viên trẻ, khen là chính.
9


Kết quả: Các cháu rất hứng thú tham gia giờ học, các kỹ năng luyện tập
đối với trẻ nhẹ nhàng thoải mái hơn, kiến thức, kỹ năng được nâng cao rõ rệt.
Kết quả nhận thức trên trẻ đạt chất lượng hơn, 94% trẻ thực hiện thành
thạo kỹ năng vận động ở từng lứa tuổi. Đặc biệt là các giờ học thể dục mang tính
tổng hợp như: Ném xa – chạy nhanh, bò zích zắc qua 5 hộp cách nhau 60 cm –
tung bắt bóng… trẻ thực hiện tốt các yêu cầu về kiến thức và kỹ năng.
2.3.3.Phát triển thể chất cho trẻ thông qua các hoạt động khác.
Nhiệm vụ phát triển vận động cho trẻ không chỉ trên tiết học thể dục mà
còn được tổ chức thông qua các hoạt động trong ngày.
Hoạt động học:
Ví dụ: Giờ hoạt động làm quen với toán sau khi giáo viên đã cho trẻ học
đếm đến 9, tạo nhóm có 9 đối tượng, nhận biết chữ số 9. Giáo viên đã cho trẻ
đứng thành 2 đội, lần lượt bật liên tục qua các vòng lên gắn toa tàu sao cho mỗi
con tàu có 9 toa.
Ví dụ: khi tổ chức các môn học khác như vẽ, cắt, xé hoặc đọc thơ, kể
chuyện hoặc cho trẻ khám phá môi trường xung quanh, để giảm bớt sự căng
thẳng, mệt mỏi của trẻ tôi đã cho trẻ vận động “phút thể dục” theo bài:
Cúi mãi mỏi lưng
Viết mãi mỏi tay
Thể dục thế này
Là hết mệt mỏi
Hay: Cho trẻ xoay cổ tay, nghiêng người về hai bên theo nhịp đếm của cô.
Bên cạnh đó, dưới mọi hình thức và bằng nhiều cách tôi có thể tổ chức
“Trò chơi vận động” để gây hứng thú cho trẻ, có thể cho trẻ tạo dáng, bắt chước

hành động hoặc tiếng của các con vật.
Ví dụ: Khi tổ chức cho trẻ tìm hiểu một số con vật, phần cuối hoạt động,
tôi tổ chức cho trẻ chơi trò chơi “Tạo dáng”. Có thể cho trẻ đi theo một bản nhạc
và cô yêu cầu trẻ tạo dáng các con vật theo yêu cầu của cô hoặc trò chơi “Ai
nhanh nhất”.
Chơi và hoạt động ở các góc:
Qua hoạt động góc trẻ được thực hiện và phối hợp các cử động của bàn
tay, ngón tay, phối hợp tay – mắt với các bài tập.
Ví dụ: Ở góc toán: Trẻ thực hiện gập, mở lần lượt từng ngón tay để đếm, thêm,
bớt, tạo ra các hình học...
Ở góc tạo hình: Trẻ được dùng bàn tay, ngón tay để vẽ, các ngón tay kết
hợp với nhau cầm phấn, bút vạch ra những đường nét theo sự tưởng tượng của
trẻ. Trẻ dùng đất nặn nhào, bóp, lăn dọc, xoay tròn, ấn, dí cũng cần có sự khéo
léo và sức mạnh của đôi bàn tay.
Ở góc xây dựng: Trẻ được luyện tập các cử động của bàn tay, ngón tay khi
lắp ghép hình, xếp gạch xây hàng rào....
Chơi ngoài trời ;
Trò chơi vận động :
10


Là hoạt động có vai trò quan trọng trong sự phát triển vận động cho trẻ.
Vì vận động có thể giúp cho con người loại bỏ trạng thái tâm lý căng thẳng, làm
cho con người quên đi âu sầu phiền não tâm tính sẽ vui lên. Trẻ vốn có đặc điểm
hiếu động, thích vận động. vận động cơ thể thích đáng có thể kích thích trung
khu tình cảm của trẻ em, làm cho trẻ em vui, tình cảm hưng phấn, vận động có
thể chuyển dịch tâm lý của trẻ em, giảm thiểu việc tạo ra tình cảm không lành
mạnh ở chúng hoặc làm cho tình cảm không lành mạnh của trẻ được loại bỏ,
giảm bớt một cách thỏa đáng.
Trẻ tham gia vận động cơ thể với khối lượng hợp lý có thể làm cho năng

lượng quá nhiều trong cơ thể được tiêu hao, làm cho trẻ thấy thoải mái nhẹ
nhàng. Trong quá trình vận động khi trẻ đạt được sự thành công, cảm thụ tình
cảm tốt đẹp sẽ làm cho các trẻ hoạt bát, cởi mở, tích cực và tràn đầy lòng tự tin
[1]. Vì vậy tôi thường xuyên cho trẻ “dạo chơi ngoài trời”, cho trẻ chơi với các
loại bóng, dải lụa, ruy băng và các dụng cụ khác như các đồ chơi có sẵn trong
trường: Thông qua hoạt động leo trèo trên các thiết bị dụng cụ vận động ngoài
trời: cầu trượt, các vận động bò, trườn, trèo, tung, ném chuyền bắt, leo qua các
bậc tam cấp, gốc cây, nhảy lò cò rèn cho trẻ sự khéo léo nhanh nhẹn của đôi bàn
tay, bàn chân. Có ảnh hưởng tích cực đến các hoạt động của các cơ quan trong
cơ thể trẻ đặc biệt là thông qua đó để hoàn thiện các kỹ năng, kỹ xảo vận động.
Khi tham gia trò chơi, trẻ tích cực chủ động, sáng tạo vì thế “Trò chơi vận
động”còn là phương tiện giáo dục toàn diện cho trẻ.
H5. Trẻ chơi với đồ chơi ngoài trời.
Để tạo điều kiện cho trẻ được vui chơi thoải mái, tôi thường kết hợp giữa
2 cô trong một lớp để tổ chức “Tuần lễ sức khoẻ” cho trẻ, để làm tốt điều này,
tôi xây dựng kế hoạch rõ ràng trong một tuần tránh lặp đi lặp lại các vận động.
Có thể cho trẻ xem sách, xem tranh, xem phim về các hoạt động thể dục
thể thao, tổ chức các trò chơi quen thuộc như “Bịt mắt bắt dê”,“Nhảy tiếp
sức”…, chơi vận động tự do, đưa ra các bài tập trẻ đã được làm quen để nhằm
củng cố các kỹ năng, kỹ xảo vận động cho trẻ.
Tổ chức cho trẻ chơi một số trò chơi sinh hoạt tập thể đơn giản, trò chơi
sinh hoạt cộng đồng cũng rất thu hút trẻ như: trò chơi đoàn kết, trời nắng trời
mưa, chim đổi lồng, kéo cưa lừa xẻ, bẫy cá, cá sấu lên bờ…
Chơi tự do:
Cũng có vai trò quan trọng trong việc phát triển vận động và tinh thần cho
trẻ. Hằng ngày, tôi giành thời gian cho trẻ tự do vận động chạy, nhảy, tham gia
các trò chơi với đồ chơi có sẵn trong sân, dụng cụ thể dục hoặc tham gia các trò
chơi vận động, dân gian đơn giản, lao động chăm sóc sân vườn, vệ sinh đồ chơi
trong sân. Bên cạnh đấy tôi đã dành thời gian theo dõi và luyện tập thêm cho
những trẻ phát triển chậm, không tiếp thu được trong giờ tập luyện, nhằm giúp

trẻ theo kịp các bạn trong lớp, theo kịp chương trình, phù hợp với độ tuổi.
Các khu vực khác trên sân được bố trí hợp lý, tăng cường đủ các nội dung
chơi, chú trọng phát triển cả vận động thô và vận động tinh gây hứng thú và
11


khuyến khích trẻ tham gia để phát triển toàn diện. Các đồ chơi tự tạo được quan
tâm, bố trí xem kẽ với đồ chơi hiện đại để trẻ được luyện tập các kỹ năng vận
động cơ bản: Đi, chạy, nhảy, bò, trườn, trèo, tung, ném….
Với hình thức tổ chức cho trẻ đi dạo chơi, đi tham quan cũng mang lại cho
trẻ bầu không khí trong lành, ánh sáng làm thỏa mãn về nhu cầu vận động của
trẻ.
Với hình thức này vừa tạo cho trẻ không khí thoải mái, vui vẻ sau hoạt
động nhưng cũng thông qua đó cơ thể trẻ được chuyển trạng thái từ tỉnh sang
động. Có thể tổ chức trò chơi vào nhiều thời điểm trong ngày như khi đón, trả
trẻ.
Tóm lại: việc phối kết hợp các môn học, các phương pháp tổ chức trong
quá trình giáo dục phát triển vận động cho trẻ là vấn đề rất quan trọng tạo cho
trẻ hứng thú trong hoạt động nhằm đạt được mục đích yêu cầu đưa ra của giáo
viên.
2.3.4. Chế độ dinh dưỡng cho trẻ:
Chế độ dinh dưỡng có mối quan hệ chặt chẽ giữa dinh dưỡng với tăng
trưởng và phát triễn. Cung cấp chất dinh dưỡng đủ lượng và đủ chất rất quan
trọng cho sự phát triễn bình thường. Suy dinh dưỡng có sự ảnh hưởng không tốt
đến thần kinh trung ương, do đó ảnh hưởng đến sự phát triễn các khả năng trí tuệ
và thích ứng ở trẻ, đặc biệt nếu suy dinh dưỡng sảy ra ở thời kỳ não đang phát
triễn. Ngoài ra trẻ suy dinh dưỡng dễ bị nhiễm khuẩn và giảm hoặc mất chức
năng chống lại bệnh tật[1]. Dinh dưỡng còn có vai trò vô cùng quan trọng đối
với sự phát triển cân nặng, chiều cao góp phần nâng cao sức khoẻ và sự phát
triển của các bộ phận trong cơ thể con người nói chung, cơ thể trẻ em nói riêng

lại càng quan trọng hơn. Chất dinh dưỡng bao gồm các chất sinh năng lượng và
chất không sinh năng lượng. Chất sinh năng lượng gồm đạm, béo và bột đường.
Chất không sinh năng lượng gồm các vitamin, chất khoáng và nước.
Chất đạm (protid) là chất dinh dưỡng quan trọng số một, được coi là yếu
tố tạo nên sự sống. Chất đạm có vai trò quan trọng trong quá trình duy trì và
phát triển các chất cơ bản của hoạt động sống; là thành phần chính của các
kháng thể giúp cơ thể chống lại các bệnh nhiễm khuẩn, thực hiện chức năng
miễn dịch; hình thành và hoàn thiện hệ thần kinh giúp cơ thể phát triển cả về trí
tuệ và tầm vóc. Chất đạm còn là nguồn cung cấp năng lượng cho cơ thể, 1gam
protid cung cấp 4 Kcal.
Chất đạm có nhiều trong thức ăn có nguồn gốc động vật như thịt, cá, sữa,
trứng, tôm, cua…và thức ăn có nguồn gốc thực vật như đậu, lạc, vừng, gạo…
Trong bữa ăn hàng ngày, cần cân đối tỷ lệ chất đạm có nguồn gốc động vật và
thực vật. Ở trẻ lứa tuổi mầm non tỷ lệ đạm động vật/đạm tổng số cần đạt ở mức
từ 50 – 70% (tùy theo lứa tuổi).
Chất béo (lipid) là nhóm chất dinh dưỡng chính và cần thiết cho sự sống,
là nguồn cung cấp năng lượng và các acid béo cần thiết, là dung môi hòa tan và
là chất mang của các vitamin tan trong chất béo như vitamin A, vitamin D,
vitamin E, vitamin K…, giúp trẻ hấp thu và sử dụng tốt các vitamin này, làm
12


tăng cảm giác ngon miệng. Đặc biệt chất béo là nguồn cung cấp năng lượng cao
gấp hơn 2 lần so với chất đạm và chất bột đường, 1gam lipid cung cấp 9 Kcal.
Chất béo nguồn gốc động vật gồm: sữa mẹ, mỡ, sữa, bơ, lòng đỏ trứng…
Chất béo nguồn gốc thực vật là dầu phụng, dầu mè, dầu dừa, đậu nành,….
Trong bữa ăn hàng ngày cô giáo trường mầm non phối hợp với phụ huynh
cần cung cấp cân đối chất béo, chất đạm giữa động vật và thực vật để làm phong
phú thêm khẩu phần ăn của trẻ và giúp các vitạmn A, D, E hấp thụ làm cho da
trẻ mỏng, mịn, hồng hào, chắc, cứng xương và mắt sáng.

H6. Thực đơn thứ 2 đầu tuần của trẻ.
Chất bột đường (glucid) là nguồn cung cấp năng lượng chính cho cơ thể,
tạo đà tốt cho sự phát triển của trẻ, 1gam glucid cung cấp 4 Kcal. Glucid tham
gia cấu tạo nên tế bào, các mô và điều hòa hoạt động của cơ thể
Nguồn thực phẩm cung cấp chất bột đường chủ yếu từ ngũ cốc (gạo, bột
mì, ngô, khoai, sắn,…), các loại hoa quả tươi có vị ngọt (chuối, táo, xoài, cam,
củ cải đường …), đường, mật, bánh, kẹo…
Trẻ ở độ tuổi mầm non cần được cung cấp đầy đủ chất bột đường, vì cơ
thể trẻ đang lớn, cần nhiều năng lượng cho hoạt động hiếu động, chạy, nhảy, đi,
đứng, sinh hoạt, vui chơi trong ngày, khi nào trẻ có vấn đề về sức khỏe thì mới
nằm im, ít hoạt động, đó là dấu hiệu không tốt mà các bậc phụ huynh và cô giáo
mầm non cần lưu ý, Vitamin và khoáng chất là những chất dinh dưỡng rất cần
thiết cho cơ thể.
Tuy hàng ngày chỉ cần một lượng rất ít, nhưng nếu thiếu sẽ gây ra tình
trạng bệnh lý cho trẻ. vitamin tham gia vào hầu hết các quá trình hoạt động của
cơ thể, với vai trò chính như sau:
Chức năng điều hòa tăng trưởng: vitamin A, vitamin E, vitamin C.
Chức năng phát triển tế bào biểu mô: vitamin A, vitamin D, vitamin C,
vitamin B2, vitamin PP.
Chức năng miễn dịch: vitamin A, vitamin C.
Chức năng hệ thần kinh: vitamin nhóm B (B1,B2, B12, PP), vitamin E.
Chức năng nhìn: vitamin A.
Chức năng đông máu: vitamin K, vitamin C.
Chức năng bảo vệ cơ thể và chống lão hóa: vitamin A, vitamin E, beta
caroten, vitamin C.
Những vitamin đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển của trẻ là vitamin
A, vitamin C, vitamin D, vitamin nhóm B…
Những khoáng chất quan trọng với sức khỏe của trẻ là sắt, can xi, iot, axit
folic, kẽm…
Nước rất cần thiết đối với cơ thể con người, nước cần thiết cho sự tăng

trưởng và duy trì sức khỏe bởi nó liên quan đến các phản ứng, các quá trình
chuyển hoá quan trọng trong cơ thể. Để tiêu hóa, hấp thu, sử dụng tốt thực phẩm
cần phải có nước. Ngoài ra, nước còn giúp đào thải các chất độc hại ra ngoài cơ
thể qua nước tiểu, mồ hôi.
13


Ngoài những kiến thức đã học từ trên, bản thân tôi còn thường xuyên học
tập ở đồng nghiệp về dinh dưỡng qua hội giảng, thao giảng ở trường. Tham gia
lớp tập huấn chuyên đề “ Giáo dục lấy trẻ làm trung tâm” “Chăm sóc nuôi
dưỡng và an toàn cho trẻ”, tìm hiểu những bài viết trên mạng về giáo dục dinh
dưỡng để làm giàu tư liệu cho bản thân để biết sự cần thiết các chất dinh dưỡng
đối với sự phát triển cơ thể trẻ, bên cạnh đó còn học hỏi nhiều kinh nghiệm nên
bản thân tôi đã có một kiến thức cơ bản, vững vàng trong công tác giáo dục dinh
dưỡng đối với sự phát triển thể chất cho trẻ. Từ đó có sự phối kết hợp với phụ
huynh, với nhà trường trong việc lên thực đơn, tư vấn, tuyên truyền cho phụ
huynh để bữa ăn của trẻ đảm bảo đủ năng lượng, đủ cơ cấu thành phần các chất,
nhằm góp phần phát triển thể chất cho trẻ.
Tăng cường công tác giáo dục dinh dưỡng và sức khỏe để phát triển thể
chất cho trẻ:
Ở thời đại ngày nay kinh tế xã hội ngày càng phát triển, bữa ăn của người
dân Việt nam nói chung, người dân xã Quảng Trung nói riêng đã được cải thiện
trong thời gian gần đây, nhưng tình trạng thiếu dinh dưỡng ở trẻ em, tỷ lệ chậm
tăng trưởng, thiếu vi chất vẫn còn khá phổ biến, một số phụ huynh ít quan tâm
đến chế độ ăn uống của trẻ dẫn đến suy dinh dưỡng, một số ít phụ huynh lại quá
chú ý đến chất lượng bữa ăn nhưng thiếu cân đối dẫn đến trẻ béo phì.
Trẻ mầm non chưa có nhận thức về dinh dưỡng, trẻ có đầy đủ mọi thứ,
muốn gì được nấy, được ba mẹ nuông chiều, lại cho ăn vặt, nhất là những bà mẹ
thiếu kiến thức dẫn đến tình trạng biến ăn do hôi miệng lâu dần sẽ dẫn đến thiếu
các chất dinh dưỡng, đó là yếu tố ảnh hưởng tới sự phát triển tối ưu của trẻ, sự

thiếu hụt nầy kéo dài sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe trẻ làm giảm sút
thể lực và khả năng hoạt động tiếp thu kiến thức ở trẻ. Từ đó tôi luôn chú ý công
tác giáo dục dinh dưỡng cho trẻ ở mọi lúc, mọi nơi, trong hoạt động vui chơi,
hoạt động học, hoạt động ngoài trời, hoạt động nêu gương và không quên phối
hợp phụ huynh cùng giáo dục.
Cho trẻ biết thực phẩm có nhiều cách ăn khác nhau như ăn sống, ăn chín,
muối dưa, đóng hộp….mỗi thực phẩm có nhiều dạng chế biến như luột, xào,
kho, làm bánh, nem, chả….
Ví dụ: Quả đu đủ, khi còn xanh có thể làm gỏi, nấu canh, xào, khi chín có
thể cắt miếng để ăn, làm sinh tố, ướp đường…
Bên cạnh đó tôi còn dạy trẻ biết lợi ích của thực phẩm đối với sức khỏe
con người, giáo dục trẻ biết những thực phẩm có nhiều năng lượng giúp trẻ vui
chơi, chạy nhảy như sữa, cơm, bắp, khoai, thịt, cá, trứng, dầu, mỡ, đậu…thực
phẩm giúp sáng mắt, da đẹp là các loại trái cây, rau củ… thực phẩm giúp bé
nhanh lớn, thông minh là gạo, mì, thịt, cá, trứng, sữa, dầu, mỡ, rau, cũ, trái
cây…
Cho trẻ biết tháp dinh dưỡng, những thực phẩm nào cần ăn ít, ăn vừa, ăn
đủ… để trẻ tự biết cách lựa chọn tốt nhất cho cơ thể mình.
Giáo dục trẻ hiểu nếu ăn ít, ăn không đủ các loại thức ăn, thức ăn không
sạch sẽ thì trẻ sẽ bị ốm đau, suy dinh dưỡng, mệt mỏi, không tham gia cùng bạn
14


những trò chơi vui vẻ… ngược lại nếu ăn không đúng cách, ăn nhiều quá sẽ dễ
bị béo phì, do đó các con cần ăn sạch, ăn nhiều loại thực phẩm khác nhau với
đầy đủ số lượng và các nhóm thực phẩm.
Tôi luôn nhắc nhỡ động viên trẻ khi ăn các con cố gắng ăn hêt suất của
mình, không để cơm rơi vãi ra ngoài, nếu rơi các con phải nhặt bỏ vào đĩa để
hình thành cho trẻ thói quen hành vi văn minh trong sinh hoạt. Những trẻ biếng
ăn hoặc ăn chậm tôi luôn động viên trẻ ăn ngon miệng.

Ngoài việc giáo dục cho trẻ ăn uống đủ chất dinh dưỡng, tôi cần giáo dục
cho trẻ biết bảo vệ sức khỏe của mình như ăn chín, uống sôi tránh được bệnh về
tiêu hóa, có hành vi văn minh trong ăn uống, rửa, gọt hoa quả trước khi ăn, biết
rửa tay bằng xà phòng trước khi ăn, sau khi đi vệ sinh…
Bên cạnh các hoạt động học, hoạt động vui chơi, ăn uống… thì giấc ngủ
của trẻ cũng rất quan trọng vì sau những hoạt động đó trẻ sẽ rất mệt mỏi. Vì vậy
cho nên cho trẻ ngủ đúng giấc, đủ giấc, để khi trẻ dậy có một tinh thần sảng
khoái bước vào các hoạt động tiếp theo. Những trẻ khó ngủ tôi thường xuyên
ngồi bên cạnh hát ru hoặc kể chuyện cho trẻ nghe để dễ đi vào giấc ngủ.
Qua biện pháp nêu trên đa số trẻ lớp tôi đã hiểu được tầm quan trọng của
dinh dưỡng đối với cơ thể, nhận biết được giá trị dinh dưỡng của các loại thực
phẩm cần thiết cho sự phát triển về cân nặng, chiều cao, sáng mắt, đẹp da….để
ăn uống phù hợp. Qua đó trẻ có kiến thức theo yêu cầu về giáo dục dinh dưỡngsức khỏe: Biết ăn uống đầy đủ, ăn hết xuất và biết ăn uống văn minh, hợp vệ
sinh. Giáo dục dinh dưỡng cho trẻ ở mọi lúc mọi nơi giúp trẻ tiếp thu kiến thức
một cách nhẹ nhàng sâu sắc. Từ đó trẻ đã có những hiểu biết nhất định về dinh
dưỡng, trẻ có sức khỏe tốt hơn, chiều cao và cân nặng ngày càng được cải thiện
đạt được tiêu chí do nhà trường đề ra.
2.3.5. Phối kết hợp với phụ huynh:
Gia đình là tế bào tự nhiên của xã hội, là một cuộc sống môi trường xã hội
vi mô. Gia đình có ý nghĩa đặc biệt, có vai trò quan trọng đối với cuộc sống và
sự phát triễn của trẻ mầm non, là môi trường đảm bảo sự giáo dục và truyền lại
cho trẻ những giá trị văn hóa truyền thống.[5]
Thực hiện chính sách sinh đẻ có kế hoạch, mỗi gia đình có 1 – 2 con, kinh
tế đất nước nói chung ngày càng phát triển, kinh tế và đời sống nhân dân xã
Quảng Trung nói riêng có tăng trưởng so với những năm trước đây, đi đôi với nó
là sự quan tâm của mọi người đến vấn đề sức khỏe, đó là ăn uống, nghĩ ngơi, lao
động vừa sức. phụ huynh quan tâm đến con cái nhiều hơn, nhưng cũng có nhiều
phụ huynh quan tâm một cách thái quá như trẻ đã lớn 4-5 tuổi, 5-6 tuổi mà bước
ra một bước là bồng, bế, không cho trẻ tự làm một việc gì dù chỉ là nhỏ nhất, mà
cứ nghĩ rằng thương con là mua cho trẻ ăn nhiều món ngon, vật lạ, không hề chú

ý đến sự cân đối giữa các chất dinh dưỡng cũng như sự vận động phù hợp sẽ dễ
sinh bệnh béo phì không tốt cho con em mình.
Từ tình hình thực tế như vậy tôi đã xây dựng kế hoạch phối kết hợp với
phụ huynh qua cuộc họp phụ huynh đầu năm học, thông qua nhiệm vụ trong tâm
trong năm học và đề ra phương hướng nâng cao chất lượng chăm sóc giáo dục
15


trẻ trong nhà trường. Trong buối họp phụ huynh tôi đã thông báo những trẻ bị
suy dinh dưỡng, thấp còi để phụ huynh biết. Vấn đề này đã được đưa ra trước
cuộc họp, đã được phụ huynh đặc biệt quan tâm và thảo luận sôi nổi. trao đổi với
phụ huynh về kiến thức, sự cần thiết phải nâng cao thể lực cho trẻ như thế nào.
Bên cạnh đó tôi còn trao đổi, nói chuyện với phụ huynh qua giờ đón trả
trẻ hằng ngày về sự phát triển thể chất của trẻ cũng như các vấn đề phát triển
khác của trẻ.
Tuyên truyền qua góc phụ huynh, về nội dung chăm sóc – nuôi dưỡng
giáo dục trẻ như phòng bệnh theo mùa, tiêm chủng mở rộng, vệ sinh răng miệng,
rửa tay đúng cách, ăn uống đảm bảo dinh dưỡng, vận động đúng cách, hợp lý,
trong đó tôi chú trọng các vấn đề để phát triển lĩnh vực thể chất cho trẻ đó là:
Tuyên truyền về dinh dưỡng và sức khỏe:
Ăn uống hợp lý, đúng cách, đảm bảo cân đối các chất dinh dưỡng.
THỰC ĐƠN MÙA HÈ – KHỐI MẪU GIÁO – NĂM 2017 - 2018
TUẦN 1 + 3
Thứ Trưa
2

TUẦN 2 + 4
Chiều

Cơm

Thịt đúc trứng

Bánh mỳ,
Uống sữa.

Canh tép nấu mùng
tơi
3

4

5

Cơm

Chiều

Cơm

Bánh mỳ, Uống
sữa.

Đậu om thịt
Canh cua mùng tơi

Cháo vịt

Cơm

Ruốc bông cá thu


Tôm rim thịt

Canh bí xanh hầm
xương.

Canh bí đỏ hầm xương.

Cơm

Chè thập cẩmCơm

Thịt sốt cà chua

Ruốc bông cá thu

Canh rau mồng tơi
nấu ngao

Canh bí đao nấu thịt

Cơm

Cơm

Tôm rim thịt

Miến ngan

Canh khoai thập

cẩm
6

Trưa

Cơm
Thịt bò hầm carot.

Cháo gà

Miến ngan

Chè thập cẩm

Thịt sốt cà chua
Canh rau mồng tơi nấu
ngao

Bánh mỳ,
Uống sữa.

Cơm
Thịt bò hầm carot

Bánh mỳ, Uống
sữa.
16


Canh bầu nấu thịt

Canh bí đỏ nấu tôm
Ngủ đủ giấc, đúng giờ, chỗ ngủ thoáng mát, ấm đông, mát hè.
Vệ sinh cá nhân sạch sẽ, có thói quen tốt trong ăn uống, biết rữa tay trước
và sau khi ăn, sau khi đi đại tiểu tiện….
Phòng một số bệnh thông thường thường gặp theo mùa cho trẻ.
Biết làm một số việc vừa sức để giúp đỡ cô giáo, ba mẹ, biết tự phục vụ
bản thân một số việc đơn giản có thể làm được. Biết giữ gìn sức khỏe và biết
chơi các trò chơi, đồ chơi mang tính chất an toàn.
Một biện pháp tôi tâm đắc nhất trong năm học này là chuyên đề “ xây
dựng môi trường giáo dục lấy trẻ làm trung tâm” “ Xây dựng trường học gắn với
thực tiễn và rèn luyện kỹ năng sống cho trẻ” Trường, Huyện tổ chức hội thi “ Bé
tập làm nội trợ” lại thêm một cơ hội để tôi tuyên truyền, phối kết hợp với phụ
huynh để giúp đỡ về vật chất, tinh thần. Hội thi đã tạo ra sân chơi giúp trẻ được
trải nghiệm, thực hành những kỹ năng liên quan đến dinh dưỡng, ý thức chăm
sóc bảo vệ sức khỏe, biết hợp tác trong các hoạt động tập thể và thái độ yêu lao
động. Qua hội thi giáo dục trẻ rèn luyện được nhiều kỹ năng sống. Vì vậy phụ
huynh rất thích thú ủng hộ nhiệt tình.
H7. Hội thi “ Bé tập làm nội trợ” tuyến Huyện
Kết quả: Lớp tôi đã đạt giải nhất tuyến trường đại diện cho trường thi
tuyến Huyện đã đạt giải nhất tuyến Huyện năm học 2017- 2018.
Tuyên truyền về giáo dục thể chất:
Tham gia vào các trò chơi vận động lúc ở nhà cũng như ở trường.
Tham gia vào các hoạt động thể dục thể thao phù hợp với độ tuổi.
Tham gia vào các hoạt động ở giờ thể dục buổi sáng, thể dục giờ học,
luyện tập các động tác bò, trườn, trèo, leo, chạy, nhảy, đi, đứng…..
Ngoài ra còn tuyên truyền phụ huynh tăng cường đưa trẻ tham gia các
hoạt động giao lưu, dạo chơi dã ngoại, tham quan cùng với gia đình, bạn bè, cho
trẻ tự mang vác một số đồ dùng cá nhân vừa sức, cho trẻ đi bộ, leo trèo có sự
quan sát của người lớn để tăng cường dẻo dai, sức bền, rắn chắc xương tăng
cường sức khỏe đồng thời giáo dục trẻ tính tự lập, lòng kiên nhẫn, chịu khó, tự

phục vụ mình, không trông chờ vào người khác…
Đối với các hoạt động trong ngày: Ở nhà bố mẹ không làm thay hết mọi
việc cho trẻ mà tập cho trẻ làm những công việc đơn giản vừa sức.
Giúp phụ huynh thấy được tầm quan trọng của việc phát triển thể lực cho
trẻ. Ngoài chế độ dinh dưỡng hợp lý trẻ cần luyện tập phát triển thể lực ở lứa
tuổi mầm non đặc biệt là đối với trẻ 5 tuổi. Trẻ khỏe mạnh thể lực tốt thì mới có
điều kiện để hoàn thành tốt nhiệm vụ học tập, vui chơi ở trường cũng như ở nhà
và chuẩn bị tâm thế để bước vào trường phổ thông.
Qua biện pháp này tôi thấy hầu hết phụ huynh đều có nhận thức về giáo
dục dinh dưỡng- phát triển vận động cho trẻ, quan tâm hơn đến việc chăm sóc

17


nuôi dưỡng cũng như phát triển thể lực cho trẻ nên thể chất của học sinh lớp tôi
được nâng lên rõ rệt nhằm giúp trẻ phát triển cân đối và toàn diện.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục
với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường:
Qua một thời gian thực hiện những giái pháp trên, tôi nhận thấy giáo dục
phát triễn thể chất lớp tôi trẻ đã hoạt động một cách tích cực và kết quả cuối năm
có sự khác biệt rõ rệt thể hiện qua bảng khảo sát sau:
Về Giáo dục:
T Nội dung khảo sát Tổng
Đạt
Chưa
T
số
đạt
Tốt
Khá

Trung
trẻ
bình

1
2
3

Sự tập trung chú ý,
hứng thú của trẻ khi
tham gia vận động
Trẻ tích cực tự giác
trong hoạt động
Trẻ có kỹ năng vận
động thành thạo

Số
trẻ

Tỷ
lệ %

Số
trẻ

Tỷ
lệ %

Số
trẻ


Tỷ
lệ
%

Số
trẻ

Tỷ
lệ %

30

14

47

9

30

7

23

0

0

30


13

43

9

30

8

27

0

0

30

15

50

11

37

4

13


0

0

Về sức khỏe:
Tổng
số trẻ

Nội dung

Chiều cao
Cân nặng
BT
Tỷ lệ % Thấp Tỷ lệ
B.T
Tỷ lệ SDD Tỷ lệ
còi
%
%
%
30
30
100
0
0
30
100
0
0

*Đối với hoạt động giáo dục:
Qua việc thực hiện các biện pháp của bản thân vào việc phát triễn thể chất
cho trẻ lớp mẫu giáo 5-6 tuổi bản thân thu được hiệu quả:
Trẻ hứng thú hơn trong các giờ vận động, thích vận động, tự tin, nhanh
nhẹn, có tinh thần hợp tác cùng bạn bè, thể lực của trẻ ngày được nâng lên rõ rệt,
trẻ khoẻ mạnh và tăng cân đều, trẻ được chăm sóc trong môi trường an toàn,
lành mạnh. Các chỉ tiêu đề ra đều đạt như giảm tỉ lệ suy dinh dưỡng, không xảy
ra tai nạn thương tích, dịch bệnh.
Kết quả cụ thể như sau:
Sự tập trung chú ý, hứng thú của trẻ khi tham gia vận động: Loại tốt: 14
cháu đạt: 47%; Loại khá: 9 cháu đạt 30%; TB: 7 cháu đạt: 23%; không còn trẻ
không được xếp loại.
18


Trẻ tích cực tự giác trong hoạt động: Loại tốt: 13 cháu đạt: 43%; Loại
khá: 9 cháu đạt 30%; TB: 8 cháu đạt: 27%; không còn trẻ không được xếp loại.
Trẻ có kỹ năng vận động thành thạo: Loại tốt: 15 cháu đạt: 50%; Loại
khá: 11 cháu đạt 37%; TB: 4 cháu đạt: 13%; không còn trẻ không được xếp loại.
* Về sức khoẻ:
+ Cân nặng: 30/30 trẻ phát triển bình thường, đạt 100%
+ Chiều cao: 30/30 trẻ phát triển bình thường, đạt 100%
*Đối với bản thân:
Bản thân tôi ngày càng có kinh nghiệm sâu sắc hơn trong việc tổ chức
hoạt động phát triển vận động cho trẻ.
Là một giáo viên, tôi tự tin khi tổ chức các hoạt động trong nhà trường,
bám sát kế hoạch và tự làm chủ được khi xây dựng kế hoạch.
Bản thân được Ban giám hiệu nhà trường và đồng nghiệp đánh giá cao về
công tác giảng dạy và khả năng tổ chức các hoạt động phát triển vận động cho
trẻ. Được phụ huynh tin tưởng, quý mến.

*Đối với đồng nghiệp:
Với đề tài của mình bản thân đã đưa ra trao đổi cùng đồng nghiệp trong
các buổi sinh hoạt chuyên môn của tổ để giúp bạn bè đồng nghiệp hiểu rõ về nội
dung phương pháp hình thức tổ chức giáo dục phát triễn thể chất cho trẻ đạt hiệu
quả, từ đó bạn bè đồng nghiệp cũng có thể sử dụng các biện pháp của tôi vào
việc tổ chức phát triễn thể chất cho trẻ của các lớp mình.
*Đối với nhà trường:
Qua các biện pháp trong đề tài nhà trường đã sử dụng để giới thiệu đến
tập thể giáo viên trong trường để chị em cùng nhau trao đổi kinh nghiệm và
đóng góp ý kiến cho đề tài bổ sung thêm các biện pháp mới hơn của các đồng
nghiệp khác chị em cùng nhau thực hiện và nâng cao chất lượng giáo dục thể
chất ở các lớp nói riêng và chất lượng nhà trường nói riêng.
*Đối với phụ huynh:
Phụ huynh ngày càng nhận thức sâu sắc hơn việc học tập của con em
mình. Khi ở trường, thường xuyên quan tâm đến tình trạng sức khoẻ và các hoạt
động của trẻ khi ở nhà. Tin tưởng và hưởng ứng mạnh mẽ cùng nhà trường phối
kết hợp làm tốt chuyên đề “ Xây dựng trường học gắn với thực tiễn và rèn luyện
kỹ năng sống cho trẻ” và “nâng cao chất lượng giáo dục phát triển thể chất cho
trẻ trong trường mầm non”.
3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ:
3.1. Kết luận:
Qua việc thực hiện một số biện pháp giáo dục thể chất cho trẻ bản thân tôi
thấy:
Không ai có thể phủ nhận vai trò của sức khoẻ đối với sự phát triển của
mỗi người. Bởi vì sức khoẻ là vốn quý giá nhất có ý nghĩa sống còn đối với con
người, đặc biệt là trẻ dưới 6 tuổi. Ở lứa tuổi này quá trình tăng trưởng của trẻ
diễn ra rất nhanh chóng, việc hoạt động giáo dục thể chất không chỉ tạo cơ hội
cho trẻ vận động một cách thoải mái tích cực để phát triển thể lực mà qua hoạt
19



động này trẻ còn học được tính kỷ luật, biết hợp tác chia sẻ cùng các bạn và
quan trọng hơn nữa là giúp trẻ: học qua chơi, chơi bằng học.Trẻ được phát triển
về thể chất qua sự phát triển cử động các nhóm cơ hô hấp, tay, bụng, chân, phát
triển các vận động thô, vận động tinh phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý của trẻ.
Khi trẻ vận động, các bộ phận trên cơ thể cùng phối hợp vận động và phát
triển, do đó giáo dục thể chất có ý nghĩa đối với việc phát triển về thể lực và
giúp cho hệ thần kinh của trẻ mẫu giáo lớn dần dần phát triển toàn diện, đồng
thời hình thành và phát triển về: Đức - Trí - Thể - Mỹ cho trẻ. Nó góp phần giúp
trẻ trở thành con người toàn diện – Thông qua hoạt động này đã tạo được không
khí: nhà trường thân thiện, học sinh tích cực.
Giáo dục thể chất cho trẻ trong trường mầm non là một nội dung quan
trọng trong chương trình giáo dục mầm non, việc thực hiện chuyên đề “ Xây
dựng trường học gắn với thực tiễn và rèn luyện kỹ năng sống cho trẻ” “nâng cao
chất lượng giáo dục phát triển thể chất cho trẻ trong trường mầm non” trong
năm học này và cả những năm tiếp theo đối với tôi sẽ là cơ sở quan trọng nâng
cao chất lượng giáo dục thể chất cho trẻ, góp phần giáo dục toàn diện đức - trí thể - mỹ cho trẻ ngay từ bậc học đầu cần đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục
trong giai đoạn hiện nay.
3.2. Kiến nghị:
Để cho việc giáo dục thể chất ở khối mẫu giáo lớn nói chung và các khối
khác trong nhà trường được phát triển tốt hơn, tôi có một số đề nghị như sau:
Đối với nhà trường:
Cần không ngừng tăng cường sự phối hợp giữa gia đình, nhà trường và
địa phương để nâng cao công tác chăm sóc sức khoẻ và thể lực cho trẻ. Đầu tư
mua sắm thêm một số đồ dùng đáp ứng nhu cầu đổi mới hiện nay. Thường
xuyên mở các lớp bồi dưỡng về chuyên đề cho giáo viên được tham gia học tập.
Đối với phòng giáo dục:
Có kế hoạch mở các lớp bồi dưỡng kiến thức về giáo dục thể chất, các lớp
chuyên đề nâng cao chất lượng giáo dục thể chất.
Xây dựng các giờ dạy mẫu về giáo dục thể chất để cho giáo viên trong

toàn Huyện học hỏi kinh nghiệm cho bản thân.
Trên đây là một số biện pháp mà tôi đã thực hiện để “Nâng cao chất lượng
giáo dục phát triển thể chất cho trẻ 5-6 tuổi trong trường mầm non Quảng
Trung” có hiệu quả, rất mong nhận được ý kiến đóng góp của các quý cấp lãnh
đạo cùng các bạn đồng nghiệp để bài viết được hoàn thiện và áp dụng rộng rãi
hơn để cùng đưa ngành học mầm non ngày càng phát triển mạnh mẽ về mọi mặt.

XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỜNG
ĐƠN VỊ

Quảng Trung; Ngày 15 tháng 4 năm 2018
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của tôi
viết, không sao chép nội dung của người
khác.
Người viết sáng kiến
20


Lê Thị Hồng

TÀI LIỆU KHAM KHẢO
1. Mô đun bồi dưỡng thường xuyên cho giáo viên mầm non; Mô đun1: Đặc
điểm phát triễn thế chất.
2. Chương trình giáo dục mầm non mới
3. tài liệu giáo dục phát triễn vận động cho trẻ trong trường Mầm non
4 Hướng dẫn tổ chức thực hiện chương trình GDMN 5-6 tuổi
5. Mô đun bồi dưỡng thường xuyên cho giáo viên mầm non; Mô đun 40: Phối
hợp với gia đình để giáo dục trẻ MN.

21




×