Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

Một số biện pháp nhằm nâng cao khả năng phát triển ngôn ngữ cho trẻ 25 – 36 tháng tuổi ở trường Mầm non Nga Thiện”

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.35 MB, 21 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TỈNH THANH HÓA
PHÒNG GIÁO DỤC HUYỆN NGA SƠN

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

MỘT SỐ BIỆN PHÁP NÂNG CAO KHẢ NĂNG PHÁT TRIỂN
NGÔN NGỮ CHO TRẺ 25 – 36 THÁNG TUỔI Ở
TRƯỜNG MẦM NON NGA THIỆN

Người thực hiện: Mai Thị Thu
Chức vụ : Giáo Viên
Đơn vị công tác : Trường Mầm non Nga Thiện
SKKN thuộc lĩnh vực: Chuyên môn

THANH HÓA, NĂM 2015

1


A. ĐẶT VẤN ĐỀ
Ngôn ngữ đóng vai trò rất lớn trong cuộc sống của con người mà như lời
của Bác Hồ đã từng nói “Tiếng nói là thứ của cải vô cùng lâu đời và vô cùng
quý báu của dân tộc. Chúng ta phải biết giữ gìn nó, tôn trọng nó”. Đặc biệt
trong công tác giáo dục ở lứa tuổi mần non, chúng ta càng thấy rõ vai trò của
ngôn ngữ đối với việc giáo dục trẻ thơ. Ngôn ngữ đã góp phần đào tạo các cháu
trở thành những con người phát triển một cách toàn diện.
Trong sự phát triển của trẻ cùng với yếu tố hoạt động, ngôn ngữ là yếu tố
cơ bản ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển tâm lý, nhân cách trẻ.
Ngôn ngữ là những ký hiệu ngữ âm có ý nghĩa chung đối với một cộng
đồng người và có quy tắc về phát âm, ngữ nghĩa, ngữ pháp nhất định để thống
nhất sử dụng trong cộng đồng người ấy.


Trong cuộc sống chúng ta đều phải sử dụng ngôn ngữ để nhận thức thế giới
giao tiếp với mọi người và tư duy.
Đối với trẻ lứa tuổi mầm non nói chung và đặc biệt đối vối trẻ 24 – 36
tháng tuổi nói riêng là thời điểm phát triển ngôn ngữ rất nhanh cụ thể là: Sau
một tuổi rưỡi ngôn ngữ phát triển nhanh chóng, vốn từ tăng nhanh.
Cuối hai tuổi có khoảng 300 từ, cuối 2,5 tuổi trẻ có khoảng 400 từ, đến 36
tháng số lượng ở trẻ đạt tới 486 từ.
Mặc dù ở lứa tuổi này đã sử dụng được từ trong khi nói nhưng nhiều từ trẻ
dùng được là do sự bắt chước mọi người xung quanh. Chính vì thế người lớn
đặc biệt là cô giáo nếu như không có biện pháp để kích thích phát triển ngôn ngữ
cho trẻ thì sự phát triển ngôn ngữ của trẻ sẽ không đạt kết quả cao.
Mặt khác ở độ tuổi này nhu cầu giao tiếp của trẻ rất lớn trong giao tiếp trẻ
sử dụng ngôn ngữ để trình bày ý nghĩ, tình cảm, hành động hiểu biết của mình
với mọi người xung quanh.
Ví dụ người lớn nói với trẻ bắt tay nào và làm động tác bắt tay trẻ, trẻ sẽ
nhanh chóng học được hành động đáp lại. Ở đây trẻ không chỉ phản ứng với lời
nói mà với toàn bộ tình huống.
Tóm lại: Ngôn ngữ là phương tiện cho sự tồn tại, truyền đạt và lĩnh hội
những kinh nghiệm lịch sử xã hội của nhân loại, là phương tiện giao tiếp giữa
người với người trong xã hội, là phương tiện để hoạt động trí tuệ để tư duy.

2


Ngôn ngữ giữ vai trò rất quan trọng đối với sự hình thành và phát triển
nhân cách cho trẻ. Ngôn ngữ không phải ngẫu nhiên đến với trẻ mà nó phải
được hoạt động có tổ chức của người lớn đặc biệt là cô giáo.
Xuất phát từ những lý do trên mà tôi đã lựa chọn đề tài: " Một số biện pháp
nhằm nâng cao khả năng phát triển ngôn ngữ cho trẻ 25 – 36 tháng tuổi ở
trường Mầm non Nga Thiện” làm đề tài nghiên cứu trong năm học này.

B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN:
Ngôn ngữ là một hệ thống các ký hiệu có cấu trúc, quy tắc và ý nghĩa.
Đồng thời ngôn ngữ là phương tiện để phát triển tư duy, truyền đạt và tiếp nhận
nét đẹp của truyền thông văn hóa –lịch sử thế hệ này sang thế hệ khác.
Theo nhà giáo dục học E.Ltikhêcva đã khẳng định: “Ngôn ngữ là công cụ
để tư duy, là chìa khóa để nhận thức, là vũ khí để chiếm linh kho tàng kiến thức
của dân tộc, của nhân loài. Do đó ngôn ngữ giữ vai trò vô cùng quan trọng trong
đời sống con người”.
Không chỉ vậy, ngôn ngữ tạo nên những người có linh hồn. Ngôn ngữ đóng
vai trò đặc biệt trong việc hình thành tư duy, nhân cách con người, thúc đẩy quá
trình tự điều chỉnh hành động chính của bản thân.
Trong cuộc sống chúng ta ai cũng phải sử dụng ngôn ngữ để giao tiếp với
mọi người xung quanh và ngôn ngữ chính là phương tiện cho việc dạy và học.
Đối với trẻ mầm non thì qua giao tiếp bằng ngôn ngữ và tư duy trẻ thu được các
kinh nghiệm sống làm phong phú thêm sự hiểu biết của trẻ. Cụ thể trẻ nhà trẻ thì
nhận thức và ngôn ngữ của trẻ còn hạn chế, trẻ mới đang tập nói, có trẻ mới nói
được câu 2-3 từ ,có trẻ thì đã nói được câu 4-6 từ, có trẻ nói chưa trọn vẹn được
câu, trẻ chưa diễn đạt được ý muốn của mình bằng những câu đơn giản… Chính
vì vậy mà phát triển ngôn ngữ cho trẻ là việc làm cần thiết. Đối với trẻ nhà trẻ
phát triển ngôn ngữ chính là việc phát triển các khả năng nghe, hiểu, nói của trẻ.
Để phát triển các khả năng này thì việc dạy trẻ đọc thơ, kể chuyện, tập nói, trò
chuyện, giao tiếp với trẻ thông qua các hoạt động giáo dục trẻ trong ngày chính
là việc làm giúp trẻ phát triển ngôn ngữ.
Ở lứa tuổi này, trẻ có nhu cầu giao tiếp với mọi người, trẻ thích tìm hiểu
những điều mới lạ trong cuộc sống xung quanh. Những từ các cháu được sử

3



dụng hầu hết là những từ chỉ tên gọi, những gì gần gũi xung quanh mà hằng
ngày trẻ tiếp xúc. Ngoài ra, trẻ cũng nói được một số từ chỉ hành động, chỉ công
việc của bản thân và mọi người xung quanh, chỉ những hành động của những
con vật mà trẻ biết. Ví dụ: “Ôtô, con cua, con cá, ông bà, bố mẹ, anh, chị, mèo
kêu meo meo, ô tô chạy…” Tôi nhận thấy vốn từ của trẻ còn hạn chế, bộ máy
phát âm đang dần hoàn thiện nên khi trẻ nói còn chậm, nói ngọng, hay kéo dài
giọng, đôi khi còn ê, a ậm ừ không mạch lạc. Để giúp trẻ phát triển vốn từ, tôi
thấy người giáo viên cần phải nắm vững đặc điểm vốn từ của trẻ, mặt khác giáo
viên cần nói rõ ràng rành mạch, dễ nghe, dễ hiểu để giúp trẻ phát triển ngôn ngữ
tốt hơn.
II. THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ:
1. Thuận lợi:
Được sự quan tâm, chỉ đạo sát sao của Phòng giáo dục huyện Nga Sơn,
của ban lãnh đạo các cấp, ban nghành, đoàn thể địa phương, đặc biệt là Ban
giám hiệu nhà trường, luôn chăm lo và thường xuyên bồi dưỡng chuyên môn,
nghiệp vụ cho đội ngũ giáo viên, từ đó chất lượng trên cô và trẻ được nâng lên
góp phần phát triển sự nghiệp giáo dục mầm non xã nhà.
Có đội ngũ giáo viên trẻ yêu nghề với trình độ chuẩn và trên chuẩn đạt
100%, luôn năng động sáng tạo chịu khó học hỏi để nâng cao trình độ chuyên
môn.
Bản thân là một giáo viên trẻ năng nổ nhiệt tình trong công tác, tôi không
ngừng học hỏi, tham khảo tài liệu, dự giờ đồng nghiệp để rút ra kinh nghiệm cho
bản thân.
2. Khó khăn:
Trường mầm non Nga Thiện là một xã đồng chiêm , đời sống kinh tế còn
khó khăn, nhận thức của phụ huynh không đồng đều, đa số phụ huynh đi làm ăn
xa để con ở nhà cùng ông bà nên công tác phối hợp với các bậc phụ huynh trong
công tác chăm sóc giáo dục trẻ chưa thực sự cao.
Sự phát triển khả năng giao tiếp của mỗi trẻ tuy cùng một lứa tuổi nhưng
lại ở mức độ khác nhau. Một số trẻ đang sống trong môi trường gia đình được

ông bà, bố mẹ yêu thương chăm sóc, khi đến trường hoàn toàn mới mẻ xa lạ với
trẻ, do đó chưa quen với nề nếp, thói quen của lớp, đang còn rụt rè, nhút nhát,
còn khóc nhiều.

4


Bản thân là một giáo viên trẻ, kinh nghiệm còn ít cũng ảnh hưởng không
nhỏ đến quá trình chăm sóc giáo dục trẻ.
Ngay từ đầu năm học tôi đã tiến hành khảo sát thực trạng và kết quả thực
trạng như sau:
* Kết quả thực trạng:
T
T

Chỉ số đánh giá

Tổng Đạt
số
Tốt

Chưa đạt
%

Khá %

TB

%




%

1

Về phát triển vốn từ

31

6

19,4

9

29

12

38,7

4

12,9

2

Về Ngôn ngữ
mạch lạc


31

4

12,9

6

19,3

17

54,8

4

12,9

3

Về ngữ pháp

31

4

12,9

7


22,6

17

54,8

3

9,6

4

Ngôn ngữ biểu cảm

31

4

12,9

7

22,6

17

54,8

3


9,6

Đứng trước thực trạng đó, tôi đã suy nghĩ và đưa ra một số biện pháp nhằm
nâng cao khả năng phát triển ngôn ngữ cho trẻ 25- 36 tháng tuổi của lớp tôi phụ
trách như sau:
III. GIẢI PHÁP VÀ TỔ CHỨC THỰC HIỆN.
1. Tìm hiểu đặc điểm phát triển tâm lý của trẻ 24-36 tháng tuổi.
*Đặc điểm phát triển vốn từ của trẻ 24 -36 tháng:
Vốn từ của trẻ là rất ít khoảng 1200- 2000 từ, danh từ và động từ là chiếm
ưu thế, tính từ và các loại từ khác đã được trẻ sử dụng đôi chút.
Trẻ đã biết sử dụng các từ chỉ đồ vật, hình dạng kích thước, trong giao tiếp hàng
ngày. Ngoài ra các khái niệm: Hôm qua, hôm nay ngày mai trẻ sử dụng còn
chưa chính xác.
* Đặc điểm ngữ pháp:
Trẻ nói được một số câu đơn giản, biết thể hiện nhu cầu mong muốn của
mình bằng một hai câu đơn giản
Ví dụ:
Cô ơi!con muốn uống nước. đọc các bài thơ ba năm câu ngắn

5


Trẻ thường sử dụng câu cụt hơn trong nhiều trường hợp trẻ dùng từ trong
câu vẫn chưa chính xác
Ví dụ: Cô ơi! Con muốn cái xe kia
Chủ yếu trẻ vẫn sử dụng câu đơn mở rộng.
* Đặc điểm về khả năng phát âm của trẻ:
Ở lứa tuổi này cơ quan phát âm và tai nghe ngôn ngữ đã phát triển hoàn
thiện hơn trước, trẻ có khả năng phát âm đúng hầu hết các âm và thanh điệu. Số

lượng từ tăng nhanh, xét về số lượng các âm vị dần dần xuất hiện, hầu hết các
phụ âm đầu lưỡi chưa được trẻ phát âm đúng hoàn toàn.
Ví dụ: Âm th thành âm ch: thật – chật
Âm ch thành âm t : cháu - táu
Âm ng thành âm nh : ngủ - nhủ
Âm đ thành âm t :đóng- tóng.
Âm l thành âm n: làm - nàm
Âm kh thành âm h: không - hông
Trong số các phụ âm đầu thì phụ âm b, m được trẻ nói đúng nhất.
Âm đệm: Các từ có âm đệm khi phát âm thường bị lược bỏ:
Ví dụ: Hoa – ha
Xoăn – xăn
Quả- cả
Hòe – hè
Phụ âm xuất hiện trong vốn từ của trẻ, trong đó có một số âm cuối bị trẻ
phát âm sai.
Ví dụ: Âm ng thành n :uống – uốn
Âm thành n : phim- phin
Âm chính: Các nguyên âm dài bốn nguyên âm ngắn và ba âm đôi đã xuất
hiện trong các từ của trẻ, nhưng có một số âm trẻ nói chưa đúng như:
Ví dụ: ê – â: ếch- ấc
i –ia: bút chì – bút chìa
Thanh điệu: Trong sáu thanh tiếng việt thì thanh ngã và thanh hỏi chưa ổn
định, chúng thường bị trẻ chuyển đổi thanh dấu nặng hoặc thành dấu sắc.
Ví dụ: Võng – vóng
Ngủ - ngụ
Ngủ - nhủ

6



Nắm chắc đặc điểm về đặc điểm phát triển tâm sinh lý lứa tuổi để vận dụng
các giải pháp nhằm phát triển vốn từ cho trẻ được hiệu quả hơn.
2. Rèn luyện nề nếp thói quen sử dụng ngôn ngữ tích cực ngay từ năm
học.
Nề nềp thói quen là tính tất yếu chi phối đến việc sử dụng ngôn ngữ của
trẻ. Xã hội càng văn minh thì vấn đề giáo dục hành vi văn hóa trong giao tiếp
ngày càng quan trọng. Ngay từ lứa tuổi Mầm non người lớn đặc biệt là giáo viên
Mầm non tôi luôn chú trọng rèn luyện các nề nếp thói quen, hành vi lễ giáo cho
trẻ, uốn nắn trẻ mạnh dạn tự tin trong giao tiếp với người khác, không rụt rè, e
sợ âm lượng phát ra đủ nghe, không la hét không nói tục, biết dùng từ ngôn ngữ
êm dịu, nhẹ nhàng tình cảm để thể hiện tình yêu thương đối với bạn bè, cô giáo
và những người thân. Vì vậy trong công tác giáo dục, cô giáo phải thật sự gương
mẫu về lời ăn tiếng nói, nghiên khắc và uốn nắn kịp thời cho trẻ khi trẻ nói sai,
nói trống không, nói thiếu chủ ngữ, vị ngữ, nói ngược vị trí câu.
Ví dụ: Khi muốn lấy “Quả bóng’’của bạn trẻ nói: “Đưa đây”, cần sửa sai
cho trẻ nói lại “Bạn cho tôi mượn quả bóng”.
Giáo dục các cháu biết cảm ơn xin lỗi, không nói trống không không nói
dối, lễ phép với người lớn.
Trong sinh hoạt hàng ngày tôi chú ý rèn luyện cho các cháu có thói quen
vệ sinh cá nhân như tự phục vụ: Tự đi dép, đội mũ, bước đầu cất đồ dùng đồ
chơi đúng nơi quy định.
Trong hoạt động có chủ định tôi chú ý rèn luyện cho các cháu có thói
quen ngồi học ngay ngắn, không chạy ra khỏi chiếu, không được chạy lung tung
trong khi học biết lắng nghe và trả lời câu hỏi của cô.
3. Xây dựng các hoạt động phát triển ngôn ngữ.
Xây dựng các hoạt động phát triển ngôn ngữ cho trẻ là vô cùng quan trọng
trong quá trình chăm sóc, giáo dục trẻ chính vì vậy chúng ta cần xác định.
Cần xác định chủ đề và nội dung của chủ đề thực hiện trong thời gian đó
Lựa chọn nội dung cho các hoạt động ngôn ngữ phù hợp với chủ đề đó

Xây dựng môi trường phù hợp với chủ đề
Chuẩn bị các phương tiện học liệu theo chủ đề
Lựa chọn các trang trí nhóm lớp phù hợp với chủ đề

7


Phân phối các hoạt động theo tuần, ngày và tích hợp nội dung PTNN với
các hoạt động của các lĩnh vực khác.
Ví dụ:
Ở chủ đề “ những con vật đáng yêu’’ ở nhánh “những con vật nuôi trong
gia đình’’ tôi lựa chọn nội dung cho các hoạt động ngôn ngữ sau:
+ Trò chuyện : Tôi và trẻ cùng trò chuyện về các con vật nuôi gần gũi trong
gia đình như: Chó mèo gà vịt, ngan …(nhà con nuôi những con vật gì? Tiếng
kêu của chúng như thế nào? Chúng ăn gì? Chúng được nuôi để làm gì? Chúng
có mấy chân, lông của chúng như thế nào?...)
+ Đọc thơ, ca dao,đòng giao tục ngữ.
Các bài đồng giao:
Con gà cục tác lá chanh
Con lợn ủn ỉn mua hành cho tôi
Con chó khóc đứng khóc ngồi
Bà ơi đi chợ mua tôi đồng riềng.
Đọc bài thơ :
“ Con trâu’’
Con trâu
No bụng ngủ ngon
Nghe gà gáy dồn
Dạy đi cày ruộng
‘’Cún khoang” :
Cún khoang chăm giữ nhà

Bé về, đuôi ngoái tít
Chuột chạy, mồm khẽ rít
Khách đến sủa gâu gâu
+ Kể chuyện: “Gấu con bị sâu răng”, “Đôi bạn tốt”…
+ Trò chơi phát triển ngôn ngữ:“ Gieo hạt nảy mầm, Ôtô và chim sẻ”…
+Làm sách tranh truyện về các con vật nuôi trong gia đình.
Xây dựng môi trường phù hợp với chủ đề nhánh “Những con vật nuôi trong
gia đình”.

8


Ví dụ:
Ở góc xây dựng tôi cho trẻ xây chuồng vịt, ngan, trâu, bò.
Ở góc hoạt động với đồ vật tôi cho trẻ xâu các con giống theo hai màu xanh
đỏ xen kẽ nhau
Ở góc đóng vai tôi cho trẻ chơi trò chơi bác sĩ khám bệnh các chú chó, mèo
Ở góc âm nhạc tôi cho trẻ biểu diễn các bài hát về các con nuôi trong gia
đình: “Gà trống mèo con và cún con, con gà trống, một con vịt, rửa mặt như
mèo”….
Chuẩn bị phương tiện học liệu phù hợp với chủ đề: Tôi chuẩn bị đồ dùng
trực quan là các con vật thật, chúng được chăm sóc sạch sẽ và an toàn với trẻ, sử
dụng máy tính, băng đĩa có hình ảnh các con vật nuôi trong gia đình cho trẻ
quan sát và đàm thoại.
Lựa chọn cách trang trí nhóm lớp phù hợp với chủ đề: Tôi trang trí nhóm
lớp bằng tranh ảnh các con vật có liên quan đến chủ đề” những con vật nuôi
trong gia đình” ở góc trong nhóm lớp sao cho trẻ dễ quan sát và đàm thoại.
Phân phối các hoạt động theo tuần: mỗi tuần tôi lên kế hoạch cung cấp
kiến thức cho trẻ 2-3 con vật nuôi trong gia đình tùy thuộc vào khả năng của trẻ
4. Phát triển ngôn ngữ trong giờ hoạt động có chủ định.

* Để tổ chức tôi hoạt động phát triển ngôn ngữ cho trẻ 24-36 tháng tuổi, để đạt
kết quả cao cô cần phải xác định rõ mục đích yêu cầu đề tài các hoạt động để áp
dụng hình thức nào cho phù hợp với trẻ, chuẩn bị đồ dùng đồ chơi cho tốt đảm
bảo an toàn vệ sinh, chính xác linh hoạt. Ở lứa tuổi này trẻ hay trả lời trống
không hoặc nói những câu không có nghĩa. Vì vậy tôi luôn thường xuyên nhắc
nhở trẻ và nói mẫu cho trẻ nghe, động viên khuyến khích trẻ nhắc lại theo cô.
Tôi tạo điều kiện đáp ứng nhu cầu của trẻ một cách tỉ mỉ, chu đáo ngắn gọn dễ
hiểu chính xác để mọi hoạt động của trẻ trong giờ hoạt động chung đạt hiệu quả
nhất.
Hoạt động có chủ định là hoạt động cơ bản, thông qua đó giúp trẻ phát
triển ngôn ngữ một cách chính xác nhất.

9


Khi dạy trẻ tôi thường sử dụng các thủ thuật như: Câu đố, bài hát, bài thơ,
câu chuyện ngắn hay trò chơi gây hứng thú để lôi cuốn trẻ vào giờ học. Như vậy
trẻ tiếp thu bài thoải mái, nhẹ nhàng hơn.
* Chủ đề “Rau, củ, quả và những bông hoa đẹp”.
- Phát triển ngôn ngữ qua hoạt động nhận biết tập nói.
Ví dụ 1: Dạy trẻ nhận biết quả cam là giúp trẻ gọi tên được quả cam cũng như
gọi tên các đặc điểm, công dụng của quả cam.
Mỗi sự vật được trẻ vừa lĩnh hội đều được củng cố ngay bằng ngôn ngữ.
Loại giờ học này tạo điều kiện rèn luyện kỹ năng phát âm, rèn luyện câu theo
cấu trúc ngữ pháp và đặc biệt làm tăng nhanh vốn từ của trẻ.
Ví dụ 2: Đề tài: Chúng mình cùng khám phá
Hoạt động 1: Bé đi chợ quả
Cô làm mô hình chợ quả
Cho trẻ đến quan sát trò chuyện về các loại quả
Sau đó cô mua các loại quả về

Hoạt động 2: Chúng mình cùng khám phá
Sau đó cô giới thiệu từng quả
+ Đây là quả gì? ( Quả cam)
+ Qủa Cam có màu gì? (màu vàng)
+ Cho trẻ sờ quả Cam và hỏi
+ Qủa Cam như thế nào? ( nhẵn)
Cô có thể gọt vỏ
+ Bên trong có gì?
+ Cho trẻ ngửi
+ Có mùi gì?
+ Cho trẻ nếm thử
+ Có vị gì?
Đây là quả cam có màu vàng, vỏ quả cam nhẵn, khi ăn gọt vỏ bỏ hạt, trước
khi ăn phải rửa sạch quả, rửa sạch tay.

10


Qua đề tài tôi đã lồng giáo dục thực tế cho trẻ hiểu các loại quả chứa nhiều
vitamin, rất ngon và bổ dưỡng, giúp cho cơ thể khoẻ mạnh và không được ngắt
lá, bẻ cành.

Hình ảnh trẻ đang hoạt động nhận biết tập nói
Kết thúc giờ học cô cho trẻ quan sát vườn cây ăn quả để trẻ mở rộng hơn.
* Ở chủ đề : Bé và gia đình thân yêu của bé.
- Giờ kể chuyện theo tranh.
Cô và trẻ trò chuyện về bức tranh, trước tiên tôi để cho trẻ tự xem tranh, tự
trò chuyện với nhau về bức tranh. Tôi hướng dẫn trẻ xem tranh bằng cách đặt
các câu hỏi về nhân vật, hành động, đặc điểm, trạng thái của nhân vật trong
tranh.

Ví dụ: Giờ kể chuyện theo tranh: "Thỏ ngoan".
Để cho trẻ làm quen với câu chuyện “Thỏ ngoan” Tôi đã xây dựng mô hình
có khu rừng với những cây xanh, thảm cỏ, hoa, ngôi nhà của cáo và thỏ, có bầu
trời âm u với những hạt mưa rơi và với các con vật như cáo, thỏ, bác gấu được

11


làm bằng giấy xốp gây hấp dẫn cho trẻ, giúp trẻ nhớ đến nội dung và các nhân
vật trong chuyện.

Hình ảnh câu chuyện Thỏ ngoan
Ví dụ: Trong nội dung câu chuyện “ Đôi bạn nhỏ”Tôi đã chọn băng đĩa có
các con vật như Gà con, Vịt con, Con cáo. Hay trong câu chuyện “Gấu con
ngoan” tôi đã dùng đầu đĩa, ti vi ghi âm tiếng gõ cửa, tiếng cô giả giọng nói của
bác gấu, tiếng mưa rơi, tiếng gió thổi ào ào và bật mở cho trẻ nghe. Tôi thấy trẻ
rất thích xem những hình ảnh đó và trẻ đã học hởi nhiều điều, giúp trẻ phần nào
hiểu được nội dung câu chuyện.
Qua các giờ hoạt động có chủ định, trẻ được rèn luyện và mặt phát âm, có
thêm nhiều từ mới và hiểu được ý nghĩa của từ. Trẻ được rèn luyện thêm về mặt
ngữ pháp. Tôi còn sử dụng các giờ hoạt động có chủ định này như là một
phương pháp để củng cố những ngôn ngữ mà trẻ đã thu nhận được.
5. Phát triển ngôn ngữ trong hoạt động mọi lúc mọi nơi.
Để phát triển ngôn ngữ cho trẻ một cách có hiệu quả, tôi đã lồng ghép nội
dung phát triển ngôn ngữ cho trẻ trong các hoạt động: Âm nhạc, kể chuyện, đọc
thơ và dạy trẻ ở mội lúc mọi nơi.
a. Thông qua giờ đón trẻ. Tôi đón trẻ với cử chỉ yêu thương và gần gũi.
- Con đã chào cô và các bạn chưa?

12



-

Con chào mẹ rồi vào lớp với cô, chiều mẹ đến đón.
Hôm nay ai đưa con đi học?
Mẹ đưa con đi học bằng phương tiện gì?
Sáng nay con được mẹ cho ăn gì?
Trước khi đi học con chào ai ở nhà nữa nhỉ?

Hình ảnh giáo viên trao đổi tình hình sức khỏe của trẻ
Sau khi đón trẻ xong tôi cho trẻ về các góc chơi mà trẻ thích, trẻ được chơi
tự do. Trẻ có thể quan sát các bức tranh xung quanh lớp theo chủ đề đang học và
tự mình khám phá. Trẻ có thể trò chuyện cùng cô và các bạn về bức tranh mà trẻ
thấy ( tôi chú ý quan sát để nắm được tâm tư nguyện vọng của trẻ sau đó nhằm
thỏa mãn nhu cầu tò mò ham học hỏi của trẻ) từ đó trẻ sẽ được nói nhiều và
ngôn ngữ cũng được phát triển theo hướng tích cực.
b. Thông qua hoạt động vui chơi
Thông qua trò chơi, các biểu tượng mà trẻ thu nhận được trước đây được
chính xác hóa bằng ngôn ngữ. Qua trò chơi trẻ còn tập trung vận dụng các chi
thức đã thu nhận được. Trò chơi đã giúp trẻ nhớ ngôn ngữ, đồng thời tạo ra các
tình huống để trẻ sử dụng vốn ngôn ngữ đã tích lũy được.
Ví dụ:
Thông qua trò chơi “bế em, em tập làm cô giáo”, trò chơi dân gian như : “nu
na nu nóng”, “tập tầm vông”…Trẻ được tự mình nói và đóng vai các nhân vật.
13


c. Phát triển ngôn ngữ thông qua giờ hoạt động lao động.
Trẻ ở lứa tuổi mầm non chưa phải lao động để tạo ra cơ sở vật chất cho xã

hội, ngưng chúng ta phải giáo dục trẻ ý thức lao động, cho trẻ tham gia các công
việc lao động nhẹ nhàng., lao động tự phục vụ mình. Khi trẻ được tham gia các
hoạt động lao động, trẻ được tiếp xúc với thiên nhiên, với đồ dùng lao động, đồ
dùng sinh hoạt…Như vậy trẻ có điều kiện hình thành các biểu tượng chưa có và
khắc sâu các biểu tượng đã có, từ đó trẻ sẽ biết sử dụng ngôn ngữ trong các hoạt
động lao động. Vốn ngôn ngữ của trẻ sẽ tăng lên.
Ví dụ: Trẻ biết nói cái ca, cái Chậu, cái Khăn., cái Chổi, cái Xúc rác…
d. Phát triển ngôn ngữ thông qua dạo chơi thăm quan.
Dạo chơi thăm quan có tác dụng rất lớn đối với các việc mở rộng tầm hiểu
biết cho trẻ. Vì vậy dạo chơi thăm quan có tác dụng to lớn trong việc phát triển
ngôn ngữ cho trẻ.
Khi cho trẻ dạo chơi, tham quan ở trường: Tại vườn rau có gắn chữ chỉ vào
loại rau, cô cung cấp hướng dẫn trẻ phát âm các từ đó, chỉ vào từng từ, rồi cô
cho trẻ gọi tên thân cây, lá cây, cành cây, bông hoa, quả… Như vậy trẻ sẽ hiểu
thêm và phát triển ngôn ngữ và mở rộng thêm được vốn từ của mình.

Hình trẻ thăm quan vườn rau
Như vậy: Thông qua cho trẻ dạo chơi tham quan,Tôi đã không những
cung cấp cho trẻ những từ ngữ được quan sát. Đồng thời còn lồng ghép giáo dục
bảo vệ môi trường thông qua dạo chơi thăm quan.

14


Ví dụ: Khi cho trẻ quan sát các hiện tượng tự nhiên. Trẻ biết thế nào là
mưa, nắng, gió
Khi cho trẻ đi thăm quan trẻ biết thêm một số khái niệm về các địa danh.
e. Phát triển ngôn ngữ trong giờ hoạt động hàng ngày
Ngoài các giờ học, giờ chơi, giơ lao động…Trẻ còn có giờ ăn, giờ ngủ. ở
những giờ này tôi đã dạy nói thêm cho trẻ. Trong khi giúp trẻ tiến hành các công

việc hàng ngày, tôi lựa chọn những nội dung thích hợp và nói tên các công việc
đó cho trẻ biết.
Ví dụ: Ở giờ ăn trước khi cho trẻ ăn tôi hỏi trẻ tư thế ngồi, ăn uống như thế
nào là vệ sinh và cho trẻ đọc bài thơ “giờ ăn”. Ở giờ ngủ: Tôi cho trẻ đọc bài thơ
“giờ đi ngủ”
Giờ ngủ:

Hình ảnh trẻ đang ngủ
Tóm lại:
Việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ ở lứa tuổi 24- 36 tháng tuổi là một nhiệm
vụ cơ bản và thiết thực. Những người làm công tác giáo dục trẻ ở lứa tuổi mầm
non phải biết tận dụng dạy nói cho trẻ ở mọi lúc, mọi nơi để tạo điều kiện phát
triển tối đa khả năng ngôn ngữ cho trẻ.

15


6. Tổ chức môi trường và sử dụng đồ dùng cho giáo dục phát triển
ngôn ngữ.
Trước hết tôi xác định rằng: Tổ chức môi trường và đồ dùng cho hoạt động
giáo dục phát triển ngôn ngữ chính là sử dụng những nguyên vật liệu nào sẵn có
tại địa phương có thể sử dụng cho hoạt động phát triển ngôn ngữ của trẻ về tên
gọi? Cách sử dụng? Cho trẻ ở lứa tuổi nào? Tác động đối với trẻ trong việc phát
triển ngôn ngữ? Ta cần quan tâm tới những điểm sau:
- Môi trường hoạt động giáo dục phát triển ngôn ngữ cần đảm bảo không
khí thân thiện, đầm ấm, vui vẻ thoải mái.
- Môi trường có sự giao tiếp, hướng dẫn bằng lời nói, cử chỉ hành động.
- Có đủ các trang thiết bị, đồ dùng, đồ chơi phục vụ cho hoạt động giáo dục
PTNN sách tranh, truyện, sách khổ to, chữ to, băng đài, cắt sét…
- Việc sắp xếp bố trí các góc chơi phải tăng cường tính độc lập cho trẻ khi

hoạt động, thuận tiện cho trẻ dễ lấy và sử dụng dễ dàng cho việc giám sát của
giáo viên.
- Môi trường vật chất:
+ Đồ chơi bằng nhựa hoặc cao su mềm phát ra âm thanh về các con vật,
phương tiện giao thông, bóng các loại quả
+ Tranh ảnh, sách về các con người, con vật, hoa quả, phương tiện giao
thông, đồ chơi gần với trẻ.
+ Các bộ tranh kể truyện (kể truyện theo tranh, kể truyện theo tác phẩm văn
học, tranh chủ đề)
Ví dụ: ở lớp tôi được nhà trường cung cấp 1 quyển truyện tranh, một quyển
theo chủ đề và tôi cũng sưu tầm được rất nhiều tranh để ứng dụng vào tiết học
kể truyện theo tranh (sự phát triển của cây, gà con sinh ra như thế nào..)
+ Tôi làm một số sách tranh cho trẻ xem bằng bìa cứng và vải ni lông mà
phụ huynh đã ủng hộ.
+ Tôi phối hợp cùng phụ huynh sưu tầm các bài hát ru, các bài hát của trẻ
em, các nhạc cụ các đồ chơi âm nhạc. tạo điều kiện cho công tác giáo dục trẻ
phát triển ngôn ngữ
+ Tôi đã sử dụng các nguyên vật liệu, các hiện tượng tự nhiên.
+ Các vật liệu đã qua sử dụng; Tạp chí, tranh ảnh, sách, báo cũ…
- Khai thác, sử dụng đồ dùng, đồ chơi:

16


+ Các nguyên vật liệu tự nhiên: Lá cây, sỏi, hạt, quả khô, cát nước..
+ Các phế thải, phế liệu: Vỏ chai, cúc áo, Tạp chí, tranh ảnh, sách, báo cũ..
+ Các đồ dùng đồ chơi được sản xuất theo danh mục: các bán thành phẩm,
các lô tô, đô mi nô, thẻ số, sử dụng các bài tập trên giấy…
+ Các hiện tượng tự nhiên được coi là phương tiện hữu hiệu cho trẻ quan
sát, phát hiện và trao đổi về những biến đổi

+ Cơ thể của trẻ được coi là phương tiện trực quan.
+ Sử dụng hợp lý máy vi tính
Ví dụ: Khi dạy trẻ về các phương tiện giao thông tôi đã trình chiếu power
point cho trẻ quan sát và kết quả là trẻ rất hứng thú với sự mới mẻ này. Trẻ đưa
ra rất nhiều các câu hỏi về các phương tiện giao thông mà trẻ thấy (cô ơi máy
bay sao lại có cánh? Máy bay kêu thế nào? Xe máy có hay không?...) qua đó
ngôn ngữ của trẻ cũng được phát triển và trẻ còn biết được thêm nhiều thông tin
rằng nhờ có cánh mà máy bay mới biết bay được, xe máy chỉ có thể chạy được ở
trên đường bộ thôi…

Hình ảnh đồ chơi làm từ những vật liệu tự sưu tầm
Trẻ hứng thú với những đồ dùng đồ chơi mới lạ hấp dẫn, trẻ chơi và học hỏi,
tích luỹ thêm nhiều vốn từ bổ ích.

17


7. Tuyên truyền và phối hợp với phụ huynh trong công tác giáo dục trẻ
phát triển ngôn ngữ.
Gia đình là nơi gần gũi và quan trọng nhất đối với trẻ. Trẻ em là một tờ
giấy trắng thì gia đình và giáo dục là những cây bút màu vẽ lên những tác phẩm
đầy màu sắc cho trẻ. Vì thế công tác giáo dục phối hợp giữa gia đình và nhà
trường là một biện pháp quan trọng góp phần nâng cao hoạt động phát triển của
trẻ đặc biệt là lĩnh vực phát triển ngôn ngữ cho trẻ:
- Làm bảng tin về chương trình dạy theo chủ đề và thay tin hàng tuần để
phụ huynh biết và phối hợp với giáo viên để rèn luyện thêm cho trẻ ở nhà.

Hình ảnh góc tuyên truyền phụ huynh
- Vận động phụ huynh hỗ trợ vật liệu mở: Thùng giấy, sách báo cũ, dụng
cụ hóa trang, vỏ chai , lon bia sạch..

- Trao đổi thêm với phụ huynh có cháu cá biệt: nói ngọng, ít nói,để phụ
huynh phối hợp cùng tôi trong công tác giáo dục trẻ phát triển ngôn ngữ được
tốt hơn.
- Tôi phô tô thêm các tài liệu: Thơ truyện bài hát để phụ huynh nắm bắt
được chương trình, kết hợp dạy trẻ ở gia đình như vậy sẽ tận dụng được thời

18


gian dạy trẻ, phát triển tư duy đối với môi trường xung quanh, ngôn ngữ trẻ
được phát triển tốt.
Sau khi phối hợp với phụ huynh một thời gian tôi thấy vốn từ của trẻ được
phát triển khá rõ, đặc biệt nói ngọng cũng giảm đi đáng kể, trẻ phát âm chuẩn, rõ
ràng và hoạt động một cách sôi nổi, tự tin giao tiếp trước mọi người không còn
rụt rè e sợ. Tôi thấy thực hiện được biệt pháp này là khoa học và hợp lý mang lại
hiệu quả rất cao.
IV. KIỂM NGHIỆM:
Qua một một năm nghiên cứu thực hiện đề tài trẻ ở lớp tôi có những
chuyển biến rõ rệt:
- Phần lớn trẻ trong lớp đã có một vốn từ rất khá. Các cháu nói mạch lạc, rõ
ràng, biết cách diễn đạt ý muốn của mình, mạnh dạn tự tin trong giao tiếp.
- Trẻ hoàn toàn chủ động trong các giờ học, giờ chơi, giờ tham quan, giờ
ăn, giờ ngủ. Điều đó càng làm tăng thêm vốn từ cho trẻ.
- Trẻ đã biết các từ để chỉ đồ vật, con vật, đặc điểm hành động trong giao
tiếp hàng ngày. Sử dụng các từ thể hiện sự lễ phép trong khi giao tiếp với mọi
người xung quanh.
Sau khi áp dụng các biện pháp vào tổ chức thực hiên ở nhóm lớp 25-36
tháng tuổi tôi đã thu được những kết quả trên trẻ là:
T
T


1
2
3
4

Chỉ số đánh giá

Về phát triển vốn
từ
Về lời nói
mạch lạc
Về ngữ pháp
Ngôn ngữ biểu
cảm

Tổng
Đạt
số
trẻ
Tốt

%

Khá %

TB

%


Chưa
đạt
%


31

10

32,3

13

41,9

8

25,8

0

0

31

9

29

13


41,9

9

29

0

0

31

10

32,3

12

38,7

9

29

0

0

31


9

29

13

41,9

9

29

0

0

C. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT
I. KẾT LUẬN:

19


Từ những biện pháp nghiên cứu tôi đã rút ra những kinh nghiệm và kết
luận sau:
Giáo viên phải có trình độ chuyên môn, nắm vững kiến thức, kỹ năng cơ sở
cần thiết để kích thích sự phát triển ngôn ngữ cho trẻ. Khi trẻ nói cô chú ý sửa
sai cho trẻ , tuyệt đối không nhắc lại cái sai của trẻ, luôn thể hiện sự thân thiện,
gần gũi với trẻ , như nhìn vào mắt trẻ cười vui, hưởng ứng âu yếm khi trẻ nói.
- Về cách đưa ra câu hỏi:

Khi cô đưa ra câu hỏi giọng nói nhẹ nhàng, chậm rãi và khuyến khích trẻ
chú ý lắng nghe. Nếu cảm thấy trẻ chưa hiểu tõ câu hỏi cần nhắc lại hay động
viên trẻ hỏi lại . Cách đưa ra câu hỏi phải thu hút sự chú ý của trẻ, nêu câu hỏi
chung cho cả lớp.
- Về cách xử trí khi trẻ trả lời :
Cô cần công nhận những câu trả lời đúng của trẻ, bằng lời( đúng rồi) hoặc
cử động dáng điệu (gật đầu, mỉm cười). nếu trẻ gặp khó khăn khi trả lời cô có
thể đưa ra gợi ý câu hỏi hoặc lời gợi ý.
- Thường xuyên độc thơ kể chuyện cho trẻ và yêu cầu trẻ đọc, kể lại xuất
phát từ thực tế và nhằm áp dụng yêu cầu của ngành học chương trình bồi dưỡng
cho trẻ. Với phương pháp tôi đã nghiên cứu và tổ chức kích thích sự phát triển
ngôn ngữ cho trẻ nhóm 24 – 36 tháng tuổi. Tôi thấy có sự thay đổi rõ rệt khi trò
chuyện trẻ nghe và hiểu được câu hỏi nghe hiểu câu trả lời của bạn, lời giải thích
của cô và trẻ trả lời đúng chính xác câu hỏi, trình bày ý kiến của mình cho người
nghe hiểu được một cách dễ dàng.
II. ĐỀ XUẤT:
Đề nghị với Ban giám hiệu nhà trường tham mưu với Đảng ủy, Ủy ban
nhân dân xã trong năm học tới xây dựng thêm phòng học để tiện cho việc chăm
sóc việc đưa trẻ đến trường của phụ huynh được yên tâm hơn.
Có nhiều tiết dạy mẫu để giáo viên được dự giờ, tham khảo, học hỏi trao
đổi trực tiếp với nhau để có nhiều sáng tạo trong tổ chức hoạt đông học,…nhằm
phát triển ngôn ngữ cho trẻ tốt hơn. Trên đây là những kinh nghiệm nhỏ của tôi,
do đề tài được áp dụng trong phạm vi nhỏ ở một nhóm trẻ vì thế không tránh
khỏi thiếu sót và hạn chế.
Qua đây tôi rất mong được tổ mầm non Phòng Giáo dục huyện Nga Sơn,
Ban giám hiệu trường mầm non Nga Thiện cùng hội đồng khoa học xem xét bổ

20



sung thêm, góp ý kiến để giúp tôi có bài học kinh nghiệm tốt để áp dụng trong
quá trình công tác có nhiều kinh nghiệm hơn.
Xin chân thành cảm ơn!
Nga Thiện, ngày 10 tháng 04 năm 2015

XÁC NHẬN CỦA
THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Trần Thị Hà

Tôi xin cam đoan trên đây là SKKN của mình
viết, không sao chép nội dung của người khác.
Người viết SKKN

Mai Thị Thu

21



×