Tải bản đầy đủ (.pdf) (23 trang)

skkn một số kinh nghiệm dạy trẻ vận động để phát triển thể chất cho trẻ nhà trẻ 25 36 tháng tuổi ở trường mầm non đông thanh, huyện đông sơn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (659.78 KB, 23 trang )

MỤC LỤC
TT

TIÊU ĐỀ

Trang

1
1.1

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
Lý do chọn đề tài

1.2

Mục đích nghiên cứu

2

1.3

Đối tượng nghiên cứu

2

1.4

Phương pháp nghiên cứu

2



2
2.1

NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm

2.2

Thực trạng

1-3
1-2

3-19
3-4
4

2.2.1 Thuận lợi

4

2.2.2 Khó khăn

4

2.2.3 Kết quả khảo sát
2.3

MỘT SỐ BIỆN PHÁP


2.3.1. Biện pháp 1: Rèn luyện sự chú ý, tập trung của trẻ vào
hoạt động thể dục sáng nhằm phát triển thể chất cho trẻ.
2.3.2. Biện pháp 2: Xác định yêu cầu và nhiệm vụ của giáo viên
khi tổ chức các hoạt động phát triển vận động.
2.3.3. Biện pháp 3: Gây hứng thú trong hoạt động vận động chính
nhằm phát triển thể chất cho trẻ.
2.3.4. Biện pháp 4: Xây dựng môi trường giáo dục phát triển vận
động cho trẻ trong trường mầm non.
2.3.5. Biện pháp 5: Lồng ghép giáo dục thể chất cho trẻ trong các
hoạt động chăm sóc giáo dục trẻ theo chế độ ngày
2.3.6. Biện pháp 6: Phối hợp với phụ huynh giúp trẻ vận động
thường xuyên nhằm phát triển thể chất cho trẻ.
2.4 Kết quả đạt được
3
KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
3.1 Kết luận
3.2

Kiến nghị

4-5
5-19
5-7
7-9
9-10
10-12
12-16
16-18
18-19

19-20
19
19-20

Tài liệu tham khảo
Danh mục sáng kiến kinh nghiệm đã được xếp loại.

0


1. MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn đề tài
Sinh thời Bác Hồ nói:
“Có sức khỏe là có tất cả”
Đúng vậy, sức khỏe chính là nền tảng quan trọng để tạo nên sự phát triển
của xã hội. Khi có sức khỏe, con người có thể thực hiện những hoạt động cá
nhân và hoạt động xã hội có hiệu quả. Đó chính là cơ sở hàng đầu giúp cho sự
mỗi người tự khẳng định mình trong xã hội. Vì vậy, họ có thể đóng góp sức lực,
trí tuệ của mình cho sự phát triển của đất nước. Khi có sức khỏe con người mới
có thể tham gia vào các hoạt động một cách tích cực. Với trẻ mầm non khi trẻ
khỏe mạnh trẻ sẽ tham gia vào các hoạt động vận động một cách tốt nhất như:
chơi các trò chơi, các bài hoạt động vận động và các hoạt động khác ở nhà cũng
như ở trường. Vì thế, phát triển thể chất cho trẻ mầm non nói chung và trẻ nhà
trẻ nói riêng càng có ý nghĩa quan trọng hơn nhiều. [3]
Giáo dục phát triển vận động là một trong những nhiệm vụ của giáo dục
phát triển thể chất, nhằm góp phần phát triển toàn diện cho trẻ mầm non. Dưới
góc độ sinh lí học, vận động là sự chuyển động của cơ thể con người trong đó có
sự tham gia của hệ cơ, hệ xương và sự điều khiển của hệ thần kinh. Vận động
(dù ở mức đơn giản hay phức tạp) là điều kiện cho sự phát triển cơ thể con
người ở nhiều mặt khác nhau. Dưới tác động của giáo dục, các hoạt động nhằm

phát triển vận động cho trẻ sẽ được nghiên cứu, lựa chọn và tổ chức một cách
khoa học để đạt mục tiêu giáo dục đề ra.
Về mặt thể chất, giáo dục phát triển vận động góp phần tăng cường và bảo
vệ sức khỏe. Các bài tập vận động vừa sức giúp cơ thể trẻ thoải mái, kích thích
họat động của các hệ cơ quan bên trong như hệ tuần hoàn, hệ thần kinh, hệ hô
hấp, hệ tiêu hóa…. Đặc biệt, khi trẻ luyện tập với các yếu tố tự nhiên như ánh
nắng mặt trời, nước, không khí…. không chỉ tăng cường hiệu quả luyện tập mà
còn giúp trẻ thích nghi tốt hơn với môi trường sống bên ngoài, tăng cường sức
đề kháng của cơ thể trẻ. [1]
Ngoài ra việc thực hiện các bài tập vận động một cách khoa học còn giúp
phát triển hệ cơ, hệ xương, củng cố khớp, dây chằng, tạo khả năng phát triển
đúng tỉ lệ giữa các bộ phận cơ thể. Từ đó phát triển tư thế thân người hợp lí hoặc
uốn nắn những tư thế sai cho trẻ mầm non.
Giáo dục phát triển thể chất còn góp phần bảo vệ sức khỏe trẻ, khi trẻ
tham gia các bài tập vận động sẽ giúp cơ thể trẻ phát triển cân đối, kích thích các
hoạt động của cơ quan bên trong như: hệ tuần hoàn, hệ thần kinh, hệ hô hấp, hệ
tiêu hóa cùng phát triển. Mặt khác khi trẻ tập luyện các bài tâp vận động sẽ góp
phần phát triển các cơ như cơ như: cơ xương, các khớp ngón tay, bàn tay… phát
triển tốt thể chất cũng đồng nghĩa với việc góp phần trong việc giảm tỉ lệ trẻ suy
dinh dưỡng và thấp còi cho trẻ.
Thực tế hiện nay việc tổ chức các hoạt động vận động cho trẻ đã được các
nhà trường quan tâm và cải thiện đáng kể. Song trong quá trình triển khai thực
hiện vẫn còn gặp không ít những hạn chế, khó khăn nhất định như: Giáo viên
mới chú trọng vào việc cho trẻ tập thể dục sáng và thể dục giờ học theo những
hình thức thông thường, các cô sợ mất an toàn cho trẻ khi tham gia vận động
1


ngoài trời nên hạn chế cho trẻ chơi; diện tích khuôn viên trường hẹp, trường
chưa có khu chơi vận động riêng, thoáng, rộng nên việc cho trẻ chơi vận động

ngoài trời ít được giáo viên quan tâm tổ chức; Chưa có kế hoạch phối hợp với
ban cha mẹ học sinh tổ chức “Tuần lễ sức khỏe” hay “Ngày hội thể dục, thể
thao” ở trường mầm non theo tháng, quý vì sợ phụ huynh bận không tham gia
được….
Nhận thức được tầm quan trọng của vận động đối với sự phát triển của trẻ
lứa tuổi Nhà trẻ. Trước thực trạng còn hạn chế, là người trực tiếp trong công tác
nuôi dạy trẻ, tôi luôn trăn trở suy nghĩ: Mình phải làm gì? Làm như thế nào? để
tìm ra những biện pháp đạt hiệu quả, từng bước nâng cao chất lượng Chăm sóc
- Nuôi dưỡng - Giáo dục cho trẻ, tạo niềm tin cho các cấp ủy Đảng, chính quyền,
các ban, ngành, đoàn thể của địa phương và các bậc phụ huynh, vì thế tôi đã
chọn đề tài sáng kiến kinh nghiệm: “Một số kinh nghiệm dạy trẻ vận động để
phát triển thể chất cho trẻ nhà trẻ 25-36 tháng tuổi ở trường mầm non Đông
Thanh, huyện Đông Sơn”. Với mong muốn để trao đổi, chia sẻ những kinh
nghiệm của mình cùng các bạn đồng nghiệp.
1.2. Mục đích nghiên cứu
Với mục đích của tôi trong đề tài này là dạy trẻ vận động để phát triển thể
chất cho trẻ 25-36 tháng tuổi, rèn luyện tính mạnh dạn, tự tin khi tham gia các
hoạt động, đặc biệt là giúp trẻ có một sức khỏe tốt.
1.3. Đối tượng nghiên cứu
Một số kinh nghiệm dạy trẻ vận động để phát triển thể chất cho trẻ nhà trẻ
25-36 tháng tuổi ở trường mầm non Đông Thanh, huyện Đông Sơn.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu đề tài này bản thân tôi đã kết hợp sử dụng hệ
thống các phương pháp sau:
* Phương pháp nghiên cứu lí thuyết: Đọc và tổng hợp các tài liệu liên
quan đến đề tài.
* Phương pháp nghiên cứu thực tiễn:
Tôi sử dụng các phương pháp sau:
- Phương pháp quan sát: Thông qua việc theo dõi các hoạt động vận động
của trẻ trong ngày như: Hoạt động thể dục sáng, hoạt động học, ăn, ngủ…

- Phương pháp điều tra: Phối hợp với giáo viên cùng lớp hàng tuần, hàng
tháng điều tra theo dõi sức khỏe, các hoạt động vận động của trẻ.
- Phương pháp đàm thoại: Trò chuyện với trẻ, phối hợp với phụ huynh về
việc giáo dục hoạt động vận động cho trẻ một cách tốt nhất.
- Phương pháp nghiên cứu và tổng kết kinh nghiệm: Thông qua họp hội
đồng nhà trường, tổ chuyên môn, thông qua việc xếp loại thi đua hàng tháng.
Đồng thời trao đổi với phụ huynh về việc phát triển thể chất cho trẻ qua hoạt
động vận động.
- Phương pháp thống kê xử lí số liệu: Tôi dùng phương pháp này để xử lí
số liệu, phân tích số liệu thu được về các nội dung được đưa vào đánh giá trẻ,
thông qua việc dạy trẻ vận động nhằm phát triển thể chất cho trẻ nhà trẻ 25-36
tháng tuổi trường mầm non Đông Thanh, huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hóa”.
2


2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1.Cơ sở lí luận
Như chúng ta đã biết xét về mặt thể chất, giáo dục phát triển vận động
góp phần tăng cường và bảo vệ sức khỏe. Các bài tập vận động vừa sức giúp cơ
thể trẻ thoải mái, kích thích họat động của các hệ cơ quan bên trong như hệ tuần
hoàn, hệ thần kinh, hệ hô hấp, hệ tiêu hóa…. Đặc biệt, khi trẻ luyện tập với các
yếu tố tự nhiên như ánh nắng mặt trời, nước, không khí…. không chỉ tăng cường
hiệu quả luyện tập mà còn giúp trẻ thích nghi tốt hơn với môi trường sống bên
ngoài, tăng cường sức đề kháng của cơ thể trẻ.
Ngoài ra việc thực hiện các bài tập vận động một cách khoa học còn giúp
phát triển hệ cơ, hệ xương, củng cố khớp, dây chằng, tạo khả năng phát triển
đúng tỉ lệ giữa các bộ phận cơ thể. Từ đó phát triển tư thế thân người hợp lí hoặc
uốn nắn những tư thế sai cho trẻ mầm non.
Về các kĩ năng vận động và tố chất vận động, giáo dục phát triển vận
động giúp hình thành và rèn luyện các kĩ năng vận động, đồng thời phát triển

các tố chất vận động.
Nhờ đặc điểm hoạt động của hệ thần kinh theo cơ chế phản xạ nên những
bài tập được lặp đi lặp lại sẽ tạo ra các kĩ năng vận động và dần dần hình thành
thói quen vận động cho trẻ. Những thói quen vận động giúp trẻ thực hiện các
vận động trong cuộc sống hàng ngày nhanh, chính xác, tiết kiệm được sức di
chuyển trong không gian.
Giáo dục phát triển vận động góp phần tăng cường và bảo vệ sức khỏe.
Trẻ tham gia các bài tập vận động sẽ giúp cơ thể thoải mái, kích thích các hoạt
động của cơ quan bên trong như hệ tuần hoàn, hệ thần kinh, hệ hô hấp, hệ tiêu
hóa cùng với sự tập luyện ngoài trời từ các yếu tố tự nhiên như nước, không khí,
mặt trời sẽ tăng cường sức đề kháng cho cơ thể. Thông qua việc tập luyện các
bài tâp vận động sẽ phát triển các cơ, các xương, phát triển cân đối các bộ phận
trong cơ thể trẻ.
Giáo dục phát triển vận động giúp trẻ hình thành và rèn luyện các kỹ năng
vận động. Thông qua các bài tập vận động trẻ được tập đi tập lại nhiều lần sẽ
hình thành những thói quen cho trẻ, giúp cho những hành động của trẻ ngày
càng nhanh, bền, chính xác.
Giáo dục phát triển vận động góp phần giáo dục toàn diện cho trẻ mầm
non: Việc thực hiện các bài tập vận động góp phần tích cực vào giáo dục phát
triển nhận thức (tăng cường hiểu biết; làm phong phú biểu tượng về bài tập vận
động, các bộ phận trên cơ thể và tác dụng của bài tập vận động đến chúng; yêu
cầu luyện tập…), giáo dục phát triển tình cảm và kĩ năng xã hội (tình cảm, thái
độ phù hợp với việc luyện tập vận động; có kĩ năng thực hiện các yêu cầu về vệ
sinh cá nhân, môi trường và dụng cụ luyện tập; hình thành các phẩm chất nhân
cách cần thiết của người lao động…), giáo dục phát triển thẩm mỹ (nhận thức
đúng về cái đẹp trong trang phục luyện tập, các động tác vận động; có mong ước
được tạo ra cái đẹp trong luyện tập vận động…) và giáo dục lao động cho trẻ
mầm non (tham gia chuẩn bị địa bàn, các dụng cụ luyện tập; cất dặt đồ dùng,
dụng cụ luyện tập đúng chỗ quy định; quý trọng sức lao động của người khác…)
3



Ngoài ra, các tố chất vận động như nhanh, mạnh, khéo léo, bền bỉ được
chú trọng rèn luyện một cách đồng đều thông qua nhiều bài tập vận động khác
nhau tạo nên sự hài hòa, cân bằng tương đối về tố chất cho mỗi cá nhân, Ngoài
ra, việc luyện tập theo nguyên tắc phát triển: Tăng dần yêu cầu luyện tập đối với
từng trẻ trên cơ sở khả năng và điều kiện thực hiện của chúng sẽ giúp cơ thể trẻ
thích nghi dần với lượng vận động. Sau một thời gian, các tố chất vận động của
trẻ sẽ được cải thiện hơn. [1]
Tóm lại, phát triển vận động cho trẻ lứa tuổi mầm non giữ vai trò vô cùng
quan trọng. Vì vậy cần được tiến hành mạnh mẽ, toàn diện và cần sự quan tâm
chia sẻ của toàn xã hội, tạo điều kiện tốt nhất cho trẻ phát triển toàn diện nhân
cách trẻ.
2.2. Thực trạng việc dạy trẻ vận động để phát triển thể chất cho trẻ
nhà trẻ 25-36 tháng tuổi ở trường mầm non Đông Thanh.
* Tình hình chung:
Là giáo viên trực tiếp dạy trẻ tại nhóm trẻ tôi mong muốn sẽ mang lại cho
trẻ có môi trường giáo dục tốt nhất, giúp trẻ mạnh dạn, tự tin trong giao tiếp, biết
quan tâm chia sẻ, hơn hết là có một sức khỏe thật tốt vì vậy tôi đã thay đổi cách
giáo dục trẻ một cách tốt nhất.
Đầu năm học tôi đã tiến hành khảo sát thực trạng của lớp tôi và nhận thấy
có những thuận lợi và khó khăn như sau:
2.2.1. Thuận lợi
Ở lớp tôi phụ trách được Ban giám hiệu quan tâm giúp đỡ tạo điều kiện
mua sắm trang bị đầy đủ đồ dùng, đồ chơi trong lớp để dạy trẻ vận động.
Các tài liệu về hoạt động chăm sóc giáo dục trẻ trong nhà trường được cấp
phát đầy đủ, kịp thời, trường có kết nối mạng internet để tôi cập nhật thông tin
một cách nhanh nhất khi cần thiết.
Bản thân có trình độ trên chuẩn, có chứng nhận tin học, thường xuyên cập nhật
internet.

Các loại đĩa băng nhạc cho hoạt động vận động được trang bị đầy đủ.
Bản thân là một giáo viên rất thích tham gia các hoạt động vận động, mặt khác
tôi luôn quan tâm đến mọi trẻ trong lớp nên được đa số các bậc phụ huynh tin
tưởng gửi gắm
Bên cạnh những thuận lợi trên lớp tôi còn có một số khó khăn sau.
2.2.2. Khó khăn
Trường đang tiến hành xây dựng trường mầm non đạt chuẩn Quốc gia nên
đôi khi còn ảnh hưởng đến các hoạt động vận động của trẻ.
Đồ dùng, dụng cụ để tổ chức các hoạt động vận động cho trẻ còn thiếu.
Trẻ lớp tôi đi học chưa thường xuyên, trẻ đi học muộn, các tháng tuổi
không đều nhau, có trẻ đi học đầu năm có trẻ lại đi giũa năm, cuối năm.
Đa số chưa qua lớp nhà trẻ 18-24 tháng.
Phụ huynh tập trung vào làm ăn kinh tế chưa chú ý quan tâm đến sức
khỏe của trẻ nên trẻ hay ốm, đi học chưa chuyên cần, vì vậy cũng ảnh hưởng
phần nào đến việc dạy trẻ vận động, nhằm phát triển thể lực cho trẻ ở lớp tôi phụ
trách.
2.2.3. Kết quả khảo sát thực trạng
4


Căn cứ vào tình hình thực tế của lớp tôi phụ trách. Ngay từ đầu năm học
tôi đã khảo sát ở một số nội dung với tất cả 26/26 trẻ trong lớp, kết quả như sau:
Kết quả khảo sát thực trạng vào thời điểm tháng 9/2017 như sau:
Kết quả
Tổng
số trẻ
Đạt
Chưa đạt
khảo
Nội dung khảo sát

Số
Tỉ lệ
Số
Tỉ lệ
sát
trẻ
%
trẻ
%
Trẻ hứng thú tham gia vào các hoạt động
26
11
42,3
15
57,7
vận động
Trẻ nhanh nhẹn, tự tin trong quá trình vận
26
11
42,3
15
57,7
động
Trẻ có kỹ năng vận động tốt, thành thạo
26
11
42,3
15
57,7
Trẻ có sức khỏe tốt

26
23
92,0
3
8,0
* Nhận xét:
Nhìn vào bảng kết quả khảo sát tôi thấy
- Ở ba nội dung đầu đánh giá về sự hứng thú tham gia vào các hoạt động
vận động của trẻ. Số trẻ nhanh nhẹn, tự tin trong vận động và trẻ có kỹ năng vận
động tốt, thành thạo. Tỷ lệ trẻ đạt đang ở mức thấp. Cụ thể mới đạt 42,3%.
- Nội dung thứ tư đánh giá về tình trạng sức khỏe cho trẻ đa số trẻ đạt tốt,
tỷ lệ đạt 92,0% .
Để làm thay đổi kết quả trên bản thân tôi luôn trăn trở làm sao để trẻ tích
cực vận động và có một thể lực tốt nhất.
2.3. Một số biện pháp thực hiện có hiệu quả về dạy trẻ vận động để
phát triển thể chất cho trẻ nhà trẻ 25-36 tháng tuổi ở trường mầm non
Đông Thanh.
Hiểu được vai trò, nguyên tắc phát triển vận động và dựa vào mục tiêu
của giáo dục phát triển vận động lứa tuổi nhà trẻ 25-36 tháng tôi đã tìm ra
những giải pháp tốt nhất để dạy trẻ hoạt động vận động nhằm phát triển thể chất
cho trẻ, từ đó trẻ sẽ tự tin, mạnh dạn và một sức khỏe tốt để trẻ tham gia vào các
hoạt động ở nhà cũng như ở trường.
2.3.1. Biện pháp 1: Rèn luyện sự chú ý, tập trung của trẻ vào hoạt động
thể dục sáng nhằm phát triển thể chất cho trẻ.
Hoạt động thể dục sáng là hoạt động không thể thiếu trong chế độ sinh
hoạt ngày của trẻ ở trường mầm non, thể dục sáng thường xuyên giúp trẻ tập hít
thở sâu, điều hòa nhịp thở, tăng cường quá trình trao đổi chất và tuần hoàn trong
cơ thể, giúp các khớp dây chằng được mềm dẻo, linh hoạt, đồng thời hỗ trợ cho
những hoạt động trong ngày của trẻ thêm nhịp nhàng, nhanh nhẹ, tạo cho trẻ tâm
trạng thoải mái, vui tươi đón ngày hoạt động mới, thể dục sáng giúp bảo vệ tăng

cường sức khỏe, có tác động tích cực đến thần kinh, tâm lí trẻ, tăng cường các
quá trinh sinh lí trong cơ thể giúp trẻ không mệt mỏi sau khi ngủ dậy. Hiểu được
tầm quan trong đó tôi đã tìm ra giải pháp rèn luyện sự chú ý, tập trung vào thể
dục sáng.
5


Với những hình thức thông thường trong giờ thể dục sáng tôi chỉ cho trẻ
tập các động tác của bài tập phát triển chung bằng tay một cách đơn điệu theo
nhịp đếm, chưa kết hợp với dụng cụ thể dục nên trẻ chưa chú ý, chưa hứng thú
tập trung vào hoạt động, trẻ thích thì tập không thích thì ngồi hay chỉ đứng mà
không tập gì cả. Tôi đã thay đổi hình thức tập thể dục sáng bằng dụng cụ phù
hợp với từng chủ đề như: Gậy, vòng, cờ, nơ....kết hợp với các động tác mô
phỏng theo từng chủ đề giúp trẻ dễ thuộc, dễ nhớ mà trẻ lại tập trung chú ý.
Ví dụ 1: Với chủ đề “Những con vật đáng yêu” tôi đã cho trẻ làm những
động tác mô phỏng của những chú chim nhỏ, kết hợp đeo nơ hoa vào ngón tay
giữa hai tay cho trẻ. Tôi cho trẻ tập như sau:
- Động tác 1: Chim hót (thực hiện 3-4 lần): Tư thế chuẩn bị: Trẻ đứng
chân rộng bằng vai, 2 tay để sau lưng. Cô nói “Chim hót” trẻ hít thật sâu rồi
chụm môi thổi từ từ.
- Động tác 2: Chim vẫy cánh (thực hiện 3-4 lần): Tư thế chuẩn bị: Hai tay
thả xuôi, cô nói “Chim vẫy cánh” Trẻ dang 2 tay sang ngang làm động tác vẫy
làm chim bay.
- Động tác 3: Chim mổ thóc (thực hiện 3-4 lần): Đứng tự nhiên, tay thả
xuôi. Ngồi xuống, gõ các ngón tay lên đầu gối và nói “Tốc! tốc!”đứng lên…
- Động tác 4: Chim bay (thực hiện 4-5 lần): Trẻ đứng thoải mái. Cô nói
“Chim bay” trẻ dang hai tay vẫy vẫy, giậm chân tại chỗ.
Sau khi sử dùng hình thức trên tôi thấy các cháu ở lớp tôi rất hào hứng
tập cùng cô mang lại cho trẻ cảm giác thoải mái cho những hoạt động tiếp theo
trong ngày.

Đối với trẻ độ tuổi nhà trẻ tôi rất quan tâm đến việc dạy trẻ theo nhóm và
cá nhân nên tôi thường chú ý quan tâm đến những trẻ nhút nhát như: Hướng
Nhật, Nguyễn Hải, Thu Giang... tôi luôn theo dõi, sửa sai, uốn nắn từng trẻ, luôn
theo dõi các hành động của những trẻ hay nghịch ngợm để có hình thức dạy trẻ
tốt hơn. Những buổi trẻ tập thể dục sáng tôi thường xếp cho cháu chưa mạnh
dạn đứng ở hàng trên gần với cô, trước khi tập tôi thường trò chuyện để trẻ thấy
được sự gần gũi quan tâm của tôi cũng như sự động viên khích lệ để trẻ tự tin
hơn, tôi đã chú ý sửa sai cho trẻ, từ đó trẻ biết tập những động tác cùng cô và
các bạn đều hơn, chính xác hơn ở các buổi tập tiếp theo.
Ví dụ 2: Ở chủ đề “Tết và mùa xuân” tôi cho trẻ sử dụng vòng , gậy…
để tập thể dục sáng kết hợp với lời ca của bài hát “Sắp đến tết rồi”. Với động tác
phù hợp kết hợp với âm nhạc gây cảm xúc cho trẻ, trẻ sẽ hứng thú với hoạt động
vận động.
Không chỉ với chủ đề này mà các chủ đề khác tôi cũng cho trẻ sử dụng,
dụng cụ để tập và thay đổi âm nhạc phù hợp với từng chủ đề để trẻ không thấy
nhàm chán mà thích luyện tập hơn nhiều.
Ví dụ 3: Ở chủ đề “Bé và các bạn” kết hợp bài hát “Nào chúng cháu
cung tập thể dục” hay chủ đề “Những con vật đáng yêu” với bài hát “Con gà
trống, một con vịt…”…
Qua hình thức này trẻ lớp tôi tuy còn nhỏ nhưng rất thích thú tập cùng cô,
cùng bạn, vì thế khi đưa âm nhạc vào hoạt động đã mang lại kết quả rất cao.
6


Hàng tuần, hàng ngày tôi thường rèn luyện cho trẻ có nề nếp trong hoạt
động thể dục sáng như : Nề nếp xếp hàng, tập trung chú ý không nói chuyện khi
tập, rèn cho trẻ biết luật chơi, cách chơi của trò chơi…Làm như vậy cô đỡ vất vả
mà trẻ lại có nề nếp tốt.
Khi đưa biện pháp này vào giáo dục vận động cho trẻ tôi thấy trẻ lớp tôi
chú ý, tập trung hơn, hứng thú hơn. Chỉ là vậy thôi cũng giúp bản thân tôi phấn

đấu tìm ra biện pháp tiếp theo giúp tất cả trẻ lớp tôi được vận động tốt nhất.
2.3.2. Biện pháp 2: Xác định yêu cầu và nhiệm vụ của giáo viên khi tổ
chức các hoạt động phát triển vận động.
Để luôn tổ chức các hoạt động phát triển vận động cho trẻ một cách tốt
nhất tôi luôn chuẩn bị cho tiết học , lựa chọn các bài tập phù hợp với lứa tuổi và
thể lực của trẻ.
Để bài tập luôn hấp dẫn thu hút trẻ tôi đã sử dụng các dụng cụ như: quả
trùy, vòng, gậy…phong phú, đẹp mắt .
Do tính chất riêng của từng trẻ nên khi lựa chọn phương pháp tôi cần dựa
trên hệ thống các bài tập, kỹ thuật, yêu cầu thể lực của trẻ.Tôi luôn cho trẻ được
học ở “Mọi lúc, mọi nơi”, cho trẻ làm quen trước các vận động mà trẻ sẽ thực
hiện trong tiết học sắp đến bằng phương pháp trực quan là làm mẫu.
Ví dụ: Bài tập vận động “Bật xa”
Lần đầu cho trẻ làm quen thì tôi phải lầm mẫu toàn bộ, sau đó chú ý đến
tư thế chuẩn bị, tư thế bậc của chân, cuối cùng là cách vung tay, bật nhún. Khi
trẻ nắm được các phần cơ bản của bài tập thì tôi có thể tập trước cho 1 - 2 cháu
làm mẫu cùng cô.
Điều mà cô cần chú ý khi làm mẫu: Cô cần phải chọn vị trí tập sao cho tất
cả các cháu đều nhìn thấy
Ví dụ: Động tác của bài tập phát triển chung giáo viên cần cho trẻ đúng
vòng tròn cô đứng cùng vói trẻ để trẻ có thể quan sát được cô mà không bị
vướng các bạn
Khi làm mẫu cô cần tập đúng, chính xác nhẹ nhàng để trẻ có biểu tượng
đúng về bài tập vận động và kích thích trẻ thực hiện tốt. Tuyệt đối cô không
được làm qua loa, đại khái. Khi mới luyện tập cảm giác không gian và thời gian
của trẻ còn yếu, trẻ chưa có ý thức điều khiển cơ bắp một cách chủ động, do vậy
cần phải có sự hỗ trợ bên ngoài của giáo viên, làm sao giúp trẻ tránh té, ngã và
nhút nhát trong luyện tập.
Ngoài ra trong tiết dạy tôi luôn quan tâm đến các dụng cụ, vận động, động
tác trong tiết học phải rõ ràng phải chính xác và khối lượng của vận động, động

tác phù hợp với trẻ như: túi cát, bóng và những dụng cụ nhỏ mang tính chất tăng
tính tích cực khi thực hiện bài tập: cờ, nơ, xúc xắc.
Chúng ta đều biết trực quan thính giác bao gồm: vận động thường xuyên
của âm thanh, âm nhạc là sự quan sát bằng âm thanh tốt nhất, âm nhạc có tác
dụng nâng cảm xúc của trẻ, xác định tính chất vận động và điều chỉnh nhịp điệu,
âm điệu của nó giúp trẻ điều tra tốc độ vận động, phối hợp vận động, bắt đầu và
kết thúc vận động cùng lớp. Ngoài ra ca từ trong bài hát còn giúp trẻ hiểu sâu
hơn về chủ đề mà tôi cần cung cấp giúp trẻ càng hứng thú hơn trong vận động.
7


Đặc điểm của trẻ ở độ tuổi nhà trẻ nói chung và trẻ ở lớp tôi nói riêng là
thích bắt chước và thích được khen nên khi trẻ vận động theo cô thì tôi luôn
động viên và tuyên dương trẻ kịp thời. Khi dạy các vận động tôi thực hiện dưới
dạng các hiện tượng tự nhiên và xã hội xung quanh trẻ:
Ví dụ: Khi thực hiện vận động “Bật tiến về phía trước”
Tôi sử dụng hình ảnh của chú chim non, hay nhảy giống thỏ trắng trên bãi
cỏ non. Hình ảnh mô phỏng cô giáo chúng ta có thể sử dụng rộng rãi khi thực
hiện bài tập phát triển chung và những bài tập vận động cơ bản: đi, chạy, nhảy....
Trẻ có thể bắt chước các vận động, tư thế của động vật: gấu, cáo, thỏ, chim, gà
mẹ...Côn trùng: ong, bướm...Cây cối, hoa lá, cỏ..Những phương tiện giao thông:
tàu hỏa, ô tô...
Các vận động trên tôi thường xuyên thực hiện cho trẻ quan sát và cho trẻ
luyện tập thường xuyên và nhiều lần trong luyện tập giúp trẻ tránh được sự mệt
mỏi, gây hứng thú cho trẻ khi vận động.
Trong các hoạt động vận động điều cốt yếu đó là lời nói của cô giáo, qua
lời nói cô giáo giúp trẻ quan sát bài tập vận động có mục đích, hiểu sâu hơn các
bước thực hiện, do đó khi sử dụng phương pháp này yêu cầu lời nói của giáo
viên phải có sức thu hút, rõ ràng, mạch lạc và có hình ảnh.
Việc dùng lời nói đối với trẻ cũng hết sức quan trọng: giáo viên có thể yêu

cầu trẻ miêu tả bài tập, điều này giúp trẻ biết cách diễn đạt bài tập vận động
bằng lời kết hợp với thực hiện bài tập buộc trẻ phải tập trung chú ý, phát triển ở
trẻ tính độc lập, có ý thức trong luyện tập.
Ví dụ: Khi trẻ thực hiện vận động cơ bản “Bật nhảy hái quả”,
Muốn trẻ thực hiện tốt vận động này tôi nhắc nhở trẻ khi bật các con phải
cẩn thận, chỉ hái những quả chín.
Những lời nhận xét kịp thời của tôi tạo điều kiện làm củng cố thêm biểu
tượng của trẻ về thao tác, giúp trẻ nhận ra những chỗ sai của mình và bạn để kịp
thời sửa sai.
Việc sử dụng khẩu lệnh và mệnh lệnh cũng hết sức quan trọng trong khi
tổ chức hoạt động học cho trẻ. Mục đích của khẩu lệnh là giúp trẻ phản ứng kịp
thời khi bắt đầu và kết thúc hoạt động, tốc độ và hướng chuyển động. Mệnh lệnh
là những những lời nói của giáo viên tự nghĩ ra, mệnh lệnh được sử dụng để
thực hiện những nhiệm vụ có liên quan đến việc phân chia và thu dọn dụng cụ.
Nhiều bài tập được tiến hành theo nhạc thì dự lệnh của khẩu lệnh phải
bằng lời nói, còn phần động lệnh tín hiệu để thực hiện sẽ sử dụng hợp cùng đầu
tiên.
Khi dạy trẻ vận động qua các câu chuyện hay thơ ca, hò, vè tôi thường
cho trẻ nghe một lượt rõ ràng truyền cảm, sau đó kể hoặc đọc thơ cho trẻ thực
hiện.
Ví dụ:
Bài thơ “Dung dăng dung dẻ”
Tôi cho trẻ nắm tay nhau đi, đến câu “xì xà xì xụp” trẻ ngồi xổm. Sau đó
cho trẻ đứng lên đọc thơ tiếp. Hoặc mẫu chuyện “Chú gà trống” cô nói: có một
chú gà trống bừng tỉnh dậy cất tiếng gáy ò ó o o trẻ cho tay lên miệng bắt chước
gà gáy, cô nói tiếp sau đó chú ra vườn bới đất tìm mồi thì trẻ làm động tác đi vẫy
tay 2 bên.
8



Tôi phối hợp các phương pháp giảng dạy: lời nói, trực quan làm mẫu,
luyện tập để buổi tập thêm phong phú, kích thích trẻ tích cực hoạt động vận
động. Cuối buổi dựa vào nội dung mẫu chuyện “Chú gà trống” tôi không quên
lồng ghép nội dung giáo dục trẻ ăn hết khẩu phần và đầy đủ các chất dinh dưỡng
để cơ thể khỏe mạnh...
2.3.3. Biện pháp 3: Gây hứng thú trong hoạt động vận động chính
nhằm phát triển thể chất cho trẻ.
Trên thực tế cho thấy khi chúng ta làm một việc gì đó muốn có kết quả
cao thì phải có sự hứng thú mới làm được, trẻ em cũng vậy, trẻ hứng thú vui vẻ
trẻ mới thích hoạt động, trẻ mới thực hiện nhiệm vụ của mình một cách tốt nhất.
Trong mọi hoạt động và đặc biệt là hoạt động vận động nếu chúng ta biết gây
hứng thú, biết tạo cho trẻ cảm giác tò mò, thích hoạt động vận động sẽ kích thích
thần kinh trung ương của trẻ, khiến trẻ vui vẻ muốn hoạt động cùng cô, cùng bạn
một cách tích cực, không mệt mỏi, uể oải. Mặt khác trong hoạt động vận động,
trẻ cần phải tuân thủ các bước rất cứng nhắc như thực hiện phải theo hiệu lệnh,
đúng kỹ thuật….mà với lứa tuổi Nhà trẻ trẻ đang còn chơi và học tự do, đưa trẻ
vào một nề nếp để học tốt giờ vận động trong giờ học rất khó, với trẻ lớp tôi đầu
năm đa số trẻ chưa biết và chưa muốn thực hiện các bài tập cùng cô và các bạn,
trẻ tập như có sự ép buộc, thích thì tập không thích thì thôi, có khi trẻ còn thấy
sợ và khóc nữa, nên bài tập nào thực hiện kết quả cũng chưa cao. Vì vậy tôi rất
băn khoăn và suy nghĩ làm gì để giúp trẻ hứng thú trong giờ học, thực hiện các
bài tập tốt nhất và tôi đã làm như sau:
Với chủ đề “Thế giới động vật” bài vận động “Bò trong đường hẹp có
mang vật trên lưng”
Ví dụ 1: Để giúp trẻ hứng thú từ đầu đến cuối hoạt động tôi lồng ghép
câu chuyện về một nhân vật Búp bê. “Hôm nay nhà búp bê mới xây một cái ao
rất to, bác muốn nhờ lớp mình mang cho bác nhiều cá, tôm, cua…để bạn thả vào
ao. Sau đó trẻ thi nhau bò trong đường hẹp, trên lưng có mang theo cá, tôm,
cua… khéo léo không làm rơi vật trên lưng, không chạm vào mép đường, rồi
nhẹ nhàng thả cá vào ao. Làm như vậy trẻ như được tôn trọng nên trẻ rất hứng

thú.
Trẻ nhà trẻ cũng như người lớn, trẻ đã biết cảm nhận cái gì là đẹp cái gì là
xấu, mà cái gì đẹp thì trẻ sẽ thích thú khi được sử dụng nó, do vậy xây dựng môi
trường cho trẻ phong phú là rất quan trọng.
Ví dụ 2: Với bài vận động trên tôi còn thiết kế mô hình ngôi nhà của búp
bê thật đẹp, có hai cái ao, có búp bê, có một số con vật (tôm, cua, cá…) kết hợp
với những đồ dùng chính của bài vận động (đường hẹp, vạch chuẩn bị…) tất cả
có màu sắc đẹp để gây sự chú ý cho trẻ. Khi cho trẻ sử dụng những đồ dùng này
trong hoạt động, trẻ rất hăng say luyện tập.
Việc không thể thiếu để trẻ có được hứng thú trong giờ học vận động đó là
cách dạy trẻ qua lời nói, hành động, cử chỉ bất ngờ của tôi giúp trẻ không cảm thấy
nhàm chán.
Ví dụ 3: Cũng ở hoạt động này tôi đã gây hứng thú cho trẻ bằng cách:
Cho trẻ làm đàn gà đi ngủ, kết hợp với đồng nghiệp của mình (một cô giáo khác
sẽ làm một cô rùa trên lưng có trở con tôm đang bò gần đến trẻ) cô cho các trẻ
9


thức dậy và hỏi trẻ (đây là ai?). Cô rùa này đang giúp bạn búp bê mang nhiều
tôm, cua, cá…về ao cho bạn đấy các con có muốm làm những cô rùa, chú rùa
nhỏ mang con vật trên lưng đến cho bạn không vậy? qua tình huống đó đã tạo
cho trẻ không gian vui vẻ thoải mải hứng thú rất nhiều vào hoạt động.
Ngoài ra trong lúc trẻ đang hoạt động, cô còn kết hợp với các hoạt động
khác cho giờ học thêm phong phú.
Ví dụ 4: Cũng với đề tài vận động “Bò trong đường hẹp có mang vật trên
lưng” khi trẻ thực hiện bò trong đường hẹp có mang những con vật đến cho bạn
búp bê, tôi đã dạy trẻ khi bò đến nơi thì tặng búp bê và nói (tôi tặng bạn con cua,
con cá, con tôm…) làm như vậy trẻ rất thích thú và còn phát triển ngôn ngữ cho
trẻ nữa.
Với hình thức trên dạy trẻ trong tiết hoạt động “Bò trong đường hẹp có

mang vật trên lưng” trẻ lớp tôi rất hứng thú, chú ý khi nghe và quan sát cô làm
mẫu nên trẻ tập say sưa không mệt mỏi, trẻ biết bò trong đường hẹp lưng thẳng
và đa số trẻ không làm rơi vật trên lưng, trẻ rất tự tin, mạnh dạn, qua đó còn phát
triển lời nói và tình cảm kĩ năng xã hội cho trẻ, trẻ biết giúp đỡ người khác một
việc gì đó.

Hình ảnh: Trẻ thực hiện“Bò trong đường hẹp có mang vật trên lưng”.
Tôi đã áp dụng nhiều hình thức tương tự như vậy với những hoạt động
vận động khác rất thành công, cô và trẻ đã hoàn thành nhiệm vụ của minh, tôi
cảm thấy rất vui đã giúp trẻ có một bài học thoải mái, yêu thích hơn, từ đó tôi
phấn khởi mạnh dạn để tìm ra biện pháp tiếp theo.
2.3.4. Biện pháp 4: Xây dựng môi trường giáo dục phát triển vận động
cho trẻ trong trường mầm non.
Môi trường giáo dục phát triển vận động và đồ dùng, dụng cụ luyện tập
đối với sự tích cực vận động của trẻ có ý nghĩa rất quan trọng. Sự tích cực vận
động của trẻ phụ thuộc vào chế độ vận động, kể cả vận động do cô tổ chức và
hoạt động tự vận động của trẻ. Chế độ vận động hợp lí, phù hợp với kinh
nghiệm vận động, sở thích, mong muốn của trẻ và khả năng của cơ thể trẻ ở
10


trường mầm non đảm bảo thỏa mãn nhu cầu của trẻ, giúp trẻ phát triển toàn
diện. Do đó, tôi luôn phải quan tâm đến việc tổ chức hoạt động phát động vận
động cho trẻ, sự đa dạng của các bài tập cũng như thực hiện các nhiệm vụ cơ
bản và yêu cầu về nội dung của các hoạt động đó. Để làm điều này, tôi lựa chọn
chính xác các thiết bị luyện tập bởi đây là một phần của môi trường đồ chơi, đồ
vật, vận động trong lớp mình phụ trách.
Xây dựng môi trường giáo dục phát triển vận động cho trẻ gắn với việc
lựa chọn trang thiết bị, đồ dùng, dụng cụ luyện tập. Các phương tiện luyện tập
phải đảm bảo độ bền vững, an toàn cho trẻ; kích thước, trọng lượng phải phù

hợp với cơ thể trẻ. Bất kì hoạt động vận động nào của trẻ cũng nhằm đạt mục
tiêu phát triển kĩ năng vận động và các tố chất thể lực cho trẻ. [2]
Ví dụ: Trò chơi đi thăng bằng, bò, trườn, bật nhảy, nhảy qua dây, leo
dây… đều ảnh hưởng đến sự phát triển trí tuệ, nhận thức, kĩ năng vận động và
các tố chất thể lực, tình cảm, ý chí và sự tích cực của trẻ…
Việc sử dụng các thiết bị, dụng cụ luyện tập có thể tạo ra các tình huống,
phương án, phức tạp hóa điều kiện thực hiện các bài tập thể dục khác nhau.
Ví dụ: Trẻ đi bộ, chạy vượt qua các chướng ngại vật; đi, bò, trườn trên
ghế thể dục; chui qua cổng vòng cung...Qua đó, trẻ thể hiện sự linh hoạt, quyết
tâm, lòng dũng cảm, sức chịu đựng, khả năng phản ứng nhanh nhẹn, khéo léo...
Các bài tập có sử dụng các đồ dùng, dụng cụ như: bóng, vòng, gậy thể
dục, các bài tập đạp xe đạp... có tác động tăng cường phát triển các nhóm cơ bắp
khác nhau, đặc biệt cơ chân.
Môi trường hoạt động phát triển vận động cho trẻ trong trường mầm
non, bao gồm:
Môi trường đóng một vai trò rất quan trọng đối với trẻ. Môi trường kích
thích, thúc đẩy, làm phong phú quá trình phát triển của trẻ và tạo điều kiện để trẻ
sớm bộc lộ những khả năng tiềm ẩn của mình. Sự phát triển phong phú của trẻ là
sự phát triển tất cả các năng lực của từng cá nhân. Sự phát triển này đạt được
mức độ cao chỉ khi có sự tác động của một môi trường mang tính phát triển,
trong đó yếu tố tiện lợi và an toàn luôn được quan tâm trước tiên.
Trong trường mầm non đối với hoạt động phát triển vận động của trẻ, môi
trường lại càng đóng vai trò quan trọng hơn, môi trường trong hoạt động phát
triển vận động quyết định rất lớn đến kết quả hoạt động và đảm bảo an toàn về
thể chất cho trẻ. Vì vậy khi xây dựng môi trường cho trẻ tham gia vào hoạt động
vận động, tôi phải lên kế hoạch xây dựng và duy trì môi trường thật chu đáo,
đảm bảo trẻ luôn được sống trong môi trường “sạch sẽ”. Khi tạo môi trường cho
trẻ hoạt động, tôi tạo môi trường hoạt động gồm: Môi trường hoạt động trong
phòng nhóm, lớp; Môi trường cho trẻ hoạt động ngoài trời và Môi trường xã hội.
* Môi trường hoạt động trong phòng nhóm, lớp.

Ngoài những đồ dùng tôi tự làm. Đồ dùng, trang thiết bị, đồ chơi trong
lớp tôi luôn đảm bảo theo Danh mục đồ dùng - đồ chơi - thiết bị dạy học tối
thiểu của Bộ Giáo dục và Đào tạo và theo nội dung giáo dục phát triển vận động
trong Chương trình Giáo dục mầm non.
Tôi bố trí, sắp xếp thiết bị, đồ chơi ở các góc chơi trong nhóm, lớp đảm
bảo an toàn; tận dụng mọi điều kiện phù hợp với từng vận động của trẻ để tạo cơ
11


hội cho trẻ được vận động ở mọi lúc, mọi nơi, tăng cường vận động trong thời
gian trẻ ở trường.
Khai thác, sử dụng hiệu quả các thiết bị, đồ chơi cho trẻ phát triển vận
động. Sắp xếp các thiết bị, đồ chơi vận động phát triển thể lực của trẻ theo
hướng mở (theo nhu cầu vận động của trẻ). Các khu vực tôi bố trí phù hợp, linh
hoạt, tạo điều kiện dễ dàng cho trẻ tự lựa chọn và sử dụng đồ vật, đồ chơi, tham
gia vào các góc chơi, đồng thời thuận lợi cho sự quan sát của cô.
Phong trào tự làm đồ dùng, đồ chơi từ các nguyên vật liệu sẵn có ở địa
phương được nhà trường phát động theo tháng có hiệu quả.
* Môi trường cho trẻ hoạt động ngoài trời
Sân chơi ngoài trời của trường tôi đảm bảo số lượng và chủng loại thiết
bị, đồ chơi đáp ứng yêu cầu cho trẻ vận động ngoài trời theo các độ tuổi.
Thiết bị, đồ chơi ngoài trời được nhà trường lựa chọn theo hướng khuyến
khích trẻ tích cực hoạt động nhằm giúp trẻ phát triển vận động đa dạng, phong
phú. Khai thác sử dụng có hiệu quả giúp trẻ luyện tập các kĩ năng vận động cơ
bản và phát triển tố chất trong vận động: các kiểu đi, đứng, chạy, nhảy; bò,
trườn, trèo; tung, ném, lăn, bắt; thổi, vươn... (theo Chương trình Giáo dục mầm
non).
Khi cho trẻ vận động chơi ngoài trời tôi luôn đảm bảo các mức độ vận
động khác nhau để mọi trẻ đều có thể thực hiện vận động được, bố trí sắp xếp
hợp lí, có chỉ dẫn để giúp trẻ biết sử dụng thiết bị và vui chơi, tập luyện đảm bảo

an toàn và khoa học.
Cho trẻ chơi các khu vực chơi đảm bảo an toàn, dễ dàng cho tôi quan sát
được. Trẻ có thể tham gia chơi theo nhóm, lớp, cá nhân; chơi theo ý thích hoặc
theo bài tập cần rèn luyện trong kế hoạch giáo dục.
* Môi trường xã hội
Môi trường xã hội cũng rất quan trọng đối với trẻ trong hoạt động phát
triển vận động của trẻ. Vì thế tôi đã xây dựng môi trường thân thiện giúp trẻ tích
cực, hứng thú với các hoạt động phát triển vận động.
Môi trường chăm sóc, giáo dục ở lớp nhóm tôi phụ trách luôn đảm bảo an
toàn về mặt tâm lí, tạo thuận lợi giáo dục các kĩ năng xã hội cho trẻ. Hành vi, cử
chỉ, lời nói, thái độ của tôi đối với trẻ và những người khác luôn mẫu mực để trẻ
noi theo.
Tóm lại: Muốn trẻ tham gia vào các hoạt động vận động một cách tích
cực, hứng thú thì việc xây dựng dựng môi trường cho trẻ hoạt động là rất quan
trọng. Vì vậy khi xây dựng, tổ chức môi trường hoạt động vận động cho trẻ phải
hướng tới nhu cầu, khả năng thực tế của địa phương, đơn vị mình, lựa chọn
những nội dung phù hợp để mọi trẻ đều có thể thực hiện vận động được một
cách thoải mái, linh hoạt có hiệu quả.
Việc xây dựng môi trường giáo dục phát triển vận động phù hợp, an toàn,
tạo điều kiện thuận lợi cho trẻ tham gia tích cực vào các hoạt động giáo dục phát
triển vận động có ảnh hưởng lớn đối với việc đạt được mục tiêu giáo dục phát
triển vận động đề ra.
2.3.5. Biện pháp 5 : Lồng ghép giáo dục thể chất cho trẻ trong các hoạt
động chăm sóc giáo dục trẻ theo chế độ ngày.
12


* Với hoạt động tạo hình
Đối với trẻ 25-36 tháng tuổi, vận động tinh của trẻ phát triển ở mức độ
thấp. Vì vậy, tôi tổ chức hoạt động tạo hình nhằm rèn luyện cho trẻ một số kỹ

năng cơ bản sử dụng đất: lăn dọc, xoay tròn, ấn dẹt…kỹ năng xé: Xé dải dài, xé
vụn, xé theo vết chấm lỗ…kỹ năng dán: chấm hồ vào vết chấm tròn và đặt hình
vào vết chấm hồ, đặt hình khít vào các nét chấm mờ; dán chồng, dán cạnh…
Ví dụ:
- Với hoạt động “Quả và lá theo màu”. Tôi dạy trẻ dùng ngón tay để
chấm hồ và bôi hồ vào hình thật khéo để hồ không dây ra ngoài.
- Với hoạt động “Xé và dán mành cửa sổ theo vệt chấm sẵn”. Tôi hướng
dẫn trẻ cầm giấy màu bằng 2 đầu ngón tay, khi xé thì lần tay xé theo vệt chấm
lỗ.
- Hoạt động “Tô màu con cá”. Tôi hướng dấn trẻ cách cầm bút bằng tay
phải, giữ vở bằng tay trái và di màu vào vở thì đưa tay nhẹ nhàng.
- Hoạt động “Nặn viên phấn, cái bút”. hướng dẫn trẻ cách nhào đất, bóp
đất, bằng các đầu ngón tay sau đó dùng lòng bàn tay để xoay tròn và lăn dọc
viên đất để tạo ra viên phấn, cái bút. Trẻ tô màu trong giờ hoạt động góc.
* Với hoạt động âm nhạc:
“Âm nhạc là món ăn tinh thần không thể thiếu đối vơi trẻ mầm non”,
thông qua âm nhạc trẻ sẽ linh họat, mạnh dạn, thông minh qua việc tham gia các
động tác minh họa kết hợp khi hát và rèn luyện cho trẻ, khi vận động theo nhạc
sẽ thúc đấy sự vận động cơ thể, sự nhanh nhẹn khéo léo, bền bỉ và dẻo dai qua
các động tác. Khi sử dụng các dụng cụ âm nhạc, trẻ được đánh trống, thổi kèn,
gõ mõ, vỗ sắc xô… làm thoả mãn nhu cầu vận động của trẻ phát triển các vận
động tinh và vận động thô.
* Với hoạt động ngoài trời
Giờ chơi ngoài trời ở trường mầm non là khoảng thời gian yêu thích của trẻ
nhỏ. Thay vì cứ bắt trẻ phải ngồi ngoan ở trong lớp thì tôi cho trẻ ra sân để hoạt
động thường xuyên. Không gian ngoài trời có nhiều lợi thế cho việc phát triển
vận động của trẻ. Mặt bằng rộng rãi là nơi trẻ thoả sức chạy nhảy, leo trèo thoả
mãn nhu cầu vận động của trẻ mà phòng học không thể đáp ứng được. Tại đây
trẻ được tiếp xúc với thiên nhiên, với nắng, với gió…ngoài trời trẻ được chơi với
cát, với nước mà không sợ lỡ tay làm nước đổ.

* Vớt hoạt động chơi ở các khu vực trong lớp
Phần lớn các hoạt động trong các góc chơi có kèm theo vận động: Đi, chạy,
nhảy… những vận động này sẽ giúp đẩy mạnh quá trình trao đổi chất, tăng hô
hấp, máu lưu thông…giúp cho các chức năng khác nhau của cơ thể phát triển và
củng cố các vận động cơ bản. Đi, chạy nhảy…phát triển các tố chất nhanh,
mạnh, bền. Khi trẻ tham gia chơi bế em trong góc búp bê, xúc cho em ăn, rửa
mặt cho em, chải tóc cho em…phát triển kỹ năng vận động tinh cho trẻ. Hay trẻ
tham gia góc “Hoạt động với đồ vật” khi xâu vòng, xếp các khối gỗ… cần phải
có sự khéo léo của đôi bàn tay ngón tay…
* Với hoạt động chơi tập theo ý thích
Tôi tổ chức hướng dẫn trò chơi mới như: trò chơi vận động, trò chơi dân
gian… cũng như ôn luyện các trò chơi tránh trường hợp để trẻ thụ động chờ phụ
13


huynh đón.Sau khi áp dụng biện pháp này tôi nhận thấy rằng trẻ rất thích thú khi
tham gia vào các hoạt động đặc biệt là hoạt động phát triển vận động. Trẻ được
trải nghiệm nhiều qua thực tế. Trẻ biết thực hiện vận động một cách chủ động
mà không sợ ngã hay cần đến sự giúp đỡ của người lớn. Tôi thấy khả năng vận
động của trẻ được nâng lên rõ rệt.
Hàng ngày tôi thường xuyên tổ chức cho trẻ vận động giúp trẻ phát triển
cân đối hài hòa về mọi mặt, vì thế trẻ ở lớp tôi luôn khỏe mạnh, đi học rất đều
Ngoài những bài vận động chính tôi còn cho trẻ vận động ở mọi lúc mọi nơi.
Hoạt động ngoài trời là một trong những thời điểm để trẻ được vận động,
ở hoạt động này không phải chỉ cho trẻ xem tranh ảnh, quan sát, trò chuyện,
khám phá về các con vật, cây xanh, hay là các phương tiện giao thông ... mà tôi
còn tổ chức cho trẻ chơi các trò chơi như; Trò chơi vận động, trò chơi dân gian :
Ví dụ 1: Với trò chơi “Chi chi chành chành”
Cách chơi: Cô cho trẻ ngồi quây quần bên nhau. Cô xòe ngửa một bàn tay, bàn
tay còn lại cô và trẻ cùng đặt ngón trỏ chấm lên bàn tay xòe ngửa của cô và đọc

bài đồng dao:
“Chi chi chành chành”
“Chi chi chành chành
Cái đanh thổi lửa
Con ngựa chết trương
Ba vương ngũ đế
Bắt dế đi tìm
Ù à ù ập
Đóng sập cửa lại.

Hình ảnh: Trẻ chơi cùng cô trò chơi “Chi chi chành chành”

14


Trong các hình thức phát triển vận động cho trẻ, trò chơi vận động cũng là
hình thức phát triển thể chất có hiệu quả nhất, đây là hoạt động tạo sự thoải mái
nên khi tôi tổ chức thực hiện cùng trẻ thì trẻ lớp tôi rất hứng hút tham gia. Qua
trò chơi vận động hình thành tính kiên trì ở trẻ, để có hiệu quả cao tôi cũng rất
chú trọng đến việc thiết lập trò chơi cho hợp lí và phù hợp với chủ đề.
Ví dụ 2:
Chủ đề “Bé và các bạn” Cho trẻ chơi trò chơi “Bắt bóng”
Hoạt động vận động tự do có vai trò trong việc phát triển cả về thể chất
lẫn tinh thần ở trẻ vì vậy tổ chức tốt hoạt động vận động tự do này sẽ có chức
năng bảo vệ cuộc sống và sức khỏe của trẻ, thúc đẩy sự phát triển đúng đắn về
thể chất và tinh thần, nâng cao khả năng làm việc của cơ thể và phát triển trí tuệ
cho trẻ. Hoạt động tích cực còn giáo dục cho trẻ những phẩm chất nhân cách,
lòng can đảm, quyết tâm, phẩm chất đạo đức, cách biểu lộ hành vi đúng đắn
trong các tình huống, có lối sống lành mạnh, với hoạt động này có thể cho trẻ
hoạt động trong lớp hoặc ngoài trời.

Ví dụ 3:
Khi cho trẻ hoạt động ngoài trời tôi cho trẻ chơi các trò chơi
với các đồ chơi có sẵn trong sân trường, dụng cụ thể dục như: Xích đu, bập
bênh, chơi với cát nước…, tham gia các trò chơi vận động, dân gian, chăm sóc
vườn cây, thăm quan vườn cổ tích… Ở trong lớp tôi cho trẻ chơi với các ngón
tay : “cắp cua vào giỏ”, “nhón nhặt đồ vật”, chồng xếp các khối, tập cầm bút tô
vẽ, lật mở trang sách. Tất cả đều nhằm phát triển các nhóm cơ lớn và nhỏ của
trẻ. Qua giờ ăn tôi dạy và giúp trẻ hoạt động vận động bằng những việc làm cụ
thể như sau:
Ví dụ 4: Tôi hướng dẫn trẻ làm những việc nhỏ phụ giúp cô như chia thìa,
chia cơm cho các bạn, cất dọn bát, thìa, ca, cốc cùng cô…
Dạy trẻ bài tập thể dục sau giấc ngủ trưa giúp trẻ khỏe mạnh, tràn đầy
năng lượng, sau khi ngủ trưa đây là thời gian phục hồi cơ thể nên cần tạo cho trẻ
thức dậy một cách sáng khoái: Trẻ nằm ngửa tay, để dọc thân, thả lỏng cơ thể
thoải mái.
Ví dụ 5: Trong giờ âm nhạc vỗ tay theo nhịp, múa, hát. Trong giờ tạo hình
vẽ, nặn …cũng giúp trẻ vận động được đôi tay, chân và các bộ phận khác của cơ
thể.
Với những hình thức trên sau khi thực hiện, đa số trẻ lớp tôi đã hình thành
bản năng trong vận động, trẻ rất hứng thú, vì vậy thể chất cuả trẻ được nâng lên
rõ rệt. Bé Hướng Nhật, Thu Giang, Nguyễn Hải… đầu năm rất nhút nhát, không
hoạt động cùng các bạn, cơ thể yếu ớt, khi cân, đo trẻ đã nằm ở kênh suy dinh
dưỡng và thấp còi, nhưng sau một thời gian cùng với chế độ dinh dưỡng và hoạt
động vận động hợp lí, tích cực các trẻ giờ đây đã không còn suy dinh dưỡng và
thấp còi nữa tôi cảm thấy rất vui đó là điều mà tôi luôn mỏng mỏi bấy lâu nay
giờ đã thành hiện thực.
Với những biện pháp tôi đã thực hiện được ở trên, tôi còn tiếp tục đưa ra
một biện pháp khác mang lại kết quả rất cao trong việc giáo dục phát triển vận
động cho trẻ. Đó là phối kết hợp với phụ huynh cùng tham gia các hoạt động
giáo dục phát triển vận động cho trẻ


15


2.3.6. Biện pháp 6: Phối hợp với phụ huynh giúp trẻ vận động thường
xuyên nhằm phát triển thể chất cho trẻ.
Đầu năm đa số phụ huynh lớp tôi hầu như chưa quan tâm đến việc dạy trẻ
vận động, còn nuông chiều trẻ, cho rằng trẻ còn nhỏ thì biết làm gì, mặt khác
phụ huynh còn nghĩ con mình đến trường ở độ tuổi này các cô chỉ trông, coi là
chính… đó là sai lầm lớn nhất khiến trẻ thiệt thòi trong quá trình chăm sóc giáo
dục trẻ nhất là trong hoạt động vận động.
Chính vì vậy mà tôi đã thường xuyên trò chuyện với phụ huynh qua giờ
đón trả trẻ, qua các cuộc họp phụ huynh, để phụ huynh hiểu được tầm quan
trọng trong việc chăm sóc giáo dục con mình của các cô giáo ở trường cũng như
ở nhà một cách tốt nhất để phát triển toàn diện cho trẻ.
Ví dụ 1: Thỉnh thoảng tôi còn mời phụ huynh đến dự một giờ học chơi-tập
để phụ huynh biết rằng trẻ đến trường đã được học nhiều thứ, được cô dạy tập
thể dục, dạy đi, đứng, chạy…. như thế nào là đúng và tôi hướng dẫn phụ huynh
cách dạy trẻ những hoạt động cơ bản có thể dạy trẻ ở nhà vào những ngày nghỉ
cuối tuần, cho trẻ tập thể dục vào buổi sáng, chơi các trò chơi cùng trẻ…
Hoặc có những lúc tôi còn mời trực tiếp phụ huynh đến tham gia các trò
chơi dân gian cùng con mình ngay tại trường, nhóm của con. Điều này nhận
được sự ủng hộ rất nhiệt tìn của phụ huynh.

Hình ảnh: Phụ huynh chơi cùng con mình tại lớp học
Ví dụ 2: Tôi còn nhắc phụ huynh dạy trẻ: ở nhà giúp bố mẹ những việc
nhỏ phù hợp với trẻ như: Lấy tăm, tự lấy nước uống, tự xúc cơm, hát múa cho
ông bà bố mẹ nghe, xem.
16



Ở lớp tôi, tôi vận động phụ huynh thu gom phế liệu những đồ dùng đã bỏ
để làm thành những sản phẩm có ích cụ thể là những đồ dùng, đồ chơi phục vụ
cho việc học tập vui chơi của trẻ.
Với cách làm của tôi như vậy trong suốt năm học qua ở lớp tôi, tôi thấy kết
quả rất đáng mừng: Phụ huynh yên tâm, tin tưởng việc chăm sóc nuôi dạy trẻ
của tôi, mặt khác phụ huynh đã thông cảm với những khó khăn, vất vả của cô
giáo mầm non nói chung và bản thân tôi nói riêng. Trẻ lớp tôi tích cực đi học
hơn, quá trình tham gia các hoạt động vận động có kỹ năng, có tố chất vận động,
giờ học chất lượng được nâng lên rõ rệt.
Thấy được kết quả học tập của con mình như thế phụ huynh rất vui mừng
nên đã cùng tôi làm đồ dùng phục vụ các cháu trong các hoạt động, trò chơi vận
động, phụ huynh đã làm và tặng cho lớp tôi bộ : Xích đu, cổng chui, bập bênh…
Ví dụ 3: Làm cổng chui, tôi kết hợp với phụ huynh đi xin lốp xe máy cũ
sau đó về rửa sạch rồi phun sơn, dùng máy hàn đế để tiện di chuyển rồi trang trí
lên các lốp cho đẹp, khi làm bập bênh tôi cũng nhờ phụ huynh thu gom lốp ô tô
nhỏ rồi lau rửa sạch, cưa đôi lốp sau đó nhờ phụ huynh lấy miếng ván gỗ của
bàn ghế hỏng lắp vào lốp xe làm ghế ngồi và tay cầm, nhuộm màu bằng lá cây
và trang trí cho đẹp, để phục vụ cho hoạt động vận động cho trẻ.
Với những biện pháp trên, tôi thật sự hài lòng với kết quả mà trẻ đã đạt
được, việc rèn luyện các kỹ năng vận động không còn là vấn đề trở ngại đối với
tôi nữa.

Hình ảnh: Phụ huynh đang mang lốp xe đến cho cô làm đồ chơi cho trẻ

17


Hình ảnh: Đồ dùng vận động của trẻ
được làm từ lốp xe phụ huynh

mang đến
2.4. Kết quả đạt được
Qua một năm qua khi tổ chức cho trẻ tham gia hoạt động vận động với
các biện pháp mà tôi đã thực hiện ở trên, tôi thấy trẻ lớp tôi đã có chuyển biến rõ
rệt. Kết quả khảo sát cuối năm vào tháng 3/2018 như sau:

Nội dung khảo sát
Trẻ hứng thú tham gia vào các
hoạt động vận động
Trẻ nhanh nhẹn, tự tin trong quá
trình vận động
Trẻ có kỹ năng vận động tốt,
thành thạo
Trẻ có sức khỏe tốt

Kết quả

Tổng
số trẻ
khảo
sát

Số
trẻ

Tỉ lệ
%

26


23

88,5

3

11,5

26

23

88,5

3

11,5

26

23

88,5

3

11,5

26


25

96,2

1

3,8

Đạt

Chưa đạt
Số
Tỉ lệ
trẻ
%

* Nhận xét:
Nhìn vào bảng kết quả khảo sát cuối năm tôi thấy
* Với kết quả trên trẻ
- Ở ba nội dung đánh giá về sự hứng thú tham gia vào các hoạt động vận
động của trẻ. Số trẻ nhanh nhẹn, tự tin trong vận động và trẻ có kỹ năng vận
động tốt, thành thạo. Tỷ lệ trẻ đạt đã tăng lên rõ rệt. Trẻ mạnh dạn hơn rất nhiều
trong tất cả các hoạt động. Tỷ lệ đạt 88,5 % tăng 46,2% so với đầu năm.
18


- Ngoài sự tự tin mạnh mẽ trẻ còn rất khỏe mạnh, thể chất phát triển rất
tốt, không còn cháu nào suy dinh dưỡng và thấp còi chiếm tỉ lệ rất nhỏ so với
đầu năm.
Vì vậy, phụ huynh lớp tôi cũng quan tâm hơn tới khả năng vận động của

con mình. Nội dung thứ tư đánh giá về tình trạng sức khỏe cho trẻ đa số trẻ đạt
tốt, tỷ lệ đạt 96,2,0% tăng 4,2% so với đầu năm.
Kết quả khảo sát cuối năm học cho thấy:
* Về phía phụ huynh:
- Phụ huynh thấy con khỏe mạnh, nhanh nhẹn, mạnh dạn, tự tin, thích đi
học. Đặc biệt thấy con có nhiều kỹ năng tốt rất cần thiết cho cuộc sống nên thấy
rất tin tưởng và yên tâm khi cho con đi học.
- Chính vì vậy các bậc phụ huynh rất nhiệt tình ủng hộ lớp những nguyên
vật liệu, đồ dùng đồ chơi để phục vụ cho việc học tập của các con.
- Phụ huynh có sự thay đổi suy nghĩ về vấn đề giáo dục của giáo viên đối
với trẻ.
3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận
Qua năm học 2016-2017 giảng dạy và chăm sóc trẻ Nhóm trẻ và qua công
tác phát triển vận động cho trẻ, tôi đã rút ra một số kinh nghiệm cho bản thân:
Người giáo viên cần nghiên cứu thực hiện đổi mới hình thức, nội dung
phương pháp theo các chủ đề cho phù hợp. Ngoài trình độ chuyện môn vững
vàng, cô giáo cần phải kiên trì không nóng vội. Với vốn kiến thức đã được học,
kỹ năng sư phạm được trau dồi cô giáo luôn là người dẫn dắt trẻ đi từng bước
bằng cả tấm lòng nhiệt tình và sự yêu nghề của mình.
Trong quá trình giảng dạy cô phải quan tâm đến khả năng từng trẻ để có
biện pháp bồi dưỡng phù hợp để đưa chất lượng đồng đều, tạo điều kiện cho trẻ
hoạt động mọi lúc mọi nơi, động viên khích lệ trẻ tích cực tham gia vào hoạt
động và khen ngợi trẻ kịp thời, khi dạy học phải chú ý lấy trẻ làm trung tâm.
Bản thân luôn phải trau dồi học hỏi, tự tu dưỡng bản thân, luôn tìm tòi
sáng tạo cái mới để áp dụng vào công tác chăm sóc giáo dục trẻ, tạo môi trường
lớp học phù hợp sáng tạo mang tính giáo dục cao.
Tôi luôn linh hoạt sáng tạo trong mọi hoạt động, tâm huyết với nghề, yêu
thương, gần gũi, quan tâm giúp đỡ trẻ. Phối hợp thường xuyên với gia đình
trong việc chăm sóc giáo dục trẻ.

Thường xuyên tiếp cận với các thông tin, nghiên cứu tài liệu, tập san,
nghe đài, bài dạy, cung cấp truyền đạt đủ nội dung kiến thức phù hợp với khả
năng nhận thức của trẻ.
3.2. Kiến nghị
Ban giám hiệu nhà trường tham mưu với các cấp, các ngành, lãnh đạo địa
phương mua sắm trang thiết bị, đồ chơi ngoài trời cho trẻ. Xây dựng trường
chuẩn để các cháu có điều kiện học tập và vui chơi tốt hơn. Xây dựng khuôn
viên có vườn hoa cây cảnh, vườn cây ăn qủa và vườn cây của bé để giúp trẻ hoạt
động đạt được kết quả tốt hơn.
19


Trên đây là sáng kiến kinh nghiệm của bản thân tôi nghiên cứu về "“Một
số kinh nghiệm dạy trẻ vận động để phát triển thể chất cho trẻ nhà trẻ 25-36
tháng tuổi ở trường Mầm non Đông Thanh, huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh
Hóa" mà tôi đã rút ra được từ trong quá trình giảng dạy. Rất mong nhận được sự
góp ý, nhận xét của hội đồng khoa học các cấp để bản thân tôi có được những
kinh nghiệm quý báu trong việc chăm sóc giáo dục nuôi dưỡng trẻ được tốt hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
XÁC NHẬN CỦA HĐKH CẤP TRƯỜNG

SKKN Xếp loại: ..............
PCT HĐKH

P.HIỆU TRƯỞNG
Lê Thị Hằng

Đông Sơn, ngày 26 tháng 3 năm 2018

Tôi xin cam đoan đây là SKKN của

mình viết, không sao chép nội dung
của người khác.
Người viết

Trần Thị Hà

20


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Giáo dục & Đào tạo, Tài liệu phát triển vận động cho trẻ Nhà trẻ
2. Bộ Giáo dục & Đào tạo, Xây dựng môi trường giáo dục lấy trẻ làm
trung tâm, Mô đun bồi dưỡng thường xuyên: Modul 1D
3. Xem và tham kháo trên mạng Intenet Vai trò của sức khỏe đối với con
người
4. Bộ Giáo dục & Đào tạo, Tài liệu Hướng dẫn thực hiện chương trình
Nhà trẻ

21


DANH MỤC
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN KINH
NGHIỆM NGÀNH GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HUYỆN XẾP LOẠI TỪ C
TRỞ LÊN
Họ và tên tác giả:
Trần Thị Hà
Chức vụ và đơn vị công tác: Giáo viên trường MN Đông Thanh

TT


 1

 2

3

Tên đề tài SKKN

Một số biện pháp nâng cao chất lượng
giáo dục âm nhạc cho trẻ 5-6 tuổi
trường mầm non Đông Thanh
Một số biện pháp nâng cao chất lượng
hoạt động âm nhạc cho trẻ Nhà trẻ 2436 tháng tuổi ở trường mầm non Đông
Thanh
Một số kinh nghiệm dạy trẻ vận động
để phát triển thể chất cho trẻ nhà trẻ
25-36 tháng tuổi ở trường mầm non
Đông Thanh, huyện Đông Sơn

Cấp đánh
giá xếp loại
(Ngành GD
cấp
huyện/tỉnh;
Tỉnh...)
cấp huyện

Kết
quả

đánh
Năm học
giá xếp đánh giá
xếp loại
loại
(A, B,
hoặc C)
B
2014-2015

cấp huyện

B

2016-2017

cấp huyện

A

2017-2018
Gửi tỉnh

22



×